Phụng Hoàng Cảnh Sách Tập
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 

TẬP V

Câu Chuyện Buổi Chiều

Thầy kể một câu chuyện tinh tấn cho tụi con nghe.

Có một Tôn giả tên là Tissa, nhà giàu, chỉ có hai anh em ruột. Cha mẹ mất, ông đem hết của cải cho người em rồi theo Phật tu, thường vào rừng toạ thiền. Một hôm, người em dâu chợt nảy ra ý nghĩ: “Biết đâu anh mình sau này chán tu, đổi ý trở về đòi của cải lại thì sao. Chi bằng bây giờ tìm cách thủ tiêu cho khỏi trở về.” Nghĩ vậy, cô mướn bọn cướp đi tìm Tissa để thủ tiêu. Bọn cướp thấy Ngài đang ngồi thiền trong rừng, đến muốn giết. Tissa nói:

– Khoan! Cho tôi hoãn lại ít hôm. Tôi không sợ chết, không chạy trốn đâu. Hoãn ít hôm cho tôi tu đạt được kết quả, lúc ấy các anh giết tôi cũng chẳng muộn.

Tướng cướp nói:

– Ta không tin lời ông đâu. Ông nói ở đây, nhưng bọn ta đi rồi, ông đi mất làm sao?

Tissa bèn lấy cục đá to dằn lên đầu gối gẫy một bên chân, rồi lấy một cục nữa dằn gẫy luôn đầu gối bên kia. Ngài nói:

– Đó, hai chân tôi gẫy hết rồi, không thể đi đâu được. Nên tha cho tôi ít hôm!

Bọn cướp thấy Ngài gan dạ quá, lại gẫy cả hai chân không thể trốn thoát được nên thuận lời bỏ đi. Còn một mình Tissa, hai chân gẫy nát, đau đớn vậy mà Ngài vẫn thản nhiên tinh tấn, nghĩ rằng sẽ chết trong một hai ngày nữa, nên cố gắng tu sao cho đạt được quả vị A-la-hán. Ngài nỗ lực tu suốt ngày đêm. Đến ngày thứ ba thì chứng quả A-la-hán.

Tụi con thử tưởng tượng chân mình dập như vậy ngồi tu nổi không?

– Dạ, không.

Bởi vậy nên không chứng quả. Người xưa dám liều chết nên tu có kết quả, còn mình nhiều khi nặng về thân quá, hơi khó chịu một chút là rên rỉ đủ thứ, than thở xin nghỉ ngồi thiền… thì đời nào giác ngộ. Người ta đau như vậy mà can đảm chịu, chiến thắng, dẹp sạch phiền não, sạch rồi mới xong. Người xưa gan dạ, chết cũng ngồi tại chỗ chết nên mới đạt được đạo.

Tụi con ở đây có bận tâm gì không? Không có gì bận tâm cả. Buổi sáng Tri sự cắt công tác làm hai ba tiếng đồng hồ, chỉ làm những việc vừa sức. Vậy mà lâu lâu cũng ngán, mệt tu không nổi, đau tu không nổi. Hoàn cảnh thế này mà tu không nổi thì chừng nào tụi con đạt được kết quả? Hiểu vậy rồi, lúc nào cũng phải dũng mãnh. Có ai không chết đâu, chỉ sớm hay muộn thôi. Nếu mình gan dạ có chết sớm mà đạt đạo cũng còn hơn. Bây giờ tụi con chọn cái nào? Chết sớm mà đạt đạo, hay là sống lê thê rên rỉ hoài suốt đời?

– Dạ, thà chết sớm mà đạt đạo quả, còn hơn tu đến già chẳng ra gì. Nhưng tu hành giác ngộ thật khó!

Đâu có khó! Đừng nên nghi ngờ. Tại tụi con chưa tự tin. Tu là dám chết dám sống. Còn tụi con sợ bệnh, sợ chết thì đến bao giờ mới thành công? Mấy đứa thấy Thầy dường như là mạnh lắm, trong khi bác sĩ chê Thầy đủ thứ bệnh, vậy mà có sao đâu, do tinh thần mạnh thì mọi bệnh đều vượt qua.

Hai yếu tố tụi con phải có là:

Thứ nhất: Tinh thần phải cứng cỏi, dũng mãnh.

Thứ hai: Phải lạc quan, lúc nào cũng thấy trong lòng vui vẻ, được một ngày tu là hạnh phúc một ngày. Đừng nên bi quan, ngồi buồn nhớ người này ăn hiếp mình, người kia nói xấu mình. Buồn bã hoài thì tu chỉ đi xuống chớ không đi lên nổi. Phải vui vẻ thấy rằng được sống như vầy là ít có. Thật ra thời mạt pháp mà tạo được duyên tu hành như đây rất ít có, ai đã từng ở các nơi thì biết. Tụi con sống ở đây không lo đủ thiếu, không lo cất chứa gì hết. Mọi chuyện đều đã có người lo, chỉ có làm lụng chút ít rồi tu. Chính trong khi làm cũng tu, chẳng có ai quấy rầy. Vậy mà tu không được Thầy cũng đầu hàng, không còn cách nào nữa!

Có nhiều người tha thiết xin vào đây lắm, nhưng Thầy không cho vì không còn chỗ. Tụi con vào được rồi mà không cố gắng tu rất uổng, thật đáng tiếc! Cho nên phải quyết tâm tu, đời người có mấy chục năm thôi, không dài. Tụi con ít ra gần phân nửa đời người rồi. Phân nửa là tính theo nguyên tắc căn bản sống tới già rồi chết, chớ cái bất thường chưa nói đến. Vậy mà không cố gắng đem hết tâm lực tu rất uổng.

Tụi con ráng ngày nào cũng tinh tấn, ngày nào cũng vui vẻ mới tốt. Ai buồn bã, bực bội than thở sẽ xuống tinh thần, tu không tiến, trong lòng phiền não, ngoài thân thể đau ốm, cuối cùng thối Bồ-đề tâm. Cho nên tụi con phải can đảm và cương quyết. Được thân này đã khó mà đầy đủ sáu căn khỏe mạnh cũng là ít có, lại được gặp duyên có thầy lành, bạn tốt để sách tấn tu hành, thật là hi hữu.

Ở các nơi người tu phải đi đám, mai đám này mốt đám kia, đi hoài không còn thời giờ tu. Nơi đây tụi con được ở một chỗ yên tu mà không thành công Thầy cũng bó tay đầu hàng. Phật tử các nơi đang hướng về Trúc Lâm hết lòng ủng hộ, trông chờ kết quả. Tụi con thử tính xem từ hồi vào Viện tới bây giờ, có bao nhiêu cái áo lạnh?

– Dạ, nhiều lắm!

Phật tử thương tụi con, nghĩ Tăng Ni ở đây quyết tâm tu hành, mọi người dồn hết sức để lo, nhất là mấy Phật tử ở xa gởi áo lạnh về, nói nghe xót ruột: “Mỗi ngày sau khi đi làm về, con dành tất cả thời giờ đan áo lạnh gởi cúng dường Tăng Ni, chỉ mong quí Thầy Cô tu hành giác ngộ độ chúng con.” Tấm lòng của Phật tử, tụi con nghĩ sao? Nếu không tu, thật là đáng trách! Bởi vậy phải gắng tu, lúc bệnh tu theo bệnh, mạnh tu theo mạnh, đừng bao giờ nản chí, đừng bao giờ để phiền não làm chướng ngại sự tu hành.

Được như vậy thì sống trên đời này không hổ thẹn, nếu lơ mơ uổng đi một đời, không xứng đáng nhận của cúng dường. Người ta không đòi cái gì chỉ lo cho mình tu, vậy mà không chịu tu là mang nợ. Bây giờ nợ Thầy lãnh nhưng tụi con phải chia, chẳng lẽ Thầy lãnh nợ nuôi tụi con, rồi bắt Thầy trả hoài, còn tụi con trốn nợ sao? Thầy lãnh thì Thầy chịu năm mươi phần trăm, còn tụi con năm mươi phần trăm.

Nên tụi con phải ráng cố gắng tinh tấn tu hành, đừng bao giờ bỏ phí thời giờ, đừng để bị mấy chú phiền não quay. Phải dẹp hết, không có gì quan trọng. Giả sử người ta kêu tên mình chửi cũng chẳng đáng để lòng. Ở đây thật ra chưa ai dám chửi tụi con, có gì quan trọng mà phải buồn lo.

Đời tu rất quí, nên Thầy gắng thực hiện hai điều: một là tạo duyên tốt để tụi con tu, hai là nhắc nhở tụi con tu. Từ tháng này năm nọ, Thầy không ngừng nhắc nhở khuyến khích tụi con. Đó là làm hết bổn phận của Thầy, còn lôi thôi là tại tụi con, không phải lỗi Thầy, sau chớ đổ thừa ở Trúc Lâm Thầy tạo duyên tu không được. Bây giờ ráng tu, giờ nào cũng là giờ quí báu, đừng để trôi suông vô ích, sau tìm lại không được.

***

Tất cả Ni chúng ở đây và Phật tử tập tu thử nghiệm coi mình tu có lợi gì cho hiện tại và vị lai không?

Quí vị có thấy mỗi một ngày mình nhớ tu thì ngày đó sẽ ít phiền não không? Còn ngày nào nhớ nhà, nhớ anh em bà con thân thuộc nhiều, nhớ mà không gặp thì phiền não, quên tu. Bởi vậy hồi trước ở Thường Chiếu, chư Tăng chư Ni còn lao động nhiều, Thầy có nói: “Phải coi lao động như ăn cơm, học kinh như uống nước, tu như hơi thở.” Thiếu cơm sáu bảy ngày mới chết, thiếu nước có thể đôi ba ngày, còn thiếu thở thì chết liền. Bởi vậy người tu lúc nào thiếu tu là đã mất tánh chất của người tu rồi. Cho nên trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn nhớ mình đang tu, đừng bao giờ quên.

Nhiều khi chúng ta cứ nhớ hồi cư sĩ mình thế nào, làm ăn buôn bán ra sao… Đó là nhớ tu hay nhớ phàm tục? Người xả tục xuất gia không nên nhớ những việc thế gian. Giả sử vừa sực nhớ lại, bỏ liền không cho tái xuất hiện, phải nhớ mình đang tu. Đang tu là có ai làm gì trái ý, bực bội cũng bỏ qua không giận. Nếu không giận, không buồn phiền, gương mặt tự nhiên tươi tắn dễ thương. Người tu hay giận hay quạu, thấy mặt người ta ghét thì không giáo hoá được ai.

Ở trong gia đình, người Phật tử biết tu thì gia đình đó vui, người này làm người kia vui lây, còn không biết tu thì làm khổ lây. Ai nói trái tai liền nổi giận, nói qua nói lại một hồi mình phiền người khác cũng phiền, rồi một chùm phiền não, khổ lây cả nhà. Bây giờ chúng ta biết tu rồi, có điều gì không vừa ý, bỏ qua tươi vui như thường. Ai sống đời đây mà tranh hơn tranh thua.

Nếu có người muốn gì đều được như ý, người đó cũng không khỏi chết. Cái chết luôn chực sẵn từ cuối đường, chúng ta cứ đi tới từng bước hoài thế nào cũng đến cuối đường. Như vậy qua một ngày là gần cái chết một chút. Vậy mà không lo chết, lại lo chuyện hơn thua là khôn hay dại?

Bởi vậy, người tu tại gia lúc nào cũng nhớ mình là Phật tử, ráng lo tu, dẹp bỏ phiền não, đừng chứa chất, nghĩa là có thì bỏ liền, không dung dưỡng. Đó là người khéo tu. Ở trong chùa cũng vậy, quí cô lúc nào cũng phải tu, đừng nghe nói trái ý nổi sân lên, hết nhớ tu. Người tu lúc nào cũng từ bi hỉ xả, sân si không phải là người tu.

Như vậy, tu là hơi thở, nghĩa là quên một phút giây là thấy chết, mất tư cách người tu. Người tại gia cũng như xuất gia đều phải luôn nhớ tu, không quên, giống như hơi thở nếu ngưng là chết, còn nhớ thở là sống. Được vậy sẽ mau đạt đạo. Có hôm nào tụi con quên thở không? Không ai dám quên thở mà tu thì quên. Đó là chỗ sơ sót, là điều đáng tiếc.

Giả sử chúng ta đang ngồi trong nhà, chợt có ai kêu tên mình nghe hơi nặng nề, lúc đó nhớ mình đang tu hay là ra ăn thua? Nếu ra ăn thua là quên mình đang tu. Người tu nghe ai nói nặng cũng bỏ qua, không có gì quan trọng. Mình đang lo giải quyết vấn đề sanh tử, không rảnh để lo chuyện hơn thua. Hơn thua rồi tới đâu? Nếu người ta nói, mình bực tức, rồi tìm cách làm sao trả lại cho người ta bực tức bằng mình hoặc hơn nữa, như vậy được cái gì? Chỉ tăng thêm oán hờn!

Vì vậy tu là bỏ qua, không có gì quan trọng. Điều quan trọng là làm sao ngày nào cũng dọn dẹp phiền não nơi mình cho sạch. Nếu nuôi dưỡng phiền não thì chưa phải người tu, dù là tại gia hay xuất gia.

Nhiều khi Phật tử tại gia nghĩ mình ăn chay là tu rồi, nhưng hễ ai động tới thì tranh hơn tranh thua đủ thứ, vậy đâu phải là thật tu. Tu là phải sửa cho hết những cái xấu dở của mình. Sửa được rồi, hiện tại mình vui, đi đâu cũng vui, không làm ai phiền giận thì có gì để buồn. Giả sử có ai giận phiền là do mình có cử chỉ hay lời nói gì đó khiến họ không vừa lòng, chớ không thể bỗng dưng lại phiền, mình nên tới xin lỗi: “Tôi có lỡ làm hoặc nói cái gì khiến huynh phiền, cho tôi xin lỗi, tha thứ cho điều tôi sơ sót.”

Có ai dám xin lỗi như vậy không? Hay là chỉ lên sám hối với Phật mà không dám trực tiếp xin lỗi người buồn mình. Như thế là yếu đuối, nhát nhúa, dám làm không dám chịu, giận thì nói nặng người ta, khi người ta phiền không can đảm tới xin lỗi.

Nếu lỡ làm điều gì khiến người ta buồn phiền, mình phải tới xin lỗi, thực tế như vậy mới tiêu tội. Còn tới sám hối với Phật cho hết tội, e là không hết. Phật làm sao tha được cái giận của người ta. Vậy mà ai cũng chịu sám hối với Phật chớ không can đảm đi xin lỗi người mình đã làm phiền. Như vậy tụi con khéo tu hay là vụng tu?

Nếu người nào không giận, không buồn ai thì tâm hồn sẽ thanh thản nhẹ nhàng. Tu như vậy có lợi vô cùng, bản thân mình lúc nào cũng an lành vui vẻ, không có gì buồn phiền. Nếu hiện tại chúng ta an lành vui vẻ thì khi nhắm mắt cũng được tốt đẹp. Người biết tu thì ngay trong đời này đã tốt đã vui. Vui cho bản thân mình và vui lây đến người xung quanh.

Ở đây người nào cũng như vậy thì không có ai mặt mày bí xị. Sở dĩ bí xị là vì có ai đó làm mình không vui, mà không vui tức là thiếu tu. Vậy khi thấy có ai mặt quạu đeo chúng ta đánh giá người đó sao? Là quên tu! Quên tu thì bị gõ đầu chớ đừng nói phải quấy gì cả. Nhiều khi có người nói vô: “Người đó làm vậy chị giận phải quá mà, thật đáng giận!” Đó là cách nói không đúng.

Không có gì đáng giận, phải giận, nếu mình biết tu. Chỉ khi mình không biết tu hay quên tu mới giận như vậy. Khi giận là đã quên tu rồi. Dù cho mình đúng một trăm phần trăm mà nổi giận tức quên tu thì cũng là quấy. Nhớ như vậy tu hành sẽ tốt hơn. Đừng nghĩ mình tu để Phật ban phước cho hết phiền não. Chờ Phật ban cho hết phiền não chuyện không thể có, phải tự mình dẹp sạch mới được.

Ai cũng biết ngày mai mình sẽ già sẽ chết mà hôm nay không chịu tu, vậy là khôn ngoan tới cỡ nào? Một ngày qua là mất một khoảng thời giờ quí báu của mình. Hiểu như vậy rồi, ngày nay mình có già yếu cũng phải nhớ tu, đừng nhớ thân quyến bà con. Đừng thèm nhớ vì họ không cứu được mình, con cháu cứu không được quí bà, chỉ có chính mình cứu được mình.

Bởi vậy tu một ngày là quí một ngày, thời gian còn ngắn lắm nên dồn hết sức để tu. Dầu cho tiền bạc, nhà cửa bao nhiêu tới chừng nhắm mắt đều để lại hết, không đem theo được gì. Chỉ sự tu là quan trọng, biết tu mới cứu được mình.

Biết tu còn giúp được cha mẹ anh em, bà con thân thuộc, vì mình tu được, ai tới thăm cũng vui, thấy mình từ hồi tu tới giờ lúc nào cũng tươi nên người ta phát tâm theo. Ngược lại, nếu cha mẹ bà con vô chùa thăm, thấy tụi con khóc lên khóc xuống làm sao phát tâm nổi. Đi tu mà buồn thảm như vậy còn ai dám tu. Họ về còn thắc mắc: “Đi tu gì khổ quá, rủ nó về cho rồi!” Đó là không tự cứu được mình còn làm hoạ lây tới những người chung quanh. Nếu khéo tu, chính mình đã được an ổn tự tại, còn tạo sự an ổn cho người chung quanh. Như vậy, khéo tu là đem lại lợi ích lớn cho bản thân và mọi người, không khéo tu thì đem hoạ đến cho thiên hạ.

Cho nên tu phải vui vẻ tươi tắn, lúc nào cũng thấy mình đã đạt được sở nguyện. Sở nguyện của chúng ta là tu để cứu mình, cứu người, bây giờ đã được tu, tuy việc làm chưa tới cứu kính nhưng đạt sở nguyện là vui rồi. Nghĩ vậy nên luôn luôn vui vẻ tươi cười. Thấy người nào vẻ mặt sầu não ưu tư biết là quên tu, nhớ thân thuộc rồi muốn trở về. Đó là một lý do thối Bồ-đề tâm.

Vậy nên tụi con phải sáng suốt, không một phút giây nào bỏ qua, lúc nào cũng là lúc tu. Giả sử người nào đó nghe mình nói điều gì trái ý, trong một phút giây họ trả lại một câu nói nặng, lúc đó nếu không biết tu đâu có tỉnh giác kịp. Nên lúc nào cũng sẵn sàng tu, chờ tới giờ ngồi thiền, sám hối mới tu thì muộn lắm rồi. Ngay lúc có sự việc xảy đến là lúc mình phải tu. Khéo tu trong mọi lúc là người biết tu, còn đợi tới thời khoá thì không hay. Đó là lẽ thật.

Khi ngồi thiền, nét mặt tụi con tươi vui biểu lộ tâm hồn thơ thới nhẹ nhàng, không được chăm bẳm quá hay mặt hầm xuống như đang giận ai. Nhờ tụi con tu gương mặt bình thản tươi vui, chúng sanh thấy phát tâm hoan hỉ cũng bớt khổ, đừng để người ta thấy mặt sợ không dám ngó, lại càng khổ thêm. Hiểu vậy tụi con ráng nhớ trách nhiệm mình, không quên tu một phút giây nào. Tu như hơi thở, vừa quên tu liền là xác chết.

***

Mây không phải là bầu trời, mây chỉ là hiện tượng tạm bợ. Biết như vậy là chánh xác, còn tưởng mây là bầu trời tức mê. Bây giờ biết rõ mây không phải là bầu trời, chỉ là hiện tượng tạm bợ, tụ rồi tan, tuy mây vẫn còn nhưng mình không lầm.

Thầy giảng rõ vì sợ tụi con ngồi thiền cứ thấy vọng tưởng bỏ hoài cũng chưa hết, lâu ngày sanh nghi: “Sao không thấy cái thật, cứ thấy cái giả hoài, làm uổng công quá vậy, coi như cả ngày làm việc không công!” Hễ biết nó là giả tự nhiên không lầm. Không lầm thì cái giả hết, cái thật tự hiện bày, khỏi tìm kiếm ở đâu. Nên nói “thú hướng chân như tổng thị tà”. Vừa muốn tìm cái thật là đã rơi vào tà rồi. Cái thật đâu ngoài cái giả, chỉ cần cái giả tan hết là hiện đầy đủ tất cả. Như vậy dễ hay khó? Có người nào thiếu không? Có cụm mây nào ngoài bầu trời đâu!

Thử đem so sánh một lượn sóng với biển cả, lượn sóng có thấm vào đâu so với biển. Cũng như cụm mây có thấm vào đâu so với bầu hư không. Nên chúng ta bỏ cái tạm bợ nhỏ hẹp để được cái thênh thang, đó là chuyện phi thường chớ không nhỏ. Người đời cứ tìm cầu những thứ tầm thường, thí dụ như có tiền cất nhà lầu sắm xe hơi. Đâu biết nhà lầu rồi sẽ hoại, xe hơi đi lâu cũng hư. Chỉ có cái sẵn có của mình là chân thật mà lại bỏ quên chạy theo cái giả từ đời này đến đời kia, thật uổng!

Vậy nên trong kinh Phật nói chỉ có si mê không biết lối đi mới thật khổ. Bởi vì mờ mịt không biết lối đi, mấy chục năm chết đây rồi sanh trở lại, rồi mấy chục năm nữa chết đi… Nên Phật nói: “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn biển cả.” Cái khổ lớn nhất là khổ trầm luân.

Bây giờ, quí Phật tử biết rõ vọng tưởng là nhân tạo nghiệp, không theo nó tức bớt khổ. Khi nào nó lặng xuống thì sáng ra, liền hết mê lầm, tức giác ngộ giải thoát. Được như vậy muôn đời khỏi bị đau khổ.

Nếu người có lòng đại từ đại bi, giải thoát rồi nhưng vì thương chúng sanh mà dạo chơi trong sanh tử để hoá độ người, gọi là “du hí tam-muội”, nghĩa là đùa chơi trong cõi đời mà vẫn ở trong chánh định. Đó là hạnh Bồ-tát, không nỡ bỏ chúng sanh mê nên trở lại lăn lộn giữa cõi đời để độ họ. Sống giữa cõi đời này người ta khổ nhưng mình vẫn tự tại.

***

Tụi con nghe nói chúng sanh mê, đức Phật giác, phải không? Nay Thầy hỏi: “Chúng sanh mê là mê cái gì? Phật giác là giác cái gì?” Đây là gốc của sự tu hành. Ở Thiền viện tu giác ngộ mà người ta hỏi câu này không trả lời được là thiếu căn bản.

Bây giờ Thầy giải thích cho tụi con hiểu. Cái mê thứ nhất của chúng sanh là thân năm uẩn hư dối lại tưởng là thật. Bởi tưởng thật nên chấp nó là ngã, rồi giành giật, hơn thua phải quấy, có khi sát phạt nhau không gớm tay. Mê là si, từ si sanh tham, giành giật ngũ dục. Nếu có ai chống lại liền sát phạt, đó là từ tham sanh sân. Như vậy, cái mê gốc của con người là mê lầm chấp thân.

Thân này do duyên hợp tạm có, biến đổi không dừng. Từ lúc lọt lòng mẹ, mỗi ngày mỗi chuyển biến cho đến già rồi chết, trong một dòng sanh diệt liên tục. Cái gì thật thì không chuyển biến thay đổi, thay đổi tức không thật.

Đời sống chúng ta giống như dòng nước chảy liên miên không dừng, thế nhưng chúng ta không biết tưởng thân là thật, là mình, sanh ra chấp ngã, tự hào, cái gì cũng ta. Nói đẹp thì ta đẹp hơn, nói tốt thì ta tốt hơn, nói phải ta phải hơn… Bởi vậy ai xúc phạm liền nổi sân. Như tưởng mình đẹp ai nói xấu là xúc phạm, tự thấy mình hơn lại nói mình thua là xúc phạm, nghĩ mình phải mà nói quấy là xúc phạm. Cứ vậy cả ngày tranh hơn thua, phải quấy, rốt cuộc rồi cũng chết. Thật là mê muội đáng thương! Đó là mê về thân.

Cái mê thứ hai là không biết trong thân tạm bợ hư dối lại có cái chân thật. Cái mê này thế gian không biết, chỉ người tu mới biết. Người tu hiểu rằng thân là tạm bợ hư dối, trong cái hư dối có cái thật. Hiểu như vậy mà chưa thấy thật rõ ràng, nên chúng ta tu là để nhận được cái thật đó.

Như vậy tụi con thấy, chúng sanh không biết có cái chân thật, thấy giả cho là thật, cứ như vậy mà khổ rồi tạo khổ cho kẻ khác. Cả cuộc đời, kết thúc được cái gì? Chỉ là một lớp giả dối không thật. Người tu nghe lời Phật dạy, biết nơi thân giả có cái thật nên nỗ lực tu, mượn thân giả này làm phương tiện để tìm ra cái chân thật. Đó là chỗ thức tỉnh thiết thực nhất. Biết chỗ mê của chúng sanh rồi thì cái giác hiện tiền.

Đức Phật giác ngộ khi Ngài thấy người ta già bệnh chết, biết mình cũng già bệnh chết, không nghi ngờ. Rõ như vậy thì cuộc đời chỉ là trò chơi tạm bợ, không có giá trị. Ngài thức tỉnh ra đi tìm đạo. Mà tìm đạo là tìm cái gì? Thật ra, Ngài thấy có những vấn đề phải tìm:

Thứ nhất là vấn đề sanh, con người từ đâu sanh ra?

Thứ hai là chết rồi còn hay hết, nếu còn thì làm gì, đi đâu?

Thứ ba là nếu chúng ta không muốn tiếp tục đi trong vòng sanh tử đó phải làm sao?

Đó là ba câu hỏi then chốt của con người mà thế gian này ít ai nghĩ tới. Cứ sanh ra rồi tới chết là hết. Còn đức Phật thắc mắc, ta có mặt ở đây đâu phải ngẫu nhiên mà có, vậy trước mình là cái gì giờ mới tới đây? Đó là lý do Ngài tìm lại đầu mối của sanh tử. Người thế gian chỉ biết mình đang ở đây, không biết từ đâu tới rồi chết ra sao? Họ cứ hưởng thụ cho thoả mãn rồi chết ra sao thì ra, đi đâu cũng được.

Chỗ Phật tỉnh giác là Ngài biết thân này tạm bợ giả dối nên thức tỉnh đi tu. Đến các vị tiên dạy tu thiền để học, nhưng họ cũng chưa giải quyết được những vấn đề Ngài thắc mắc. Ngài tới vị này học một thời gian rồi từ giã đến vị khác, rồi lại từ giã đến chỗ khác nữa. Cuối cùng Ngài thấy vấn đề đó chỉ có tự mình giải quyết. Đến khi Ngài giác ngộ thành Phật, là giác ngộ cái gì? Trong kinh kể nhiều lắm, Thầy chỉ nói cái căn bản là Tam minh.

Trước hết Ngài giác ngộ Túc mạng minh, tức là biết được vô số đời trước đã từng ở đâu, cha mẹ tên gì…, biết suốt hết các đời qua đã từng làm gì, bây giờ mới tới đây. Vậy là Ngài rõ được nghi vấn “sanh từ đâu đến”, biết được đây không phải là lần đầu mà đã vô số lần sanh tử rồi, bây giờ chỉ là tiếp tục sanh. Thấu suốt như vậy là đã giải quyết được vấn đề thứ nhất.

Kế đến Ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy rõ con người chết không phải hết, mà do nghiệp thiện hoặc ác dẫn đi luân hồi trong lục đạo: người, trời, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Như vậy, chết không phải là hết mà còn tiếp tục sanh ở trong sáu đường luân hồi. Thế là Ngài giải quyết được câu hỏi thứ hai.

Tới canh năm Ngài chứng được Lậu tận minh, là thấy tột nguồn gốc con người do cái gì mà phải tiếp tục sanh, và bây giờ muốn dứt phải làm sao để dứt. Đó là Tứ thánh đế. Muốn được Niết-bàn phải diệt Tập đế. Tập đế là nhân của quả khổ, tức Khổ đế. Diệt hết Tập nhân này thì được Niết-bàn. Muốn diệt phải có phương pháp, phải tu theo ba mươi bảy phẩm trợ đạo là Đạo đế. Như vậy, Ngài giải quyết được cái nghi thứ ba.

Đức Phật chứng quả Đại giác: Giác ngộ được kiếp người từ đâu tới, chết rồi sẽ về đâu và muốn ra khỏi sanh tử phải làm sao? Đó là mục tiêu của đức Phật. Nay chúng ta bắt chước đi theo tất nhiên cũng phải biết cho rõ. Chẳng lẽ nói tôi tu để giác ngộ mà giác ngộ cái gì mình không biết! Đức Phật giác ngộ trọn vẹn ba điều trên, không còn bị lôi dẫn trong sanh tử nữa, còn chúng ta bây giờ không biết mình từ đâu lại đây, cũng không biết mai kia chết rồi ra sao, chưa giải thích được.

Tụi con phải hiểu gốc mê của mình thì mới giác được, còn nếu không hiểu, nói tu không biết tu cái gì, riết rồi cũng như người thế tục, không biết mình là gì?

Thật ra, con người không có gì ngoài ba vấn đề: Từ đâu tới? Chết rồi sẽ ra sao? Và nếu muốn không tiếp tục sanh tử nữa phải thế nào? Việc chánh của đời tu là giải quyết những vấn đề này.

Hỏi: Trước đây khi có vấn đề khó xử, con thường bỏ đó đi ngủ, khi thức dậy tự nhiên có giải đáp. Từ khi con biết ngồi thiền, thấy cũng có vài kết quả tương tợ. Tại sao vậy?

Đáp: Khi có một vấn đề thắc mắc, mình bỏ qua, đi ngồi thiền. Lúc ngồi thiền tâm lặng, trí sáng nên giải quyết vấn đề một cách dễ dàng.

Hỏi: Giải pháp đến sau khi ngồi thiền hay trong khi ngồi thiền?

Đáp: Trong lúc ngồi thiền tâm yên thì thấy được giải pháp.

Người tu thiền như một khạp nước đục, để yên thì lóng trong, khi đục nó tối, khi trong nó sáng. Ngồi thiền lắng tâm mình cũng giống như lắng các cặn bã trong nước. Khi cặn bã lặng rồi tự nhiên nước trong. Nước trong thì những gì bên trên ảnh hiện đầy đủ.

Hỏi: Khi người thân gặp vấn đề khó khăn, chúng ta có thể dùng sức thiền định giúp đỡ họ không?

Đáp: Thật ra, giúp người khác qua thiền định là khi nào sự thiền định của mình có đủ sức mạnh mới có thể được, nếu chưa đủ sức mạnh muốn giúp cũng không được.

Trong nhà Phật có Từ bi quán. Khi mình thương người đó khổ, ngồi thiền rải tâm từ bi cho họ được bình an. Điều này có, nhưng có trong sự quán tưởng của mình chớ không phải là cái thật.

Hỏi: Vậy có giúp được người kia khỏi cảnh khó khăn không?

Đáp: Thực tế ít khi được như ý. Bởi vì trong thực tế, khả năng và sức mạnh thiền định của mình chưa đủ để chuyển được hoàn cảnh của người khác. Do đó, có thể giúp được trong chỗ nhẹ nhàng của nội tâm, chớ không thể chuyển đổi hoàn cảnh.

***

Đi dự Đại hội kỳ này Thầy làm được hai việc. Thật ra, dự Đại hội là phần phụ, còn phần chánh là lên Yên Tử.

Trước khi lên Yên Tử, Thầy đi chùa Lân, còn gọi là chùa Long Động. Ngày xưa, Điều Ngự Giác Hoàng truyền giới Tỳ-kheo và Bồ-tát cho ngài Pháp Loa tại chùa này. Hồi trước đường lên Yên tử khó đi hơn bây giờ. Ban đầu Thầy còn đi thong thả, dần dần leo hết nổi, đến mấy dốc cao đứng quá, có người đứng trên đưa tay xuống kéo, hai người ở dưới đẩy lên, vậy mới leo được. Thầy như thế, Nhật Quang cũng không kém gì. Lên tới am Vân Tiêu Thầy dừng lại nghỉ. Cứ đi mười lăm phút phải nghỉ, từ Hoa Yên lên Vân Tiêu chừng nửa cây số, đi từ sáu giờ đến chín giờ mới tới. Lần trước, Thầy chỉ mới tới Hoa Yên, vì hồi đó xe đỗ rất xa, lội bộ lên tới chùa Hoa Yên trời đã xế chiều, phải trở ra xe liền vì không có chỗ ở lại, nên không kịp lên chùa Đồng.

Kỳ này Thầy quyết định lên tới nơi. Tại sao vậy? Ngày trước khi học sử đức Phật, Thầy chỉ biết đại khái qua kinh sách, về sau Thầy muốn biết những chỗ sanh hoạt của đức Phật, Ngài thành đạo ở đâu, truyền bá vùng nào, có thật hay không? Thầy phải đi tới tận nơi thấy tận chỗ. Thầy đi Ấn Độ đến Bồ-đề Đạo Tràng, tới mấy chỗ quan trọng đức Phật giáo hoá. Biết đức Phật là một con người có thật, biết nơi chốn Ngài sanh hoạt Thầy mới yên lòng. Bây giờ chúng ta khôi phục lại Thiền tông đời Trần, vua Trần Nhân Tông, về lịch sử Thầy biết đại khái, còn chỗ Ngài sanh hoạt Thầy chưa nắm vững, nên phải lên tận chỗ các Ngài sanh hoạt.

Cả đoàn đi khoảng vài trăm người, tối ngủ lại. Quí Thầy tổ chức tụng sám hối sáu căn. Trước khi sám hối Thầy phải giảng một chút, rồi nhờ Nhật Quang nói thế. Nghỉ ngơi đến sáng, đoàn tiếp tục leo núi. Các dốc đứng vừa cao vừa trơn trợt, một mình làm sao leo nổi, Thầy nhờ có trợ lực mới lên tới chùa Đồng. Tới nơi ngồi nói chuyện một chút rồi trở xuống. Khi lên thì rất nặng nề, khi về Thầy bước xuống thật nhanh, đến một lúc hai chân hết làm chủ được, nên phải có hai người kè. Vậy mà cũng vấp một hai lần. Tới Hoa Yên nghỉ một chút rồi xuống luôn. Thầy giở chân không muốn lên, cựa quậy không được, cả người rã rời.

Kỳ này, chùa Thông Giác có trở ngại nên Thầy không lại đó. Phật tử mời Thầy ở khách sạn. Thầy trò ở lại hai ngày hai đêm, đến ngày về họ không tính tiền. Bà Giám đốc và bà Phó giám đốc còn theo Thầy ra Yên Tử. Hôm Thầy giảng ở trường Khoa Học Kỹ Thuật, bữa đầu khoảng bảy trăm người đến nghe, bữa kế tám trăm người, bữa sau một ngàn người. Còn qui y hơn bốn trăm người, giảng tất cả bốn buổi, đó là công tác của Thầy.

Trong buổi giảng, có một người nêu câu hỏi về việc sắp ra đời của Phật Di-lặc. Thầy trả lời:

– Sau khi đức Phật Thích-ca nhập Niết-bàn, thế gian trải qua ba thời: chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp. Qua hết thời mạt pháp người ta không còn tin Tam Bảo nữa, không còn biết Phật là gì, chừng đó đức Phật Di-lặc mới ra đời. Không thể có hai đức Phật đồng thời giáo hoá, vì giáo lý của đức Phật kia và đức Phật này không hai không khác, nếu dạy y cái cũ là trùng lặp, còn nói khác tức là tà. Nên hai đức Phật không thể ra đời cùng lúc. Người ta cứ nói Phật Di-lặc sắp ra đời mà không hiểu giáo lý đức Phật Thích-ca hiện tại vẫn đang còn phổ biến.

***

Bây giờ Thầy kể cho tụi con nghe về những cái ngu của Thầy thuở xưa. Hồi xưa Thầy còn làm Quản viện ở Phật học viện Huệ Nghiêm, Thầy có mấy cái ngu, sau lên núi rồi mới biết.

Cái ngu thứ nhất là trong chúng có những người mắc kẹt một vài tật, thí dụ như tham ăn…, rầy một, hai, ba lần không bỏ, Thầy hơi bực. Mỗi người mỗi tật rầy không được, nhiều khi giận và phiền não họ, đó là cái ngu thứ nhất.

Cái ngu thứ hai là Thầy lo cho mấy chú đi học Bồ-đề có xe cộ đưa đến trường đàng hoàng, vậy mà có nhiều chú không đi học, lại bỏ đi chơi. Thầy biết chuyện giận thôi là giận, càng giận thấy càng ngu.

Cái ngu thứ ba là mình hết lòng hướng dẫn cho họ tu, nhưng vẫn có người rũ áo ra đời, Thầy tức giận.

Và cái ngu thứ tư là khi thấy những điều hay tốt, Thầy khuyên học chúng làm mà họ không chịu làm, Thầy cũng giận.

Khi lên ở Pháp Lạc thất nhập thất tu, Thầy nhớ lại mấy chuyện đó mới thấy mình ngu.

Thứ nhất là người có tật xấu, mình rầy hoài họ không bỏ vì đó là thói quen, tập khí của họ. Họ nghe rầy, biết xấu nhưng không sửa được, thương không hết giận làm gì! Tụi con nhớ mình giận là ngu. Những tật xấu trong chúng chẳng qua là do tập khí. Khi người ta có lỗi, bị rầy cũng biết xấu, vậy mà bỏ không được là vì tập khí sâu dày. Biết vậy nên thương chớ không giận. Bây giờ mới biết mình giận là ngu.

Thứ hai là cho đi học trường Bồ-đề đàng hoàng, có xe đưa đón mà không vô trường học lại bỏ đi chơi. Thầy biết được, nhiều khi giận muốn run, sau này Thầy biết đó là cái ngu của mình. Mình cứ làm tròn bổn phận của người lớn lo cho người sau, nếu họ không biết lo thì mình nhắc, nhắc họ không nghe là chuyện của họ. Nếu chịu học thì họ giỏi, mai kia có lợi, còn nếu không chịu học sau sẽ bị thiệt thòi. Đó là chuyện của họ, bổn phận mình làm tròn rồi thôi, có gì đâu mà giận, giận là ngu.

Thứ ba là đối với những người tu mình lo lắng, muốn cho họ mai sau làm rường cột Phật pháp, vậy mà tu nửa chừng họ cởi áo ra đời, Thầy giận. Sau này Thầy mới thấy đó là ngu. Tu được hay không là chuyện của họ, mình đâu có bắt họ tu cho mình, họ cũng đâu có cam kết với mình là sẽ tu suốt đời. Khi họ muốn tu thì mình ráng lo, bây giờ không muốn tu nữa là quyền của họ, tại sao mình giận? Mình giận là ngu.

Thứ tư là Thầy khuyên học chúng ráng tập theo những điều hay tốt mà họ không chịu làm, Thầy giận. Nếu họ không làm những điều tốt đó thì họ thiệt, mình đâu có thiệt thòi gì, giận chi cho khổ. Như vậy là đeo mang việc của người, tức là ngu, phải không?

Thế gian có những cái tức cười, nhiệt tình chừng nào sân nhiều chừng ấy. Bây giờ Thầy cũng lo cho chúng, thương nên rầy la nhắc nhở nhưng Thầy không giận nữa. Hồi xưa lo mà giận là ngu, bây giờ Thầy biết rồi, cũng lo mà không giận. Như vậy tụi con nhớ, khi nào thương và giúp đỡ người, nếu người đó không làm được những điều tốt đẹp, đúng như ý mình muốn thì thôi, đó là chuyện của họ. Nếu mình giận là ngu. Chúng ta ráng làm tròn bổn phận của mình, còn trên đời này có nhiều người phức tạp lắm, chính Thầy nhiều khi cũng rất ngại tập khí con người.

Khi học pháp, ai cũng biết điều hay điều dở, tới chừng gặp việc tập khí vẫn y nguyên không bớt. Như tất cả tụi con đều biết nổi giận la lối là xấu, vậy mà gặp điều trái ý cũng nổi giận đùng đùng. Đó là tập khí nhiều đời. Cho nên tụi con biết tu, có tiến bộ, thấy được đạo, nhưng còn tập khí nhiều đời phải chuyên cần cố gắng bỏ. Không nên theo thói quen của mình, cần phải miên mật tu thời gian dài mới thắng được nó.

Thật ra, tụi con thấy có nhiều Giảng sư nói thao thao bất tuyệt, đến khi gặp duyên vẫn bị rớt như thường. Nói thì đơn giản, tới lúc hành mới khó. Bởi vậy, nhiều khi tụi con có những tập khí nặng, Thầy buộc lòng phải xử phạt. Xử phạt đó là cạo gọt tập khí của tụi con, chớ không phải để làm khổ, làm phiền não chướng ngại sự tu hành. Tập khí tụi con tự bỏ không được, buộc lòng Thầy phải kềm chế, tìm cách gọt giũa cho mau sạch. Cho nên người tu phải ở trong chúng, được thầy lành bạn tốt chỉ dạy, đó là có phước số một. Còn ra cất thất ở riêng, không có ai khuyên nhắc để sửa chữa, tập khí rốt cuộc vẫn còn y nguyên.

Ở đây, tụi con gắng học theo những lời Phật Tổ dạy, thấy được chỗ dở của mình để sửa, nghe lời chỉ bảo nhắc nhở của người lớn và huynh đệ sống chung. Có người lớn tuổi, học được chút ít mà không chịu giũa mài, sau ra làm thầy thiên hạ tập khí còn y nguyên, rồi cũng tham, sân… như người thế gian. Bởi vậy, tất cả phải ráng tu tiến, khắc phục bản thân mình, sau ra làm Phật sự không bị chê cười. Tụi con ở đây coi như bị giam lỏng, tu chừng nào thấy khả dĩ được thì Thầy cho ra làm Phật sự.

***

Hồi sáng có ông nhà nước tới thăm. Theo ông, học chỉ là mở mang kiến thức, nếu người tu chỉ có học thì không phải là người tu. Như vậy, bên cạnh sự học cần có tu. Học rồi phải tu cho có hiệu quả, ra làm Phật sự mới không bị trở ngại. Đừng nghĩ phải đi học cho có bằng cấp này bằng cấp nọ rồi không chịu điều phục mình, tập khí vẫn còn nguyên, có ích gì cho đời tu?

Những lời Phật dạy, chúng ta hiểu, ứng dụng tu rồi mới thấy vô cùng thâm sâu. Vậy nên tụi con phải ráng, đừng để giống như đài phát thanh hay cuộn băng nhựa, thâu bao nhiêu phát ra bấy nhiêu, không có hồn gì cả. Khi tu thấy như nhọc nhằn, tập khí lâu đời phải cạo gọt cho sạch, trâu đen thành trâu trắng, nói được những lời từ Vô sư trí, lúc ấy đem ra sử dụng mới tốt.

– Thưa Thầy, kinh Bát-nhã nói: “vô trí diệc vô đắc”, trí đó là Bát-nhã ba-la-mật, sao lại nói là không trí không đắc?

Tinh thần Bát-nhã là phủ nhận tất cả, không có Tứ đế, không có Thập nhị nhân duyên, rồi cuối cùng không chứng cũng không đắc. Tứ đế là Thanh văn, Thập nhị nhân duyên là Duyên giác, trí đắc là Bồ-tát. Địa vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều còn trong đối đãi nên phủ nhận hết để đưa tới cứu kính Niết-bàn. Sau đó dùng trí lực độ chúng sanh. Đây là trí căn bản, sẵn có nơi mình, chớ không phải trí thức học ở ngoài. Căn bản trí còn gọi là Vô sư trí.

***

Có một cô Mỹ hỏi Thầy mười câu hỏi, nay Thầy nhớ câu nào kể lại câu đó cho tụi con nghe.

Hỏi: Sự liên quan giữa con người với vũ trụ như thế nào?

Thầy trả lời: Rất là mật thiết!

Hỏi: Đạo Phật chủ trương từ bi. Nay mình ngồi trong nhà còn thiên hạ đau khổ ở ngoài, sao gọi từ bi được?

Thầy đáp: Tất cả đều là duyên nghiệp. Chính mỗi người tự chọn lấy nghiệp riêng của mình. Dù thương cũng khó cứu được, chỉ cố gắng tu, đem đạo lý dạy họ chuyển nghiệp.

Hỏi: Người thân của mình làm những điều xấu ác, mình có nên giận hay không?

Đáp: Không nên giận. Tại sao vậy? Ví dụ có người thân của mình đang đứng bên vực thẳm, sắp rớt xuống vực, lúc đó mình nên giận hay nên thương?

– Dạ, thương.

– Phải, vì nếu họ làm lành sẽ được đi chỗ tốt, nay họ làm điều xấu ác, sắp rớt xuống vực thẳm thì rất đáng thương, đâu nên giận. Trong cuộc sống, nếu có ai lầm lỗi, chúng ta nên thương xót hơn là phiền trách họ. Vì ngu mê không biết đúng sai, nên mới gây tạo nghiệp xấu dở như vậy.

Hỏi: Đạo Phật dạy từ bi và cũng dạy phản quan tự kỷ. Phản quan tự kỷ là xoay lại mình, không lo cho người ở ngoài, mà không lo cho người thì không có từ bi. Như vậy có mâu thuẫn không?

Đáp: Điều này không mâu thuẫn. Vì sao? Bằng chứng như Tăng Ni ở đây tu, trước phải phản quan soi sáng lại mình, biết cái gì xấu dở để chừa bỏ. Khi dẹp bỏ hết cái xấu dở rồi, Bản tâm trong sáng, lúc ấy mới ra làm Phật sự giúp người. Nếu không dẹp hết những cái xấu dở đó, khi ra làm sẽ bị mắc kẹt ở danh lợi. Vì vậy, trước phải phản quan tự kỷ rồi sau mới từ bi, có hệ thống chớ không phải mâu thuẫn.

Hỏi: Trên thế giới này có nên đi tu hết không?

Đáp: Trên thế giới chỉ có một ít đi tu thôi. Tại sao vậy? Vì đi tu là việc làm rất khó, đòi hỏi quyết tâm nhiều, hi sinh lớn.

Ở đây tụi con có quyết tâm, có hi sinh không? Lâu lâu có cãi nhau không? Khi nào người ta làm việc nhẹ, mình làm việc nặng, bực bội không? Nếu bực bội thì đâu có hi sinh. Còn tới giờ toạ thiền có rề rà chầm chậm không? Nếu có là không quyết tâm.

Hỏi: Trên đường tu của quí Thầy Cô có điều gì khó nhất?

Đáp: Thông thường, người ta nói bỏ nóng giận là khó, trừ tham lam là khó. Còn Thầy nói trên đường tu, điều khó nhất là Phật dạy lẽ chân thật, biết rõ mà sống không được. Thí dụ Phật dạy thân này là vô thường, bất tịnh; biết rõ vô thường bất tịnh mà ai chê xấu thì buồn, nghe nói chết liền sợ. Lẽ ra biết nó bất tịnh thì cứ mặc người chê, có gì quan trọng. Tại sao người ta chê chịu không nổi? Vì biết rõ mà không sống được. Phật lại dạy tâm vọng tưởng là hư dối, bỏ cái hư dối đó được Tâm chân thật, vậy mà khó ai bỏ được. Phật dạy thì tin nhưng làm không nổi, đó là cái khó.

Hỏi: Đạo Phật dạy đừng dính mắc, vậy dính mắc là trúng hay sai?

Đáp: Câu hỏi này còn tùy trường hợp. Nếu nói thuần trong đạo, đối với người tu thì không dính mắc là đúng, còn đối với người thế gian vẫn cho dính mắc miễn là hợp lý. Thí như người làm ruộng thì cho họ được tham là cầu mong trúng mùa. Cầu trúng mùa là tham, là dính mắc, nhưng hợp lý vì họ còn phải nuôi sống gia đình, đóng góp cho xã hội. Các ngành khác cũng vậy. Tham hợp lý thì được, nhưng đừng quá tham rồi lo gom góp, vơ vét của người là không được.

Tụi con thấy, chúng ta phải khéo dạy sao cho người ta hành được, không nên khẳng định không cho dính mắc, như vậy sẽ gây trở ngại cho sanh hoạt thế gian.

Hỏi: Bạch Thầy, con tập toạ thiền là có điên rồ không?

Đáp: Con ở ngoài thế gian mà đến xin toạ thiền là sáng suốt chớ không điên rồ. Tại sao Thầy nói là sáng suốt? Bởi vì ở thế gian bao nhiêu điều phiền hà lôi kéo, tâm con rối loạn, giờ vào đây toạ thiền để tâm lóng lặng, tâm lặng thì trí sáng. Đó là sáng suốt chớ không phải điên rồ, con đừng sợ.

Hỏi: Bạch Thầy, đôi khi ngồi thiền con có cảm giác như bay bổng, đến khi nói chuyện với người thì cảm giác đó không còn nữa, vậy là sao?

Đáp: Trong nhà Phật dạy mình khi toạ thiền thấy như bay bổng là ảo giác không thật. Nên nếu có thấy rồi một lúc cũng hết.

***

Năm rồi Thầy dạy tụi con giữ lục hoà, năm nay Thầy giao tụi con phải mở sáng con mắt trí tuệ. Lục hoà là phương pháp để sống cho an ổn. Nhờ an ổn, trí tuệ mình sáng lên, rồi mới thực hiện lòng từ bi.

Ai cũng nghĩ từ bi là cho cơm cho áo, sự thật từ bi không phải mục đích đó. Từ bi là làm sao tự mình biết có cái thật, rồi chỉ cho người cùng biết, cứu người ta thoát khổ muôn đời. Nếu chúng ta cho người cơm áo, họ bớt khổ trong đời này nhưng vẫn cứ mê muội, tiếp tục tạo nghiệp, khi hết thân này tới thân khác họ cũng khổ nữa. Còn nếu mình chỉ cho họ biết người nào cũng có Tánh giác, tánh Phật sẵn, nếu khéo tu sẽ trở về Bản tánh sẵn có thì thoát được khổ luân hồi.

Trong kinh Phật dạy: Cái khổ bị thiêu đốt ở địa ngục chưa phải là khổ, cái khổ làm ngạ quỉ đói khát cũng chưa phải là khổ, cái khổ làm lạc đà hay trâu ngựa kéo xe, bị đánh đập chưa phải là khổ, chỉ có chúng sanh mê muội không biết đường đi mới khổ, vì đó là khổ muôn đời. Khổ trong địa ngục rồi cũng có ngày ra, làm thân trâu ngựa còn có kỳ chấm dứt, chỉ có cái mê muội không biết bao giờ mới hết.

Đức Phật mong cho chúng sanh hết mê muội nên chỉ cho biết lẽ thật. Thấy được lẽ thật là giác, giác tức sáng suốt hết mê muội, đó là gốc của sự tu. Bởi vậy trọng tâm của đạo Phật là giác ngộ, tự giác cho mình rồi giác tha, đó là từ bi. Không phải làm từ thiện lo cơm lo áo mới là từ bi. Đó là phụ, bố thí tài không quí bằng bố thí pháp. Bố thí tài chỉ giúp người đỡ khổ một lúc, còn thí pháp giúp người vĩnh viễn thoát khổ tử sanh.

Ý nghĩa tu hành là như vậy đó, nên năm nay tụi con phải mở sáng con mắt trí tuệ nghen! Đứa nào mở mắt được lại trình cho Thầy mừng.

***

Chúng sanh chấp mình là thật, thân thật và tâm thật. Chấp thân này là thật, nên khi những nhu cầu vật chất mình có quyền hưởng mà ai đoạt mất thì tức tối nổi sân. Lúc nổi sân có ngầm si và tham trong đó. Do si nên ngỡ thân này thật, từ si sanh ra tham.

Kế đó là si mê về tâm. Khi tụi con nghĩ, liền cho là tôi nghĩ, tôi tính, nhưng cái nghĩ đó có phải thật tôi không? Nếu thật tôi thì lúc nào cũng phải hiện tiền, phải có mặt. Thế nhưng cái nghĩ khi thế này, lúc thế nọ, có ai bảo đảm cái nghĩ của mình luôn đúng một trăm phần trăm không? Không đúng một trăm phần trăm mà người khác cãi là chúng ta giận. Đó mới là cái vô lý!

Có khi mình nghĩ, ba hoặc năm năm nữa mình sẽ làm cái này cái nọ, ai dè tới lúc đó chết mất. Đừng nói chi xa, thí dụ quí Phật tử ở thành phố, nghĩ mình lên Trúc Lâm sẽ gặp người này hoặc làm việc kia. Đến lúc lên đây hoàn cảnh thay đổi, mọi việc không còn như mình nghĩ, vậy mà ai cãi lại là mình giận. Như vậy chấp vào cái gì mà giận? – Vì cho cái nghĩ là thật tâm mình. Điều không thật lại cho là thật, đó là si mê. Từ si mê nên bảo thủ, ai nghĩ khác mình nổi sân lên rồi tranh đấu.

Như vậy, nếu không chấp thân này là thật và không chấp cái suy nghĩ là thật thì còn gì để hơn thua hay giành giật, phiền não với nhau? Người muốn giải thoát phải nhận chân lẽ thật là thân này tạm bợ, vọng tưởng hư dối để đi sâu vào cái chân thật. Si mê là chấp hai cái giả đó cho là mình. Tụi con ở đây tu khá rồi mà còn chấp hai cái tạm bợ đó không? Tu khó giải thoát là ở chỗ đó. Tụi con thấy thân này hết sức mong manh, đang khỏe mạnh bất thần đứt mạch máu ngã ra chết. Đức Phật dạy thân là duyên hợp, lâu ngày cũng sẽ tan hoại, không có gì bền vững. Một cái không bảo đảm, không thật vậy mà cứ chấp chặt một trăm phần trăm, hễ thứ gì thuộc về mình thì cố giữ gìn, ai động tới là nổi sân.

Cái suy nghĩ cũng vậy, tốt xấu, đúng sai đủ thứ, thế nhưng vẫn chấp cái nghĩ của mình là đúng, ai nghĩ khác nổi giận. Nếu hai cái đó tụi con không chấp thì đâu còn phiền não. Tu dễ ợt chớ đâu có khó! Chỉ vì mình cố chấp nên mới khổ. Lẽ thật là như vậy. Tụi con không cần nói lý gì cao xa, chỉ nhớ thân này không thật, suy nghĩ này không thật. Nhớ luôn luôn như vậy, tụi con dụng công ít mà kết quả nhiều, còn nếu cứ chấp thân tâm thật, dù cố gắng ngồi thiền đêm này qua đêm kia cũng không đi tới đâu, xả thiền ra vẫn sân si như thường.

Vậy nên phải biết nắm vững trọng tâm sự tu ở chỗ nào. Chúng ta ngồi thiền để thấy thân và tâm không thật, phá tan cái chấp lầm muôn thuở. Chấp thân nhẹ hơn chấp tâm. Vì thấy thân vô thường dễ thức tỉnh, còn tâm nhỏ nhiệm khó nhận nên khó phá.

Sống trong huynh đệ, khi qua lại với nhau, có điều gì dù hợp lý hay không hợp lý cũng luôn luôn nhớ thân này giả tạm không thật thì không còn hơn thua. Biết suy nghĩ không thật thì đâu cần cãi cho ra lẽ. Lẽ phải cũng không thật, càng cãi càng thấy ngu si. Vậy đó mà khi ai nói trái ý cứ ngồi giãi bày, muốn cho mình đúng hơn người ta. Tụi con phải nhớ vọng tưởng không có gì đúng cả, chỉ do chấp mà sanh chuyện.

***

Có nhiều Phật tử tại gia cứ nghĩ mình tu ở nhà khó tiến, phải xuất gia tu mới tiến. Nay quí Thầy nói cho Phật tử hiểu rõ. Phàm cái gì quá thừa thì thành dở. Nếu xuất gia lúc còn khỏe, còn trẻ, đủ sức học hành, toạ thiền tụng kinh… theo kịp mọi thời khoá, mọi công tác, sau nhiều năm dài đầu tư, đủ sức để đi truyền bá. Được như vậy, người tu là một của báu, nên gọi là “Tăng bảo”. Còn già rồi đi tu, vô chùa không có con cháu, không ai làm Thị giả, đến lúc bệnh ai lo? Nuôi một người già có nhiều vấn đề. Người già đau hoài, cần có thuốc men, đi không vững phải có người đỡ đần, ăn chung với chúng không nổi phải ăn riêng… Như thế người già vô chùa tu vô tình là một gánh nặng trong đạo, không khéo dễ bị tổn phước.

Vì vậy đối với quí Phật tử lớn tuổi, khuyên rằng nên ở nhà tu, tạo điều kiện tốt, đơn giản, việc ăn ở gọn lại, đừng phiền hà ai, rảnh bao nhiêu tu bấy nhiêu, có dư dả thì cúng dường thêm. Như vậy là có phước nhiều rồi. Còn mình muốn vô chùa tu cho tiến, vô tình lại là gánh nặng của chùa mà không có lợi gì, quí Phật tử phải hiểu điều đó.

Còn một vấn đề nữa, lâu nay quí Phật tử thường nghĩ người tu phải làm lợi ích chúng sanh, mà sao quí Thầy Cô ở đây tu cứ im lặng trong Thiền viện năm bảy năm, không làm gì cho ai cả, vậy có ích kỷ không? Thầy sẽ giải thích cho quí Phật tử hiểu.

Ở ngoài đời, một đứa học trò nếu muốn ngày mai làm lợi ích cho xã hội, có khả năng dựng xây đất nước thì phải dồn sức học ít ra cũng hơn mười năm. Học rồi ra trường mới làm được việc này việc nọ. Trong thời gian này nó chăm chỉ học, không làm gì cho ai cả. Đó có phải tiêu cực không? Đâu có tiêu cực, nó chăm chỉ học cho giỏi, sau ra giúp xã hội, đất nước hữu hiệu hơn.

Ở đây cũng vậy, chư Tăng chư Ni còn trẻ, có học, ham tu, quí Thầy cho vào đây chuyên tu năm mười năm. Trong thời gian chuyên tu phải dồn hết tâm lực cố gắng tu cho tiến bộ đáng kể, tới chừng Thầy theo Phật mới có thể mở mang nơi này nơi kia. Còn mấy người mới tu hai ba năm đẩy ra làm việc, rốt cuộc vì cái dở của họ chưa bỏ được mà đã lo giáo hoá người, lâu ngày cũng thành một nhóm anh em dở với nhau.

Ở đây Thầy chủ trương phải tu cho chín chắn, đáng tin cậy, sau ra làm Phật sự mới đem lại lợi ích cho đạo, cho Phật tử nhiều hơn. Tu như vậy không phải là tiêu cực. Nói thế cho quí vị hiểu tại sao ở đây Thầy khó khăn, không cho quí Thầy Cô ra khỏi nội viện. Ở trong này tu trong mọi công việc, giả sử đang nấu bếp cũng tu, cuốc đất cũng tu, không được nói chuyện ồn ào. Không phải tới giờ ngồi thiền lặng lẽ mới tu. Mỗi khi phóng ý chạy theo ngoại cảnh đều phải buông xả, đó là tu. Dù làm việc gì trong phạm vi này đều là tu hết. Như vậy cả ngày tu chớ không phải hai ba buổi ngồi thiền mới tu. Đó là chủ trương tu hành của Thầy ở Thiền viện này.