KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm

 

HỘI THỨ NĂM

XVII. PHẨM THAM HÀNH

(Từ giữa quyển 562 đến đầu quyển 563)

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

– Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này thành tựu công đức lớn như thế. Thế Tôn có thể trải kiếp số như cát sông Hằng, thuyết các tướng hành trạng Bất thối chuyển. Cúi xin Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho các Bồ-tát an trụ trong đó, tu hạnh Bồ-đề mau được viên mãn.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Lành thay! Lành thay! Ông nay có thể hỏi việc như thế. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông.

Thiện Hiện nên biết! Nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, chẳng phải có, tịch tĩnh, lìa nhiễm, Niết-bàn, là sự biểu hiện của khái niệm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chỉ có pháp này được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay là tất cả pháp đều được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Tất cả các pháp khác cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là sâu xa.

Thiện Hiện! Thế nào là sắc cho đến thức cũng gọi là sâu xa? Nghĩa là chơn như sâu xa nên sắc cho đến thức cũng gọi là sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc là chỗ không có sắc cũng gọi là sắc sâu xa, cho đến chỗ không có thức cũng gọi là thức sâu xa.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

– Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn! Đó là Phương tiện mầu nhiệm ngăn chặn năm uẩn, hiển bày Niết-bàn.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nếu các Bồ-tát thường quán sát kỹ nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì nghĩ: Ta nên y như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã chỉ dạy mà an trú. Ta nay nên như Bát-nhã ba-la-mật-đa đã giảng thuyết mà học. Các Bồ-tát này do thường nương tựa nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành cho đến trong một ngày số phước đức đạt được vô lượng, vô biên. Như có người tham dục, lại nhiều suy tư, cùng với người con gái đẹp hẹn hò. Người con gái kia bị trở ngại, không đến nơi đúng hẹn. Tâm mong mỏi của người ấy mãnh liệt, tuôn tràn.

Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Tâm mong muốn của người kia hướng về nơi nào?

– Kính bạch Thế Tôn! Tâm mong muốn của người này hướng về người con gái kia. Nghĩa là nghĩ: Nàng ấy khi nào mới đến đây gặp nhau để cùng ta đùa giỡn vui chơi.

– Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Người đó ngày đêm phát sanh bao nhiêu mong muốn?

– Kính bạch Thế Tôn! Người đó ngày đêm phát sanh rất nhiều mong muốn.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành, cho đến một ngày thì vượt thoát kiếp số trôi lăn sanh tử bằng với số lượng mong muốn phát sanh trải qua một ngày đêm của người tham dục kia.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này nương theo nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành thì tùy theo đó mà có thể giải thoát bao nhiêu tội lỗi thường làm trở ngại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành, không lười nhác thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành trải qua một ngày đêm thì công đức đạt được, hơn công đức bố thí trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành, trải qua một ngày đêm thì công đức đạt được, hơn công đức bố thí của các Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, đem các đồ cúng dường bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, thì công đức đạt được, hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm đem pháp vi diệu bố thí cho các loài hữu tình thì công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng đem pháp vi diệu bố thí cho các hữu tình vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm tu ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần và các căn lành khác, công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng tu ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần và các căn lành khác vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm tu các pháp tài thí, pháp thí, ở chỗ vắng vẻ, buộc niệm tư duy các pháp phước nghiệp tu trước kia, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng tu các pháp tài thí, pháp thí, an trú chỗ vắng vẻ, buộc niệm tư duy các pháp phước nghiệp tu trước kia, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm duyên khắp công đức thiện căn của ba đời chư Phật và các đệ tử, hoà hợp cân lường, hiện tiền tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì công đức đạt được của các Bồ-tát này hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số kiếp như cát sông Hằng duyên khắp thiện căn công đức của ba đời chư Phật và các đệ tử, hoà hợp cân lường, hiện tiền tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vô lượng, vô biên.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

– Như Lai thường thuyết: Chư hành đều là do phân biệt tạo ra, đều chẳng phải có thật, thì vì nhơn duyên gì các Bồ-tát này đạt được công đức vô lượng, vô biên?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Các Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng thường quán sát việc thiện đã làm là Không, không có sở hữu, hư vọng chẳng thật cũng như thế, chẳng có thể lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đúng như thật, chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Như vậy thì công đức đạt được ấy vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nghĩa vô lượng, vô biên, có gì sai khác?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Nói vô lượng là ở trong đó lượng của nó dứt hẳn. Nói vô biên là số đó không thể đếm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Có nhơn duyên nào, sắc cho đến thức cũng vô lượng, vô biên chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Cũng có nhơn duyên sắc cho đến thức vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vì nhơn duyên nào, sắc cho đến thức vô lượng, vô biên?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Vì sắc cho đến thức đều tánh Không, nên vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Có phải chỉ có sắc, thọ, tưởng, hành, thức Không, hay tất cả pháp đều Không?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ta nói tất cả các pháp, không pháp nào là chẳng đều Không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên là khái niệm về pháp nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Vô lượng, vô biên là khái niệm về không, vô tướng, vô nguyện.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên có phải chỉ là không, vô tướng, vô nguyện; hay là còn có nghĩ khác?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Ta đâu chẳng nói: Tất cả pháp môn, không pháp môn nào chẳng đều là Không?

Thiện Hiện thưa:

– Như Lai thường nói: Tất cả pháp môn, không pháp môn nào là chẳng đều Không.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Không, tức là vô tận. Không, tức là vô lượng. Không, tức là vô biên. Không, tức là nghĩa khác. Thế nên, Thiện Hiện! Tất cả pháp môn mặc dù có vô số lời nói sai khác nhưng nghĩa không khác.

Thiện Hiện nên biết! Lý không của các pháp hoàn toàn không thể nói. Như Lai phương tiện nói là vô tận, hoặc nói vô lượng, hoặc nói vô biên, hoặc nói là không, hoặc nói là vô tướng, hoặc nói là vô nguyện, hoặc nói là vô tác, hoặc nói là vô sanh, hoặc nói là vô diệt, hoặc nói là chẳng phải có, hoặc nói là tịch tịnh, hoặc nói là lìa nhiễm, hoặc nói là Niết-bàn… Vô lượng các pháp môn như thế, nghĩa chơn thật chẳng khác, đều là Như Lai phương tiện diễn thuyết.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

– Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn! Thật tánh của các pháp phương tiện thiện xảo đều chẳng thể nói, nhưng vì hữu tình nên phương tiện chỉ ra. Như con hiểu nghĩa Phật dạy: Thật tánh các pháp đều không thể nói.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì tánh tất cả pháp đều rốt ráo Không, không ai có thể tuyên nói về rốt ráo Không ấy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nghĩa bất khả thuyết có tăng, có giảm chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì đáng ra bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không tăng, không giảm. Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa này cũng không tăng, không giảm thì Bồ-tát vì lẽ gì dùng Ba-la-mật-đa không tăng, không giảm cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, luôn gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa của các Bồ-tát tăng giảm thì chẳng thể gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nghĩa bất khả thuyết của Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không thêm bớt, nhưng các Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng nghĩ sáu pháp Ba-la-mật-đa này có tăng, có giảm, mà nghĩ: Chỉ có danh, tướng; nghĩa là bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Bồ-tát này tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đem sáu pháp này tác ý tương ưng và nương vào đó phát khởi tâm và căn lành, bình đẳng ban cho các hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; như quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật nhiệm mầu sâu xa mà phát khởi hồi hướng. Do hồi hướng này, tăng thêm thế lực phương tiện thiện xảo, có thể chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Chơn như các pháp, gọi đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Chơn như các pháp không tăng, không giảm nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng không tăng giảm. Nếu các Bồ-tát thường an trụ tác ý tương ưng với chơn như như thế, thì gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như vậy, này Thiện Hiện! Nghĩa bất khả thuyết mặc dầu không thêm không bớt mà không thối thất tác ý chơn như. Bát-nhã ba-la-mật-đa mặc dầu không tăng, không giảm mà không thối thất sở cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu các Bồ-tát an trú tác ý chơn như như thế, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thì liền gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này là tâm đầu tiên phát sanh có thể gần Bồ-đề; hay là tâm sau phát sanh có thể gần Bồ-đề? Nếu tâm đầu phát sanh gần Bồ-đề thì khi tâm đầu phát sanh, tâm sau chưa sanh. Như thế, không có nghĩa hòa hiệp. Nếu tâm sau phát sanh, có thể gần Bồ-đề thì khi tâm sau phát sanh, tâm đầu đã diệt mất, không có nghĩa hòa hiệp. Như vậy, pháp của tâm, tâm sở trước sau tới lui gạn tìm không có nghĩa hòa hiệp. Như thế thì làm sao có thể chứa nhóm được căn lành? Nếu các căn lành chẳng thể chứa nhóm được, thì làm sao Bồ-tát có thể gần Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Như khi đốt đèn thì ngọn lửa đầu đốt cháy tim đèn, hay ngọn lửa sau đốt cháy tim đèn?

Thiện Hiện thưa:

– Bạch Thế Tôn! Như ý con hiểu thì chẳng phải ngọn lửa đầu có thể đốt cháy tim đèn, cũng chẳng lìa ngọn lửa đầu. Chẳng phải ngọn lửa sau có thể đốt cháy tim đèn, cũng chẳng lìa ngọn lửa sau.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Tim đèn có cháy chăng?

Thiện Hiện thưa:

– Bạch Thế Tôn! Thế gian hiện thấy cái tim đèn thật có cháy.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Bồ-tát cũng như thế. Chẳng phải tâm đầu phát sanh được gần Bồ-đề, cũng chẳng lìa tâm đầu. Chẳng phải tâm sau phát sanh được gần Bồ-đề, cũng chẳng lìa tâm sau, mà các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phương tiện thiện xảo làm cho các căn lành tăng trưởng viên mãn nên được gần Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Duyên khởi như thế, lý thú sâu xa. Chẳng phải ngay các tâm phát sanh trước sau mà các Bồ-tát có thể gần Bồ-đề. Chẳng phải lìa các tâm phát sanh trước sau mà các Bồ-tát có thể gần Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Nếu tâm diệt rồi thì có sanh không?

Thiện Hiện thưa:

– Kính bạch Thế Tôn, không. Tâm đó đã diệt thì không thể sanh lại.

– Ý ông thế nào? Nếu tâm đã sanh thì pháp có diệt không?

– Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy! Nếu tâm đã sanh thì nhất định có pháp diệt.

– Ý ông thế nào? Pháp có diệt, tâm chẳng phải diệt chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải. Pháp có diệt, tâm nhất định sẽ diệt.

– Ý ông thế nào? Pháp không diệt, tâm có thể sanh chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Pháp không diệt, tâm chẳng có nghĩa sanh.

– Ý ông thế nào? Pháp không sanh, tâm có thể diệt chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Pháp không sanh, tâm không có nghĩa diệt.

– Ý ông thế nào? Pháp không sanh diệt, tâm có thể sanh diệt chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, không. Pháp không sanh diệt, tâm không có nghĩa sanh diệt.

– Ý ông thế nào? Nếu pháp đã diệt rồi, diệt nữa được chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Nếu pháp diệt rồi thì chẳng thể diệt nữa.

– Ý ông thế nào? Nếu pháp sanh rồi, sanh nữa được chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Nếu pháp sanh rồi, chẳng thể sanh nữa.

– Ý ông thế nào? Thật tánh các pháp có sanh diệt không?

– Kính bạch Thế Tôn, thật tánh các pháp không sanh, không diệt.

– Ý ông thế nào? Tâm an trú là như tâm chơn như chăng?

– Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Tâm an trú như thế là như tâm chơn như.

– Ý ông thế nào? Nếu tâm an trú chơn như, thì tâm như thế là chơn như, tánh như thật tế, thường trụ chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, tâm này chẳng chơn như, tánh như thật tế, thường trụ.

– Ý ông thế nào? Có phải chơn như các pháp rất sâu xa chăng?

– Kính bạch Thế Tôn! Đúng như thế. Chơn như các pháp rất là sâu xa.

– Ý ông thế nào? Có phải chính chơn như là tâm chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.

– Ý ông thế nào? Có phải lìa chơn như có tâm chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.

– Ý ông thế nào? Có phải tâm tức là chơn như chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.

– Ý ông thế nào? Có phải lìa tâm có chơn như chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.

– Ý ông thế nào? Có phải chơn như có thể thấy chơn như chăng?

– Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.

– Ý ông thế nào? Ông thấy có thật chơn như không?

– Kính bạch Thế Tôn, không.

– Ý ông thế nào? Nếu các Bồ-tát luôn hành như thế, có phải là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không?

– Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Nếu các Bồ-tát thường hành như thế thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Nếu các Bồ-tát hành như thế là hành chỗ nào?

Thiện Hiện bạch:

– Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát hành như thế thì hoàn toàn không chỗ hành. Vì sao? Vì các pháp đang hành đều chẳng chuyển động vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành nghĩa đế nào?

Thiện Hiện bạch:

– Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành Thắng nghĩa đế.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Nếu các Bồ-tát hành Thắng nghĩa đế thì đối với Thắng nghĩa đế là thủ tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

– Kính bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế tuy chẳng thủ tướng mà hành tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

– Kính bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với tướng Thắng nghĩa đế đã chẳng hành tướng thì hoại tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

– Kính bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

– Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế nếu chẳng hoại tướng thì khiển tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

– Kính bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

– Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế nếu chẳng hoại, khiển thì làm sao có thể dứt được tưởng chấp thủ tướng?

Thiện Hiện bạch:

– Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này chẳng nghĩ: Ta dứt tưởng tướng hoại, tướng khiển; cũng chưa tu học đạo dứt tưởng. Nếu các Bồ-tát tinh tấn tu hành đạo dứt tưởng mà chưa đầy đủ Phật pháp, thì đúng ra phải rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác. Các Bồ-tát này phương tiện thiện xảo nên mặc dù đối với các tướng và tưởng chấp thủ tướng biết là rất lỗi lầm, nhưng chẳng hoại, khiển để mau dứt tưởng này, chứng tướng không. Vì sao? Vì chưa viên mãn tất cả pháp Phật vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy!

Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:

– Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng tu hành ba môn giải thoát thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có lợi ích chăng? Nếu khi các Bồ-tát thức, tu hành ba môn giải thoát, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã có lợi ích thì trong giấc mộng họ tu cũng có lợi ích. Vì sao? Vì Phật dạy: mộng, thức không sai khác vậy.

Thiện Hiện thưa:

– Nếu khi các Bồ-tát thức, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đã được gọi là an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì các Bồ-tát này trong giấc mộng, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng được gọi là an trụ ba môn giải thoát Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng có lợi ích như thế; hoặc mộng, hoặc thức, nghĩa không sai khác.

Xá-lợi Tử thưa:

– Bạch Thế Tôn! Trong giấc mộng tạo nghiệp có thành không?

Phật dạy:

– Các pháp chẳng thật như mộng, nên sự tạo ra các nghiệp ở trong mộng cũng không thành; cần phải đến lúc thức dậy, nhớ tưởng phân biệt mới thành.

Thiện Hiện thưa:

– Nếu các hữu tình trong giấc mộng thấy giết hại sinh mạng, đến khi thức dậy nhớ tưởng phân biệt, rất vui mừng, thì sự tạo nghiệp của người đó chẳng thành ư?

Xá-lợi Tử thưa:

– Việc không có sở duyên, hoặc nghĩ, hoặc buộc lòng tin, nghiệp chẳng thể sanh; cần phải có sở duyên suy nghĩ, nghiệp mới phát sanh. Nghiệp suy nghĩ trong giấc mộng duyên đâu mà sanh?

Thiện Hiện thưa:

– Đúng như vậy! Đúng như vậy. Hoặc trong mộng, hoặc lúc thức, không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh. Cần phải có duyên suy nghĩ, nghiệp mới sanh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì cần phải đối với các tướng thấy nghe, hiểu biết, có tác động của sự hiểu biết, do đó mới phát sanh nhiễm hoặc phát sanh tịnh. Nếu không có các tướng: Thấy, nghe, hiểu biết thì không có tác dụng của sự hiểu biết, cũng không nhiễm tịnh. Do đó nên biết, hoặc trong mộng, hoặc lúc thức có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp mới sanh. Nếu không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

– Phật thuyết sở duyên đều lìa tự tánh. Như thế thì làm sao có thể nói có sở duyên suy nghĩ nghiệp mới phát sanh, không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh?

Thiện hiện đáp:

– Mặc dù các nghiệp suy nghĩ và sở duyên đều lìa tự tánh, nhưng do tự tâm chấp thủ tướng phân biệt, nên thế tục đặt bày nói là có sở duyên phát sanh các nghiệp suy nghĩ, chẳng phải sở duyên này lìa tâm riêng có.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

– Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng làm việc bố thí. Bố thí xong, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì các Bồ-tát này có phải là thật đem bố thí hồi hướng Bồ-đề Vô thượng Phật chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bồ-tát Từ Thị từ lâu đã được thọ ký đắc đại Bồ-đề, nên có thể thưa hỏi, nhất định Ngài sẽ đáp.

Xá-lợi Tử theo lời Thiện Hiện, cung kính thưa hỏi Bồ-tát Từ Thị.

Bấy giờ, Bồ-tát Từ Thị bảo Xá-lợi Tử:

– Những gì gọi là Bồ-tát Từ Thị mà bảo có thể đáp lời tôn giả hỏi?

Là sắc chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức chăng? Là sắc không chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức không chăng? Vả lại, sắc chẳng phải là Bồ-tát Từ Thị, nên cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Bồ-tát Từ Thị nên cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi.

Không của sắc, chẳng phải Bồ-tát Từ Thị, cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi. Không của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải Bồ-tát Từ Thị, cũng chẳng thể đáp lời Tôn giả hỏi. Tôi hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào có thể gọi là Bồ-tát Từ Thị, cũng hoàn toàn chẳng thấy có pháp năng đáp, có pháp sở đáp, nơi chốn đáp, thời gian đáp và do đây đáp.

Tôi hoàn toàn chẳng thấy có pháp thọ ký, có pháp bị thọ ký, nơi chốn thọ ký, thời gian thọ ký và do đây thọ ký. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì bản tánh tất cả pháp đều Không. Suy tìm rốt ráo chẳng thể đắc vậy.

Xá-lợi Tử hỏi Từ Thị:

– Pháp mà Nhân giả đã nói có phải là như chỗ đã chứng chăng?

Từ Thị đáp:

– Pháp tôi nói chẳng phải như chỗ đã chứng. Vì sao? Vì pháp tôi đã chứng chẳng thể nói vậy.

Xá-lợi Tử nghĩ: Bồ-tát Từ trí tuệ sâu xa, từ lâu tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mới có thể nói như thế.

Khi ấy, Thế Tôn biết ý nghĩ của Xá-lợi Tử, liền bảo:

– Ý ông thế nào? Ông do pháp này thành A-la-hán thì có thể thấy pháp này là có thể nói chăng?

Xá-lợi Tử bạch:

– Kính bạch Thế Tôn! Chẳng thể.

Phật dạy:

– Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, pháp tánh đã chứng cũng như thế, chẳng thể tuyên thuyết. Các Bồ-tát này phương tiện thiện xảo, chẳng nghĩ: Ta do pháp này đã được thọ ký, đang được thọ ký, sẽ được thọ ký Đại Bồ-đề. Chẳng nghĩ: Ta do pháp này sẽ chứng Bồ-đề. Các Bồ-tát có thể hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với việc đắc Bồ-đề cũng không sợ hãi, quyết định tự biết: Ta sẽ chứng, nên các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghe pháp sâu xa chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm.

Các Bồ-tát này nếu ở nơi đồng hoang, chỗ có thú dữ cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này muốn lợi ích các hữu tình nên có thể xả bỏ tất cả sở hữu trong ngoài, thường nghĩ: Các thú dữ v.v… muốn ăn nuốt thân ta, ta sẽ bố thí giúp cho chúng được no đủ. Nhờ căn lành này khiến cho ta bố thí Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả bàng sanh, ngạ quỉ.

Các Bồ-tát này ở đồng hoang, chỗ có giặc ác cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này muốn lợi ích các hữu tình nên có thể xả bỏ tất cả sở hữu trong ngoài, ưa tu các việc lành, đối với thân mạng, tài sản không chút luyến tiếc, thường nghĩ: Nếu các hữu tình đến tranh giành, cướp đoạt các của cải của ta, hoặc do như thế mà hại thân mạng của ta thì ta chẳng hận họ. Nhờ nhân duyên này làm cho ta an nhẫn Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả oán tặc cướp hại. Do cõi Phật của ta rất thanh tịnh nên cũng không có các thứ xấu khác.

Nếu các Bồ-tát này ở đồng hoang, chỗ không có nước cũng không sợ hãi, nghĩ: Ta sẽ tuyên thuyết diệu pháp Vô thượng, dứt bệnh khát ái của các hữu tình. Giả sử ta do cơn khát này bức ngặt mà chết, đối với các loài hữu tình quyết chẳng rời bỏ ý đại bi, bố thí cho họ nước diệu pháp. Kỳ lạ thay! Hữu tình này bạc phước nên ở tại thế giới không có nước như thế. Ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả đồng hoang v.v… thiếu nước, cháy khát như thế. Ta sẽ phương tiện khuyên các hữu tình tu nghiệp thắng phước, tùy theo ở chỗ nào đều làm cho đầy đủ nước tám công đức.

Các Bồ-tát này ở chỗ đói kém cũng không sợ hãi, nghĩ: Ta sẽ tinh tấn nghiêm tịnh cõi Phật. Khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả sự đói kém như thế. Các loài hữu tình đầy đủ sự vui sướng, tùy ý cần dùng gì, nghĩ đến liền có ngay, như chư thiên nghĩ gì liền được. Ta sẽ phát khởi tinh tấn bền vững, làm cho nguyện ước của các hữu tình được đầy đủ. Tất cả thời gian, nơi chốn, tất cả hữu tình đối với tất cả của cải không thiếu thốn. Nếu các Bồ-tát không lo sợ việc này thì nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Các Bồ-tát này khi gặp bệnh dịch cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thường tư duy kỹ: Không có pháp gọi là bệnh, cũng không có người bệnh, tất cả đều Không, chẳng nên sợ hãi. Ta sẽ siêng năng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật của ta các loài hữu tình v.v…  không có ba thứ bệnh, tinh tấn tu hành pháp lành thù thắng như Phật đã dạy, thường không lười biếng bỏ bê.

Các Bồ-tát này nếu nghĩ Bồ-đề, trải qua thời gian lâu mới đắc, cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì giới hạn kiếp số đời trước tuy có vô lượng, nhưng trong một niệm nhớ nghĩ phân biệt chứa nhóm là thành. Giới hạn kiếp số đời sau nên biết cũng như thế. Thế nên Bồ-tát chẳng nên ở trong đó khởi tưởng lâu xa mà sanh sợ hãi. Vì sao? Vì giới hạn trước, giới hạn sau của kiếp số dài, ngắn đều trong một sát-na tương ưng với tâm vậy. Bồ-tát đối với những việc đáng sợ như thế, luôn tư duy kỹ, chẳng sanh sợ hãi, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.