GIỚI ĐÀN TĂNG
Soạn dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Hòa
doahong

 

NGÀY RẰM TỰ TỨ

Sáng mai tiểu thực xong, bốn vị chức sự đại diện lễ cầu trên Đại đức Ni làm phép tự tứ xong. Cô Duy na bạch: Bạch chư Đại đức Ni, đúng 9 giờ con xin kích hiệu, thỉnh  chư Đại đức Ni, tề tựu trai đường, để lên chùa tác pháp tự tứ.

Khi đã lên chùa, lễ tụng như thường, (như ngày Bố tát) ngồi hai bên (ngồi ngang nhau, tuổi hạ nhiều hơn thì ngồi trên) Cô Duy na kiểm số chúng, bao nhiêu Tỳ Kheo Ni, bao nhiêu Thức Xoa, bao nhiêu Sa Di Ni, bạch:

Bạch  trên chư Đại đức Ni, con thông kiểm số chúng, Tỳ Kheo Ni có… vị, Thức Xoa có… vị, Sa Di Ni có… vị. Xin chư Đại đức Ni chứng minh cho.

Đại đức Ni bảo: Lẽ theo phép thì phải hành trù (chai thẻ) nhưng bạch như thế là thay cho phép hành trù rồi.

(Nên bạch vị Yết ma, sai người có 5 đức tự tứ)

– Vị Tăng sai:bước ra trước đứng hướng vào, lễ 1 lễ quỳ bạch:

Bạch chư Đại Tỳ kheo Ni, hồi sớm mai này, Tăng sai tôi Tỳ Kheo Ni (Như…) đến Đại Tăng cầu giáo giới tự tứ.  Tăng giáo sắt cho Ni chúng như pháp mà tự tứ, cẩn thận đừng có buông lung, xin chư Đại đức Ni liễu tri cho. (Lễ 1 lễ trở về chỗ ngồi).

(Cho Sa Di ra ngoài chỗ mắt thấy tai không nghe. Họp Ni vấn hòa).

Người làm Yết ma hỏi:  Ni họp chưa?

Duy na đáp:  Ni đã họp.

 – Hòa hợp không?

– Hòa hợp.

– Người chưa thọ đại giới ra chưa?

(Nếu không, liền đáp rằng):

– Trong đây không có người chưa thọ đại giới.

– Có các Tỳ Kheo Ni khiếm diện, có thuyết dục và thanh tịnh không?

(Nếu có người thuyết dục thì nên đáp rằng):

– Có người thuyết dục và thanh tịnh.

(Nếu không người thuyết dục, nên đáp rằng):

– Trong đây không có Tỳ Kheo Ni thuyết dục và thanh tịnh.

– Ni nay hòa hợp để làm gì?

– Tự tứ yết ma.

(Tiền phương tiện xong)

Tiếp: – Chư Đại đức Ni nghe, ngày nay Ni chúng tự tứ, nếu Ni phải tự tứ, nếu Ni phải thời mà đến, Ni thuận nghe, hào hợp tự tứ, bạch như thế, tác bạch có thành không?

– Chúng đều đáp rằng:: “Thành”. 

Hòa hợp chúng rồi, sai người tự tứ.

Nếu  chúng chỉ có năm người, thì sai một người, chúng đông, thì sai hai ba vị, không được sai bốn, vì đủ số chúng vậy.

– Đại đức Ni sai:  Xin thỉnh Đại đức (A) thụ tự tứ.

A từ, nói:  Ngã bất kham năng. Xin thỉnh Đại đức B, Đại đức C. Hai vị có thể vì Ni chúng làm người thụ tự tứ không?

– Đáp:  “Dạ được”.

(Nếu vị nào từ, xin thỉnh vị khác).

Phép sai, nên bạch như thế này:

Đại đức Ni nghe, ngày nay Ni chúng tự tứ, nếu Ni phải tự tứ, nếu Ni phải thời mà đến, Ni thuận nghe, Ni sai Tỳ Kheo Ni B… C… hai vị làm người thụ tự tứ, bạch như thế, tác bạch có thành không?

– Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại hỏi:  Đại đức Ni nghe, Ni sai Tỳ Kheo Ni B… C… hai vị làm người thụ tự tứ, các Trưởng lão nào bằng lòng Ni sai Tỳ Kheo Ni B… C… hai vị làm người thụ tự tứ, thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói.

Liền nên hỏi rằng: Yết ma có thành không?

– Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng: Ni đã bằng lòng sai Tỳ Kheo Ni B… C… hai vị làm người thụ tự tứ xong, Ni nào bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.

Tỳ Kheo Ni chịu sai, vâng lệnh Tăng sai, ra quỳ giữa chấp tay bạch:

Đại đức Ni nghe, ngày nay chúng Ni tự tứ, nếu Ni phải thời mà đến, Ni thuận nghe, Ni hòa hợp tự tứ, bạch như thế, (Liền nên hỏi rằng): Tác bạch có thành không?

– Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

(Bạch xong, đứng dậy lễ một lễ, trở về chỗ cũ, cho Sa Di vào).

– Phép tự tứ xem bài 32.

Khi bạch tự tứ, cầu Đại đức Ni ở trong ba tháng an cư, hoặc có chỗ phạm mà không hay biết, đối với tội thấy, nghe, nghi, tha hồ để cho Ni bày chỉ lỗi mình như pháp mà sám hối.

Đoạn này hôm qua cả chúng đã xưng tội sám hối rồi, nên hôm nay nơi văn bạch tự tứ cầu chỉ lỗi, nên Đại đức Ni chỉ đáp là:  “Thiện” (tốt) mà không còn chỉ lỗi nữa.