Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VIII. QUANG MINH BIẾN CHIẾU ĐỆ THẬP NHỊ
(TT)

KINH VĂN:

Như thị quang minh, phổ chiếu thập phương nhất thiết thế giới. Kỳ hữu chúng sinh, ngộ tư quang giả, cấu diệt, thiện sinh, thân ý nhu nhuyến. Nhược tại tam đồ cực khổ chi xứ, kiến thử quang minh, giai đắc hưu tức, mạng chung giai đắc giải thoát. Nhược hữu chúng sinh văn kỳ quang minh oai thần, công đức, nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất đoạn, tùy ý sở nguyện, đắc sinh kỳ quốc.

VIỆT DỊCH:

Quang minh như vậy chiếu khắp hết thảy thế giới trong mười phương. Có chúng sinh nào gặp được quang minh này thì cấu diệt, thiện sinh, thân ý nhu nhuyến. Nếu kẻ đang ở trong chốn tam đồ cực khổ mà thấy được quang minh này thì đều được ngưng nghỉ (nỗi khổ), khi mạng chung đều được giải thoát. Nếu chúng sinh nào nghe công đức oai thần của quang minh ấy mà ngày đêm kể, nói, chí tâm chẳng ngớt thì thuận theo lòng mong sẽ được sinh về cõi ấy.

GIẢNG:

Theo chú giải của Hoàng Niệm lão: Đoạn kinh văn trên trình bày chủ đề thứ tư của phẩm này: Diệu dụng thù thắng của quang minh Phật A Di Đà. Đây chính là kết quả của nguyện thứ mười bốn “Xúc quang an lạc” (quang minh chiếu đến được an lạc).

Câu “kỳ hữu chúng sinh ngộ tư quang giả” (có chúng sinh nào gặp được quang minh này) ngụ ý: Tuy Phật quang chiếu khắp mười phương vô biên vô ngại, nhưng do chúng sinh căn tánh bất đồng; căn kém, duyên hèn khác nào chậu úp xuống, dẫu ánh sáng mặt trời chiếu khắp vẫn không cách chi soi được lòng chậu; như người úp chậu lên đầu chẳng thấy ánh sáng; vì thế mới có kẻ gặp được hay chẳng gặp được quang minh của Phật. Nếu là người có cơ duyên “ngộ tư quang giả” (gặp được quang minh này) ắt sẽ được những lợi ích như sau:

1. “Cấu diệt”: bản Ngụy dịch là “tam cấu tiêu diệt”, tam cấu chính là ba độc tham, sân, si.

2. “Thiện sinh”, như Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận bảo: “Thiện căn là chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Hết thảy pháp lành đều sinh từ ba pháp ấy”.

Trí Độ Luận, quyển ba mươi cũng chép: “Hết thảy thiện pháp đều từ ba thiện pháp mà sinh và tăng trưởng”. Như vậy, “cấu diệt” thì “thiện sinh”. “Thiện tâm giả dĩ tàm quí chi nhị pháp cập vô tham đẳng chi tam căn vi thiện chi tự tánh, dữ chi tương ưng nhi khởi chi nhất thiết tâm, tâm sở danh viết thiện tâm” (Thiện tâm là dùng hai pháp Tàm và Quí và ba căn vô tham, vô sân, vô si để làm tự tánh cho điều lành. Dùng những điều ấy để cùng tương ứng khởi lên hết thảy tâm và tâm sở thì gọi là “thiện tâm”).

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Thiện ác có rất nhiều tiêu chuẩn, không thể dùng một tiêu chuẩn để phán xét. Căn tánh của chúng sinh bất đồng, tạo nghiệp cạn, sâu, rộng, hẹp không giống nhau nên thọ báo của họ cũng không tương đồng. Con người có Tàm, Quí khi làm việc bất thiện thì lương tâm bất an, đây là “thiện tâm sở”, họ có hối hận, có sám hối, có thể sửa đổi. Tâm Tàm, Quí sinh khởi, sợ dư luận chỉ trích, đàm tiếu, phê phán, do vậy mà họ không dám làm việc xấu. Tàm và Quí là hai pháp thuộc về tâm sở. Theo Câu Xá Luận quyển bốn, có hai cách giải thích Tàm và Quí.

1. Cách hiểu phổ biến nhất: Tự xấu hổ về tội lỗi do mình đã tạo là Tàm (惭), thẹn với người vì mình đã tạo tội lỗi là quí(愧).

2. Tàm là tôn kính các công đức và những người có công đức; tâm kinh sợ tội lỗi là Quí.

Hiện nay thế gian rất loạn, dư luận cũng loạn, tiêu chuẩn thiện ác không còn nữa, điều này rất phiền phức, chiêu cảm đến đại thiên tai!

– Phải chăng có đại thiên tai trùm khắp thế giới?

– Không phải! Khu vực nào có người phước báo nhiều thì khu vực đó sẽ không có thiên tai, hoặc thiên tai rất nhỏ. Nếu người ở đó không có phước báo, tạo nghiệp nặng thì nơi đó sẽ có thiên tai lớn.

Chúng ta sinh vào thời đại này, mọi thiên tai đều không thể tránh khỏi! Con đường tự cứu chính là niệm Phật. Niệm Phật nhất định phải để Phật A Di Đà trong tâm, mục đích chính là cầu sinh Tịnh Độ; đối với thế gian này không có chút gì tham luyến, như vậy tâm mới an. Bất cứ, thiên tai nào đến cũng không lo lắng, kinh hoàng, đến lúc đó trí tuệ tự nhiên sinh khởi sẽ biết cách đối phó, đó chính là chư Phật, Bồ Tát hộ trì ta; thánh thần đang trợ giúp ta.

Cho nên, lúc này quan trọng nhất là phải chuyển đổi tâm tánh, nhất định không có ác niệm, nhất định không có tâm hại người. Cho dù có bị người khác làm tổn thương, hãm hại cũng nhất định không oán hận, trả thù họ; như vậy là vun bồi thiện tâm, của chính mình. Phải làm đến được “cấu diệt thiện sinh” thì tâm mới thuần tịnh, thuần thiện, khổ não nào rồi cũng vượt qua.

Xét theo bổn nguyện Di Đà, thiện tâm chính là tín tâm chân thật trong Tịnh Tông. Đây là thiện trong các thiện, không thiện  nào có thể sánh bằng tâm thiện này. Vì sao? Vì thiện này là làm Phật, Các thiện khác không thành Phật được! Điều này thật quá tuyệt vời!

Thân ý” chính là ba nghiệp thân, khẩu, ý.

Nhu nhuyến” là tâm nhu hòa, thuận theo đạo. Trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Quốc sư Hiền Thủ nói về bốn đức của tự tánh, trong đó đức thứ ba là “nhu hòa chất trực”. “Nhu hòa” có thể hóa giải xung đột trong xã hội hiện nay, cũng có thể hóa giải được thiên tai trên địa cầu. Phản diện với “nhu hòa” là cang cường. Cang cường thì dễ tạo ra mâu thuẩn, dễ phát sinh đấu tranh, đây không phải việc tốt. Chúng ta học Phật tu đạo, bốn đức quan trọng nhất đó là: Tùy duyên diệu dụng, oai nghi hữu tắc, nhu hòa chất trực, đại chúng sinh khổ. Tâm “nhu hòa tùy thuận ư đạo”, “đạo” chính là tự nhiên.

Các bậc thánh hiền xưa đã nói rất cụ thể rõ ràng: “Ngũ luân” là đạo, “Ngũ thường” là đức. Đạo là phép tắc của đại tự nhiên không phải do con người làm ra. “Phụ tử” (cha con) là “hữu thân chi đạo”, quan hệ này là đạo. “Phu phụ hữu biệt, quân thần hữu nghĩa, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu hữu tín”, đây là đạo lớn của “ngũ luân”. “Ngũ thường” là: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín là đức lớn. Khởi tâm động niệm nhất định không được trái với năm chữ này.

“Nhân” là thương người, “nhân giả ái nhân, nghĩa giả tuần lý”; khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác phải hợp tình, hợp lý, hợp pháp; đem chữ “tình” để ở đầu tiên. “Lễ” là nói về tiết độ, không thái quá cũng không thể bất cập, nên sau chữ “lễ” là chữ “tiết”, nghĩa là tiết chế: Hoan hỉ có tiêu chuẩn nhất định không thể vượt qua; phẫn hận cũng có mức độ nhất định; thái quá hay bất cập đều không phải là trạng thái bình thường. “Trí” là lý trí, trong công việc không thể dùng tình cảm. “Tín” là niềm tin, bất luận là tiếp xúc với ai phải giữ chữ tín.

“Tùy thuận là đạo”, như Kinh Pháp Hoa nói: “Chúng sinh ký tín phục, chất trực ý nhu nhuyến” (Chúng sinh đã tin phục, ý chất trực nhu nhuyễn). “Chất trực” là tâm chân thành. Bởi chúng sinh cõi này ương ngạnh, khó giáo hóa nên chư Phật, Bồ Tát hiện thân thuyết pháp, trước phải làm được “nhu hòa, chất trực” để chúng sinh nhìn thấy, dùng phương pháp này để điều phục, giáo hóa chúng sinh. Nếu không như vậy, nói ra lời gì họ cũng không tin! Cho dù họ có dùng ác ý hủy báng, ta cũng phải dùng nhu hòa, chất trực mà đáp lại. Làm được như vậy mọi người sẽ tin tưởng, không làm được mà chỉ nói, mặc dù nói y như kinh điển họ cũng không tin!

Phải xem tất cả mọi người đều là chư Phật, Bồ Tát đang trên đài biểu diễn: Người này diễn vai chính diện, người kia diễn vai phản diện, tất cả đều diễn một cách rất thật, rất hay đều là diễn viên nổi tiếng, điều này cần phải biết! Thế gian không có gì là thật, chỉ là trò chơi thần thông mà thôi! Chớ cho là thật!

Cho nên đối với người làm tổn thương ta, vì sao ta vẫn phải cung kính?! Đối với người sĩ nhục ta, sao mỗi ngày ta vẫn tụng kinh niệm Phật hồi hướng cho họ?! Ý nghĩa trong đây vô cùng thâm sâu! Thật sự muốn tu hành, muốn hộ trì Phật pháp thì ta phải chấp nhận tất cả; bất luận là họ có ý hay vô ý làm hại, tất cả ta đều phải nhẫn chịu, tiếp nhận một cách hoan hỉ và phải dùng tâm chân thành cảm ân mà đáp lại. Đến khi nào đại chúng trong xã hội đều giác ngộ, đều đã học Phật, thì xã hội này lập tức sẽ hồi phục an định, thế giới sẽ đại đồng. Thật sự làm được điều này, Phật pháp có thể giúp quốc gia trị quốc, bình thiên hạ.

Nhược tại tam đồ cực khổ chi xứ” (Nếu kẻ đang ở trong chốn tam đồ cực khổ)

Chữ “đồ” ( 途 ) trong “tam đồ” nghĩa là con đường. Tam đồ là: Hỏa đồ, huyết đồ và đao đồ. Tiểu địa ngục gồm cả ngục nóng lẫn lạnh; đại địa ngục chỉ thuần là ngục nóng; chỉ nói đến ngục nóng nên gọi địa ngục là “hỏa đồ”. Trong địa ngục là một biển lửa! Có người nói đại thiên tai, tương lai địa cầu có thể biến thành biển lửa, nhiệt độ rất cao, có thể nâng đến từ bốn mươi đến năm mươi độ! Thử nghĩ xem, điều này có đáng sợ hay chăng?! Bây giờ nhiệt độ trên ba mươi lăm độ đã cảm thấy không chịu nổi rồi, đến bốn mươi độ con người làm sao chịu nổi! Có thể xảy ra chăng? Rất có thể! Nhiệt độ địa cầu không ngừng tăng cao! Chỗ ba mươi đến bốn mươi độ là người có phước, có thiện tâm ở. Nơi người tâm hành bất thiện ở đều là từ bốn mươi đến năm mươi độ!

Súc sinh thường ăn nuốt lẫn nhau nên gọi là “huyết đồ”. Ngạ quỉ thường bị xua đuổi nên gọi là “đao đồ”. Chữ “đao” ở đây có nghĩa là sợ hãi; ngạ quỉ thường sợ hãi có người giết chúng. Loại ngạ quỉ này cũng bị thế lực lớn bức bách chúng phải làm tay sai, bị họ sai sử, tự mình không làm chủ được. Người tạo ra nghiệp tham lam, tham không biết chán, đó là con đường ngạ quỉ.

Kiến thử quang minh” (Gặp được quang minh này): Chúng sinh trong đường ác, ở những chốn cực khổ được Phật quang chiếu đến thì nỗi khổ ấy được ngừng dứt, nên kinh bảo: “giai đắc hưu tức” (đều được ngưng nghỉ). Đấy là do Phật nguyện: “Kiến ngã quang minh chiếu xúc kỳ thân, mạc bất an lạc, từ tâm tác thiện, lai sinh ngã quốc” (Thấy quang minh của tôi chiếu soi đến thân thì không ai chẳng an lạc, từ tâm làm lành, sinh trong nước tôi).

Mạng chung giai đắc giải thoát” (Khi mạng chung đều được giải thoát) diễn tả ý “từ tâm tác thiện, lai sinh ngã quốc”. Chúng ta thấy nguyện lực và sức oai quang nhiếp thọ của Phật A Di Đà thật chẳng thể nghĩ bàn! Trong Quán Kinh cũng chép: “Vô Lượng Thọ Phật hữu bát vạn tứ thiên tùy hình hảo, nhất nhất hảo trung, phục hữu bát vạn tứ thiên quang minh, nhất nhất quang minh biến chiếu thập phương thế giới niệm Phật chúng sinh, nhiếp thủ bất xả” (Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng, mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi một tùy hình hảo lại có tám vạn bốn ngàn quang minh; mỗi một quang minh chiếu chúng sinh niệm Phật trong khắp mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ). Đây là nói sức nhiếp thủ (tiếp dẫn) của Phật A Di Đà thật không thể nghĩ bàn!

Sách Bát Châu Tán cũng ghi: “Bất vị dư duyên quang phổ chiếu, duy mịch niệm Phật vãng sinh nhân” (Chẳng vì các duyên khác mà chiếu khắp, chỉ vì kiếm người niệm Phật vãng sinh). Lời nói này lại càng rõ ràng, minh bạch và cụ thể hơn. Tuy Phật quang phổ chiếu nhưng không vì dư duyên. Dư duyên là gì? Trong nhà Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn; tám vạn bốn ngàn pháp môn đều gọi là dư duyên. “Duy mịch niệm Phật vãng sinh nhân”: Chỉ vì kiếm người niệm Phật vãng sinh. Câu này phải nên xét kỹ: Người niệm Phật không cầu vãng sinh cũng gọi là dư duyên, cũng không có nhân duyên. Người niệm Phật phải cầu vãng sinh như vậy mới đúng, mới chân thật là người hữu duyên gặp được quang minh này. Trong bản Sớ giải của ngài Vọng Tây có đoạn:

Hỏi: Hành giả trong nhân gian họa may còn thấy được quang minh, chớ chúng sinh trong tam đồ làm sao thấy nổi?” (câu này có nghĩa: Người niệm Phật trong nhân gian muốn thấy Phật quang đã là không dễ huống là chúng sinh trong ba đường ác khổ đau khôn xiết làm sao có thể nhìn thấy Phật quang).

Đáp: Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Dĩ Kỳ nam nữ truy thắng phước, hữu đại kim quang chiếu địa ngục, quang trung diễn thuyết thâm diệu âm, khai ngộ phụ mẫu linh phát ý” (Do kẻ nam người nữ kia tu thắng phước hồi hướng (cho cha mẹ đã mất) nên có ánh sáng lớn màu vàng ròng chiếu thấu tới địa ngục. Trong quang minh diễn thuyết âm vi diệu, khai ngộ cha mẹ khiến họ phát ý) “Con hiếu làm lành hồi hướng cho cha mẹ còn được như vậy, huống là quang minh lớn lao của Phật Di Đà mà lại luống uổng ư!” Đây là nói vì sao chúng sinh trong địa ngục có thể gặp được Phật quang.

Chúng ta xem Kinh Địa Tạng thấy Bà-la-môn nữ cứu mẹ: Biết mẹ mình lúc sinh thời thích ăn tôm cá tươi, sát hại chúng sinh rất nhiều nên sau khi chết chắc chắn phải đọa vào địa ngục, bèn cúng dường vị A-la-hán và thỉnh giáo ngài: -Mẹ con đang ở nơi đâu? Vị A-la-hán nhập định rõ biết, nói với cô: -Mẹ cô hiện giờ rất khổ, đang ở chốn địa ngục! Cô hỏi: -Có cách nào cứu thoát mẹ con chăng? La hán dạy: -Nên cúng dường đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai và chí tâm niệm Phật, đem công đức hồi hướng cho bà!

Bà-la-môn nữ vâng lời làm đúng y như lời dạy. Suốt một ngày một đêm niệm Phật, trong Định cô thấy mình đến địa ngục. Quỉ vương trong ngục ra nghênh tiếp và hỏi: -Vì sao cô đến đây? Sau khi hiểu được nguyên do, quỷ vương bèn nói với cô: -Ba hôm trước người này được sinh về cõi trời Đao Lợi. Nghe nói bà ta có người con hiếu thảo đã siêu độ cho bà. Không những bà được siêu sinh mà những người có duyên với cô trong địa ngục lúc đó cũng đều được sinh thiên cả. Tâm hiếu là tâm thiện, thật không thể nghĩ bàn! Tâm này vừa khởi thì mẹ cô liền ra khỏi địa ngục. Thế mới biết, con hiếu làm lành còn hồi hướng cứu độ được cha mẹ huống là quang minh cao tột của đức Phật A Di Đà lại luống uổng sao!

Xã hội hiện nay, chúng ta nghe rất nhiều tin tức. Tôi tin những tin tức này không phải giả! Tin tức nói sao? Hiện nay quỉ tu hành hơn con người! Quỉ vãng sinh về thế giới Cực Lạc cũng nhiều hơn con người! Có thể tin chăng?! Con người trước đây bị đọa vào đường quỉ là do tâm tham của họ rất nặng! Tuy vậy, thời đó tâm tham cũng không nặng như bây giờ, dù sao họ vẫn còn có chút lương tâm. Những người này Phật dễ độ.

Người trong xã hội hiện nay lương tâm không còn! Làm sao biết họ lương tâm không còn? Bởi họ không có tàm quí, không có tâm hổ thẹn! Làm việc cực ác nhưng họ không cho là ác, vẫn cứ dững dưng cho rằng đó là việc bình thường, ai ai cũng làm như vậy! Truyền hình, báo chí có phê phán họ cũng bất cần, không cho là sĩ nhục! Cho nên, hiện nay độ người rất khó; độ quỉ, độ súc sinh mà dễ. Chúng ta thấy được súc sinh niệm Phật vãng sinh; ngay cả cây cối như thần cây vừa mới vãng sinh đã đưa tin tức cảm ân đến chúng ta. Đây là chuyện của mấy ngày gần đây.

Chúng tôi dừng xe chỗ cây sơn trà Nhật Bản, nơi thần cây đã vãng sinh. Có mấy vị đồng học đều biết, hình như còn có một chú chim nhỏ vãng sinh. Đạo tràng chúng tôi thành lập ở đây đã mười năm, thần cây ở đây nghe kinh mười năm, niệm Phật cũng mười năm, công đức viên mãn, Phật A Di Đà đã tiếp dẫn thần cây rồi. Điều này nói lên: Chúng sinh các loài khác dễ độ hơn con người! Nói cách khác, con người hiện nay không còn giống người! Ngược lại, quỉ hay súc sinh lại giống người. Bạn xem! Có đáng sợ hay không?! Họ không tin có đời sau, không tin có luân hồi, cho rằng đó là mê tín, là lời của quỉ! Luôn cho rằng mình thông minh có thể vượt qua tất cả. “Nhân định thắng thiên”, người nhất định hơn ông trời.

“Nhân định thắng thiên” là lời của cổ nhân nhưng họ đã hiểu sai! Ý của cổ nhân không phải như vậy! Người xưa nói con người định tâm lại có thể thắng thiên. Định tâm ở đây là trụ tâm ở một chỗ thì không việc gì không làm được, đây là “thắng thiên”. Tâm con người định thì xã hội sẽ yên ấm, thiên tai trên địa cầu sẽ không còn, vậy mới gọi là “nhân định thắng thiên”. Chữ “thắng” hiện nay là thi đua, giành giựt. Họ tàn nhẫn, ta càng tàn nhẫn hơn! Thật là đáng sợ!

Nhược hữu chúng sinh văn kỳ quang minh oai thần, công đức nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất đoạn” (Nếu chúng sinh nào nghe nói công đức oai thần của quang minh ấy mà ngày đêm nói kể, chí tâm chẳng ngớt): Đoạn này nói “Văn Phật quang minh chi đức” (Nghe nói đức tánh của quang minh Phật). Chúng ta hiện nay không nhìn thấy được Phật quang mà chỉ nghe kinh kể, đây thuộc về “nghe Phật quang minh”. “Nhật dạ xưng thuyết” (Ngày đêm nói kể): đây là niệm Phật. Trên kinh tuyệt đối không lừa dối người. Chúng ta nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ thì chắc chắn sẽ:

Tùy ý sở nguyện, đắc sinh kỳ quốc” (Thuận theo lòng mong mà được sinh vào cõi này). Bản Ngô dịch ghi: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn A Di Đà Phật thanh, xưng dự quang minh. Triêu mộ thường xưng dự kỳ quang minh hảo, chí tâm bất đoạn tuyệt, tại tâm sở nguyện, vãng sinh A Di Đà Phật quốc” (Thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe tiếng A Di Đà Phật, khen ngợi quang minh. Sáng tối thường khen ngợi quang minh ấy tốt đẹp, chí tâm chẳng đoạn tuyệt, trong tâm mong mỏi vãng sinh cõi A Di Đà Phật).

Câu “văn kỳ quang minh oai thần công đức” (nghe công đức oai thần của quang minh ấy) trong hội bản tương đương câu “văn A Di Đà Phật thanh” (nghe tiếng A Di Đà Phật) trong bản Ngô dịch. Câu “nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất đoạn” (ngày đêm nói kể, chí tâm chẳng ngớt) tương đương câu “triêu mộ thường xưng dự kỳ quang minh hảo” (sáng tối thường khen ngợi quang minh ấy tốt đẹp) của bản Ngô dịch. Câu “tùy ý sở nguyện, đắc sinh kỳ quốc” (thuận theo lòng mong mà được vãng sinh cõi ấy) tương đương câu “tại tâm sở nguyện, vãng sinh A Di Đà Phật quốc” (trong lòng mong mỏi vãng sinh cõi Phật A Di Đà) của bản Ngô dịch.

Sách Hội Sớ viết: “Ngày đêm xưng nói quang minh của Phật Di Đà chí tâm chẳng ngớt chính là cái nhân vãng sinh… Nhưng chí tâm tin ưa xưng niệm danh hiệu đức Phật ấy thì mới chính là nghĩa thật sự của ngày đêm nói kể”. Ý sách nói: Tuy “nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất đoạn” đúng là cái nhân để vãng sinh Tịnh Độ, nhưng Tín Nguyện Trì Danh mới chính là ý nghĩa thật sự của “nhật dạ xưng thuyết”. Vả lại, Tín Nguyện Trì Danh chính là chánh nhân vãng sinh nên ai nấy đều được vãng sinh cả.


IX. THỌ CHÚNG VÔ LƯỢNG ĐỆ THẬP TAM

Theo chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: Phẩm này tỏ rõ ba thứ vô lượng: Một là Phật thọ vô lượng, hai là hội chúng (đại chúng trong pháp hội) nhiều vô lượng, ba là thọ mạng của đại chúng trong pháp hội cũng vô lượng. Điều thứ nhất là Pháp Thân đức, điều thứ hai là đại nguyện trọn khắp, điều thứ ba là chủ bạn giống hệt nhau, thật chẳng thể nghĩ bàn!

KINH VĂN:

Phật ngữ A Nan: “Vô Lượng Thọ Phật, thọ mạng trường cửu, bất khả xưng kế. Hựu hữu vô số Thanh Văn chi chúng, thần trí đỗng đạt, oai lực tự tại, năng ư chưởng trung trì nhất thiết thế giới”.

VIỆT DỊCH:

Phật bảo A Nan: “Vô Lượng Thọ Phật thọ mạng trường cửu chẳng thể tính kể nổi. Ngài lại có vô số chúng Thanh Văn: thần, trí đỗng đạt, oai lực tự tại; họ có thể nắm hết thảy thế giới trong lòng bàn tay”.

GIẢNG:

Phật bảo A Nan: A Di Đà Phật thọ mạng vô lượng, trường cửu đến nỗi chẳng có cách nào diễn tả nổi, không cách chi tính toán nổi. Đây chính là do nguyện thứ mười lăm “thọ mạng vô lượng” kết thành. Câu “hựu hữu vô số Thanh Văn chi chúng” (lại có vô số Thanh Văn chúng) chính là nguyện thứ mười sáu “Thanh Văn vô số” được thành tựu.

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ, câu “thọ mạng trường cửu, bất khả xưng kế” (thọ mạng trường cửu chẳng tính kể nổi) biểu thị Pháp Thân rốt ráo của A Di Đà Phật: Do tam thế cùng như một nên thọ mạng vô lượng. Lại do đại nguyện thù thắng độc nhất, vượt xa chư Phật nên thọ mạng của Báo Thân và Hóa Thân cũng đều vô lượng. Phật thọ vô lượng nên thường giác ngộ chúng sinh. Phật nguyện vô cực nên phải có chúng hội rộng lớn. Do đó, chúng Thanh Văn trong cõi ngài đều có vô số vô lượng. Câu “Thần, trí đỗng đạt”: “thần” là thần thông, “trí” là trí tuệ, nói “thần trí” là nói gọn. Nếu ghép “thần” và “trí” lại thành một từ thì “thần trí” nghĩa là trí tuệ thấy tột cùng sự lý một cách tự tại. “Thần” cũng có nghĩa là sáng suốt; nghĩa là trí tuệ ấy sáng suốt thần diệu vô cực. “Đạt” là thông đạt vô ngại; viên mãn triệt để. “Đỗng” là thấu triệt rốt ráo. “Oai lực tự tại” là sức oai thần tự tại vô ngại.

Sách Vãng Sinh Luận nói: “Chúng trời người bất động (chỉ hội chúng cõi Cực Lạc) từ biển trí thanh tịnh sinh ra”. Vì vậy, họ đều “thần trí đỗng đạt, oai lực tự tại”.

Câu “năng ư chưởng trung trì nhất thiết thế giới” (có thể cầm hết thảy thế giới trong lòng bàn tay) hiển thị sâu sắc cảnh giới “quảng hiệp tự tại, nhất đa tương tức” (đã giải thích trước đây) sự sự vô ngại chẳng thể nghĩ bàn của Hoa Nghiêm.

Kinh Duy Ma cũng nói về công đức chẳng thể nghĩ bàn: Cầm một thế giới trong lòng bàn tay. Kinh chép: “Trụ bất khả tư nghị giải thoát, Bồ Tát đoạn thủ tam thiên đại thiên thế giới, như đào gia luân, trước hữu chưởng trung, trịch quá hằng sa thế giới chi ngoại. Kỳ trung chúng sinh bất giác, bất tri kỷ chi sở vãng. Hựu phục hoàn trí bổn xứ, đô bất sử nhân hữu vãng lai tưởng; nhi thử thế giới bổn tướng như cố” (Trụ trong giải thoát chẳng thể nghĩ bàn. Bồ Tát bứt lấy một tam thiên đại thiên thế giới như (véo lấy một miếng đất sét) trên bàn xoay của thợ gốm, đặt trong bàn tay phải rồi ném khỏi hằng sa thế giới, nhưng chúng sinh trong thế giới ấy chẳng biết, chẳng hay nơi mình đang trụ. Lại đem đặt trả về chỗ cũ, khiến cho chúng sinh đều chẳng có ý tưởng là (thế giới) bị đem đi hay trả lại, mà bổn tướng của thế giới này vẫn như cũ).

Sự việc này giống như địa cầu chúng ta đang vận hành giữa hư không, địa cầu chấn động rất phức tạp, nhưng người trên địa cầu không cảm nhận được. Như vậy, chúng ta cũng có thể tưởng tượng thân tướng của Bồ Tát ở thế giới Cực Lạc lớn biết dường nào, mới có thể nắm cả đại thiên thế giới trong lòng bàn tay như đang chơi nặn đồ gốm hay nặn bùn đất, người ở thế giới này cũng hoàn toàn không hay biết. Đây là ví dụ mà cũng là sự thật, về mặt lý có thể nói thông suốt.

Và: “Hựu Bồ Tát dĩ nhất Phật độ chúng sinh, trí tại hữu chưởng, phi đáo thập phương, biến thị nhất thiết, nhi bất động bổn xứ” (Bồ Tát đem chúng sinh trong một cõi Phật đặt trong bàn tay phải bay đến mười phương, hiện bày khắp hết thảy, nhưng chẳng lay động bổn xứ): Đây là nói Bồ Tát có năng lực đem chúng sinh trong “nhất Phật độ” (một cõi Phật), chính là chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới (thông thường chúng ta nói là mười ức hệ Ngân hà. Tất cả mười ức hệ Ngân hà đều ở trong lòng bàn tay của Bồ Tát), bay khắp mười phương để thị hiện mà chúng sinh trong “nhất Phật độ” này hoàn toàn cũng không hay biết, không có chút cảm giác nào. Tất cả đại chúng cõi Cực Lạc đều có đầy đủ những công đức oai thần chẳng thể nghĩ bàn như vậy; rõ ràng là thánh chúng trang nghiêm; công đức của chủ (là Phật A Di Đà) lẫn bạn (là Bồ Tát vãng sinh đến thế giới Cực Lạc) đều chẳng thể nghĩ bàn.

KINH VĂN:

Ngã đệ tử trung, Đại Mục Kiền Liên, thần thông đệ nhất. Tam thiên đại thiên thế giới, sở hữu nhất thiết tinh tú, chúng sinh, ư nhất trú dạ, tất tri kỳ số.

Giả sử thập phương chúng sinh tất thành Duyên Giác. Nhất thiết Duyên Giác, thọ vạn ức tuế, thần thông giai như Đại Mục Kiền Liên, tận kỳ thọ mạng, kiệt kỳ trí lực, tất cộng thôi toán, bỉ Phật hội trung Thanh Văn chi số, thiên vạn phần trung bất cập nhất phần.

VIỆT DỊCH:

Trong các đệ tử của ta, Đại Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất: Đối với tất cả hết thảy tinh tú và chúng sinh trong tam thiên đại thế giới, ông ta có thể trong một ngày một đêm biết trọn số đó.

Giả sử chúng sinh trong mười phương đều thành Duyên Giác. Mỗi vị Duyên Giác thọ vạn ức năm, thần thông đều như Đại Mục Kiền Liên suốt cả cuộc đời vắt kiệt trí lực, cùng nhau tính toán chẳng thể tính nổi một phần ngàn vạn số lượng Thanh Văn trong hội đức Phật ấy.

GIẢNG:

Ngã đệ tử trung… tất tri kỳ số” (Trong các đệ tử của ta… biết trọn số đó): Chúng ta biết đức Thích Ca Mâu Ni Phật có mười vị đại đệ tử, ngài Mục Kiền Liên là một trong số đó. Trong kinh, đức Thế Tôn nói rất rõ: Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều là cổ Phật tái sinh, các ngài đã thành Phật từ lâu. Nay, đức Thế Tôn thành Phật ở thế giới Ta Bà, các ngài đến thị hiện làm đệ tử để giúp Thế Tôn giáo hóa chúng sinh, giống như diễn kịch: Trên sân khấu, đức Thế Tôn là Phật; các ngài là đệ tử. Sau hậu trường, các ngài là thầy của Thế Tôn.

Việc Mục Kiền Liên biết đươc số lượng tinh tú, chỉ thấy ghi trong hai bản Hán dịch và Ngô dịch. Bản Hán dịch ghi: “Ma Ha Mục Kiền Liên phi hành tứ thiên hạ. Nhất nhật, nhất dạ, biến số tinh, tri hữu kỷ mai dã” (Ma Ha Mục Kiền Liên bay trong tứ thiên hạ, trong một ngày một đêm đếm hết số ngôi sao, biết là có bao nhiêu ngôi).

Trên trời có bao nhiêu ngôi sao? Điều này khoa học không đếm được! Mười ức hệ Ngân Hà chớ đâu phải ít! Hiện nay, ngoài hệ Ngân hà ra, chúng ta không hiểu gì nhiều, máy móc khoa học vẫn chưa đủ trọn vẹn. Ngài Mục Kiền Liên không cần máy móc chi cả, trong thiền định ngài có thể đột phá không gian duy thứ, có thể liễu tri, nhìn thấy thật tướng các pháp rõ ràng minh bạch. Nếu y theo ý nghĩa của kinh văn trên, ngài Mục Kiền Liên trong một ngày một đêm không những biết được số lượng tinh tú mà ngay đến số lượng chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, trong tất cả tinh cầu ngài đều biết cả. Điều này chứng tỏ ngài Mục Kiền Liên tuy thị hiện là Tiểu thừa A La Hán nhưng thực sự ngài phải là Đại thừa A la Hán mới có được năng lực này.

Giả sử thập phương chúng sinh… Bất cập nhất phần: (Giả sử chúng sinh trong mười phương… chẳng thể tính nổi một phần): Đoạn kinh văn này kể rõ Thanh Văn ở thế giới Cực Lạc nhiều vô số. Ở đây chúng ta cần nên biết: Không phải toàn bộ nhân số thế giới Cực Lạc chỉ có hàng Thanh Văn tức hàng Tiểu thừa vãng sinh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư mà còn có thiên nhân và chúng Bồ Tát số lượng càng đông hơn nhiều, họ ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư mà Phật chưa đề cập đến. Điều này nói rõ số lượng Thanh Văn vãng sinh ít mà đã không thể tính đếm được thì nói chi đến số lượng của tất cả thánh chúng trong cõi Cực Lạc làm sao biết được! Cho dù mười phương chúng sinh đều đắc thần thông giống hệt như ngài Mục Kiều Liên, dùng trọn cả cuộc đời mình dốc cạn trí lực, hợp nhau tính toán thì những điều họ biết được chẳng thể bằng nổi một phần ngàn vạn số lượng thánh chúng trong cõi ấy.

KINH VĂN:

Thí như đại hải, thâm quảng vô biên, thiết thủ nhất mao, tích vi bách phần, toái như vi trần. Dĩ nhất mao trần, triêm hải nhất trích, thử mao trần thủy, tỷ hải thục đa?

A Nan! Bỉ Mục Kiền Liên đẳng sở tri số giả, như mao trần thủy. Sở vị tri giả, như đại hải thủy.

VIỆT DỊCH:

Ví như đại hải sâu rộng vô biên. Nếu lấy một sợi lông chẻ thành trăm phần, nghiền nát như vi trần. Đem mảnh bụi lông ấy chấm lấy một giọt nước biển thì nước dính vào mảnh lông ấy so với biển cả, cái nào là nhiều?

Này A Nan! Con số mà những người như Mục Kiền Liên biết được thì như nước dính nơi mảnh lông, số họ chưa biết như nước biển cả.

GIẢNG:

Nhất mao” (một sợi lông) đã rất nhỏ bé, lại còn tách ra thành trăm phần, lại tiếp tục nghiền nó ra “như vi trần” càng cực nhỏ hơn nữa. Đem lượng nước dính vào mảnh bụi lông vi trần ấy để ví cho con số đã biết; dùng con số chẳng biết như nước biển cả để ví cho thánh chúng cõi kia, con số ấy thật là vô lượng.

KINH VĂN:

Bỉ Phật thọ lượng, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn, thiên nhân thọ lượng diệc nhĩ, phi dĩ toán kế thí dụ chi sở năng tri.

VIỆT DỊCH:

Thọ lượng của đức Phật ấy và thọ lượng của các Bồ Tát, Thanh Văn, trời, người cũng giống như thế, chẳng thể dùng toán số, thí dụ để biết được nổi.

GIẢNG:

Theo sách chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: Đoạn kinh văn trên kết hợp cả chủ lẫn bạn: Giáo chủ thọ mạng vô lượng, tất cả đại chúng trong nước cũng đều thọ mạng vô lượng giống như Phật. Di Đà đại ân đức vi diệu khó nghĩ nổi. Kẻ ôm nghiệp đi vãng sinh (đới nghiệp vãng sinh) một phen đã sinh về cõi kia thì chẳng bị thoái chuyển nữa, thọ mạng cũng lại vô lượng. Cho nên, trong cõi ấy ai ai cũng có thể trong một đời sẽ kế vị thành Phật chứng cực quả; trong Kinh Hoa Nghiêm gọi là “đăng phong tạo cực”.

Cõi Sa Bà này lắm duyên thoái chuyển, thọ mạng bất quá chỉ trăm năm nên tu hành bị đứt quảng, lại sinh trong thời mạt pháp, thử hỏi: Trong ức vạn người tu, có được mấy kẻ đắc đạo?

Sách Vãng Sinh Luận có bài kệ như sau:

Chánh Giác A Di Đà, pháp vương khéo trụ trì”. Phật thọ vô lượng nên giáo hóa đại chúng vô lượng. Những người được ngài giáo hóa đều là Bổ Xứ Bồ Tát nên bảo là “khéo trụ trì”.

Sách còn ghi bài kệ: “Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh Giác hoa hóa sanh”, nghĩa là “chúng hội ấy đều hóa sanh trong hoa sen thanh tịnh của cõi Phật A Di Đà “đều từ biển trí tuệ thanh tịnh của Như Lai sinh ra”, cũng đều sinh ra từ tự tâm của A Di Đà Phật. Vì

vậy, nhân dân cõi nước ấy bình đẳng với Phật, thọ mạng cũng đều vô lượng, đủ thấy cõi Cực Lạc chủ lẫn bạn đều trang nghiêm, công đức thành tựu, tuyệt đải viên dung, siêu tình ly kiến. Thật chẳng thể nghĩ bàn!

Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải Diễn Nghĩa Hết
(Quyển Hai)