Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VII. QUỐC GIỚI NGHIÊM TỊNH ĐỆ THẬP NHẤT
(TT)

KINH VĂN:

Phật ngữ A Nan: – Bất tư nghị nghiệp, nhữ khả tri da? Nhữ thân quả báo, bất khả tư nghị, chúng sinh nghiệp báo, diệc bất khả tư nghị. Chúng sinh thiện căn, bất khả tư nghị, chư Phật thánh lực, chư Phật thế giới, diệc bất khả tư nghị. Kỳ quốc chúng sinh, công đức thiện lực, trụ hạnh nghiệp địa, cập Phật thần lực, cố năng nhĩ nhĩ.

VIỆT DỊCH:

Phật bảo A Nan: – Ông có biết chăng? Nghiệp chẳng thể nghĩ bàn! Thân ông quả báo chẳng thể nghĩ bàn, nghiệp báo của chúng sinh cũng chẳng thể nghĩ bàn, thiện căn của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn; thánh lực của chư Phật, thế giới của chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn. Do công đức, thiện lực của chúng sinh cõi ấy, do trụ hạnh nghiệp địa và do thần lực của Phật nên mới được như thế đó.

GIẢNG:

Theo sách Tiên Chú (tức Vô Lượng Thọ Tiên Chú của cư sĩ Đinh Phúc Bảo) chữ “quả báo” chỉ cho thiện ác trong quá khứ chiêu cảm được kết quả và hồi báo cho nên gọi là “quả báo”. Theo chú giải của Hoàng Niệm lão: Quả và Báo vốn cùng một thể. Nếu phân tích tỉ mỉ thì cảnh giới mà ngày nay chúng ta gặp phải đều là kết quả của nghiệp nhân đã tạo trong quá khứ, đấy gọi là “quả”, còn hậu quả tương ứng với nghiệp duyên đã tạo thì gọi là “báo”.

Cái gì có khả năng sinh ra sự vật thì gọi là “nhân”, còn những gì hỗ trợ cho nhân kết thành quả thì gọi là ‘duyên”. Như hạt giống lúa gạo hay lúa mạch là nhân; người nông phu cày bừa, mưa, sương tưới tẩm v.v… gọi là duyên. Thóc, lúa mạch thu hoạch năm nay chính là từ hạt giống năm ngoái; nên nếu so với thóc, lúa mạch năm ngoái thì thóc và lúa mạch năm nay chính là “quả”. Nếu đem so với sức nông phu, mưa, sương v.v…của năm ngoái thì lúa năm nay chính là “báo” của những duyên đó.

Bất khả tư nghị” (Chẳng thể nghĩ bàn) là vượt ra ngoài sự hiểu biết, suy nghĩ; chẳng thể dùng tư duy, ngôn ngữ của chúng sinh mà có thể lãnh hội, diễn tả nổi. Trong câu “chúng sinh nghiệp báo” (nghiệp báo của chúng sinh), chữ “nghiệp báo” chỉ nghiệp nhân và quả báo. Do nghiệp nhân thiện hay ác mà có quả báo vui hay khổ.

Kinh Bảo Tích quyển chín mươi sáu chép: “Diêm La thường cáo bỉ tội nhân: – Vô hữu thiểu tội ngã năng gia, nhữ tự tác tội kim nhật lai, nghiệp báo tự chiêu, vô đại giả” (Vua Diêm La thường bảo bọn tội nhân đó: -Chẳng có chút tội nào do ta có thể tự thêm vào cả, tội của chính các ngươi làm nay đến ngày báo ứng, nghiệp báo tự mình chiêu cảm lấy, không ai chịu thay cho được). Bài kệ này rất quan trọng! Chúng ta nên đọc nhiều lần hoặc có thể học thuộc lòng nó để thời thời khắc khắc có thể nhắc nhở bản thân mình.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có chép: “Bồ Tát tự niệm: Ngã ư quá khứ vô thỉ kiếp trung, do tham sân si, phát thân khẩu ý, tác chư ác nghiệp, vô lượng vô biên. Nhược thử ác nghiệp hữu thể tướng giả, tận hư không giới bất năng dung thọ” (Bồ Tát tự nghĩ: Ta trong vô thỉ kiếp quá khứ do tham sân si từ thân miệng ý tạo các nghiệp ác vô lượng vô biên. Nếu những ác nghiệp đó mà có thể tướng thì trọn hết cõi hư không cũng chẳng thể dung chứa được). Do tạo nghiệp vô biên nên báo cũng vô biên. Câu Xá Luận, quyển chín chép: “Đến ngay cả đức Thế Tôn cũng không cách chi ngăn ngừa vì thế lực của nghiệp mạnh mẽ nhất”. Bởi thế, kinh nói: “Chúng sinh nghiệp báo bất khả tư nghị” (Nghiệp báo của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn).

Chúng sinh thiện căn bất khả tư nghị” (Thiện căn của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn), như Kinh Đại Tập dạy: “Chúng sinh hạnh bất khả tư nghị, chúng sinh cảnh giới bất khả tư nghị” (Hạnh của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn). Như vậy, cảnh giới cùng việc làm thường nhật của chúng sinh đều là những thứ chẳng thể nghĩ bàn!

Kinh Pháp Hoa có câu: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo” (Dẫu người tâm tán loạn, vào trong tháp miếu, niệm Nam Mô Phật một tiếng đều đã thành Phật đạo). “Giai dĩ thành Phật đạo” ở đây là chỉ cho trong thức A-lại-da của họ đã có chủng tử Phật, tương lai họ sẽ nhờ chủng tử này mà tu hành chứng quả. Điều này đã hiển thị sâu xa: Thiện căn của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể dùng suy lường, phân biệt để lãnh hội nổi.

Chư Phật thánh lực, chư Phật thế giới, diệc bất khả tư nghị” (Thánh lực của chư Phật, thế giới của chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn): Chữ “chư Phật” chỉ khắp cả mười phương Như Lai. Trong chữ “thánh lực”, chữ “lực” chỉ lực dụng. Theo sách Phạn Ngữ Danh Nghĩa Đại Tập và quyển bốn mươi tám sách Tông Kính Lục thì có năm thứ lực: Định Lực, Thông Lực (tức thần thông lực), Tá Thức Lực, Đại Nguyện Lực và Phật pháp Oai Đức Lực. Năm thứ lực này chẳng thể nghĩ bàn nên kinh bảo: “thánh lực chẳng thể nghĩ bàn”.

Trong năm thứ lực này, ngày nay chúng ta đặc biệt cần nhất là Định Lực, và Nguyện Lực. Bất luận trong thuận cảnh hay thiện duyên đều không khởi tâm tham luyến; trong nghịch cảnh hay ác duyên đều không khởi tâm sân hận mà luôn luôn khởi tâm Phật A Di Đà. Nên nhớ: Thời gian không nhiều nữa, tu mau kẻo trễ! Việc xấu hay tốt vẫn A Di Đà Phật, luôn trở về với A Di Đà Phật, không bị ngoại cảnh quấy nhiễu, đây là con đường thế giới Cực Lạc chúng ta đã đi thông rồi.

Đồng tâm với Phật A Di Đà, đồng tâm với chư Phật Như Lai: Nguyện tất cả chúng sinh đều thành Phật, luôn dùng tâm thanh tịnh, bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Theo kinh này, trong vô lượng kiếp, Pháp Tạng Bồ Tát trụ vào “Chân Thật Tuệ” để trang nghiêm cõi Phật, hạnh đức như Phổ Hiền, khai hóa, hiển thị “Chân Thật Tế”, muốn cho hết thảy chúng sinh đều hưởng các “Chân Thật Lợi”. “Chân Thật Lợi” ở đây là thành Phật, là trở về với tự tánh, cũng chính là Đại Thừa Vô Lượng Thọ, là thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Với mỗi công đức trong mười bảy thứ công đức trang nghiêm thành tựu của cõi nước, Đàm Loan Pháp sư đều bảo là “há thể nghĩ bàn nổi” như:

– “Quang minh thực hiện Phật sự há thể nghĩ bàn nổi”.

– “Nước trong cõi ấy thực hiện Phật sự há thể nghĩ bàn nổi”.

– “Hình ảnh ấy làm Phật sự há thể nghĩ bàn nổi”.

– “Tiếng ấy làm Phật sự há thể nghĩ bàn nổi”. Điều thù thắng nhất là những người vãng sinh:

Chẳng đoạn phiền não, lại được hưởng Niết Bàn há thể nghĩ bàn nổi”.

Đến thế giới Cực Lạc được ngày ngày thấy Phật nghe kinh không gián đoạn, không làm những việc khác. Điều này hé mở cho chúng ta một tin tức: “Không thể ngày ngày không nghe kinh, không thể ngày ngày không niệm Phật”.

Kinh Kim Cang Đảnh nói: “Duy thử Phật sát, tận dĩ Kim Cang tự tánh thanh tịnh sở thành Mật Nghiêm Hoa Tạng” (Chỉ mình cõi Phật ấy dùng trọn Kim Cang tự tánh thanh tịnh để tạo thành Mật Nghiêm Hoa Tạng). Trước đây, chúng ta đã chứng minh Mật Nghiêm Hoa Tạng chính là Cực Lạc thế giới. Cõi nước thù thắng nhiệm mầu như vậy chẳng từ vi trần tạo thành nên chẳng phải là vật chất thế gian, chẳng cần đến sức hấp dẫn giữa vạn vật để kết tụ nên, thì cần chi núi Tu Di! Do vì cõi nước Cực Lạc do Kim Cang tự tánh thanh tịnh tạo thành nên kinh bảo “thế giới chẳng thể nghĩ bàn”. “Kim Cang” ở đây là ví dụ cho tự tánh vĩnh hằng bất biến, bất sinh bất diệt, thanh tịnh bất nhiễm. Đây cũng chính là bản thể của y báo, Chánh báo ở thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Trong câu “Kỳ quốc chúng sinh công đức, thiện lực” (Thiện lực, công đức của chúng sinh cõi ấy), chữ “kỳ quốc” (cõi ấy) chỉ thế giới Cực Lạc. Những người vãng sinh phát Bồ Đề tâm, một dạ chuyên niệm, dùng các thứ chánh hạnh, trợ hạnh, định thiện, tán thiện để cầu sinh Tịnh Độ, trì danh hiệu viên mãn vạn đức, nhập biển đại nguyện Nhất Thừa. Công đức thù thắng vô lượng vô biên như thế nên lực dụng thật chẳng thể nghĩ bàn! Lực dụng đạt được do tu tập gọi là “thiện lực”.

“Nhất Thừa đại nguyện chi hải” (Biển đại nguyện Nhất Thừa) là hình dung thế giới Cực Lạc. Trong phần “Chánh hạnh, trợ hạnh”, Đại sư Liên Trì nói: Chánh hạnh là niệm Phật, trợ hạnh cũng là niệm Phật. Tuy nhiên, theo Hòa Thượng Tịnh Không: “Trợ hạnh” có thể làm thêm một ít việc thiện, miễn sao không trở ngại đến việc niệm Phật của mình thì được. Nếu trở ngại đến việc niệm Phật thì thà không làm! Nên nhớ; Tổ sư xưa nay thường dạy: “Việc tốt chẳng bằng không việc gì”. “Định thiện”, “tán thiện” là do Đại sư Thiện Đạo nói trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, chúng ta đều qui nó về một câu “A Di Đà Phật”, mục tiêu cuối cùng là cầu sinh Tịnh Độ.

Tịnh Ảnh Sớ viết: “Y pháp chánh tu danh vi thiện lực” (Nương vào pháp để tu hành đúng đắn thì gọi là thiện lực). Công đức và thiện lực của chúng sinh cõi Cực Lạc đều chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả những người vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, mỗi ngày đều được nghe Phật giảng kinh giáo huấn, lại được Di Đà bổn nguyện oai thần gia trì nên trí tuệ, thần thông, đạo lực của họ so với Pháp Thân Bồ Tát ở cõi Thật Báo không hề sai khác. Đây là điểm thù thắng không thể sánh bằng của A Di Đà Tịnh Độ.

Chúng ta quan sát tỉ mỉ từ trong kinh luận: Thế giới Cực Lạc trên thực tế chính là một đạo tràng. Phật A Di Đà vì muốn tiếp dẫn khắp pháp giới, hư không giới tất cả chúng sinh trong sáu cõi quốc độ của chư Phật mà kiến lập nên đạo tràng này. Chỉ cần bạn có thể tin, có thể phát nguyện, có thể y giáo phụng hành thì ai ai cũng có thể vãng sinh. Sinh đến thế giới Cực Lạc chắc chắn không còn thoái chuyển, một đời rốt ráo thành Phật, tốt nghiệp thành Phật. Đây cũng là điều không thể tìm thấy trong mười phương thế giới. Cho nên, nói chúng sinh ở thế giới Cực Lạc đều “y pháp chánh tu”, thành tựu thiện lực thù thắng không gì sánh bằng.

Sách Hội Sớ giảng “trụ hạnh nghiệp địa” như sau: “Hạnh nghiệp địa chính là sự thành tựu đại nghiệp hạnh nguyện của A Di Đà Phật”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: “Hạnh nghiệp địa” là địa của hạnh nghiệp, là đất do đại nguyện, đại hạnh, đại nghiệp của Di Đà Như Lai thành tựu. “Nghiệp” là sự, sự nghiệp của Phật A Di Đà là giúp tất cả chúng sinh hữu duyên một đời thành tựu viên mãn. Điều kiện vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng v.v…, cho dù bạn tu pháp môn nào, nếu phút lâm chung, đem công đức tu hành hồi hướng vãng sinh thế giới Cực Lạc đều có thể vãng sinh. Điều này cho thấy pháp môn Tịnh Độ quảng đại vô biên, chúng ta có thể nghĩ rằng: Người theo tôn giáo khác, đến lúc lâm chung, đem công đức tu học của họ hồi hướng cầu sinh Tịnh Độ, tôi tin rằng chắc chắn họ cũng được vãng sinh.

Trụ hạnh nghiệp địa” tức chỉ cho tứ độ, tam bối, cửu phẩm ở thế giới Cực Lạc. Vãng Sinh Luận Chú, phần trước có nói qua: Vãng sinh đến thế giới Cực Lạc thấy được thân tướng Phật A Di Đà thì được thân nghiệp bình đẳng, nghe danh hiệu ngài thì được khẩu nghiệp bình đẳng, gặp quang minh của ngài chiếu đến thì hiểu được pháp và được ý nghiệp bình đẳng. Những điều như vậy chính là “hạnh nghiệp địa” của Phật A Di Đà.

Tôi thường khuyên các đồng tu nên đặt Phật A Di Đà ở trong tâm. Trung Phong thiền sư trong Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự đã khai thị cho chúng ta: “Tâm ta tức là Phật A Di Đà. Phật A Di Đà tức là tâm ta”, “Nơi đây là cõi Tịnh Độ, cõi Tịnh Độ chính là nơi đây”. Hai câu khai thị này rất quan trọng! Hai câu này chính là “trụ hạnh nghiệp địa”.

Hiện tại, chúng ta “trụ hạnh nghiệp địa” thì có lý nào lại không thể vãng sinh! Nếu miệng niệm Phật, trong tâm không có Phật, vậy vãng sinh là vô lý! Cổ nhân nói: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, đau mồm rát họng cũng uổng công!”. Hiện tại người niệm Phật rất đông, người vãng sinh lại không nhiều! Nguyên nhân chính là ở chỗ này! Phật A Di Đà rất từ bi! Thấy thọ mạng của ta có hạn, mà niệm Phật, niệm mãi vẫn còn tâm tán loạn, nên Phật kéo dài tuổi thọ cho ta, có thể thêm mười năm, với hy vọng trong mười năm đó ta có thể trụ tâm trở lại, nhất tâm chuyên niệm sẽ được vãng sinh.

Chúng ta nên xả thân xem như đã chết! Ngay thân thể cũng không phải là ta thì vật ngoài thân, thứ nào là của mình?! Đó là dạy ta buông xuống, buông xuống triệt để mới có thể chuyên tâm mà niệm Phật, mới có thể thành tựu. Buông xuống được rồi, thế giới Ta Bà đối với ta không còn nữa, bây giờ ta “trụ Di Đà hạnh nghiệp địa”. Chưa đến thế giới Tây Phương Cực Lạc nhưng hiện tại ta đã “trụ hạnh nghiệp địa” rồi. Đây là “tâm trụ” chẳng phải “thân trụ”.

Cập Phật thần lực, cố năng nhĩ nhĩ” (Và do thần lực của Phật nên mới được như thế đó): Do thiện lực công đức của chúng sinh cõi Cực Lạc, do sức an trụ vào hạnh nghiệp địa của Phật A Di Đà và do oai thần vô thượng của đức Phật ấy nên cõi Cực Lạc chẳng cần phải nương vào núi Tu Di mà vẫn có thể an trụ một cách tự nhiên.

KINH VĂN:

A Nan bạch ngôn: “Nghiệp nhân quả báo, bất khả tư nghị. Ngã ư thử pháp, thật vô sở hoặc. Đản vị tương lai chúng sinh phá trừ nghi võng, cố phát tư vấn”.

VIỆT DỊCH:

A Nan bạch rằng: “Nghiệp nhân quả báo chẳng thể nghĩ bàn. Đối với pháp này con chẳng nghi hoặc, chỉ là để phá trừ lưới ngờ cho chúng sinh trong đời tương lai nên con mới hỏi như thế”.

GIẢNG:

Thật ra, ngài A Nan không phải là người thường, ngài chính là người truyền thừa Đại pháp của đức Thích Ca Mâu Ni. Đến đây, ngài mới nói rõ nguyên do thúc đẩy ngài nêu câu hỏi ấy: Ngài thấy rõ chúng sinh trong đời tương lai tình chấp sâu nặng, ắt sẽ nghi lầm: Cõi Cực Lạc không có núi Tu Di thì nương vào đâu để an trụ? Nên ngài mới thay họ mà thưa hỏi. Trong thế gian này, chúng sinh điên đảo chất chồng, chỉ khăng khăng chấp vào những hiện tượng và qui luật của thế giới này, dùng cái thấy biết hẹp hòi để suy xét cảnh giới chư Phật, thậm chí chấp cái nhìn phiến diện rồi nghi lời Phật nói.

Để phá mối nghi ấy, Phật liền hỏi A Nan: Vậy thì các tầng trời như trời Dạ Ma v.v… trong cõi này nương vào đâu để trụ? Chẳng lẽ cứ căn cứ theo sự tướng của trời Đao Lợi rồi ngờ vực cõi Cực Lạc hay sao?

Ngài A Nan đại quyền thị hiện vì chúng sinh mà thưa hỏi, ngài chẳng nói “trụ không” (trụ vào không trung) mà lại nói “bất khả tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn) dẫn đến Thế Tôn thù thắng khai thị, nói ra toàn kinh yếu chỉ (yếu chỉ của toàn bộ kinh), bởi bản kinh này từ đầu đến cuối thật sự đều không thể nghĩ bàn!

Điều chấp trước vừa được nói ở trên không những chỉ là do chưa hiểu thấu Phật pháp mà thật ra còn mâu thuẫn với cả khoa học hiện đại. Bởi thế giới chúng ta đang sống là không gian ba chiều (tam duy không gian; three-dimension space). Do vọng niệm chẳng ngừng nên những suy nghĩ, phân biệt của người đời chẳng thể vượt ra ngoài tánh chất hạn cuộc của thế giới này. Lẽ nào lại có thể dùng những qui luật của không gian ba chiều để suy lường nổi không gian nhiều chiều cho được.

Hiện tại, lý thuyết không gian nhiều chiều (đa duy không gian- multi-dimension space) đã được giới khoa học thừa nhận. Số chiều trong cõi Thường Tịch Quang của Phật ắt cũng phải là vô lượng. Đây là Hoàng Niệm lão dùng cách nói của khoa học để giải thích.

Thật ra, chúng sinh cõi Cực Lạc vượt xa cảnh giới trời, người nhưng vì thuận theo các phương khác nên mới gọi là “trời, người”. Nói trời Đao Lợi, trời Tứ Thiên Vương v.v… cũng chỉ là thuận theo cách nói thông thường của những phương khác. Kinh bảo: Thánh chúng cõi ấy “hữu tại địa thọ kinh, thính kinh giả” (có người ở trên mặt đất nghe nhận kinh điển), có người “hữu tại hư không giảng, tụng, thọ, thính” (ở trên hư không giảng, tụng, nghe, nhận).

“Hư không” ở đây là chỉ không gian duy thứ không đồng. Cung điện họ trụ tại hư không, người bình thường chúng ta không thể nhìn thấy bởi không cùng không gian duy thứ. Thánh chúng cõi ấy lại còn “cung điện tùy thuộc vào thân”, cho nên cung điện trong cõi ấy hoặc ở trên mặt đất hoặc ở trên hư không. Vì vậy, những tầng trời như Dạ Ma (không cư), Đao Lợi (Địa Cư) v.v… chỉ là thí dụ.

Phẩm Siêu Thế Hy Hữu thứ mười tám của kinh này cũng bảo: “Đản nhân thuận dư phương tục, cố hữu nhân thiên chi danh” (Chỉ do thuận theo tập tục phương khác nên có danh từ trời, người). Như vậy, trời, người và các tầng trời chỉ là cách nói thuận theo thế tục.


VIII. QUANG MINH BIẾN CHIẾU ĐỆ THẬP NHỊ

Phẩm trước là phẩm Quốc Giới Nghiêm Tịnh đã tường thuật sự trang nghiêm của y báo tức hoàn cảnh vật chất. Phẩm thứ mười hai và phẩm thứ mười ba tiếp theo sẽ nói về chánh báo trang nghiêm tức hoàn cảnh nhân sự ở thế giới Tây Phương Cực Lạc. “Quang minh biến chiếu thị thân biến thập phương” (Quang minh chiếu khắp nghĩa là thân trọn khắp mười phương). Thọ mạng vô lượng là cùng khắp cả ba đời.

Phẩm này trước hết tán dương quang minh của Phật A Di Đà thù thắng độc nhất. Kế đến nêu rõ nguyên nhân vì sao quang minh thù thắng. Sau đó, nêu ra mười hai danh hiệu quang minh thù thắng. Cuối cùng là trình bày diệu dụng thù thắng của quang minh.

KINH VĂN:

Phật cáo A Nan: – A Di Đà Phật oai thần quang minh tối tôn đệ nhất. Thập phương chư Phật sở bất năng cập, biến chiếu Đông phương Hằng sa Phật sát. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ diệc phục như thị. Nhược hóa đảnh thượng viên quang, hoặc nhất, nhị, tam, tứ do-tuần hoặc bách thiên vạn ức do- tuần. Chư Phật quang minh hoặc chiếu nhất, nhị Phật sát, hoặc chiếu bách thiên Phật sát, duy A Di Đà Phật, quang minh phổ chiếu vô lượng, vô biên vô số Phật sát. Chư Phật quang minh sở chiếu viễn cận, bổn kỳ tiền thế cầu đạo, sở nguyện công đức đại tiểu bất đồng. Chí tác Phật thời, các tự đắc chi. Tự tại sở tác, bất vi dự kế. A Di Đà Phật, quang minh thiện hảo, thắng ư nhật nguyệt chi minh, thiên ức vạn bội, quang trung cực tôn, Phật trung chi vương.

VIỆT DỊCH:

Phật bảo A Nan: – Oai thần quang minh của A Di Đà Phật tối tôn đệ nhất, thập phương chư Phật chẳng thể sánh bằng, chiếu khắp Hằng sa cõi Phật trong phương Đông. Trong các phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên, dưới cũng giống như thế.

Viên quang từ trên đảnh Ngài hóa ra thì hoặc là (chiếu xa) một, hai, ba, bốn do-tuần, hoặc là trăm ngàn vạn ức do-tuần. Quang minh của chư Phật hoặc chiếu thấu một, hai cõi Phật, hoặc chiếu trăm ngàn cõi Phật. Chỉ riêng quang minh của A Di Đà Phật chiếu trọn vô lượng vô biên vô số cõi Phật.

Quang minh của chư Phật chiếu xa hay gần vốn là do trong đời trước khi cầu đạo đã nguyện được công đức lớn hay nhỏ sai khác. Đến khi thành Phật, mỗi vị tự đạt được, tự tại thành tựu chẳng thể tính trước. Quang minh của A Di Đà Phật tốt lành, vượt trội ánh sáng của mặt trời, mặt trăng ngàn ức vạn lần, là tôn quí nhất trong các quang minh, là vua trong các đức Phật.

GIẢNG:

Phẩm này nói về sự thành tựu của nguyện thứ mười ba và nguyện thứ mười bốn. Nguyện thứ mười ba là “quang minh vô lượng”, nguyện thứ mười bốn là “tuyệt thắng chư Phật” (vượt hẳn chư Phật). Do nguyện này thành tựu nên “A Di Đà Phật oai thần quang minh tối tôn đệ nhất. Thập phương chư Phật sở bất năng cập” (oai thần quang minh của A Di Đà Phật tối tôn đệ nhất; mười phương chư Phật chẳng thể sánh bằng). Đây là nói Phật quang nhỏ lớn có khác nhau nên chiếu đến xa, gần cũng không giống nhau.

Ngày nay chúng ta gặp được pháp môn Tịnh Độ, noi theo bốn mươi tám nguyện của đức Phật A Di Đà mà tu học là đã thật sự phát đại tâm rồi, tức là có thể đạt đến cứu cánh viên mãn thành Phật

Rất nhiều sự việc chúng ta chưa nghĩ ra, nhưng Phật A Di Đà lúc còn ở nhân địa đã nghĩ ra hết. Có thể nói tâm tư của ngài chu đáo nên nguyện hạnh của ngài cũng viên mãn, đến khi thành Phật hóa độ chúng sinh, tất cả mọi thần thông, trí tuệ, đạo lực, tướng hảo v.v…của ngài đều siêu việt chư Phật Như Lai. Cho nên, kinh nói: “tự tại sở tác bất vi dự kế” (tự tại thành tựu, chẳng thể tính trước).

Thật sự mà nói: Phật Phật đạo đồng, hoàn toàn bình đẳng. Nhưng, trong bình đẳng lại có cái không bình đẳng. Vì sao? Vì nguyện lực của cái ngài không giống nhau! Như người thế gian, tuy có tài lực, địa vị như nhau nhưng sở thích không giống nhau sẽ ở kiểu nhà khác nhau. Chư Phật Như Lai không có sở thích nhưng sở nguyện trong “nhân địa” của các ngài không giống nhau nên trên “quả địa” liền hiển thị sự sai biệt.

Sư Vọng Tây giải đáp vấn đề này như sau:

Thường đồng, thường biệt: Diệu đức của chư Phật xét về nội chứng tuy tương đồng, nhưng do bổn nguyện sai khác nên quang minh có hơn, kém”. Đây chính là ý nghĩa của câu “bổn kỳ tiền thế cầu đạo sở nguyện công đức đại tiểu bất đồng” (vốn là do đời trước lúc cầu đạo đã nguyện được công đức có lớn, nhỏ sai khác).

– Tác dụng của “quang” là gì?

– Là tiếp dẫn người hữu duyên!

Nguyện lực của Phật A Di Đà quá lớn! Muốn tất cả chúng sinh đều thành Phật: Hữu tình chúng sinh thành Phật; vô tình chúng sinh như cỏ cây hoa lá, sơn hà đại địa đều thành Phật. Đây là Hoa Nghiêm cảnh giới! Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí”. Ở thế giới Cực Lạc thực tế cũng là như vậy.

Đạo tràng nhỏ của chúng ta, bên bãi đậu xe kia, các bạn đều nhìn thấy có một cây sơn trà rất già, ngày hôm kia đã vãng sinh  thế giới Cực Lạc, Phật A Di Đà đến tiếp dẫn thần cây về thế giới Cực Lạc rồi! Điều này có ý nghĩa rất sâu! Thần cây đến làm biểu pháp! Tịnh Tông Học Viện chúng ta thành lập đã mười năm qua, thần cây ở đây nghe kinh Niệm Phật cũng mười năm rồi! Thần cây đã thành công! Những đồng tu tại gia, Pháp sư xuất gia cư trú trong đạo tràng này không dụng công bằng thần cây! Thần cây tu thành nhưng chúng ta chưa tu thành! Chúng ta nên cúng cho thần cây một bài vị, cúng một bài vị vĩnh cửu! Thần không cần, nhưng chúng ta cần! Vì sao? Vì nhìn thấy thần cây thành công nhưng chúng ta chưa thành công?! Lấy đó mà làm gương!

Nếu nơi đây không có đạo tràng này, thần cây sẽ không có cơ hội nghe pháp, cũng không hiểu được tu hành, đại khái sẽ vĩnh viễn làm thần cây, có đâu đến được thế giới Cực Lạc làm A Duy Việt Trí Bồ Tát chứ?! Cho nên, thần cây rất cám ơn. Chúng ta cũng cám ơn thần cây đã làm biểu pháp, làm tấm gương tốt cho chúng ta thấy. Rất nhiều người đều nhìn thấy sự kiện này rồi. Điều này tuyệt đối không phải là mê tín!

Vấn đề “Thường đồng, thường biệt”, Sư Vọng Tây đáp rất hay! (Đây là vị Tổ sư của Nhật Bản). “Đồng” là chỉ cho tất cả chư Phật đều đã buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề, đó là “đồng”. “Biệt” là chỉ cho phát nguyện của các ngài không tương đồng trong khi tu hành Bồ Tát đạo cho nên trong quả báo liền có sự sai biệt. Lại nữa chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trong mười phương, họ không có khởi tâm động niệm. Chúng sinh có cảm, Phật, Bồ Tát liền có ứng. Cảm ứng đạo giao! Các ngài là tự nhiên hiện, không phải do khởi tâm động niệm, đây là “thường đồng” nhưng cảm ứng được tất cả chúng sinh, đó là “thường biệt”.

Trong kinh, Phật nêu ra ví dụ về cái trống: Đánh vào nó liền vang, đánh mạnh thì tiếng lớn, đánh nhỏ thì tiếng nhỏ, không đánh thì không vang. Chư Phật Như Lai và tất cả chúng sinh cảm ứng đạo giao cũng giống như vậy. Bên trong trống là trống không không có gì cả. Chúng sinh có “tâm cảm”; Phật, Bồ Tát liền “vô tâm ứng”, là đạo lý như vậy. Đó là “thường đồng, thường biệt”. Tóm lại:

Chư Phật diệu đức nội chứng tuy đồng, do bổn nguyện khác nên quang có thắng, liệt (lớn nhỏ)”; “thắng, liệt” của “quang” toàn là ở trên nhân địa, tâm phát nguyện không giống nhau nên xuất hiện cảnh giới cũng không tương đồng. Tịnh Độ của Phật A Di Đà thuần tịnh, thuần thiện, không như các Tịnh Độ khác có tịnh, có nhiễm, có thiện, có ác. Không đồng chính là ở điểm này!

Hằng sa” là cát của sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ. “Tứ duy” là bốn góc: Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam.

Đảnh Thượng viên quang”: (Viên quang từ trên đỉnh đầu). Phật có “đảnh quang” và “thân quang”, “đảnh thượng viên quang” chỉ “đảnh quang”.

Do-tuần” (Yojana) là đơn vị đo khoảng cách của Ấn Độ, là số dặm hành quân trong một ngày của bậc đế vương thời cổ. Do-tuần là bốn mươi dặm hay ba mươi dặm. Bản chú giải Kinh Duy Ma của ngài Tăng Triệu ghi: “Do-tuần là tên gọi một số dặm của Thiên Trúc. Thượng do-tuần là sáu mươi dặm, trung do-tuần là năm mươi dặm, hạ do-tuần là bốn mươi dặm”.

Theo Hoàng Niệm lão: Sở dĩ có sự sai khác như vậy là vì từ xưa đến nay giữa hai nước Ấn Độ và Trung Hoa, việc hoán chuyển đơn vị đo lường thường thay đổi luôn. Hơn nữa, số dặm hành quân trong một ngày chẳng phải là một hằng số nên chẳng thể lấy nhất định một con số nào.

Các câu từ “nhất do-tuần” đến “bách thiên Phật sát” (trăm ngàn cõi Phật) là dùng các cách để diễn tả quang minh của Phật chiếu xa hay gần. Câu “duy A Di Đà Phật quang minh phổ chiếu vô lượng vô biên vô số Phật sát” (chỉ riêng A Di Đà Phật quang minh chiếu trọn vô lượng vô biên vô số cõi Phật) diễn tả sự thù thắng độc đáo của quang minh A Di Đà Phật, cũng chính là nguyện lực thù thắng của A Di Đà Phật tôn quí bậc nhất, vượt trội mười phương. Đây cũng là nội dung thứ nhất của phẩm này.

Tiếp đó, kinh trình bày nguyên nhân tại sao quang minh của Phật A Di Đà lại đặc biệt thù thắng như vậy. Phẩm trước đã nói: “Thanh tịnh trang nghiêm siêu du thập phương” (Thanh tịnh trang nghiêm vượt trội mười phương), phẩm này lại bảo: “Thập phương chư Phật, sở bất năng cập” (Mười phương chư Phật chẳng thể sánh bằng). Tiếp đó lại bảo: “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Tôn quí nhất trong các quang minh, vua trong các đức Phật).

“Chư Phật quang minh sở chiếu viễn cận, bổn kỳ tiền thế cầu đạo, sở nguyện công đức đại tiểu bất đồng” (Quang minh của chư Phật chiếu xa hay gần vốn là do trong đời trước khi cầu đạo đã nguyện được công đức lớn hay nhỏ sai khác). Trong pháp bình đẳng lại có những sai biệt như vậy, bởi chư Phật Như Lai lúc trong nhân địa đều phát đại hoằng thệ nguyện. Trong đại nguyện đương nhiên có đại đồng tiểu dị; có tiểu dị là có sai khác.

Do đại nguyện thứ mười ba của Phật A Di Đà là: “Ngã tác Phật thời, quang minh vô lượng, phổ chiếu thập phương, tuyệt thắng chư Phật, thắng ư nhật nguyệt chi minh thiên vạn ức bội” (Lúc tôi thành Phật, quang minh vô lượng chiếu khắp mười phương vượt xa chư Phật, hơn cả quang minh của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần). Cho nên “chí tác Phật thời, các tự đắc chi, tự tại sở tác, bất vi dự kế” (Đến khi thành Phật, mỗi vị tự đạt được, tự tại thành tựu, chẳng thể tính trước), nghĩa là đến khi thành Phật, mỗi vị đều đúng như bổn nguyện mà hiện quang minh. Đấy đều là việc tự nhiên thành tựu chớ chẳng do Phật hoạch định hay an bày.

Việc này cũng nói lên “nhân nào quả nấy”, hơn nữa, chư Phật Như Lai đã lìa tâm ý thức đâu còn khởi tâm động niệm mà có kế hoạch suy tính. “A Di Đà quang minh thiện hảo, thắng ư nhật nguyệt chi minh thiên ức vạn bội, quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (quang minh của A Di Đà Phật tốt lành, vượt trội ánh sáng của mặt trời, mặt trăng ngàn ức vạn lần, là tôn quí nhất trong các quang minh, là vua trong các Phật). Điều này quả thật là không sai! Tất cả chư Phật Như Lai đều khâm phục, xưng tán Phật A Di Đà đến cực điểm: Tự nhiên khâm phục tha, tự nhiên hoan hỉ tha, cũng tự nhiên hỗ trợ Phật A Di Đà thành tựu trang nghiêm thế giới Tây Phương Cực Lạc.

KINH VĂN:

Thị cố Vô Lượng Thọ Phật, diệc hiệu Vô Lượng Quang Phật, diệc hiệu Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đẳng Quang Phật, diệc hiệu Trí Tuệ Quang, Thường Chiếu Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỉ Quang, Giải Thoát Quang, An Ổn Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang, Bất Tư Nghị Quang.

VIỆT DỊCH:

Do đó, Vô Lượng Thọ Phật cũng có hiệu là Vô Lượng Quang Phật, cũng gọi là Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đẳng Quang Phật, cũng hiệu là Trí Tuệ Quang, Thường Chiếu Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỉ Quang, Giải Thoát Quang, An Ổn Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang, Bất Tư Nghị Quang.

GIẢNG:

Đoạn kinh văn trên trình bày điểm chính thứ ba của phẩm này là mười hai danh hiệu quang minh thù thắng của Phật (tức thập nhị Quang Phật). Đây đều là những danh hiệu khác của Vô Lượng Thọ Phật, cũng chính là Quả giác của Bồ Tát Pháp Tạng khi ngài đã thành Phật. Mỗi loại quang biến chiếu nhiếp thọ lục đạo chúng sinh trong khắp pháp giới hư không giới, tất cả chư Phật quốc độ. Người hữu duyên sẽ cảm nhận được, người không có duyên, Phật quang dù có chiếu đến cũng không có cảm xúc!

Nên biết, thân thể của Phật A Di Đà giống như đài phóng xạ, có thể tiếp thu tất cả cũng có thể phát ra bên ngoài trùm khắp tất cả. Khắp pháp giới, hư không giới, tin tức của tất cả chúng sinh bao gồm tin tức của nhân loại, tin tức của cây cối hoa lá, của sơn hà đại địa v.v… tất cả chư Phật đều nhận được. Trên thực tế, thân thể chúng ta cũng là cái máy phóng. Nhưng, vì sao chúng ta không cảm giác được? Vì máy móc của chúng ta bị “virus” “tham-sân-si-mạn” làm ô nhiễm hư hoại nên không có tác dụng!

– Danh hiệu từ đâu mà có?

– Từ tánh đức mà xưng tán!

Chư Phật có vô lượng trí tuệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo nên các ngài có vô lượng danh hiệu. Nên biết: tánh đức của Phật A Di Đà cũng chính là tánh đức của chúng ta. Chúng ta và A Di Đà Phật không hai, không khác; chỉ là ngài giác ngộ, chúng ta thì còn mê hoặc.

Kinh Cửu Phẩm Vãng Sinh A Di Đà Tam Ma Địa Tập Đà Ra Ni trong Mật bộ cũng chép: “Thị nội tòa thập nhị mạn-đà-la Đại Viên Kính Trí tượng, kỳ danh vi Nhất Thiết Tam Đạt Vô Lượng Quang Phật… Trí Lực Tam Minh Siêu Nhật Quang Phật”.

(Hình tượng báu của Đại Viên Kính Trí trong mười hai mạn- đà-la ở nội tòa có tên là Nhất Thiết Tam Đạt Vô Lượng Quang Phật… Trí Lực Tam Minh Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật). Câu ấy rất phù hợp với kinh này.

Bản Đường dịch (chính là Kinh Bảo Tích Vô Lượng Thọ hội) ghi mười lăm danh hiệu quang minh. Bản Tống dịch (chính là Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh) ghi mười ba thứ quang minh, chẳng qua là do tách ra hay gộp lại nên thành có sai khác đó thôi!

Kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy:

Đại Thế Chí, dữ kỳ đồng luân ngũ thập nhị Bồ Tát, tức tùng tọa khởi, đảnh lễ Phật túc, nhi bạch Phật ngôn:

Ngã ức vãng tích hằng sa kiếp, hữu Phật xuất thế, danh Vô Lượng Quang. Thập nhị Như Lai tương kế nhất kiếp, kỳ tối hậu Phật, danh vi Siêu Nhật Quang Phật, bỉ Phật giáo ngã Niệm Phật tam- muội”.

(Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng năm mươi hai vị Bồ Tát đồng hàng với ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:

Con nhớ trong hằng sa kiếp xưa kia có Phật xuất thế tên là Vô Lượng Quang. Mười hai vị Như Lai liên tục xuất hiện trong một kiếp. Vị Phật sau rốt tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật, đức Phật ấy dạy con Niệm Phật tam-muội).