Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

IX. CHÍ TÂM TINH TẤN ĐỆ NGŨ

Phẩm này tiếp ý phẩm trước. Pháp Tạng Bồ Tát phát đại nguyện rằng: Tôi đã phát tâm Vô Thượng Chánh Giác, lúc tôi thành Phật, quốc độ, Phật hiệu đều nổi tiếng, mười phương, hết thảy hữu tình cho đến các loại trùng bọ, hễ sinh vào nước tôi đều thành Bồ Tát, chẳng có thừa nào khác (ngoài Bồ Tát thừa) và nguyện rằng do Nhất Thừa nguyện hải vừa được phát khởi ấy, cõi nước của tôi sẽ siêu việt vô số cõi Phật. Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai đáp ứng lời thỉnh, hiện cho Pháp Tạng thấy hai trăm mười ức cõi Phật. Pháp Tạng liền tu tập siêng gắng trong năm kiếp, kết thành nguyện thù thắng, nhiếp thọ cõi nước vượt trội xa hơn cả hai trăm mười ức Phật sát ấy. Do vậy. phẩm này mang tên “Chí tâm tinh tấn”.

“Chí tâm” là tâm hạnh chí thành vô thượng. Pháp Tạng sau khi đích thân được thấy vô biên cõi Phật “tiện nhất kỳ tâm, tuyển trạch sở dục” (liền nhất tâm chọn lựa lấy những điểm mình ưa thích), “nhất tâm” tức là “chí tâm”. “Tinh tấn” là “tinh cần cầu sách, cung thận bảo trì, tu tập công đức, mãn túc ngũ kiếp” (siêng năng, gắng gỏi, cung kính, thận trọng gìn giữ, tu tập công đức trọn cả năm kiếp), “thành tựu trang nghiêm Phật độ thanh tịnh chi hạnh” (thành tựu hạnh trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh).

KINH VĂN:

Pháp Tạng tỳ kheo thuyết thử kệ dĩ, nhi bạch Phật ngôn: – Ngã kim vi Bồ Tát đạo, dĩ phát Vô Thượng Chánh Giác chi tâm, thủ nguyện tác Phật, tất linh như Phật. Nguyện Phật vị ngã quảng tuyên kinh pháp, ngã đương phụng trì, như pháp tu hành, bạt chư cần khổ sinh tử căn bản, tốc thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, dục linh ngã tác Phật thời, trí tuệ quang minh, sở cư quốc độ, giáo thọ danh tự, giai văn thập phương, chư thiên nhân dân, cập quyên nhuyễn loại, lai sinh ngã quốc, tất tác Bồ Tát. Ngã lập thị nguyện, đô thắng vô số chư Phật quốc giả, ninh khả đắc phủ?

VIỆT DỊCH:

Tỳ kheo Pháp Tạng nói bài kệ ấy xong liền bạch Phật rằng: – Con nay hành Bồ Tát đạo đã phát tâm Vô Thượng Chánh Giác, phát nguyện thành Phật ngõ hầu được như đức Phật. Nguyện Phật vì con rộng tuyên kinh pháp, con sẽ phụng trì, tu hành đúng như pháp, nhổ các cội rễ sinh tử nhọc nhằn, chóng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Con muốn khi mình được thành Phật, trí tuệ quang minh, quốc độ mình ở, giáo thọ danh hiệu đều nổi tiếng mười phương. Chư thiên, nhân dân và các loài bay, bò… hễ sinh về nước con đều là Bồ Tát. Nguyện con lập đây: (Cõi nước của con) thù thắng hơn vô số nước của chư Phật, có thể đạt được hay chăng?

GIẢNG:

Phía trước chúng ta xem thấy Pháp Tạng lúc còn ở nhân địa đã phát đại thệ nguyện. Đoạn kinh này, ngài dùng lối văn trường hàng để bạch Phật.

Ngã kim vi Bồ Tát đạo (Con nay hành Bồ Tát đạo). Đạo Bồ Tát là chỉ độ chúng sinh, (không vì chính mình), vì Phật pháp cửu trụ thế gian, vì thay chư Phật Như Lai phổ độ chúng sinh, đó chính là vì Bồ Tát đạo. Chỗ này là then chốt tu hành thành bại của chúng ta.

Dĩ phát Vô Thượng Chánh Giác chi tâm (Đã phát tâm Vô Thượng Chánh Giác). Mười bài kệ phía trước của tỳ kheo Pháp Tạng chính là tường thuật ngài đã phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Đây là điều quan trọng để nhập đạo, trước nhất phải phát tâm. Kinh Phật thường nói: “Nhập đạo yếu môn, phát tâm vi thủ. Tu hành cấp vụ, lập nguyện ư tiên”. Chữ “phát” ở đây chính là phát nguyện.

Thủ nguyện tác Phật(Phát nguyện thành Phật). Mục đích của Pháp Tạng là một lòng một dạ quyết phải làm Phật, nên nói:, đây chính là thành tựu phát tâm Vô Thượng. Trong Đàn Kinh, chúng ta xem thấy Đại sư Huệ Năng, khi ngài đến Hoàng Mai tham phỏng, Ngũ Tổ hỏi:

– Ông đến đây làm gì? Ngài nói: – Con đến đây nguyện làm Phật! Cho nên ngài liền thành Phật như nguyện.

Ngày nay, chúng ta đến đạo tràng để làm gì? Từ trước đến nay chưa từng nghe qua ai đến đạo tràng này để làm Phật. Không nghe nói! Cho nên không làm được! Bạn không có nguyện vọng làm Phật! Bạn không có chí khí này! Tu hành, việc cấp thiết nhất là phải lập nguyện. Chúng ta xem thấy, kinh văn vừa mở đầu chính là “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”. Phía sau trong khoa đề nhỏ: Học Pháp môn, đoạn phiền não, thành Phật đạo, độ chúng sinh. Nếu khởi tâm động niệm vẫn vì chính mình ấy là bạn trong “giác” vẫn còn mang “mê”, vẫn chưa hoàn toàn giác ngộ, chưa phải Chánh Giác! Chân thật giác ngộ phải đem mê tình đoạn tận mới được.

– Cái gì là mê tình?

– “Ngã”, “tự tư” là mê tình!

– Sau khi đoạn tận mê tình có còn phân biệt, chấp trước hay không?

– Chúng ta chưa rời khỏi thế gian, còn sống chung với  mọi người, làm sao có thể không phân biệt, không chấp trước! Giả như có người hỏi:

– Bạn là ai? – không biết!

– Bạn tên gì? – không biết!

Vậy thì không được! Biết và không biết vẫn là phân biệt! Đại sư Vĩnh Gia sau khi khai ngộ, đáp lời hỏi của Lục Tổ rằng: “Phân biệt diệc phi ý!” (Phân biệt cũng không phải là ý) vậy thì đúng! Nếu hỏi:

– Phật có phân biệt không?

– Nếu Phật không phân biệt làm sao có thể giảng kinh! Không phân biệt thì không thể giảng kinh; không chấp trước thì không thể giảng “giới”. Cho nên, Phật, Bồ Tát cũng phân biệt, cũng chấp trước, nhưng phân biệt, chấp trước đó không phải là chính ý của các ngài mà là “hằng thuận chúng sinh, tùy hỉ công đức”, cũng chính là “hòa quang đồng trần”. Nên nhớ, trong “Tứ Nhiếp Pháp” có “Đồng sự nhiếp” là đạo lý này.

Hiện tại, chúng ta cần phải đem đời sống vật chất chính mình điều chỉnh đến mức thấp nhất. Cái gọi là ba bữa cơm được no, quần áo mặc đủ ấm, một phòng nhỏ để che mưa che nắng thì đủ rồi. Đời sống tinh thần phải nâng cao được giống như chư Phật, Bồ Tát, đó là người giác ngộ.

Người thế gian không giác ngộ, đời sống vật chất của họ không ngừng nâng cao, nhưng đời sống tinh thần thì hoàn toàn trống rỗng! Nhiều nhất là ca vũ, dùng những thứ này để điều tiết, đó là những liều thuốc mê, chất độc, không hề có đời sống tinh thần! Trong kinh, Phật gọi những người này là kẻ đáng thương! Sau khi thọ mạng hết rồi, họ đi vào ác đạo!

“Tất linh như Phật” (Đều được như Phật):

Người thông minh, giác ngộ lấy Phật làm mục tiêu chuẩn mực cho sự tu học của chính mình. Hướng đến Phật, Bồ Tát học tập, mọi thứ phải học được cho giống như Phật: Khởi niệm giống như

Phật, lời nói giống như Phật, đối nhân xử thế tiếp vật đều giống như Phật. Học Phật mà không giống Phật thì học sai rồi!

Học Phật phải có trí tuệ. Nguồn gốc của phát huy trí tuệ chỉ có cách là nghe kinh và niệm Phật. Nghe kinh không niệm Phật, khai trí tuệ rất chậm! Niệm Phật không nghe kinh, khai trí tuệ cũng chậm! Nghe kinh cùng niệm Phật song hành thì trí tuệ mới khai mở nhanh chóng. Người không có trí tuệ luôn hành xử sai lầm, chính mình làm sai cũng không hay biết, còn tự cho mình làm được rất nhiều công đức, không biết chính mình đang tạo nghiệp! Đây chính là ngu si! Ngu si là đem thật cho là giả, đem giả cho là thật, không thể phân biệt tà chánh, đem chánh pháp xem thành tà pháp, đem tà pháp cho là chánh pháp, thiện ác điên đảo, lợi hại điên đảo, gọi là ngu si!

Nguyện Phật vị ngã, quảng tuyên kinh pháp, ngã đương phụng trì, như pháp tu hành (Nguyện Phật vì con rộng tuyên kinh pháp, con sẽ phụng trì, tu hành đúng như pháp): “tuyên” là tuyên giảng, “kinh pháp” là lời do kim khẩu Phật nói ra, là pháp thường hằng cho muôn đời, “phụng trì” chính là chữ “phụng hành” thường dùng, có nghĩa là “kính vâng nhận lấy” và “hành trì”. Cuối các kinh thường ghi: “Tín thọ phụng hành”, ý nói kính nhận, tuân hành, cung kính gìn giữ không mất. Chữ “như pháp tu hành” rất quan trọng! Chúng ta ngay đời này có thể thành tựu hay không, then chốt ở câu này.

Bạt chư cần khổ, sanh tử căn bản (Nhổ các cội rể sinh tử nhọc nhằn). Câu này là đoạn phiền não. “Bạt” là phải nhổ tận gốc. “Bạt chư cần khổ, sinh tử căn bản” là nhổ tận gốc rễ của sinh tử. Nếu còn tùy thuận theo phiền não, tập khí thì vẫn là mê hoặc điên đảo, chưa giác ngộ. Cho nên, mỗi ngày phải phản tĩnh. Trong nhà Phật, sám hối chính là phản tĩnh. Tịnh Tông chúng ta, thời khóa buổi tối chọn đọc kinh văn của kinh Vô Lượng Thọ từ phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy. Trong đoạn kinh văn này là nói năm giới, mười thiện giúp chúng ta phản tỉnh, bạt trừ cội gốc phiền não.

Muốn bạt trừ cội gốc phiền não, trước nhất phải nhận biết nó. Ngày nay, chúng ta vẫn chưa nhận biết rõ ràng đối với bản chất của phiền não, vẫn xem nó là bạn tốt, vẫn mỗi niệm chưa chịu rời xa nó, đó chính là ngu si. Trên kinh Phật nói: “Khi chưa chứng đắc chớ tin vào cách nhìn, cách nghĩ của mình”. A-la-hán mới là Chánh Giác. “Chánh” là không tà, không có sai lầm, cách nhìn, cách nghĩ của họ mới có thể tin tưởng. Bồ Tát là Chánh Đẳng Chánh Giác. Phật là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

– Điều kiện “Chánh Giác” của A-la-hán là gì?

– Phải đoạn hết “Kiến Tư phiền não”: “Kiến” là kiến giải, “Tư” là tư tưởng. “Kiến Tư phiền não” là cách thấy, cách nghĩ sai lầm rơi vào trong phân biệt, chấp trước. Nếu dùng lời của Kinh Kim Cang mà nói A-la-hán đã phá được bốn tướng. Thật ra Tu-đà-hoàn cũng đã lìa bốn tướng: Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng mới chứng được quả Tu-đà hoàn. Giữa A- la-hán và Tu-đà-hoàn chỉ khác nhau ở công phu cạn, sâu, rộng, hẹp mà thôi.

“Tốc thành Vô Thượng Chánh-Đẳng Chánh Giác” (Chóng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Đây là nói chứng quả; không chứng quả nhất định sẽ thoái chuyển! Phật trong kinh Đại, Tiểu thừa đều nói: Bồ Tát đến Bát Địa tức là Bất Động Địa mới không thoái chuyển. Do đây có thể biết Bồ Tát Thất Địa trở xuống vẫn còn thoái chuyển. Tuy nhiên, thoái chuyển của họ cũng có mức thấp nhất, như Tiểu thừa thoái chuyển đến mức thấp nhất là Tu-đà-hoàn. Bồ Tát Đại thừa không thể thoái chuyển đến hàng Thanh Văn, mà mức thấp nhất là “Hành Bất Thoái”. Đại Bồ Tát thoái chuyển không thể thoái hơn Sơ Địa. Sơ Địa là mức thấp nhất của họ gọi là “Niệm Bất Thoái”.

–  Vì sao họ còn thoái chuyển?

–  Vì tập khí phiền não của họ còn rất nặng! Bên ngoài mê hoặc họ không chống nổi nên thoái chuyển! Thế nhưng, tri kiến nhận biết của họ không thể thoái chuyển, chỉ vì không thể tránh khỏi mê hoặc của phiền não nên thoái chuyển, đây là biết rõ mà vẫn cố phạm! Phàm phu luôn có hiện tượng này! Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát cũng có! Trên kinh nêu ra thí dụ:

Sư Tử Giác, Vô Trước và Thiên Thân Bồ Tát là ba huynh đệ. Sư Tử Giác là huynh trưởng, công phu không tệ, được sinh lên trời Đâu Suất. Trước đó, họ hẹn nhau: Sau khi anh lên trời Đâu Suất nhớ mau quay lại báo tin. Thế nhưng, sau khi Sư Tử Giác đi rồi, rất nhiều năm vẫn không có tin tức! Đến lượt Bồ Tát Vô Trước vãng sinh đến Đâu Suất Nội Viện, sau ba năm mới trở lại gặp Thiên Thân. Thiên Thân là tiểu đệ, Bồ Tát Thiên Thân nói với ngài:

– Huynh đi sao lâu quá vậy? Bồ Tát Vô Trước nói:

– Ta chỉ đi một vòng Trời Đâu Suất thì lập tức quay về. Trời Đâu Suất một ngày bằng nhân gian chúng ta bốn trăm năm. Thiên Thân bèn hỏi thăm về Sư Tử Giác. Ông nói: -Sư Tử Giác đã bị những thiên nữ mê hoặc rồi! Chưa hề đến Nội Viện! Hiện đang ở Đâu Suất Ngoại Viện hưởng năm dục sáu trần. Dục lạc nơi đây, cõi phàm phu không thể sánh được, ngay cả trời Đao Lợi, trời Dạ Ma cũng không thể sánh bằng. Việc này chứng tỏ Bồ Tát vẫn còn bị thoái chuyển, đừng nói chi đến Thanh Văn càng dễ dàng thoái chuyển. Đây chính là không ngăn nổi mê hoặc của vật chất.

Vào thời đại này, nếu muốn ngay trong một đời “tốc thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”, ngoài Niệm Phật vãng  sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc ra, như lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói: Tu học bất cứ pháp môn nào đều không thể thành tựu! Thứ nhất là do căn khí con người quá thấp kém không như người xưa. Thứ hai do hoàn cảnh hiện tại ác liệt hơn thời xưa rất nhiều; cũng chính là nói năm dục sáu trần mạnh hơn thời xưa gấp trăm, ngàn lần, bạn có năng lực vượt qua không?!

–  Chân thật thành tựu chỉ có “Đới nghiệp vãng sinh”. Singapore, đạo tràng này tuy ở nơi đô thị náo nhiệt, nhưng rất khó được! Trong chỗ động mà có tịnh. Bạn chân thật muốn thành tựu đạo nghiệp thì chớ nên đi ra ngoài; ra ngoài cửa lớn là lò ô nhiễm. Bạn ở trong này, sáu căn tiếp xúc đều là Phật pháp, đều là Chánh pháp. Thường trụ nơi đây chăm sóc đại chúng rất chu đáo, chúng ta phải tri ân, báo ân.

– Làm thế nào để báo ân?

– Thành thật Niệm Phật, như pháp tu hành là chân thật báo ân.

Năm xưa, chùa Quốc Thanh, câu chuyện này có rất nhiều người biết: Văn Thù, Phổ Hiền làm công quả trong nhà bếp; A Di Đà Phật giả gạo trong nhà kho; Phật, Bồ Tát đến cúng trai! Đạo tràng này của chúng ta cũng không ngoại lệ! Cũng có chư Phật, Bồ Tát đến cúng dường! Mọi người vạn nhất không nên tìm hiểu: người công quả trong nhà bếp, ai là Phật, Bồ Tát tái lai? Chúng ta đều không biết! Họ cũng không chịu nói! Chúng ta chỉ duy nhất một việc là cung kính tất cả, vạn nhất không nên đắc tội! Có thể A Di Đà Phật đang đốt lửa, ở đó xào rau, nếu bạn đắc tội, là đắc tội ngay trước mặt Phật, còn muốn vãng sinh đến thế giới Cực Lạc hay sao? Tôi nói đây là lời thật, rất là có thể! Nhất là thời mạt pháp, đạo tràng hi hữu khó gặp này!

Tóm lại, nhất định phải phát tâm vãng sinh Tịnh Độ. Đại sư Ngẫu Ích nói: Có thể vãng sinh hay không quyết ở nơi Tín Nguyện bạn có hay không? Phẩm vị cao thấp là do công phu Niệm Phật của bạn sâu hay cạn.

– Công phu Niệm Phật sâu hay cạn là như thế nào?

– Câu Niệm Phật của bạn chân thật có thể hàng phục được phiền não đó là công phu sâu. Nếu niệm Phật mà không khống chế được phiền não là công phu cạn.

Nên nhớ: Ngày ngày nghe kinh là tăng trưởng tín tâm, tăng trưởng nguyện tâm. Ngày ngày niệm Phật là tăng cao phẩm vị. Thế gian này là giả! Danh vọng lợi dưỡng, công danh phú quí là một mảng không, đến sau cùng chẳng mang theo được thứ gì! Chỉ có Niệm Phật, công phu sâu cạn thì nhất định có thể mang đi. Hơn nữa, nếu không như pháp tu hành, ta có lỗi với chúng sinh. Ta sớm một ngày thành tựu, chúng sinh sớm được một ngày lìa khổ được vui. Ta trễ một ngày thành tựu, chúng sinh thêm một ngày chìm ngập khổ đau. Đây là sứ mạng, nghĩa vụ của người học Phật luôn nghĩ đến chúng sinh.

Dục linh ngã tác Phật thời, trí tuệ quang minh, sở cư quốc độ, giáo thọ danh tự, giai văn thập phương (Con muốn khi mình được thành Phật, trí tuệ quang minh, quốc độ mình ở, giáo thọ danh hiệu đều nổi tiếng mười phương): Đây là “phổ văn”, là căn bản của nguyện thứ mười bảy “chư Phật khen ngợi”, nguyện thứ mười tám “mười niệm ắt vãng sinh” và nguyện thứ mười chín “nghe tên phát tâm” trong bốn mươi tám nguyện. “Phổ văn” ở đây là vì lợi ích chúng sinh, không phải vì chính mình háo danh muốn nổi bật tên tuổi, đây là tâm phàm phu làm việc luân hồi.

– Vì sao phải “Phổ văn”?

– Có “Phổ văn” mới có thể nhiếp thọ, lợi ích tất cả chúng sinh.

Chúng sinh ở mười phương nhờ nghe danh hiệu Phật  liền phát khởi tâm Bồ Đề, một dạ chuyên niệm; thậm chí chỉ mười niệm cũng đều được vãng sinh. Như vậy, chúng sinh đắc độ trước hết là do nghe danh. Nên nhớ: “Phổ văn” này phải xứng với thực chất, không phải là hư danh, mà phải chân thật là người có đức hạnh mới có thể giúp tất cả chúng sinh. Chữ “quang minh” ở đây là đức dụng của trí tuệ. Quang minh phổ chiếu là trí tuệ của Phật có thể lợi ích tất cả chúng sinh. Ý nghĩa trong đây thật vô cùng sâu rộng.

– Để giúp chúng sinh nhận biết Phật pháp, lý giải Phật pháp và tu học Phật pháp, chúng ta phải dùng cách gì?

– Duy nhất chính là truyền pháp!

Hiện tại, chúng ta lợi dụng đường truyền. Tương lai nếu có cơ duyên, có thể lợi dụng truyền hình vệ tinh phóng “đại quang minh”. “Trí tuệ quang minh”, chúng ta phải từ chỗ này mà nhắm đến, từ chỗ này mà cấu tưởng.

Sở cư quốc độ”, đây chính là thôn Di Đà. Lần đầu tiên tôi có khái niệm này là vào năm 1983, đã nghĩ đến hơn mười năm. Hiện tại, cư sĩ Lý Mộc Nguyên phát tâm thực hiện thôn Di Đà. Đây là việc tốt nhưng cũng nhiều dày vò! Vấn đề là chúng ta phải chân thật quyết tâm, phải có nghị lực, thật sự vì chúng sinh thì mới có cảm ứng. Nếu trong đây còn có tâm riêng tư thì ma liền chướng ngại!

– Việc tốt nhiều dày vò! Vì sao vậy?

– Ma đố kỵ!

Có thể biết tâm đố kỵ chính là ma, tâm ma! Tâm “tham-sân- si” cũng là ma! Họ sẽ đến nhiễu loạn, chướng ngại bạn. Thôn Di Đà sau khi xây xong, chúng ta sẽ ở đó làm công quả, không phải đến để hưởng thụ quyền lợi.

Dưỡng lão là một đại sự nghiệp. Xã hội phương tây ngày nay chăm sóc người già chỉ trên phương diện hình thức, không có đời sống tinh thần. Tuy một số viện dưỡng lão mỗi tuần cũng có một tiết mục ca vũ biểu diễn, người già đều sẽ tham gia. Nhưng thực tế, đó cũng là quá ít!

Chúng ta đến tham quan viện dưỡng lão, xem thấy người già, đời sống tinh thần họ rất thống khổ, làm thế nào có thể giúp họ? – Phải giúp họ đạt đến mục tiêu cao nhất của tôn giáo họ. Mục tiêu thôn Di Đà chúng ta là giúp họ vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Phải giảng cho họ nhận biết rõ ràng về thế giới Tây Phương Cực Lạc, khiến họ sinh tâm hoan hỉ, ngưỡng vọng, mới chịu niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Cũng thế, viện dưỡng lão Ky-tô giáo, hay bất cứ tôn giáo nào cũng đều phải giúp những người già này chân thật đạt đến được thiên đường của họ. Nếu họ không thể đến thiên đường, bạn có thành lập viện dưỡng lão cũng là vô nghĩa!

Cho nên, giáo dục tôn giáo rất là quan trọng! Giáo dục này là giáo dục siêu phàm nhập thánh. Lúc trẻ, họ không có cơ hội học, tuổi già chúng ta phải tận lực giúp họ tiếp nhận giáo dục này. Ngày nay, mọi người có thể ra tiền, ra sức mà thành tựu thôn Di Đà, thành tựu “sở cư quốc độ” của chúng ta.

Lần này, tôi đến Trung Quốc, có số đồng tu nói với tôi, ở Thượng Hải nghe nói tôi qua họ rất hoan hỉ. Tháng sau, chính phủ thành phố Thượng Hải muốn mời tôi cùng cư sĩ Lý qua thăm một chuyến, đến để nói về việc của thôn Di Đà. Họ nghe nói đến thôn Di Đà thì rất có hứng thú, vì người già mỗi ngày càng nhiều, làm thế nào giúp họ trải qua cuối đời được hạnh phúc mỹ mãn; họ hy vọng chúng ta đem cấu tưởng của thôn Di Đà giới thiệu cho họ. Cho nên,

vì sự việc này chúng ta phải đến Thượng Hải, đem khái niệm của thôn Di Đà hoằng dương đến toàn thế giới. Từ thôn Di Đà tiếp dẫn thông vãng đến thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Giáo thọ danh tự, giai văn thập phương(Việc dạy dỗ, danh hiệu đều nổi tiếng khắp mười phương): Trong đây có người, có “pháp”. Tên tuổi của người chính là ngày nay chúng ta gọi là Tây Phương Tam Thánh gồm có: A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát. “Pháp” là chỉ “Tịnh Độ ba kinh”: Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Kinh A Di Đà. Về sau, chư Tổ, đại đức đem Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện cùng Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông chương thêm vào phía sau ba kinh, trở thành “Tịnh Độ năm kinh”. Lại thêm phần Vãng Sinh Luận của Bồ Tát Thiên Thân. Đây là Bồ Tát Thiên Thân báo cáo tâm đắc tu học Tịnh Độ. Cho nên, toàn bộ kinh điển Tịnh Tông hiện tại gồm có năm kinh một luận.

Hai câu trên đây là căn bản của nguyện thứ mười bảy “chư Phật khen ngợi”. Chúng sinh đắc độ trước hết nhờ được nghe danh. Nhờ được nghe danh đức Phật A Di Đà, biết được đại nguyện độ sinh của ngài, nhất là nguyện thứ mười tám “Mười niệm ắt vãng sinh”. Vì vậy, họ mới phát tâm nguyện sinh về thế giới Cực Lạc, một đời thành Phật.

Trong phán khoa nói rất rõ: Chánh báo diệu, y báo diệu, danh hiệu diệu. Ý nghĩa chữ “diệu” này rất sâu, chân thật là “diệu” đến không thể nghĩ bàn! Nếu không thể thâm nhập kinh tạng, thâm giải nghĩa thú, không thể nào biết được ba chỗ “diệu” này. Ba thân của A Di Đà Phật (Pháp Thân, Báo Thân, Hóa Thân) không chỉ là “giai văn thập phương” mà còn biến chiếu khắp mười phương pháp giới, không chỗ nào không có, đây là “Chánh báo diệu”. “Sở cư quốc độ” là thế giới Tây Phương Cực Lạc; nhiếp thọ tất cả chúng sinh

Niệm Phật từ mười phương ba đời thế giới chư Phật, đây là “Y báo diệu”. Tất cả chúng sinh ở mười phương thế giới chỉ nương vào câu Phật hiệu “A Di Đà Phật” mà được vãng sinh về Tây Phương Cực Lạc, công đức danh hiệu thật chẳng thể nghĩ bàn! Đây là “Danh hiệu diệu”.

Chư thiên nhân dân cập quyên nhuyễn loại, lai sinh ngã quốc, tất tác Bồ Tát(Chư thiên nhân dân và các loài trùng, bay, bò v.v… sinh về cõi tôi đều thành Bồ Tát): Câu này ý nói A Di Đà Phật bình đẳng tiếp thọ tất cả chúng sinh về Tây Phương Cực Lạc, trong đó không có Nhị thừa mà chỉ là Bồ Tát, đều thuộc về Nhất thừa nguyện hải, đây quả thật là Tịnh Độ siêu thắng không gì bằng! Phía trước đã nói: Pháp môn này là bình đẳng thành Phật, dễ tu, dễ chứng, dễ hành; nếu chân thật tin tưởng, quyết tâm Niệm Phật không xen tạp, không gián đoạn, phát nguyện vãng sinh, bạn chắc chắn sẽ thành tựu.

Có một loại người không thể tiếp nhận, họ nói Tây Phương Cực Lạc là Thích Ca Mâu Ni Phật nói để an ủi những ông bà cụ, an ủi một số người không tri thức. Họ nêu ra: Địa cầu là tròn, nếu ngồi phi cơ bay về hướng Tây suốt mấy tiếng đồng hồ cuối cùng vẫn là quay trở lại, vậy Tây phương rốt cuộc ở chỗ nào?! Có rất nhiều vấn đề kỳ lạ cổ quái, chỉ có người chân thật mới có được lợi ích. Thực tế, đức Phật giáo hóa chúng sinh, bao gồm tất cả pháp môn, không pháp nào mà không phải là pháp phương tiện, riêng pháp môn Tịnh Độ đặc biệt được tất cả chư Phật Như Lai tán thán.

Chúng ta nhất định không hoài nghi, Tây Phương ở chỗ nào không hề gì! Phật A Di Đà đến tiếp dẫn hà tất phải tìm phương hướng! Chúng ta đến một nơi xa lạ, người tài xế đến tiếp chúng ta, có cần hỏi họ đi qua con đường nào, phương hướng nào chăng? Tuyệt đối không cần! Ngồi xe họ thì sẽ đến. Tu pháp môn này cũng vậy, khi lâm chung A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, đâu cần phải hỏi phương hướng.

Nên biết: Phật nói Tây Phương, đây là phương tiện nói. Phật biết tâm phàm phu cạn cợt luôn phải có chỗ trụ ở một phương hướng, một mục tiêu; nếu không xác định rõ họ sẽ cảm thấy quá mông lung, mơ hồ, rất khó mà tin nhận. Cho nên Phật phải tùy thuận căn khí của chúng sinh mà chỉ ra phương hướng. Người xưa nói: Tây phương mà Phật nói không phải là hướng Tây của địa cầu mà là hướng tây của thế giới Ta Bà. Chúng ta nhất định không hoài nghi lời Phật dạy, y theo lời Phật chúng ta tu hành nhất định sẽ thành tựu.

Ngã lập thị nguyện đô thắng chư Phật quốc giả, ninh khả đắc phủ(Nguyện con lập đây (cõi nước của con) thù thắng hơn vô số cõi nước chư Phật, có thể đạt được hay không?). Thoạt tiên, đọc đến câu này tôi cảm thấy bàng hoàng, chấn động rất lớn. Trước đây, tôi rất khâm phục Lục Tổ, ngài đích thật khác người! Ngài đến Hoàng Mai đảnh lễ Ngũ Tổ. Ngũ Tổ hỏi: Ông đến để làm gì? Con đến để làm Phật! Câu nói này khiến tôi giựt thoát cả người!

Thông thường mọi người đến chùa, miếu lễ Phật là để cầu thăng quan, phát tài, cầu tiêu tai khỏi nạn; trước giờ chưa hề nghe qua người nào đến để làm Phật! Bây giờ, đọc đến câu kinh văn này: Rõ ràng Lục Tổ vẫn không bằng ngài. Lục Tổ Huệ Năng chỉ nói làm Phật; chỗ này Pháp Tạng nói: Ngài muốn làm Phật mà còn siêu việt tất cả chư Phật! Lục Tổ muốn làm Phật, chân thật ngài đã thành tựu. Pháp Tạng muốn làm Phật, siêu thắng tất cả chư Phật, ngài cũng đã thành tựu.

KINH VĂN:

Thế Gian Tự Tại Vương Phật, tức vị Pháp Tạng nhi thuyết kinh ngôn: -Thí như đại hải nhất nhân đấu lượng, kinh lịch  kiếp số thượng khả cùng để. Nhân hữu chí tâm cầu đạo, tinh tấn bất chỉ, hội đương khắc quả, hà nguyện bất đắc. Nhữ tự tư duy, tu hà phương tiện, nhi năng thành tựu Phật sát trang nghiêm. Như sở tu hành, nhữ tự đương tri, thanh tịnh Phật quốc, nhữ ưng tự nhiếp.

VIỆT DỊCH:

Thế Gian Tự Tại Vương Phật liền vì Pháp Tạng mà nói kinh rằng: – Ví như có kẻ dùng đấu đong biển cả, trải qua bao kiếp số còn có thể đến tận đáy. Người chí tâm cầu đạo, tinh tấn chẳng ngơi ắt đều thành công, nguyện gì chẳng đạt được. Ông tự suy nghĩ tu phương tiện nào để thành tựu được cõi Phật trang nghiêm. Việc tu hành như thế ông nên tự biết, đối với việc thanh tịnh cõi Phật ông nên tự nhiếp.

GIẢNG:

Đại ý đoạn kinh này là Thế Gian Tự Tại Vương Phật bảo Pháp Tạng rằng: “Thí như đại hải nhất nhân đấu lượng, kinh lịch kiếp số thượng khả cùng để” (Ví như có kẻ dùng đấu đong biển cả, trải qua bao kiếp số còn có thể đến tận đáy): Ý nói giả sử có người dùng đấu để đong nước trong biển cả, dẫu trải qua thời kiếp lâu xa vẫn có thể thấy được tột cùng đáy biển. Người có tâm chí thành cầu đạo, tinh tấn chẳng ngơi ắt sẽ đắc quả. Mấu chốt ở đây là hai chữ “chí tâm”. Thí dụ trên nhắn nhủ chúng ta phải có nghị lực, có sự quyết tâm kiên trì mới có thể thành công.

Hội đương khắc quả”: Chữ “hội” này, ngài Nghĩa Tịch giảng là “giai dã”, nghĩa là “đều”. Ngài Cảnh Hưng giảng là “diệc tất dã” nghĩa là “ắt cũng”. Chữ “khắc” có nghĩa là đạt được, ắt hẳn, toại nguyện. “Khắc quả” là cầu được, có nguyện tất thành.

Người thế gian cầu học, tu tập, tâm quá gấp, chỉ hy vọng việc mau thành, tâm lý này phạm lỗi rất lớn. Người xưa thường nói “dục tốc bất đạt”! Chăm chỉ nỗ lực một thời gian thấy chưa thành tựu thì buông bỏ, lại tìm pháp môn khác! Thường hay thay đổi, đổi vài lần đã đến tuổi già, kết quả chẳng thành tựu được môn nào! Muốn làm ra thành tích, nhất định phải một môn thâm nhập, tinh tấn không ngừng.

Hội đương khắc quả, hà nguyện bất đắc”: Câu nói này Phật không chỉ là an ủi mà còn khích lệ Pháp Tạng: Ông nhất định sẽ thỏa nguyện, chỉ cần tinh tấn thì nguyện gì mà chẳng thành.

Nhữ tự tư duy, tu hà phương tiện, nhi năng thành tựu Phật sát trang nghiêm. Như sở tu hành, nhữ tự đương tri, thanh tịnh Phật quốc, nhữ ưng tự nhiếp”. (Ông tự suy nghĩ tu phương tiện nào để thành tựu được cõi Phật trang nghiêm. Việc tu hành như thế ông nên tự biết, đối với việc thanh tịnh cõi Phật ông nên tự nhiếp). Đoạn khai thị này, đức Phật không trực tiếp đáp lời tỳ kheo Pháp Tạng, lại dùng đến ba chữ “tự”: “Nhữ tự tư duy” (ông tự suy nghĩ), “nhữ tự đương tri (ông nên tự biết), “nhữ ưng tự nhiếp” (ông nên tự nhiếp). Ý nghĩa ba chữ “tự” này rất thâm sâu, ngầm bảo: Tất cả pháp không thể cầu ở ngoài tâm, cầu ngoài tâm là sai! Phật Giáo nói “ngoài tâm cầu pháp gọi là ngoại đạo”; “ngoại đạo” ở đây không phải phê bình người khác, mà ý nói chớ cầu nơi người khác, phải cầu ở khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác của chính mình, như vậy có nguyện tất sẽ thành. Tâm thế nào, hành vi sẽ thế đó, quả báo cũng là như vậy, đều do chính mình cầu được.

Sách Hội Sớ, ngài Tuấn Đế người Nhật đã giải thích như sau: “Câu ‘nhữ tự đương tri’ có ý giống như ba lượt ngăn không cho nói trong Kinh Pháp Hoa (Pháp Hoa tam chỉ). Nghĩa lý đó sâu xa quá, chẳng thể nói một cách dễ dàng được”. Thuyết này rất hay! Câu kinh “chỉ chỉ, bất tu thuyết” (thôi thôi, không cần phải nói) của Kinh Pháp Hoa có cùng ý nghĩa với câu này.

–  Vì sao không cần phải nói?

–  Vì những gì bạn hỏi, đáp án đều ở nơi bạn, không ở nơi khác, chỉ cần bạn quay đầu là hiểu.

Lục Tổ Huệ Năng bảo: “Mật tại nhữ biên” (Điều ẩn mật ở ngay nơi ông). Nguyên nhân câu nói này của Lục Tổ là do ngài Huệ Minh hỏi. (Ngài Huệ Minh trước khi xuất gia là một vị tướng quân Tứ phẩm). Chúng ta biết rằng sau khi Huệ Năng được truyền y bát, Ngũ Tổ bảo ngài phải lập tức ra đi, đến phương Nam trốn, đừng để người khác biết. Sau đó, mọi người chia nhau đi tìm. Huệ Minh tìm thấy Lục Tổ, mục đích là muốn lấy lại y bát. Đại sư Huệ Năng rất thông minh, đặt y bát trên một tảng đá, còn mình thì trốn: Ngươi có thể lấy y bát, còn ta giữ tánh mạng. Nào ngờ, Huệ Minh đến lấy y bát nhưng không nhấc lên được! Lập tức, ông sám hối biết đây không phải là việc tùy tiện, liền chuyển ý mời ngài Huệ Năng ra: – Hiền giả! Tôi đến đây không phải vì y bát mà đến để cầu pháp.

Đại sư Huệ Năng đi ra. Huệ Minh hỏi Lục Tổ:

– Khi ngài ở Hoàng Mai, thầy dạy ngài như thế nào?

– Thầy dạy tôi và dạy ông giống nhau cả thôi!

– Còn có mật ý nào chăng?

– Bí mật ở nơi ông!

Huệ Minh liền khai ngộ! Chỉ một câu nói đã thức tỉnh Huệ Minh (Trong hội của Đại sư Huệ Năng, trong số bốn mươi ba người khai ngộ có cả Huệ Minh). Vì sao vậy? Vì chân thành đến cực điểm, quay đầu là bờ! Nhất niệm quay đầu đó là chân tâm, không phải vọng tâm, vừa điểm đến là tỉnh ngộ ngay.

Các bậc cổ Thiền đức nói: “Nhữ tự hội thủ hảo, ngã bất như nhữ” (Ông tự biết lấy điều tốt, ta không bằng ông) cũng chính là nghĩa của ba chữ “tự” trong kinh này. Đây đều là lời thật, người thường nghe không hiểu!

-“Tôi không bằng ông”, vậy tôi có thể giúp được ông chăng?

– Ngay Phật cũng không thể giúp!

– Ai có thể giúp?

– Nâng cao cảnh giới là việc của chính mình! Phật chỉ có thể nhắc nhở bạn, làm “tăng thượng duyên” cho bạn, nhưng “thân nhân duyên”, “sở duyên duyên”, “vô gián duyên” nhất định là chính bạn phải đầy đủ. Bản thân không đầy đủ ba duyên này, Phật có làm “tăng thượng duyên” cho bạn cũng không lợi ích, có chăng chỉ là trồng chút hạt giống Phật pháp trong A-lại-da của bạn mà thôi, trong đời này bạn không dùng đến được.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không, ba chữ “tự” này là khai đạo của Phật đối với Pháp Tạng, gần như hoàn toàn giống với “Thiền Cơ” trong Thiền tông; đây có thể biết, Pháp Tạng không phải là người thông thường. Theo ngài Tuấn Đế, câu nói trên còn có ba nghĩa:

1. “Từ xưa Pháp Tạng Bồ Tát đã gieo trồng thiện căn sâu dày, cao tài dũng triết, siêu dị hơn đời”. Đối với việc nghiêm tịnh Phật quốc, ngài đã rõ thấu từ lâu. Do trí Phật không gì không biết nên ngài dạy: ‘ông biết như thế nào thì cứ thực hành như thế’ (Điều này cũng chứng minh rằng Pháp Tạng là từ quả hướng nhân).

2. “Nhiếp thủ Phật quốc đều tùy theo ý thích: Hoặc chọn lấy uế độ, hoặc cầu cõi thanh tịnh, hoặc dung nhiếp tam thừa, hoặc nguyện Nhất Thừa. Vì vậy, tùy lòng ưa thích của Bồ Tát mà chọn lấy, chẳng cần tuân theo ý chỉ của Như Lai”. Câu này nói lên sự lấy bỏ, chọn lựa là việc của chính mình, người khác không thể miễn cưỡng mình được.

Chúng ta ngày nay “nhiếp thủ cõi Phật” là kiến tạo đạo tràng.

– Kiến lập đạo tràng có cần hỏi Phật, hỏi người khác chăng?

– Không cần thiết mà tùy theo tâm bạn!

Như đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã chọn uế độ là cõi ngũ trược Ta Bà này. Khi Phật còn tại thế, phương thức sinh hoạt là khất thực:

– Tôn giả Đại Ca Diếp:

Chuyên đến nhà bần cùng khất thực. Hỏi ngài vì sao? -Vì họ quá đáng thương, quá khổ. Tôi đến nhận sự cúng dường của họ để vun bồi phước đức cho họ. Đây là tâm tốt!

– Tôn giả Tu Bồ Đề:

Chuyên đến nhà giàu sang khất thực. Hỏi ngài vì sao? -Vì giàu sang khó được! Nếu không tạo thêm cho họ chút phước, họ hưởng hết phước thì sau này sẽ không còn! Cả hai ngài đều có đạo lý, xuất phát từ tâm đại từ bi, các ngài không vì chính mình!

3. “Phàm là cõi Tịnh Độ, ắt có cõi là báo độ hay hóa độ. Pháp, Báo cao diệu, Bồ Tát chẳng có phần, chỉ nên thuận theo sức mình mà nhiếp thủ, nên bảo: ‘ông nên tự biết”.

Ý nói chỗ Pháp Thân và Báo Thân Phật ở là cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ và Thật Báo Trang Nghiêm Độ thật quá ư cao diệu, Bồ Tát cũng không có phần. “Chỉ nên thuận theo sức mình”, ý nói những việc thuộc về Pháp Thân vượt khỏi khả năng của Bồ Tát, phàm phu chẳng thể lãnh hội được nghĩa lý này, nên nói: “ông nên tự biết”. Trong đoạn kinh kế tiếp sau đây, Pháp Tạng Bồ Tát lại thỉnh cầu lần nữa.

Tóm lại, ba chữ “tự” trên đây, theo Hòa Thượng Tịnh Không, là “trực chỉ nhân tâm”, phải cầu ngay nơi tự tánh. Hướng vào tự tánh mà cầu mới được “hữu cầu tắc ứng”.