Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VII. QUỐC GIỚI NGHIÊM TỊNH ĐỆ THẬP NHẤT
(TT)

Vĩnh vô chúng khổ chư nạn, ác thú ma não chi danh” (Vĩnh viễn không có danh từ các khổ, các nạn, đường ác, ma não loạn) đều do sức công đức thành tựu của Phật A Di Đà chiêu cảm vậy.

Chúng khổ”: là sự khổ rất nhiều. Trong các kinh luận thường nói ba khổ, tám khổ v.v…

Ba khổ là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.

1. Khổ khổ: Mang thân hữu lậu này đã là khổ, lại thêm các nỗi khổ bức bách thân tâm, ép bức của hoàn cảnh, cho nên đã khổ mà lại thêm khổ, nên gọi là “khổ khổ”.

2. Hoại khổ: Thế gian này không có niềm vui nào chân thật, lâu dài; ngay lúc niềm vui tan biến đã không ngăn nỗi ưu não nên gọi là “Hoại khổ”

3. Hành khổ: Là chẳng khổ, chẳng vui nhưng do niệm niệm lưu chuyển đổi dời nên bảo là “Hành khổ”. Đây là cái khổ của thiên nhân trong cõi trời Vô Sắc.

Ở Dục giới, cả ba khổ đều có đủ. Cõi trời Sắc giới, nhờ sức Định của họ chế ngự được tập khí phiền não nên phiền não không khởi hiện hành, nhờ vậy họ không có “Khổ khổ”, chỉ có “Hoại khổ” và “Hành khổ”. Cao hơn nữa là chư thiên trong cõi trời Vô Sắc giới (còn gọi là Linh giới), họ không có thân thể, cũng không cần chỗ ở, cung điện, phòng, nhà nên họ không có “Khổ khổ” và “Hoại khổ” nhưng họ có “Hành khổ”. “Hành khổ” nghĩa là cảnh giới của họ không thể duy trì vĩnh viễn.

Chư thiên trong cõi trời Vô Sắc giới tu “Vô Sắc giới Định”, còn Sắc giới thiên tu “Tứ thiền”. Chư thiên ở cõi Vô Sắc giới có Bát Định, họp lại gọi là “Tứ thiền, Bát Định”. Công phu Thiền định của họ có kỳ hạn, cao nhất là trời. “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng”, Định công của họ có thể duy trì đến tám vạn Đại kiếp. Hết tám vạn đại kiếp thì Định của họ sẽ mất đi. Chỉ cần mất Định thì tập khí phiền não trong họ lại xuất hiện, họ không thể vĩnh viễn duy trì không thay đổi nên gọi là “Hành khổ”. Trên Kinh Pháp Hoa, Phật dạy: “Tam giới vô an do như hỏa trạch” (tam giới không an ổn, ví như nhà lửa), cả ba cõi đều khổ!

Trời “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng”, sau tám vạn Đại kiếp, cuối cùng vẫn bị biến diệt! Trong mắt phàm phu chúng ta cho rằng thời gian tám vạn đại kiếp là quá dài. Nhưng, trong cảnh giới của họ, tám vạn đại kiếp như là một sát-na! Như người thế gian chúng ta nhìn thấy côn trùng phù du trên mặt nước, chúng có thể qua lại trên mặt nước chỉ vài tiếng đồng hồ. Vài tiếng đồng hồ đó là một đời của chúng! Chúng thấy con người có thể sống quá dài đến một trăm tuổi, như chúng ta thấy chư thiên ở cõi trời “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng”, không có gì khác biệt.

Nhìn lại cõi nhân gian chúng ta, khi con người sống đến tám, chín mươi tuổi cảm thấy một trăm năm quá nhanh như một khảy móng tay! Cho nên chúng ta có thể lãnh hội được trong cảm giác của chư thiên ở trời “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng”, tám vạn đại kiếp đối với họ cũng chỉ là một sát-na! Cho nên đức Thế Tôn vì chúng ta mà tổng kết: Thế gian này là vô thường, là khổ, là không, thật bất  khả đắc! Điều gì cũng không đạt được! Nếu không gặp được Phật pháp làm sao biết được! Phật pháp thật sự có thể giúp chúng ta liễu sinh thoát tử, ra khỏi ba cõi. Đây là đại sự nhân duyên, không phải là việc nhỏ. Cư sĩ Bành Tế Thanh cũng nói: “Việc này là vô lượng kiếp đến nay, hi hữu gặp được ngày này”.

Chúng ta biết, cư dân cư trú trên địa cầu hiện nay có khoảng sáu mươi lăm ức đến sáu mươi bảy ức, có mấy người được nghe Phật pháp? Quá ít! Chúng ta ngày nay dùng công cụ của khoa học, kỹ thuật cao như vệ tinh, internet, băng đĩa, khiến số người có cơ hội nghe được Phật pháp nhiều hơn. Nếu không có những thứ này, thử nghĩ xem! Được mấy người có thể nghe pháp?! Thật sự quá khó! Đem Phật pháp viết thành kinh điển, thành chú giải lưu thông số lượng cũng không nhiều, được bao nhiêu người xem?! –Trong mười quyển mới có một người xem cũng không tệ rồi! Nếu văn tự khó, nghĩa lý thâm sâu, họ xem không hiểu sẽ không hứng thú đọc, vì vậy người xem lại càng ít!

Đừng tưởng người ngày nay niệm Phật rất nhiều! Tỉ mỉ quan sát, người thật sự niệm Phật không nhiều; người giả niệm Phật thì rất nhiều!

– Thế nào gọi là chân niệm Phật?

– Là quyết tâm cầu sinh Tịnh Độ! Giả niệm Phật là cầu danh văn lợi dưỡng của thế gian, cầu thăng quan phát tài, cầu gia đình bình an. Đây là giả niệm Phật, không phải chân niệm Phật. Thật sự niệm Phật là “Chế tâm một chỗ”, không phải là tâm tán loạn. Giả niệm Phật là tâm tán loạn, năng lượng không thể tập trung!

Ngày nay chỉ có thể khuyên chư vị đồng học Tịnh Độ, mỗi ngày trên tivi, trên mạng internet xem chúng tôi chia sẽ về “Đại Kinh giải diễn nghĩa”. Hy vọng mọi người đều phát tâm: Chỗ ở của chính mình, gia đình mình, đạo tràng mình thật sự thực hành, phát tâm vô thượng Bồ Đề, một lòng chuyên niệm, buông bỏ vạn duyên, không nghĩ đến điều gì cả, nhất tâm chỉ nghĩ đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, chỉ nghĩ đến Phật A Di Đà. Dùng năng lượng này, công đức này hồi hướng cho cư dân trên địa cầu, cho sơn hà đại địa giảm nhẹ thiên tai, còn việc hóa giải thì chúng ta biết rằng năng lực mình không đủ! Việc này không thể đợi mà phải thực hiện ngay bây giờ.

Khi tôi giảng kinh thường nói: Chính tôi mỗi ngày đều xem sinh mạng mình hôm nay là ngày cuối. Ngày mai tôi có thể không còn! Ngày cuối cùng này tôi phải buông bỏ hết vạn duyên, nhất tâm niệm Phật. Ngoài việc niệm Phật ra tôi còn phải đọc kinh, đọc chú giải của Kinh Vô Lượng Thọ, chia sẻ Phật pháp với mọi người. Pháp hỉ sung mãn! Thường sinh tâm hoan hỉ, vui vì những việc này nên không thấy mệt, mỗi ngày không luống qua một cách vô ích. Cảnh giới bên ngoài tuy không tiếp xúc, nhưng nếu có người nhắc đến thì trong tâm tôi liền hiểu rõ, không dám nói là chiếu kiến pháp giới, nhưng có cảm ứng.

Cõi Cực Lạc vĩnh viễn không có ba khổ. Đại Sư Liên Trì trong Sớ Sao viết:

1. “Bỉ quốc ly dục, thanh tịnh tắc vô khổ khổ” (Cõi ấy ly dục, thanh tịnh nên không có khổ khổ):

“Bỉ Quốc” là thế giới Cực Lạc, ở đó tất cả người vãng sinh đều ly dục nên không có “khổ khổ”. Đây là thông tin quan trọng! Nếu “Ngũ dục lục trần”, “tham sân si mạn nghi” chưa rời được, tâm sẽ không thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh thì không thể vãng sinh!

2. “Y chánh thường nhiên tắc vô hoại khổ” (y báo, chánh báo luôn tồn tại, bất biến nên không có hoại khổ).

Kiến trúc thời cổ đại rất được ưa chuộng: Xây dựng một ngôi nhà chí ít cũng dùng được ba trăm năm. Dụng cụ trong gia đình gọi là hồng mộc gia cụ như bàn, ghế, giường, phản, ít nhất cũng dùng được một trăm năm. Người xưa rất biết tiết kiệm, tiết kiệm là mỹ đức, là tánh đức, không giống như người ngoại quốc chỉ xem trọng mỹ quan nên thường thay đổi, nhà cửa của họ không tránh được gió táp mưa sa! Còn tướng hợp diện của nhà xưa, có nhà tồn tại đến bây giờ, đã hơn một ngàn năm, sử dụng rất tốt! Tuy một ngàn, hai ngàn năm vẫn hư hoại, cũ đi từng ngày! Đó là vô thường! Là Hành khổ! Là Hoại Khổ! Thân thể ta cũng vậy, tuy sống một trăm năm nhưng mỗi ngày một già đi, biến hoại từng ngày, không thể duy trì! Nhưng ở thế giới Cực Lạc, bất luận là y báo hay Chánh báo đều thường trụ bất biến, vĩnh viễn không có hư hoại. Đây là không có “Hoại khổ”.

3. “Siêu quá tam giới tắc vô Hành khổ” (Vượt thoát tam giới nên không có “Hành khổ”).

Tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, nói theo tôn giáo Tây phương là sinh về cõi vĩnh hằng, vĩnh sanh; nói theo thuật ngữ Phật pháp gọi là bất sinh bất diệt, hoàn toàn không có “Hành khổ”.

Tám khổ: Chính là những nỗi khổ của thế nhân như: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.

1. Sanh Cư Thai Ngục Khổ

Trong thai chật hẹp như ngục nên gọi là “thai ngục”. Thời gian mười tháng ở trong thai khổ không nói hết! Mẹ uống một ly nước lạnh thì cảm thọ của nó giống như ở trong địa ngục hàn băng! Mẹ uống một bát canh nóng, nó như đang ở trong địa ngục Bát Nhiệt! Mẹ khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, nó ở trong thai đều cảm nhận được hết. Cho nên, người phụ nữ mang thai, trong mười tháng này tâm niệm phải đoan chánh, ngôn hành cử chỉ cần phải như lý, như pháp. Đây gọi là thai giáo: Tâm niệm đoan chánh, tương lai thai nhi này tư tưởng sẽ thuần chánh, ra đời tướng mạo thân thể đoan trang, dễ dạy, sẽ rất vâng lời.

2. Lão Khổ

Lão khổ là già yếu khổ sở, người tuổi trẻ không biết lão khổ. Người già đi đứng, hành động đều rất bất tiện, như trên thân mang theo bao cát ba mươi kí! Người già mắt hoa, tai điếc, công năng của răng, của khí quản đều suy yếu! Sống trên thế gian này họ thật đau khổ!

Sau thế giới chiến tranh lần thứ hai, có rất nhiều quốc gia giàu mạnh hưng khởi sự nghiệp phúc lợi cho người lớn tuổi, nước Mỹ dẫn đầu. Đối với sinh hoạt vật chất của người già, họ quan tâm rất chu đáo. Khi nghỉ hưu, nhà nước sẽ nuôi người già, chu cấp sinh hoạt hàng tháng cho họ. Trên thế giới, rất nhiều quốc gia đều có chế độ này.

Tôi hoằng pháp khắp quốc tế cũng rất quan tâm đến việc này, nên mỗi lần đến một địa phương, tôi đều đi xem sự nghiệp phúc lợi của người già ở đây. Tôi thấy ở Âu châu lợi dụng đất nhiều người ít, nên thành lập chung cư cho người cao tuổi là tốt nhất. Môi trường cho người cao niên ở giống như trong công viên, thật là hiếm có! Thấy vậy, trong tâm tôi vô cùng hoan hỉ. Sự quan tâm chăm sóc của chính phủ đối với người cao niên ở đây, mỗi ngày là một trăm ngàn tiền Âu châu. Cho nên, cuộc sống người cao niên ở đây tốt hơn các quốc gia khác, nhưng về mặt tinh thần vẫn còn thiếu thốn, không sánh bằng truyền thống gia đình cổ xưa của chúng ta: già thì có gia tộc nuôi.

Nuôi già, dạy trẻ là hai nhiệm vụ lớn nhất trong gia đình. Điều này người ngoại quốc miên viễn không bao giờ tưởng tượng được! Người già khi về hưu là hưởng niềm vui thiên luân. Niềm vui thiên luân này nếu nói với người ngoại quốc, họ cũng không hiểu. Họ không hiểu cái gì gọi là thiên luân?! Đó là con cháu đầy nhà, là một đại gia tộc. Trẻ con trong gia đình này ít nhất có đến năm, sáu mươi người. Người lớn, trẻ nhỏ vây quanh người già, đó mới thật là vui, thật có lạc thú.

Nếu như viện dưỡng lão và nhà trẻ họp lại một chỗ. Người già hàng ngày nhìn thấy trẻ con; trẻ con hàng ngày nhìn thấy người già, xem người già như ông bà của mình. Người già sẽ yêu thương trẻ em; còn trẻ em thì học tôn kính người già. Đây cũng là một biện pháp cứu chữa rất tốt để người lớn tuổi không xa rời bọn trẻ; không xa rời trẻ con thì cuộc sống của họ sẽ rất vui vẻ.

Giáo dục về phương diện tinh thần phải đặc biệt quan tâm chú ý. Giáo dục tôn giáo là một môn học mà người lớn tuổi thích nhất, để người già thật sự sống trong những ngày tháng hạnh phúc mỹ mãn khi tuổi về chiều. Lúc già họ hoan hỉ, vui vẻ thì công đức này rất lớn, chỉ tiếc là không ai biết! Nhưng người học Phật thì hiểu rõ: Người già khi lâm chung trong tâm bình an, không có lo lắng, không có vướng bận, không có oán hận nhất định sẽ được sinh vào chỗ tốt như cõi trời, cõi người. Nếu khi họ lâm chung oán hận đầy người, đời này đối với gia đình, xã hội họ đã cống hiến rất nhiều, lúc già không được người quan tâm; chỉ cần họ có oán hận, đại đa số đều đọa vào địa ngục, súc sinh. Cho nên, lúc về già có thể giúp họ tâm tình vui vẻ, cũng giống như đem họ từ trong ác đạo đến thiên đường thì công đức này lớn biết bao!

Tôi tham quan viện dưỡng lão, họ mời tôi nói chuyện, tôi đều tán thán nhân viên phục vụ ở đây. Họ là thiên sứ, họ không phải người phàm. Tận tâm tận lực hiếu thảo người già như cha mẹ mình, chính là họ đã đem người già từ ác đạo đến thiên đường. Đối với người niệm Phật thì giúp họ vãng sinh; từ phàm phu đưa họ đến Phật đạo và thành Phật. Công đức này rất lớn, không gì có thể sánh được. Những đạo lý này chỉ có Phật mới hiểu.

3. Bệnh Thọ Khổ Thống

Bệnh thọ khổ thống là khổ vì bệnh, kinh nghiệm về bệnh khổ này ai cũng có, đặc biệt là người thời nay. Vì sao? Ẩm thực không sạch! Nước không sạch! Không khí cũng không sạch! Người bây giờ thật đáng thương! Tôi vừa mới xem một phần tư liệu viết về trận động đất của Nhật Bản; nhà máy điện hạt nhân ở Phúc Đảo, vật chất bị chảy ra ngoài đã trôi đến Bắc châu Mỹ. Đây là trôi theo luồng gió, chính là sự phát xạ. Bây giờ rất nhiều người lo lắng, sợ động đất này ảnh hưởng đến núi Phú sĩ. Núi Phú sĩ là núi lửa, nếu núi lửa này bộc phát sẽ liên đới đến rất nhiều núi lửa khác bộc phát. Như vậy, thì Đông bộ Nhật Bản sẽ tiêu!

Nhà máy điện hạt nhân bài tiết ra những khí thải này cũng giống như phóng xạ của nguyên tử đơn, nó theo gió bay đi, sự tổn hại đối với con người rất lớn! Nhìn sự ảnh hưởng của mấy ngày nay, nếu không ngừng thì còn có núi lửa bộc phát! Phóng xạ của nhà máy điện hạt nhân Nhật Bản có thể ảnh hưởng cả Bắc bán cầu: Bây giờ châu Mỹ đã ảnh hưởng thì châu Âu cũng không tránh khỏi! Sự việc này rất phiền phức!

Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia tiên tiến đều có nhà máy điện hạt nhân. Một nhà máy điện hạt nhân là đồng nghĩa có một viên đạn nguyên tử ở đó! Động đất sẽ phá hoại nó. Trong kinh Phật dạy: “Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy”. “Nguy thúy” tức là dòn bỡ, tạm bợ. Bây giờ dùng những lời Phật dạy trong kinh để hình dung thế giới này, thật không sai chút nào!

– Tai nạn làm sao hóa giải?

– Thật sự có thể hóa giải, nhưng mọi người không tin tưởng!

Phương pháp là chân thật niệm Phật.

Mấy năm trước ở tiểu viện Sơn Tây, trên bốn mươi người mắc bệnh ung thư, bệnh viện tuyên bố tử hình, thọ mạng của họ chỉ còn hai, ba tháng, chính họ cũng đã biết nên thật sự buông bỏ, thành tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Niệm đến ba tháng đi tái khám thì tế bào ung thư không còn nữa. Đây là công đức của việc niệm Phật.

Mười năm về trước, Lưu Tố Vân bị lao da ban đỏ, nghiêm trọng hơn cả ung thư. Bác sĩ nói với cô, bệnh này có thể tử vong bất cứ lúc nào, khuyên cô nên có tâm lý chuẩn bị. Cô buông bỏ tất cả, thật tâm niệm Phật, mỗi ngày nghe kinh mười tiếng đồng hồ, thời gian còn lại là niệm Phật. Sau ba, bốn tháng đi tái khám lại thì bệnh không còn, mụn độc đã lành, đến sẹo trên mặt cũng không còn nhìn thấy. Bác sĩ rất kinh ngạc hỏi: Cô làm sao mà lành bệnh? Cô đã dùng thuốc gì? Cô nói: Tôi không dùng thuốc gì chỉ niệm Phật thôi. Cho nên, ý niệm có thể thay đổi cảnh giới bên ngoài, cũng có thể thay đổi tổ chức tế bào trong thân thể của chính mình. Ý niệm bất thiện nó sẽ biến thành bệnh độc; ý niệm thuần tịnh, thuần thiện độc bệnh sẽ phục hồi trở lại bình thường. Tất cả là tự nhiên không cần dùng bất cứ thuốc gì. Đã có không ít người chứng minh sự việc này là thật không phải giả.

4. Tử Bi Phân Tán

Tử bi phân tán là tử khổ. Thân tứ đại này đều bị phân tán; quyến thuộc đời này cũng phải phân ly! Đời sau mỗi người đều theo nghiệp lực của mình mà luân chuyển, tự mình không làm chủ được. Duy chỉ người có định lực mới tự mình có thể làm chủ.

5. Ái Biệt Ly Khổ

Người mà mình thích, việc mà ta thích, vật mà ta thích luôn muốn gần gũi, giữ mãi bên mình. Nhưng, thực tế luôn thường mâu thuẫn! Phải chia cách người thân, xa rời những gì mình yêu thích. Đấy là “Ái biệt ly khổ”.

6. Oán Tắng Hội Khổ

Người mình ghét, việc mình ghét luôn muốn ở thật xa nhưng lại cứ thường gặp! Đây là “oán tắng hội khổ”.

7. Cầu Bất Đắc Khổ

Cuộc đời này đều do số mạng, hoàn toàn không phải do người. Rõ được đạo lý này thì tâm sẽ định, sẽ lìa khổ được vui. Số mạng không có, dù có dùng phương pháp thủ đoạn nào cũng không đạt được; nếu có đạt được thì tai họa ắt cũng sẽ theo đến! Dùng thủ đoạn phi pháp đạt được mà không có tai họa, điều này nói lên số mạng ta có. Nếu số mạng ta có phước báo lớn, lại dùng phương pháp không thích đáng để đạt được sẽ khiến cho phước báo của mình bị giảm đi. Ví dụ: Số mạng ta có của cải là một trăm ức, ta dùng thủ đoạn phi pháp đạt được, thực tế chỉ có thể đạt được năm mươi ức đã cảm thấy rất hài lòng, không biết rằng số mạng mình vốn được một trăm ức, đã mất hết phân nửa rồi!

8. Ngũ Ấm Xí Thạnh Khổ

Sách Viên Trung Sao giảng: “Ngũ Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Ấm có nghĩa là ngăn che, tức là chúng ngăn che chẳng cho chân tánh phát hiện”. Phàm phu sai ở chỗ lấy giả cho là thật, còn thật thì không biết, nên bị luân hồi trong Lục đạo mới thật là oan uổng! Nếu trừ bỏ được năm thứ này thì “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. “Thạnhcó nghĩa là to lớn, lừng lẫy. Do các nỗi  khổ sinh, già, bệnh, chết… vừa nói ở trên tu tập lại nên bảo là Ngũ ấm xí thạnh khổ”.

Tám loại khổ trên đây mọi người đều có, chúng nung đốt thân tâm ta, khiến chúng ta đêm ngày cảm thấy bất an, khổ não. Đặc biệt nhất là ở người giàu có, “Ngũ Ấm xí thạnh” của họ càng rất nghiêm trọng! Họ suy tính thiệt hơn, nếu không đạt được thì tìm hết cách để đạt cho được; sau khi đạt được lại sợ mất đi! Tuổi tác mỗi ngày một lớn lại sợ già chết! Tham sống sợ chết nên suy nghĩ lo lắng nhiều hơn người khác. Đêm về ngủ không ngon giấc, phải uống thuốc ngủ hằng đêm!

Chính mắt tôi nhìn thấy phú ông của cải đến vạn ức nhưng mỗi đêm phải uống thuốc ngủ! Họ không có niềm vui! Sự nghiệp kinh doanh quá nhiều, không có thời gian nghỉ ngơi, khổ đến già chết! Trong đời tôi chỉ thấy một người giàu, có phước báo là cư sĩ Trần Quang Biện ở Singapore. Đây là một ngân hàng gia cũng là Hội trưởng của “Cư Sĩ Lâm”. Ông kinh doanh rất nhiều ngành nghề, đảm trách rất nhiều chức vụ như Tổng giám đốc, giám đốc v.v… Cuộc sống ông rất bận rộn, biết bao nhiêu là công việc. Nhà ông rất lớn như hoa viên. Ở Singapore có nhà như vậy không phải là người bình thường có thể có được. Trị giá nhà ông phải ít nhất cũng là mười ức tiền Singapore.

Lúc bệnh không đi làm được phải ở nhà dưỡng bệnh, ông bèn nghĩ đến việc nghe kinh, liền tìm đến cư sĩ Lý Mộc Nguyên. Cư sĩ Lý sau đó đến tìm tôi. Tôi nói: Được! Đem những đĩa kinh chúng tôi giảng từ chỗ thấp nhất, đơn giản nhất cho ông nghe. Thật hiếm có! Nghe kinh hai năm, ông đã hiểu và biết niệm Phật. Tôi tin rằng ông ấy thật sự đã có nắm bắt. Ông nói với Lý Mộc Nguyên ông muốn vãng sinh. Ông Lý nói: Không được! Ông đi rồi không có người kế thừa, ngôi nhà này không duy trì được! Ông bệnh cũng không   sao, chỉ cần ông cứ nằm đây, Cư Sĩ Lâm làm đương gia sư quản lý cho, chỉ cần có tiếng nói của ông. Tốt! Ông lại sống thêm hai năm nữa. Đây là sinh tử tự tại.

Hai năm cuối cùng nghe tôi giảng Kinh Vô Lượng Thọ, chuyên tâm niệm Phật, ông biết trước giờ đi. Trước ngày vãng sinh ba tháng, ông ghi trên mảnh giấy ngày tháng, viết mười mấy hai chục lần giống nhau, không ai dám hỏi ông. Sau này, đúng ngày đó ông ta vãng sinh. Ông đã biết trước giờ chết. Trước khi chết một ngày, ông đã tìm tôi, chính thức qui y Tam Bảo. Khi ông hấp hối, rất may vừa đúng lúc có lớp “Bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp”, là một tổ nhỏ luân phiên trợ niệm cho ông suốt hai mươi bốn giờ không ngừng nghỉ. Sau khi ông vãng sinh, ban trợ niệm vẫn tiếp tục trợ niệm cho ông thêm suốt hai mươi bốn giờ. Sau đó, họ ra về, đến Cư Sĩ Lâm, đột nhiên có cô gái tên Đỗ Mỹ Tuyền bị ám!

Oán thân trái chủ của ông Trần Quang Biện có đến mấy trăm người, đều theo các vị Pháp sư về đến Cư Sĩ Lâm. Thần hộ pháp ở Cư Sĩ Lâm để họ vào. Họ nói với mọi người họ rất thích ông Hội trưởng của Cư Sĩ Lâm, ông đã vãng sinh rồi, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Họ muốn học Phật, muốn qui y, muốn nghe kinh. Lúc đó, tôi đang giảng kinh ở Hồng Kông, nhận được điện thoại từ Cư Sĩ Lâm, tôi nói: Phải lập tức làm lễ qui y u minh cho họ. Họ muốn nghe Kinh Địa Tạng và Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo. Tôi nói: Băng ghi âm của hai bộ kinh này phải ngày đêm hai mươi bốn giờ không ngừng nghỉ mở cho họ nghe. Bảo họ đến giảng đường, họ không dám đến, nói giảng đường quá sáng họ không vào được, nên muốn ở trai đường (tức nhà ăn). Ở nhà ăn, đặc biệt gắn hai giá tivi, máy móc mở suốt một tháng thì họ đi.

Đây là oán thân trái chủ của ông Trần Quang Biện đã chứng minh hội trưởng Cư Sĩ Lâm thật sự đã vãng sinh. Đắc lực trong những năm cuối đời bị bệnh, ông mới thật sự nhận thức được Phật pháp. Tuy trước đây làm hộ pháp cho đạo Phật, nhưng Phật pháp là gì, ông hoàn toàn không biết! Thật có phước báo! Nằm trên giường bệnh suốt bốn năm; chúng tôi biết hai năm đầu ông có thể vãng sinh; hai năm sau là ông lưu lại thế gian để giúp Cư Sĩ Lâm và làm biểu pháp cho chúng ta.

Tóm lại, tám thứ khổ trên đây nung đốt thế nhân, nhưng ở cõi Cực Lạc vĩnh viễn không có các khổ đó. Sách Sớ Sao viết:

Cõi kia liên hoa hóa sinh nên không có sinh khổ”. Họ không phải do mẫu thân mang thai, không phải từ bào thai sinh ra mà từ hoa sen hóa sinh nên không có khổ khi ở trong thai.

Chẳng có nóng lạnh đắp đổi, thân chẳng bị phần đoạn (phần đoạn sinh tử) nên không có bệnh khổ”: chưa từng nghe qua thế giới Cực Lạc có người nào bị bệnh. Ở thế giới Cực Lạc không có bệnh viện, không có nghề bác sĩ vì không có bệnh nhân.

Thọ mạng vô lượng nên không có tử khổ. Không có cha mẹ, vợ con nên không có ái biệt ly khổ”: Thế giới Cực Lạc không có thân tình, đều do hoa sen hóa sinh.

Các thượng thiện nhân cùng ở chung một nơi nên không có oán tắng hội khổ”; người mà họ tiếp xúc đều là chư Phật, Bồ Tát.

Muốn gì liền tự nhiên có ngay nên không có cầu bất đắc khổ”: Những thứ trong tâm họ mong cầu, tự nhiên đều hiện ra trước mắt. Giới khoa học gọi đây là sự chuyển biến giữa năng lượng và vật chất. Mỗi người ở thế giới Cực Lạc đều là nhà khoa học hàng đầu. Những thứ họ muốn, tự nhiên năng lượng sẽ biến hóa ra để họ thọ dụng; khi không cần nữa thì vật chất sẽ chuyển biến thành năng lượng, hoàn toàn biến mất không cần phải thu dọn.

Quán chiếu không tịch nên không có Ngũ Ấm xí thạnh khổ”. Chúng ta sớm một ngày đến thế giới Cực Lạc là sớm một ngày được hưởng thụ niềm vui, an lạc tột cùng.

Chữ “chư nạn” chỉ tám nạn, tức là những điều gây chướng ngại cho việc gặp Phật, nghe Pháp. Tám nạn còn gọi là “bát vô hạ”, nghĩa là tám điều khiến ta không được nhàn hạ để tu đạo nghiệp.

Sách Viên Trung Sao, Đại sư U Khê bảo tám nạn là:

“Một là địa ngục nạn: Trong địa ngục đêm dài tăm tối, chịu khổ không ngớt, ngăn lấp việc gặp Phật nghe Pháp, nên gọi là Nạn.

Hai là súc sinh nạn: Trong đường súc sinh chịu khổ vô cùng, ngăn lấp việc gặp Phật nghe pháp nên gọi là Nạn.

Ba là ngạ quỉ nạn: Trong đường ngạ quỉ chịu khổ vô lượng, ngăn trở việc gặp Phật nghe Pháp nên gọi là Nạn.

Bốn là Trường Thọ Thiên nạn: Nghĩa là sống trong cõi trời ấy thọ đến năm trăm kiếp; đó chính là cõi trời Vô Tưởng thuộc tầng trời Đệ Tứ Thiền của Sắc Giới. Cõi ấy mang tên Vô Tưởng vì tâm thức chẳng khởi lên, giống như cá nằm trong băng, như sâu nằm trong kén. Ngoại đạo tu hành đa phần sinh lên cõi trời này. Do chướng ngăn gặp Phật nghe Pháp nên gọi là Nạn.

Năm là Bắc Uất Đan Việt nạn: Uất Đan Việt (Uttarakuru) là tiếng Phạn, Hán dịch là Thắng Xứ, nghĩa là cõi ấy cảm báo thù thắng hơn cả ba châu Đông, Tây, Nam. Người cõi ấy thọ một ngàn năm, không hề chết yểu. Do ham vui nên chẳng thể nhận lãnh sự giáo hóa. Vì thế, thánh nhân chẳng giáng sinh trong cõi ấy nên chẳng được gặp Phật, nghe pháp; bởi vậy gọi là Nạn.

Sáu là manh lung ám á nạn: Nghĩa là những kẻ ấy tuy sanh chính giữa đất nước, nhưng do nghiệp chướng sâu nặng nên mù, điếc, câm, ngọng, các căn chẳng đủ, dẫu Phật xuất thế vẫn chẳng thể thấy Phật. Dù (có người) giảng đại pháp vẫn chẳng nghe nổi, nên gọi là Nạn.

Bảy là thế trí biện thông nạn: Nghĩa là người trong thế gian tà trí sắc sảo, miệt mài ham mê tập tành kinh sách ngoại đạo, chẳng tin chánh pháp xuất thế. Vì vậy gọi là Nạn.

Tám là sanh Phật tiền Phật hậu nạn: Nghĩa là khi Phật xuất hiện trong đời làm bậc đại đạo sư khiến cho chúng sinh thoát ly cái khổ sinh tử, hưởng vui Niết Bàn; ai có duyên thì được gặp gỡ, còn những kẻ sinh ra trước hay sau thời Phật xuất thế thì do nghiệp nặng duyên mỏng nên đã chẳng được thấy Phật, lại còn chẳng được nghe pháp. Do vậy, gọi việc sinh ra trước Phật hay sau Phật là Nạn”.

Sách nói thêm: “Tám điều nạn ấy tuy là cảm lấy quả báo khổ, vui sai khác nhưng đều do chẳng được thấy Phật, chẳng nghe chánh pháp nên gọi chung là Nạn”.

Theo giải thích của Hòa Thượng Tịnh Không: Hiện nay xã hội động loạn, trên trái đất thiên tai dồn dập, rất nhiều người hoảng hốt lo sợ. Điều này trong giáo lý Đại thừa cho đó là việc nhỏ, chỉ là chuyện ngoài da!

– Vậy thì cái gì mới là đại nạn?

– Chúng sinh trong thế giới này không có cơ hội gặp Phật, nghe Pháp, đó mới là đại nạn!

– Vì sao nói như vậy?

– Chúng ta phải nghĩ đến hai câu đức Phật thường nói trong kinh: “Thân người khó được, Phật pháp khó gặp”. Không nghe được Phật pháp tức là đã gặp đại nạn rồi!

Bởi Phật pháp có thể giúp ta liễu sinh thoát tử, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi lục đạo, lợi ích này là điều thù thắng không gì sánh bằng. Chư Phật, Bồ Tát từ bi vô lượng, trong sáu nẽo, bất luận ở nẽo nào, các ngài cũng đều hiện thân. Nhưng trong cõi người nghe pháp tu hành chứng quả là dễ dàng nhất, đây là chỗ đáng quí của thân người; các cõi khác khó thành tựu đạo nghiệp hơn cõi người.

Nhưng, nay tại thế gian này đã thay đổi rồi! Thay đổi đến vô lý! Thay đổi đến không thể tưởng được! Ngày nay, ta thường nghe nói: Cõi ma quỉ nghe pháp tu hành còn dễ hơn cõi người! Cõi súc sinh nghe pháp tu hành cũng dễ hơn cõi người! Nói cách khác, câu nói này rất là khó nghe! Vậy người không bằng quỉ! Người không bằng súc sinh rồi! Kinh này đức Thế Tôn nói từ ba ngàn năm về trước, ngài nói cho con người nghe chớ không phải nói cho quỉ hay súc sinh nghe! Chúng ta nên hiểu ý này. Ngày nay, Phật không còn tại thế, có thể nhìn thấy tượng Phật, có thể nghe đến danh hiệu Phật, Bồ Tát đó là người có phước rồi. Người vô phước thì suốt đời không nhìn thấy hình tượng chư Phật, Bồ Tát; không được nghe danh hiệu chư Phật, Bồ Tát. Đây là sự thật!

Học Viện Tịnh Tông tại thành phố này đã được thành lập mười năm. Mỗi tối thứ bảy, chúng ta đều tổ chức buổi tiệc ấm cúng, cúng dường miễn phí bạn bè đến đây. Họ có phước đến đây nhìn thấy tượng Phật, nghe được danh hiệu Phật. Đó là “nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo chủng”. Người ở thành phố này có phước lắm, mười năm rồi chưa gián đoạn. Cho nên, ở đây người thấy tượng Phật, Bồ Tát cũng nhiều; nghe được danh hiệu Phật, Bồ Tát cũng nhiều. Còn một số ít thường tham gia thời khóa sớm tối của chúng tôi, đến Học Viện làm công quả. Theo pháp Đại thừa mà nói: Thiện căn, phước đức, nhân duyên của họ thật không thể nghĩ bàn!

Bốn chữ “Kiến Phật văn Pháp” (Thấy Phật nghe pháp) vô cùng quan trọng! Tượng Phật không thể rời xa. Bất luận ở đâu, nên mang hình tượng Phật bên người. Đi du lịch, ở trong khách sạn, cũng dâng tượng Phật lên để luôn thấy Phật; mở kinh Phật ra, sớm tối đứng trước tượng Phật tụng một bộ Kinh Vô Lượng Thọ hoặc Kinh A Di Đà đều tốt. Tôi nghe nói, từ hôm nay trở đi, các đồng tu ở Đông Bắc, ngày mười lăm mỗi tháng mọi người cùng nhau niệm một ngày một đêm, hai mươi bốn tiếng đồng hồ liên tục niệm danh hiệu Phật. Việc này rất tốt! Công đức rất lớn!

Trước khi niệm Phật, nên tụng một bộ Kinh Vô Lượng Thọ. Kinh văn của Kinh Vô Lượng Thọ dài, tụng một biến khoảng một tiếng đồng hồ, chủ đích làm cho tâm định lại, điều này rất quan trọng! Nếu mỗi tháng hai lần, nên chọn ngày mùng một và ngày rằm. Đem công đức niệm Phật này hồi hướng cho chúng sinh khổ nạn trên toàn thế giới, hồi hướng cho trái đất không còn thiên tai, hy vọng chúng sinh có thể lìa khổ được vui. Nếu có bạn đồng tu thì mọi người cùng nhau niệm Phật; không có thì niệm một mình, đồng nghĩa với việc mỗi tháng đóng cửa một ngày.

Trong ngày niệm Phật này nên buông bỏ tất cả, điện thoại bàn cũng gác lại, điện thoại di động cũng tắt luôn, không nên để cho bất cứ điều gì quấy rầy, phương pháp này rất tốt. Niệm Phật cũng phải biết cách niệm, nhất định phải tuân thủ nguyên tắc mà Bồ Tát Đại Thế Chí đã chỉ dạy: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm liên tục”. “Nhiếp lục căn” tức là buông bỏ tất cả các duyên. Đối với tất cả pháp thế gian và xuất thế gian thì mắt không thấy, tai không nghe, hai mươi bốn tiếng đồng hồ chỉ có niệm Phật. Nên chuẩn bị một ít thức ăn điểm tâm đặt ở bên cạnh. Khi bụng thật sự đói thì ăn một ít.

Trong thời gian niệm Phật duy trì trạng thái không đói, không no. Hơi đói thì ăn một ít bánh bao, uống một ngụm nước; không nên ăn quá no sẽ bị hôn trầm, ngủ gục; cũng không nên đói quá khiến tinh thần không định sẽ không thể nhất tâm niệm Phật. Suốt hai mươi bốn giờ không ngủ, nếu đông người cùng nhau  niệm Phật, phải có một, hai vị hộ pháp ở bên ngoài trông coi không cho người ngoài đến quấy rầy; cũng giống như nhập thất phải có người hộ thất. Công đức này không thể nghĩ bàn! Nếu đồng tu các nơi của Tịnh Tông đều có thể áp dụng phương pháp này, thế giới này đã được cứu. Năng lực của ý thức tập thể rất lớn, có thể tiêu trừ ác nghiệp, hóa giải thiên tai. Chúng ta phải thật làm! Chắc chắn công sức không uổng phí đâu.

Tóm lại, nạn địa ngục không phải là khổ nạn ở địa ngục mà ý nói: Ở địa ngục không có cơ hội gặp Phật nghe pháp, nạn này mới thật là lớn! Địa ngục thật ra không có số lượng, là vô lượng vô biên, vô số vô tận, vì nó biến hóa theo tâm, tùy theo tâm bất thiện mà có. Nói cách khác, mỗi ngày đều có địa ngục mới xuất hiện. Thời xưa, không có địa ngục nổ hạt nhân, ngày nay đã có rồi! Ngày xưa không có địa ngục sinh học, ngày nay cũng có rồi! Chúng ta cũng có thể thấy rằng: Ngày nay phụ nữ phá thai, chắc chắn ngày nay tại địa ngục sẽ có hình phạt mới: Địa ngục phá thai; đến đó mỗi ngày phải gánh chịu tội khổ phá cả vạn lần! Trong Hoàn Nguyên Quán, Quốc sư Hiền Thủ nói: “Xuất sanh vô tận”. Địa ngục ly kỳ, cổ quái nhiều lắm! Nhiều lắm! Con người không nên có ác niệm, ác khẩu, ác hạnh. Một khi đã gây tạo những nghiệp này, nhất định sẽ có quả báo địa ngục! Điều này là thật chẳng phải hư dối!

Kế đến là “súc sinh nạn”, “Trong đường súc sinh chịu khổ vô cùng, ngăn lấp việc gặp Phật nghe Pháp nên gọi là Nạn”: Cho nên, chúng ta ngày nay cũng tán thành việc kiến lập tượng Phật trong sân vườn. Có người tặng tôi một pho tượng Quán Thế Âm Bồ Tát rất lớn. Tôi đặt tượng tại đạo tràng Hứa Tiểu Lợi ở Thẩm Quyến, dựng một cái đình nhỏ ở trong vườn, không nên để Bồ Tát phải dầm mưa! Hình như là tam viện Quán Âm, viện ở ngoài đó để cho loài chim nhỏ cũng có thể gặp Phật; cõi ngạ quỉ cũng có thể nhìn thấy Phật, thuận tiện lắm! Trong chánh điện, loại ngạ quỉ sẽ không dám vào vì có thần hộ pháp nó không vào được. Hơn nữa, tượng Phật dựng ở bên ngoài, người qua kẻ lại đều có thể thấy được, chỉ cần họ nhìn thấy thì ấn tượng đó sẽ rơi vào A-lại-da thức của họ, tức là gieo được mầm thiện cho họ rồi.

Ngày nay, nghe Pháp rất thuận tiện. Súc sinh không thể nghe kinh thì trì danh hiệu tương đối dễ dàng, giúp chúng nghe được danh hiệu, thấy được tượng Phật là việc tốt. Cho nên, thường nghĩ đến những chúng sinh khổ nạn này, phải làm sao giúp chúng, chúng sẽ biết ân. Ngày nay giúp người, người không biết cám ân. Chúng ta biết rằng súc sinh, ngạ quỉ hiểu được cám ân. Cõi súc sinh, nhân tố đầu tiên đọa lạc vào cõi này là ngu si, tức không có trí tuệ, không biết thật giả, tà chánh, thiện ác, lợi hại. Họ không biết tài, sắc, danh lợi v.v… đều là những thứ đoạt mạng, đem họ vào ba đường ác. Đến lúc thọ mạng đã hết, hối hận cũng không còn kịp! Nghiệp nhân của cõi ngạ quỉ là tham dục, chịu khổ vô cùng!

Có rất nhiều người sợ ma, điều ấy sai rồi! Ma quỉ sợ người mới đúng. Ngạn ngữ nói: “Người có ba phần sợ ma; ma có bảy phần sợ người”. Hiểu đạo lý này bạn sẽ không còn sợ ma nữa. Càng sợ nó càng ức hiếp bạn. Nó nhát gan, bạn còn nhát gan hơn nó! Nó xem thường bạn mới ức hiếp bạn. Bạn lớn tiếng la nó, nó lập tức chạy mất! Phải hiểu được chân tướng sự thật. Ma quỉ thật đáng thương, thật đau khổ!

Sở dĩ quỉ bị đói vì nó không được ăn uống, giống như súc sinh đi kiếm thức ăn khắp nơi nhưng không kiếm được! Còn có loại nghiệp chướng nặng nề hơn gọi là Diễm khẩu quỉ, khi tìm thấy thức ăn, thức ăn vừa đến miệng thì trong miệng liền bốc lửa tiêu cháy hết thức ăn, nó ăn không được! Cho nên, trong cảnh ngạ quỉ, hơn một nửa đều sống trong cảnh đói khát, vì thế gọi nó là ngạ quỉ. Nghiệp nhân của nó chính là lòng tham muốn không cùng nên bị quả báo như vậy. Cho nên Phật dạy: “Tri túc thường lạc”. Phải biết dừng lại đúng lúc, không nên quá đáng, nhất định không được sa vào “tam đồ, bát nạn” như vậy thật là đáng tiếc!

Trường Thọ Thiên” cũng phiền phức lắm! Trường Thọ Thiên chuyên chỉ cho cõi trời Vô Tưởng ở Đệ Tứ Thiền. Tứ Thiền có chín tầng trời, cũng chính là cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Đại đa số thiên nhân ở Tứ Thiền thuộc ba tầng trời phía trước. Trời thứ tư là cõi trời Vô Tưởng. Năm cõi trời phía sau là năm cõi trời Bất Hoàn, thiên nhân ở cõi trời Tịnh Cư tu hành chứng quả tại đó. Trong kinh Phật dạy: Tam quả trở lên là A Na Hàm, họ ở nơi đó tu hành đến khi thành tựu thì chứng quả A-la-hán. Chứng quả A-la-hán tức là vượt qua sáu cõi. Người lợi căn thì ở Tứ Thiền đã siêu việt rồi. Người độn căn còn phải thông qua cõi trời Tứ Không mà vượt lên.

Cõi trời Vô Tưởng là nhờ tu “Định Vô Tưởng” mà thành tựu được thọ mạng đến năm trăm kiếp. Thời gian năm trăm kiếp hết, Định lực của họ cũng mất, nghiệp chướng xuất hiện, lại theo nghiệp mà lưu chuyển. Thế gian là hư vọng! Muốn tham cầu, muốn khống chế, muốn chiếm hữu nó, tất cả đều là tội chướng! Những lời trong Kinh Địa Tạng nói đều là chân thật: “Chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm tất cả đều là tội, đều là nghiệp”.

Cho nên tôi khuyên các đồng tu khởi tâm động niệm đều là A Di Đà Phật; những suy nghĩ của tâm đều là Kinh Vô Lượng Thọ, như vậy thì tốt biết bao! “Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu” lợi ích vô lượng vô biên, tại sao không làm?! Hy vọng đồng tu của Tịnh Tông chúng ta từ hôm nay trở đi không làm những việc ngu ngốc, hồ đồ nữa, nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ.

Dưới đây giải thích: “Vô Tưởng là gì?”

Ngôn Vô Tưởng giả dĩ kỳ tâm thức bất hằng” (Nói Vô Tưởng vì tâm thức chẳng khởi lên). Tâm thức của họ chính là thức thứ sáu. Thức thứ sáu tạm thời dừng hoạt động, đó chính là Định. Định này là thiền định tương đối thâm sâu, họ không nghĩ gì nữa. “Vô Tưởng”! Họ không phải thật sự nhập Định, không phải thật sự trừ diệt tưởng, vì họ vẫn còn nghĩ đến “Vô Tưởng”. Họ vẫn còn có tưởng, đó là tưởng “Vô Tưởng”. Định trong vô tưởng, thời gian của Định công này dài năm trăm kiếp, như cá đông lạnh. Đem cá sống bỏ vào tủ lạnh, nó bị lạnh đông rồi! Nó không nghĩ nữa! Nó dường như nhập Định. Ngày nào đó đem nó giải đông, nó sống lại, nó lại khôi phục trạng thái trước đây.

Thật vậy! Ngày nay có rất nhiều nhà khoa học đã hiểu phương pháp này. Trặp trùng là một loài sâu nhỏ, trong mùa đông, nó cũng đình chỉ tất cả mọi hoạt động của tinh thần: thọ, tưởng, hành, thức. Nhìn bộ dạng của nó giống như đã chết, nhưng nó chưa chết, nó đang sống. Cho đến mùa xuân, sấm nổ kinh động, nó sống lại giống như vừa tỉnh ngủ vậy! Trời Vô Tưởng cũng giống như tình trạng này, họ ở trong thiền định rất sâu, vì thế tất cả mọi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều đình chỉ hoạt động. Đó gọi là đè nén phiền não, không phải diệt phiền não. Họ có năng lực đè nén phiền não đến năm trăm kiếp. Sau năm trăm kiếp, những phiền não, tập khí của họ lại hiện hành!

Ngoại đạo tu hành; nói “ngoại đạo” ở đây không phải là phê bình người khác, không phải là một lời nói xấu. Trong Phật pháp nói “ngoại đạo” là chỉ cho người ngoài tâm tìm đạo. Trong cửa Phật cũng có không ít những người đang ngoài tâm tìm đạo. Phật pháp là tâm pháp nên gọi là “nội học”, là hướng nội tìm cầu, không phải tìm kiếm bên ngoài. Bên ngoài toàn là giả! “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng!” Đức Phật cũng nói: Ngoài tâm tìm Phật đó là giả! Ngoài tâm không có Phật, Phật là ở tại tâm. Cho nên tìm cầu ở trong tâm đó mới là thật. Người tu pháp môn Tịnh Độ nên nhớ kỹ: “Tâm tôi tức là Phật A Di Đà; Phật A Di Đà tức là tâm tôi”. Phàm phu dùng là tâm thức, đó chính là “tam tâm nhị ý”, là giả!

– Chân tâm ở đâu?

– Dùng vọng tâm thì chân tâm không thấy nữa, chân tâm bị chướng ngại! Cho nên, phải lìa tâm ý thức thì chân tâm hiện tiền. Lìa tâm ý thức là không ghi nhớ ấn tượng, không phân biệt, chấp trước.

– Dùng phương pháp nào để lìa tâm ý thức?

– Dùng một câu danh hiệu Phật! Chỉ cần chuyên tâm niệm Phật, thật lòng niệm Phật, không nghĩ ngợi gì hết, lâu ngày sẽ tiêu mất bản ngã, tâm ý thức tự nhiên không còn, Phật A Di Đà liền xuất hiện, cũng chính là chân tâm hiện tiền. Cách này thật hay! Chiêu này thật tuyệt! Trong tám vạn bốn ngàn Pháp môn, không có pháp nào hơn Pháp môn Niệm Phật.

Tóm lại, cõi trời Vô Tưởng cũng chướng ngại việc gặp Phật nghe Pháp nên gọi là Nạn.