Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VIII. PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA ĐỆ TỨ
(TT)

Hằng phóng quang minh chiếu nhất thiết” (Luôn phóng quang minh chiếu hết thảy). Năng lực này có từ ở “an trụ tam-ma- địa”. Thực tế mà nói, “Tam-ma-địa” chính là chân tâm, là bổn tánh của chúng ta. Ngày nay, chúng ta đã mê mất đi chân tâm, bổn tánh, lăn lộn trong sáu cõi, chịu khổ đến như vậy. Chư Phật, Bồ Tát  giáo hóa chúng sinh không gì khác hơn là giúp chúng sinh hồi phục lại tự tánh của chính mình. Tuy nhiên, mê là tự mình mê; ngộ cũng phải chính mình giác ngộ. Chư Phật, Bồ Tát chỉ là “tăng thượng duyên” cho chúng ta; chính chúng ta phải nương vào giác ngộ của chính mình.

–  Vì sao chúng ta không giác ngộ?

– Vẫn là một câu nói cũ: “Không chịu nhìn thấu, buông bỏ nên không giác ngộ!” Nhìn thấu giúp chúng ta buông bỏ, buông bỏ giúp chúng ta nhìn thấu, tương bổ tương thành; thảy đều buông bỏ có thể thành Vô Thượng Đạo. Nhìn thấu là thông đạt, không mê hoặc; buông bỏ thì tâm thanh tịnh, không nhiễm trước; đây là “Hằng phóng quang minh chiếu nhất thiết”. Trên Kinh Đại thừa thường nói: “Thường sanh trí tuệ”. Thời thời sinh trí tuệ; nơi nơi sinh trí tuệ, niệm niệm sinh trí tuệ.

– Trí tuệ do đâu mà sinh?

– Tâm địa thanh tịnh! Niệm niệm vì tất cả chúng sinh mà lo nghĩ, quyết không nên nghĩ chính mình, đây là phương tiện ban đầu học Phật. Nếu vẫn nghĩ đến lợi ích chính mình thì bạn mê rồi! Không vì chính mình, chỉ nghĩ đến tất cả chúng sinh, sự việc bạn làm dù có sai cũng trở thành đúng. Nếu bên trong vẫn còn có chút xen tạp vì mình, bạn dù có làm đúng cũng hóa thành sai!

Pháp Tạng ở nhân địa đã làm được viên mãn hai câu này:

“Nguyện đương an trụ tam-ma-địa.
Hằng phóng quang minh chiếu nhất thiết”.

Hai câu này là “năng cảm”. Kế đến:

“Cảm đắc quảng đại thanh tịnh cư” (Cảm được chốn thanh tịnh rộng lớn). Câu này là “sở cảm”. “Quảng đại thanh tịnh cư”, đây chính là thế giới Tây Phương Cực Lạc.

– Cực Lạc từ đâu mà có?

– Do nguyện lực của A Di Đà Phật biến hiện ra, luôn không rời “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. “Cảm đắc quảng đại thanh tịnh cư”, cái pháp giới này là pháp giới thanh tịnh, rộng lớn.

– Lớn đến như thế nào?

– Chúng ta không cách chi tưởng tượng! Thực tế lớn đến tận hư không khắp pháp giới. Cực Lạc cách chúng ta không xa. Trong Vãng Sinh Truyện, có người hỏi:

– Thế giới Cực Lạc ở đâu?

– Trong phòng tôi! Ở nhà anh! Đó là người vãng sinh chính mắt nhìn thấy, chính ngay trước mắt họ.

– Thế giới Cực Lạc rốt cuộc như thế nào?

– Ngày nay chúng ta gọi là “Thời Không” khác nhau, giống như chúng ta xem truyền hình, vừa mở đúng kênh đài, ảnh tượng liền hiện ngay trước mắt.

– Thế giới Cực Lạc ở đâu?

– Chính ngay trên mặt hình! Thế giới Ta Bà cũng ngay trên mặt hình, chỉ khác kênh đài.

– Vì sao thế giới Cực Lạc lớn đến như vậy?

– Vì do tự tánh biến hiện ra!

– Thế giới này của chúng ta, sao nhỏ đến như vậy?

– Do nghiệp lực biến hiện ra! Nghiệp lực có phạm vi; tự tánh không có lớn nhỏ, không có đến đi, không có sinh diệt. Thế  nhưng, nghiệp lực biến hiện có lớn nhỏ, có đến đi, có sinh diệt, không như nhau.

Thù thắng trang nghiêm vô đẳng luân(Trang nghiêm thù thắng không chi sánh): Câu này là hình dung trang nghiêm tốt đẹp của thế giới Cực Lạc, các cõi nước chư Phật khác, không cõi nào có thể sánh được.

“Luân hồi chư thú chúng sinh loại
Tốc sinh ngã sát thọ an lạc
Thường vận từ tâm bạt hữu tình
Độ tận vô biên khổ chúng sinh.”.

Đây là bài kệ thứ chín “Độ tận chúng sinh”. Chúng sinh này không chỉ riêng thế giới Ta Bà chúng ta mà bao gồm cả quá khứ, hiện tại, vị lai thế giới mười phương chư Phật phương khác, đặc biệt nghiêng nặng chúng sinh sáu cõi, khổ đau nhất là ở ba đường ác. Hai câu đầu, Tỳ kheo Pháp Tạng nói: Chúng sinh luân hồi trong Lục đạo mau sinh vào nước Ngài hưởng an lạc. An lạc ở đây là niềm an lạc thật sự, trong đây không hề có tác dụng phụ. Vì sao? “Đốn thoát sinh tử, tốc thành Chánh Giác” cho nên gọi là an lạc.

Vãng sinh thế giới Cực Lạc thuộc về “đốn siêu”. Đây là Pháp môn viên đốn một đời thành tựu, không cần thời gian quá dài. Thông thường, nhất tâm nhất ý trong vòng ba năm là lấy được ‘visa” di dân đến thế giới Cực Lạc. Lấy được “visa” có thể đi bất cứ lúc nào. Có người lấy được là đi ngay. Vì sao? Vì lìa khổ được vui! Có người lấy được vẫn chưa đi, vì họ còn nhân duyên muốn “khuyến tấn hành giả” đưa nhiều người đi cùng, như trong “Tịnh Nghiệp tam phước” đã nói. Đây là điều Phật A Di Đà kỳ vọng ở chúng ta. Thực tế mà nói:

– Có phải đây là lần đầu tiên A Di Đà Phật ở thế giới Tây Phương Cực Lạc mới thành Phật chăng?

– Pháp Tạng là cổ Phật tái lai; thế giới Tây Phương Cực Lạc là hóa độ của ngài. Như đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, ba ngàn năm về trước thị hiện ở phía Bắc Ấn Độ là thị hiện thành đạo, đâu phải lúc đó ngài mới tu hành chứng quả, không phải! Trên Kinh Phạm Võng, ngài nói: Lần này ngài đến thế gian biểu diễn thành Phật là lần thứ tám ngàn. Vở kịch này ngài diễn rất quen thuộc, đã diễn tám ngàn lần rồi. A Di Đà Phật ở thế giới Cực Lạc thành Phật cũng diễn không biết đã bao nhiêu lần rồi, hoàn toàn là thị hiện làm tấm gương để chúng ta noi theo mà học tập.

Tốc sinh ngã sát thọ an lạc”: Phật A Di Đà không những hy vọng tiếp dẫn chúng sinh mà còn mong muốn những chúng sinh này mau mau thành Phật. Hội Phật Giáo Đạt-La-Tư Hoa Kỳ, mấy ngày qua đang tổ chức Phật thất. Ngày mai, họ có Phật sự “Tam thời hệ niệm”. Phật thất đến ngày thứ ba, có lão cư sĩ họ Mã, năm nay đã tám mươi tuổi, chúng ta nơi đây có số đồng tu rất quen bà, các vị đến từ Hoa kỳ cũng đều biết bà. Mỗi năm, chúng ta tổ chức Pháp hội Phật thất, bà đều có cúng trai, làm điểm tâm để cúng dường đại chúng. Bà tham dự Phật thất đến ngày thứ ba thì ngồi mà vãng sinh. Chọn được rất hay!

Tôi nghe nói không phải chính bà chọn mà A Di Đà Phật dạy bà đến Niệm Phật Đường để hiện thân nói pháp, làm chứng minh cho mọi người. Vị lão cư sĩ này tai, mắt thông minh, hành động cũng rất lanh lợi. Các đồng tu trợ niệm cho bà suốt ba mươi giờ, sau đó mới mời cảnh sát pháp y đến để làm thủ tục. Tất cả đều rất thuận lợi, cũng độ được người nước ngoài khiến họ xem thấy kỳ tích người chết chưa hề thấy qua như thế này. Tôi nghe rất hoan hỉ! Đạo tràng phải chân thật có người vãng sinh, đạo tràng này mới có công đức thù thắng. Nếu xây đạo tràng, ngày ngày niệm Phật đến mấy chục năm vẫn chưa thấy có người được vãng sinh, đạo tràng này không có công đức, nhiều nhất chỉ được chút ít phước đức mà thôi.

Dường như vào ngày Phật thất thứ nhất, nhờ đường truyền liên hệ đôi bên, tôi nói với đồng tu bên đó đem hết tài khoản của tôi ở Hoa Kỳ, tôi không cần đến, đại khái trong tài khoản ngân hàng Á Châu vẫn còn một trăm mấy chục ngàn, toàn bộ tặng cho cư sĩ Vương Nhất Hoa. Hội Phật Giáo Hoa Kỳ Đạt La Tư bên đó có hai ngân hàng, trong đó có khoảng hơn hai trăm ngàn, toàn bộ đóng hết, thảy đều tặng cho Hội Phật Giáo Đạt La Tư. Tôi, một xu tiền cũng không cần.

Chúng tôi ở Đạt- La-Tư xây một đạo tràng, đại khái tổng cộng đầu tư sắp gần hai triệu. Hai triệu mà có người vãng sinh, tôi nói với họ đã đủ vốn rồi! Có người vãng sinh tiếp thì chúng ta lời trắng! Công đức chân thật đã không uổng phí xây đạo tràng. Đạo tràng nơi đây còn thù thắng hơn đạo tràng bên kia. Tôi rất tin tưởng nơi đây sẽ có rất nhiều đồng tu niệm Phật được vãng sinh. Đương nhiên không nhất định phải ở nơi Niệm Phật Đường vãng sinh mà ở nhà hay trong bệnh viện vãng sinh đều như nhau, thù thắng không gì bằng!

“Thường vận từ tâm bạt hữu tình
Độ tận vô biên khổ chúng sinh.”.

“Từ” là ban vui, “Bi” là dẹp khổ. Nói cách khác, giúp chúng sinh thoát ly lục đạo là Bi tâm, giúp chúng sinh vãng sinh Tây Phương Cực Lạc là Từ tâm. Đây mới là lợi ích chân thật. “Bạt” là bạt trừ. Hai câu trên thể hiện hoằng thệ đại từ đại bi của Pháp Tạng Bồ Tát, niệm niệm luôn luôn nhớ nghĩ phải độ tận hết thảy chúng sinh khổ nạn. Thời gian vô cùng tận, không gian vô cùng tận, chúng sinh cũng vô cùng tận nên đại từ, đại bi, đại nguyện, đại hạnh của ngài cũng vô cùng tận.

Bạt hữu tình”: Chữ “hữu tình” chỉ chúng sinh luân hồi trong sáu cõi đều khổ. “Dục giới” có: Khổ Khổ, Hoại Khổ và Hành  Khổ.

“Sắc giới” tuy không có Khổ Khổ, vẫn có Hoại Khổ, Hành Khổ. “Vô Sắc giới” là thế giới không vật chất, chỉ thuần là “thức tâm” trụ nơi thiền định thâm diệu. Tuy họ không có Hoại Khổ, vẫn còn Hành Khổ. Hành Khổ chính là họ có thọ mạng. Họ là phàm phu cao cấp, không cần thân vì biết thân là gốc khổ, gốc bệnh, gốc nhiều tai ương phiền phức. Lão Tử từng nói: “Ta có mối lo lớn nhất vì ta có thân”. Sở dĩ gọi họ là phàm phu cao cấp vì thọ mạng của họ rất dài. Nhưng khi thọ mạng hết, họ vẫn phải trôi lăn trong sáu cõi. Nên biết: Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thọ mạng của họ là tám vạn đại kiếp. Khi thọ mạng hết, họ vẫn phải đọa lạc! Cho nên, đây không phải là pháp cứu cánh.

Tóm lại, chúng sinh hữu tình trong sáu cõi đều khổ. Phật luôn dùng tâm từ cứu giúp tất cả chúng sinh, duy chỉ có trời Vô Sắc giới thì Phật không cứu được! Vì sao? Vì thiên nhân Vô Sắc giới phần nhiều sống trong Định, họ không có sắc tướng. Trong kinh Phật gọi trời Vô Sắc giới là Trường Thọ thiên, là một trong tám nạn, tuy thọ mạng họ rất dài, nhưng hoàn toàn không nghe được Phật pháp, đây là chướng ngại rất nghiêm trọng!

Đối với cõi Dục giới, và Sắc giới; Phật, Bồ Tát luôn tận tâm tận lực mà giúp họ, ngay trong đó “tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp”. Chúng ta phải học theo chư Phật, Bồ Tát tận tâm tận lực mà giúp đỡ mọi người, giúp họ nhận thức chính xác về Phật Giáo. Trước tiên, phải khiến cho phần tử tri thức xã hội hiểu rõ: Phật pháp không phải là mê tín, Phật pháp không phải là tiêu cực, Phật pháp đối với xã hội, nhất là đối với xã hội hiện nay có chỗ tốt chân thật, họ sẽ từ chỗ này mà giác ngộ.

Ngày trước, ở Úc Châu có cư sĩ người Úc tên là Graeme, hôm trước cũng đến đây nghe kinh. Ông nói với tôi: Ông đã từng đến Đài Loan. Lúc đó có vị lão Pháp sư khuyên ông đem tín đồ Ki-Tô đổi thành tín đồ Phật Giáo và ông đã tiếp nhận. Tôi liền nói: Ông sai rồi! Tín đồ Ki-Tô phải giúp họ trở thành tín đồ Ki-Tô gương mẫu; sao có thể đem tín đồ Ki-Tô biến thành tín đồ Phật Giáo?! Sao có thể phá hoại tôn giáo của người khác chứ! Tâm thái, quan niệm này hoàn toàn sai lầm! Thế nhưng, bạn có thể bảo họ làm Bồ Tát thì được. Làm Bồ Tát thì luôn nghĩ đến chúng sinh, phổ độ tất cả chúng sinh. Phổ độ chúng sinh không phải bảo họ cải biến tôn giáo, tín ngưỡng của họ thì bạn sai rồi!

Phật Giáo là giáo dục trí tuệ, Phật Giáo dạy người hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, bất cứ người nào cũng cần phải hiểu. Cho nên, bất cứ tôn giáo nào cũng cần phải học Phật, làm học trò của Phật, không phải thay đổi tôn giáo. Họ vẫn là con cái của Thượng Đế, nhưng vẫn có thể làm học trò của Phật, không hề có sự xung đột, như vậy mới tốt. Không nên bảo họ phải quay lưng với Thượng Đế, cách nói này rất khó tiếp nhận.

Trong Phật Giáo, câu nói đầu tiên trong Tịnh Nghiệp Tam Phước là phải “hiếu dưỡng cha mẹ”, đâu lại có thể bảo họ bội phản cha mẹ! Không thể được! Nghe tôi nói xong, Graeme gật đầu, biết được nên phải làm thế nào. Cho nên, “Phật pháp tại thế gian, bất hoại thế gian pháp”, đem tín đồ tôn giáo khác kéo đến tôn giáo mình là phá hoại thế gian pháp, cần phải hiểu đạo lý này. Phật Giáo là giáo dục không phải tôn giáo. Tín đồ Phật Giáo quyết không như đồ chúng thông thường của các tôn giáo.

Đồ chúng trong tôn giáo, là kết hợp của cảm tình. Chúng ta cùng Thích Ca Mâu Ni Phật là quan hệ thầy trò, là kết hợp của đạo nghĩa, của trí tuệ. Cho nên, bất cứ tôn giáo nào cũng có thể theo học Phật, đều có thể lấy được học vị trong Phật Giáo. Học vị trong Phật Giáo là A-la-hán, Bồ Tát, Phật Đà; cũng giống như bất cứ tôn   giáo nào đều có thể theo học Đại học, đều có thể lấy được học vị của trường.

Chúng ta xem thấy trong Kinh Hoa Nghiêm, năm mươi ba vị Thiện tri thức thì rất rõ ràng: Thắng Nhiệt Bà La Môn là lãnh tụ Bà-la-môn giáo lấy được học vị trong Phật Giáo là Pháp Thân Đại Sĩ, đây là từ trên hình thức mà nhìn. Thực tế, họ không phải là Pháp Thân Đại Sĩ mà là Phật Đà, cao hơn Bồ Tát. Họ dùng thân phận lãnh tụ tôn giáo để thị hiện.

Đây chính là trong Phật pháp nói: Đáng dùng thân gì để độ, liền hiện ra thân ấy để độ. Đáng dùng thân lãnh tụ Ky-Tô giáo để độ, họ liền hiện thân Mục sư để độ. Đáng dùng thân lãnh tụ Thiên chúa giáo để độ, họ liền hiện thân thần phụ để độ v.v… Đây đều là Bồ Tát, đều là Phật! Đó mới là phổ độ chúng sinh, không làm hư tướng thế gian, mọi người mới có thể hoan hỉ tiếp nhận. Nếu nhất định nói tôn giáo họ không tốt, ta đây mới tốt, phải bỏ tôn giáo họ theo học với ta, liền khởi lên phản cảm, chống đối nhau, thì không giải quyết được vấn đề! Đó không phải là trí tuệ! Nhà Phật gọi là không khéo biết phương tiện.

Trong giao tiếp với mọi người, Phật vô cùng thiện xảo, dùng Tứ Tất Đàn, Tứ Nhiếp Pháp. Tứ Tất Đàn giúp chúng ta nhập chúng, qua lại với mọi người, có bốn nguyên tắc đã trình bày qua ở phía trước. Ở đây chỉ nêu ra hai nguyên tắc:

–  Thứ nhất là “Thế Giới Tất Đàn”, phải khiến cho tất cả chúng sinh sinh tâm hoan hỉ. Nếu tiếp xúc mà họ không hoan hỉ thì cái duyên đó không còn! Muốn khiến người khác sinh tâm hoan hỉ, bạn phải tôn trọng và có sự cảm thông đối với họ.

Buổi tiệc ấm áp vào tối mùng một năm trước, chúng ta đã mời hơn ba ngàn tám trăm quí khách, là chủng tộc khác nhau, đều như trong một nhà, mọi người đều rất phấn khởi, hoan hỉ. Buổi tiệc hôm đó, tôi không biết bạn có chú ý không? Thức ăn trên mỗi bàn đều không giống nhau. Chúng ta ăn chay là đồ chay, trên bàn người Mã Lai, họ ưa thích ăn thứ gì chúng ta đều cúng dường họ thứ đó. Chúng ta tôn trọng họ, lắng nghe thói quen ăn uống của họ. Họ thích ăn thứ gì, chúng ta đặc biệt mời người bên đó đến làm. Đó là biểu thị sự tôn kính đối với họ. Họ mời thỉnh chúng ta, cũng tôn trọng đối với chúng ta. Đôi bên tôn trọng nhau thì làm được “Thế Giới Tất Đàn”.

–  Thứ hai là Vị Nhân Tất Đàn”: Chính là quan tâm đến người khác. Mỗi niệm phải vì người mà lo nghĩ. Họ có khó khăn gì? Họ cần sự giúp đỡ nào? Làm thế nào giúp họ được hạnh phúc về đời sống tinh thần cũng như vật chất? Thậm chí, làm thế nào giúp họ hoằng dương tôn giáo của họ thì họ rất hoan hỉ.

Ở đây, chúng ta cũng đã làm được thăm viếng các tôn giáo. Họ thành lập cơ quan từ thiện như viện dưỡng lão, cô nhi viện v.v… chúng ta đều tặng một ít tiền giúp họ. Chúng ta biếu tặng các tôn giáo rất nhiều thức ăn như bún, gạo, mì, dầu ăn. Đây là những thực phẩm Cư Sĩ Lâm có quá nhiều, chúng ta dùng không hết, đem chia sẻ với họ.

Nhất định phải hợp tác, thương yêu, quan tâm lẫn nhau. Cho nên, độ hóa chúng sinh chính là giúp chúng sinh; giúp chúng sinh phải có trí tuệ, có phương pháp, có phương tiện khéo léo. Chúng ta phải học với Phật, Bồ Tát về Tứ Tất Đàn Tứ Nhiếp Pháp.

Tứ Nhiếp Pháp là bốn phương pháp thuần túy gồm có: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng sự.

1. Bố Thí

Bố thí là một trong sáu cương lĩnh tu học của Bồ Tát. Trong Bố Thí có: Tài Bố Thí, Pháp Bố Thí và Vô Uý Bố Thí. Trong Lục Độ: Trì Giới và Nhẫn Nhục thuộc về Vô Úy Bố Thí; Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhã thuộc về Pháp Bố Thí. Một Bố Thí đã đem vô lượng, vô biên hành môn của Bồ Tát toàn bộ bao gồm trong đó. Cho nên, Bồ Tát từ sơ học mãi đến khi thành Phật, họ tu là tu Bố Thí Ba-La- Mật, ngoài ra không có phương pháp khác. Riêng chúng ta, đối với tất cả chúng sinh thì Bố Thí xếp ở hàng đầu, nhất định phải nỗ lực mà học tập.

2. Ái Ngữ

Khi trò chuyện phải dùng tâm chân thành, thương yêu họ, đây gọi là “Ái ngữ”. “Ái ngữ” không phải là hoa ngôn xảo ngữ, lời nói đường mật dễ nghe để mê hoặc lòng người mà là lời chân thật quan tâm, thương yêu họ.

3. Lợi Hành

Hành vi, việc làm của chúng ta nhất định, phải có lợi ích đối với người khác mới chắc chắn được họ hoan hỉ tiếp nhận.

4. Đồng Sự

Đây là xây dựng mối quan hệ càng mật thiết hơn. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên sau khi mở dạ tiệc liên hoan, thỉnh mời các tôn giáo đến. Hiện tại, ông muốn trù bị một “Hỉ Niên Hoa Hội Hòa Bình Tôn Giáo Singapore”, áp dụng đa nguyên văn hóa. Buổi dạ tiệc đêm giao thừa của chúng ta trước đây chỉ diễn biến trong thời gian ngắn có mấy giờ. Với “Hỉ Niên Hoa Hội” này đại khái sẽ kéo dài từ bảy đến mười bảy ngày. Mỗi ngày các tôn giáo, các sắc tộc sẽ cùng nhau tụ họp, vui vẻ náo nhiệt, thực tiễn đa nguyên văn hóa, đây là cách nói trong xã hội hiện đại. Riêng chúng ta, phải nói đó là thực tiễn “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm”.

Hiện tại, việc giảng Kinh Hoa Nghiêm dời đến giảng đường Tịnh Tông Học Hội. Mỗi buổi giảng chúng ta đều đưa lên mạng, các bạn ở nhà mỗi sáng sớm từ mười đến mười một giờ rưỡi đều có thể lên mạng để xem. Nếu nhà không có đường truyền, muốn nghe Kinh Hoa Nghiêm có thể đến Tịnh Tông Học Hội mượn băng ghi hình về xem. Hoa Nghiêm chính là thực tiễn “Đa nguyên văn hoá”, cũng chính là Đồng Sự, tất cả chúng sinh đều hưởng thụ đời sống của Phật Hoa Nghiêm, đời sống của chân, thiện, mỹ.

Chúng ta xem thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà; thế giới Hoa Tạng của Phật Tỳ Lô Giá Na, mỗi ngày đều “Hỉ Niên Hoa Hội Đa Nguyên Văn Hóa” không hề gián đoạn. Phật pháp học rồi phải có chỗ dùng, nhất định phải ứng dụng ngay trong đời sống hiện tại mới chân thật có thể làm đến được “Bạt hữu tình, độ chúng sinh”. Điều sau cùng của “Tứ Tất Đàn” (tức “Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn”) chính là bổn nguyện cả chư Phật, vậy mới là bổn hoài của Phật độ sinh.

Chúng ta cần hiểu: Trong khác có giống; trong giống có khác. Tôn giáo, chủng tộc có khác nhưng đều giống nhau ở lòng thương yêu, trí tuệ và phương tiện khéo léo. Cho nên, trong khác có giống, trong giống có khác. Giống không chướng ngại khác; khác không chướng ngại giống; lý sự vô ngại; sự sự vô ngại, làm sao không được đại hoan hỉ chứ!

Chúng ta thường phạm sai lầm, cho rằng: Phải khiến người khác thành chính mình, phải đồng hóa họ, quan niệm này thật sai lầm! Trong giảng dạy, tôi thường nhắc nhở các đồng tu: Nhất định phải buông bỏ tất cả những quan niệm khống chế, buông bỏ ý niệm chiếm hữu đối với tất cả người, tất cả việc, tất cả vật, thì bạn mới có thể vào được “Hỉ Niên Hoa Hội” của chư Phật Như Lai. Nếu còn có ý niệm khống chế người khác, chiếm hữu tất cả sự vật, bạn vĩnh viễn là phàm phu sáu cõi, không vào được cảnh giới của chư Phật. Cho nên, chúng ta xem thấy cõi nước chư Phật có rất nhiều chủng tộc khác nhau, họ đều có thể sống chung hòa thuận. Thế giới này của chúng ta chủng tộc không nhiều, nhưng ngày ngày đánh nhau. Hiện tại, Trung Đông lại sinh sự, lại đánh nhau, đó là không có trí tuệ!

– Vì sao họ đánh nhau?

– Vì phân tranh chủng tộc! Vì tín ngưỡng tôn giáo!

– Đánh nhau có giải quyết được vấn đề chăng?

– Không thể giải quyết! Cho dù bạn có vương vị, có tài nghệ vũ lực, chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật đến đâu, cũng không thể giải quyết được tận gốc vấn đề. Yếu tố quan trọng nhất, cấp thiết nhất phải là giáo học.

Do vậy mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã từ bỏ tất cả vương vị, danh vọng, tài lực v.v… vốn có của mình, dấn thân làm nghĩa vụ công tác giáo dục xã hội đa nguyên văn hóa suốt bốn mươi chín năm. Chỉ có giáo dục mới giúp con người giải quyết vấn đề, chỉ có giáo dục mới có thể thật sự mang lại hạnh phúc, an vui, hòa bình cho nhân loại.

– Tôn giáo vì sao không thể giải quyết được vấn đề?

– Họ chỉ có Tông không có giáo, nên không thể giải quyết!

Đó là khi tôi ở Úc châu, tại hội nghị tôn giáo, tôi đã nói ra lời này với các lãnh tụ tôn giáo. Có giáo dục mới có thể giải quyết vấn đề. Tuy kinh luận mỗi tôn giáo khác nhau nhưng chủ đích đều có chung một mục tiêu giáo dục: Giúp xã hội an định, thế giới hòa bình. Có như thế, tôn giáo mới góp phần duy trì tồn tại, phát triển, hòa thuận chung sống, xây dựng cùng hiểu; thiên tai, nhân hoạ nhất định sẽ không còn.

Trong Lễ Ký có câu: “Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên”. Đây quả thật là cao minh, trí tuệ; người thông thường không thể nói ra được lời này.

Chúng ta phát nguyện noi gương đức Phật A Di Đà cũng có nghĩa là phát tâm cứu giúp tất cả chúng sinh khổ nạn, giúp họ ngay trong một đời này thành Phật. Đây là bổn nguyện của Phật A Di Đà, cũng là nguyện vọng chung của tất cả chư Phật. Đại nguyện này Phật A Di Đà đã làm được, nhưng chư Phật Như Lai vẫn chưa làm được! Vì sao? Vì A Di Đà Phật biết dùng phương pháp xảo diệu nhất, dễ dàng nhất là sáu chữ hồng danh. Cho nên, chư Phật Như Lai đều tán thán A Di Đà Phật là “Quang trung cực tôn, Phật trung chi Vương”, đều hộ niệm ngài.

Do đây có thể biết: Tất cả chư Phật Như Lai muốn độ khắp chúng sinh thành Phật đạo, chỉ duy nhất, hữu hiệu nhất là giới thiệu, khen ngợi thế giới Tây Phương Cực Lạc đến tất cả chúng sinh, khuyên mọi người Niệm Phật, phát nguyện vãng sinh. Đến nơi đó tiếp nhận giáo hóa của A Di Đà Phật, nhất định được một đời Bất Thoái thành Phật.

KINH VĂN:

Ngã hạnh quyết định kiên cố lực
Duy Phật thánh trí năng chứng tri
Túng sử thân chỉ chư khổ trung
Như thị nguyện tâm vĩnh bất thoái.

VIỆT DỊCH:

Hạnh tôi: sức quyết định, kiên cố
Chỉ Phật thánh trí chứng biết được
Dẫu thân tôi trụ trong các khổ
Nguyện tâm như thế mãi chẳng thoái.

GIẢNG:

Tỳ kheo Pháp Tạng phát nguyện xong liền thỉnh đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai chứng minh.

Ngã hạnh quyết định kiên cố lực (Hạnh tôi: sức quyết định kiên cố). Chữ “Ngã” là tôi, là Pháp Tạng tự xưng. Hạnh nguyện của tôi vốn sẵn đủ sức kiên cố quyết định. Chỉ có đức Phật Thế Tôn là đấng đã viên mãn ba “giác”, ngũ nhãn rạng ngời, trí tuệ vô ngại mới có thể chân thật chứng minh cho tôi, nên nói:

Duy Phật thánh trí năng chứng tri (Chỉ Phật thánh trí chứng biết được). Hơn nữa, ngài Pháp Tạng phát nguyện thì đã thuộc về cảnh giới rất sâu của bậc Địa Thượng Bồ Tát, nên những người khác chẳng thể thấu hiểu nổi, chỉ có thánh trí của Phật mới có thể chứng biết. Điểm này chứng tỏ Đại Sĩ Pháp Tạng diệu đức khó thể lường nổi.

Hai câu kệ cuối chính là kết thệ để lập tâm. Bản Đường ghi:

“Túng trầm vô gián chư địa ngục
Như thị nguyện tâm chung bất thoái”.

(Dẫu chìm trong các ngục Vô Gián, nguyện tâm như vậy trọn chẳng thoái). “Địa ngục Vô Gián” khổ sở vô hạn, bản Đường dịch lấy nỗi khổ nặng nề nhất trong địa ngục Vô Gián để chỉ chung tất cả nỗi khổ khác. Trong bản hội tập này, ngài Pháp Tạng thệ rằng:

Túng sử thân chỉ chư khổ trung (Dẫu cho thân trụ trong các khổ). Chữ “khổ” ở đây dĩ nhiên đã bao gồm cả khổ ở địa ngục. Thệ rằng: Dẫu đọa vào địa ngục, hạnh nguyện trên đây của tôi cũng không thoái chuyển, minh thị rõ điều được nói trong câu kệ phía trước

Ngã hạnh quyết định kiên cố lực (Hạnh tôi: sức quyết định, kiên cố). Trên đây là phần giải thích của cụ Hoàng Niệm Tổ.

Sách Hội Sớ giảng: “Nếu chỉ có nguyện thì nguyện ấy là hư dối. Nếu chỉ có hạnh, hạnh ấy cũng luống uổng. Vì vậy, nguyện hạnh phải hỗ trợ nhau thì việc làm mới thành tựu”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Chúng ta sống trong thời đại này, cho dù bạn có thành tâm thành ý, nhiệt tâm hoằng pháp lợi sinh thế mấy, chướng nạn quyết cũng không thể tránh miễn! Khi gặp những chướng ngại, thử thách này, phải có tâm nhẫn nại, phải nhớ đến lời giáo huấn của Pháp Tạng Tỳ kheo:

“Túng sử thân chỉ chư khổ trung
Như thị nguyện tâm vĩnh bất thoái”.

(Dẫu cho thân trụ trong các khổ, nguyện tâm như thế mãi chẳng thoái). Chính mình tu học rất khổ nhọc, độ chúng sinh lại càng khổ nhọc hơn! Có lúc họ không tiếp nhận hảo ý của mình lại xem thành ác ý, còn tìm cách phá hoại, đến gây phiền phức, chướng ngại, thậm chí còn hủy báng, đố kỵ v.v… Những sự việc này rất bình thường.

Khi Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, trong tăng đoàn của ngài có lục quần Tỳ kheo, học trò không nghe lời gây rối; bên ngoài có ngoại đạo, có ma vương Ba Tuần. Đây là Phật thị hiện để chúng ta thấy: Phật tự hành hóa tha còn có chướng ngại, huống hồ là chúng ta không gặp chướng ngại hay sao?! Cho nên, chúng ta phải luôn luôn có tâm cảnh giác, dùng tâm cảm kích, chăm chỉ nỗ lực tu học đúng pháp, vui vẻ tiếp nhận mọi sự việc, xem đây như là sự giám sát, nhắc nhở của họ đối với chính mình.

Nếu ngày ngày chúng ta chỉ ở trước Phật, Bồ Tát phát nguyện, vẫn chưa thực tiễn được trong đời sống thì nguyện đó chỉ là “không nguyện”. Mặt khác, nếu có “Hạnh” mà không có “Nguyện” thì việc làm của chúng ta chẳng có phương hướng, mục tiêu; có khác nào người đi đường cứ đi và đi mãi nhưng chẳng biết về đâu! Cho nên, then chốt là Hạnh, Nguyện phải tương ưng. Tóm lại, phẩm thứ tư này, tổng hợp có mười bài kệ (mỗi bài kệ có bốn câu). Trong mười bài kệ, chúng ta qui nạp lại thành ba sự việc:

Thứ nhất là tự giác:

Đối với chính mình. Pháp tạng cầu nguyện sớm ngày thành Phật, chỉ thành Phật mới có thể là Đạo Sư giáo hóa tất cả chúng sinh, đây là tự cầu.

Thứ hai là giác tha:

Sau khi tự cầu viên mãn, nhất định phải lợi tha. Bồ Tát Pháp Tạng giác ngộ tường tận: Hư không pháp giới, tất cả chúng sinh là chính mình, không phải người khác, nên từ chỗ này mà hưng khởi “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”, đây là Phật tri, Phật kiến; Kinh Pháp Hoa gọi là vào Tri Kiến Phật.

– Vì sao tất cả chúng sinh là chính mình?

– Vì tất cả đều từ một niệm tự tánh biến hiện ra!

Tất cả chúng sinh ở đây bao gồm: Chúng sinh hữu tình, chúng sinh vô tình (như thực vật, khoáng vật), cũng bao gồm tất cả hiện tượng tự nhiên.

Thứ ba là “thường hành Lục Độ, độ sanh thành Phật”:

Thường hành Lục Độ là thành tựu chính mình, đồng thời cũng thành tựu tất cả chúng sinh. Không chỉ ngài Pháp Tạng dùng phương pháp này để thành Phật mà mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai đều dùng phương pháp này để thành tựu.

Ngày nay, chúng ta cũng phát tâm tự hành hóa tha, noi gương theo Bồ Tát Pháp Tạng. Thực tế, bốn mươi tám nguyện quá dài, khó nhớ, nhưng mười bài kệ này thì dễ nhớ. Mười bài kệ này chính là tổng cương lĩnh của bốn mươi tám nguyện. Nghĩ xem, chúng ta cùng mười bài kệ này có tương ưng chăng? Sinh tử, luân hồi quá khổ! Học Phật, nếu không gặp được pháp môn Tịnh Độ, thực tế mà nói, đó thật là không có phước báo, muốn ngay đời này siêu việt sáu cõi luân hồi, thoát ly ba đường ác, thật không phải dễ dàng! Chúng ta may mắn gặp được pháp môn này phải biết trân trọng, đây là cơ duyên rất khó được, không nên trì hoãn mà mất đi cơ hội. Hiện tại thế gian này động loạn! Thế giới không chỗ nào có thể an toàn!

– Làm thế nào cầu được chư Phật, Bồ Tát bảo hộ?

– Phải dùng tâm chân thành, chí thiết mới được cảm ứng.

Cho dù có tai nạn thì tai nạn cũng giảm nhẹ.

Trong tất cả kinh, chúng ta thấy có kinh được một vị Phật, hai vị Phật, ba bốn năm vị Phật tán thán; nhưng được mười phương ba đời tất cả chư Phật tán thán thì chưa thấy qua. Duy chỉ có hai bộ kinh được tất cả chư Phật đều tán thán, đó là Kinh Vô Lượng Thọ Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện.

– Chư Phật Như Lai vì sao tán thán A Di Đà Phật?

– Vì hạnh nguyện hoằng thâm của ngài không thể nghĩ bàn! Tất cả chư Phật phát nguyện độ sinh chỉ trong giới hạn phạm vi quốc độ nào đó, riêng độc nhất chỉ có A Di Đà Phật là muốn độ tận hết tất cả hư không, khắp pháp giới chúng sinh, cho nên chư Phật tán thán.

– Chư Phật Như Lai vì sao tán thán Bồ Tát Địa Tạng?

– Bồ Tát Địa Tạng đại biểu cho hiếu đạo, cho “hiếu thân tôn sư”. Đây là pháp đại căn, đại bổn của chư Phật, Bồ Tát tu hành. Nếu xả bỏ căn bản này thì không thể nào thành tựu. Cho nên mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai đều là học trò của ngài Địa Tạng.

Nên nhớ: Không có vị Phật, Bồ Tát nào không hiếu thuận cha mẹ; không có vị Phật, Bồ Tát nào không phụng sự sư trưởng. Chúng ta ngay một đời thành tựu, ân đức của cha mẹ và sư trưởng rất lớn. Cho nên, trong pháp Bồ Tát dạy chúng ta “Tri ân, báo ân”. “Tri ân, báo ân” là ở trong Kinh Đại Bát Nhã, tinh yếu nhất chính là ân cha mẹ và ân sư trưởng. Phật, Bồ Tát là sư trưởng của chúng ta, điều này phải biết.