Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VII. QUỐC GIỚI NGHIÊM TỊNH ĐỆ THẬP NHẤT
(TT)

e. Chủng Chủng Sự Trang Nghiêm

Bị chư trân bảo, cụ túc diệu trang nghiêm giả” (Đủ tính chất trân bảo, gồm hết diệu trang nghiêm): “Bị” là đầy đủ, có đủ “chư trân bảo”: không phải chỉ có bảy loại mà vô lượng vô biên trân bảo. Thế gian này chúng ta không có nên trên kinh chỉ sơ lược nêu ra vài loại trân bảo mà thế giới này có như: kim ngân, lưu ly, mã não v.v…

f. Diệu Sắc Trang Nghiêm

Vô cấu quang diệu, xí thạnh minh tịnh diệu thế gian giả”: (Quang vô cấu rực rỡ, sáng sạch rọi thế gian): Thế giới Cực Lạc không có mặt trời, mặt trăng. Mỗi loại vật chất ở đó đều phóng quang; trên thân mỗi người đều phóng quang. Quang minh thế giới Cực Lạc không cần ánh sáng của nhật nguyệt, đó là quang minh của tự tánh, vô cấu sáng đẹp. “Cấu” là tượng trưng cho phiền não, nhưng ở thế giới Cực Lạc không có nên gọi là “vô cấu”. Nói cách khác, trong tự tánh không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Tự   tánh thuần tịnh, thuần thiện nên ánh sáng của nó cũng thuần tịnh, thuần thiện. “Xí thạnh” là hình dung ánh sáng quang minh của nó rất lớn, rất rực rỡ, thuần tịnh, chiếu diệu thế gian. “Thế gian” này là thế giới Cực Lạc, Tứ độ quang minh trang nghiêm.

g. Xúc Trang Nghiêm

Trang nghiêm Tịnh Độ chi chủng chủng trân bảo nhu nhuyễn; xúc chi giả, sanh thắng lạc giả”: Trân bảo của chúng ta nơi đây bao gồm: kim ngân, lưu ly, pha lê, trân châu, mã não v.v… “Lưu ly”, thông thường chúng ta gọi là đá quí, ngọc màu xanh. “Pha lê” trong kinh Phật nói, bây giờ chúng ta gọi là thủy tinh, nó là tự nhiên, tất cả đều là vật cứng rắn. Những thứ này ở thế giới Cực Lạc rất mềm mại, lại còn có tánh phóng quang. Người ở thế giới Cực Lạc mặc y phục toàn là trân bảo. Chúng ta đâu biết rằng trân bảo ở đó vừa nhẹ lại vừa mềm như tơ lụa dệt thành, nên khi tiếp xúc nó sẽ cảm giác rất thoải mái, an lạc, dễ chịu.

h. Tam Chủng Trang Nghiêm

Tam chủng ở đây là nói: nước, đất, hư không ở thế giới Cực Lạc. Nước ở thế giới Cực Lạc là nước tám công đức có thể thuận theo ý người. (Theo bản kinh Di Đà dịch đời nhà Đường nói: 1-Lóng trong; 2-Mát mẻ; 3- Ngọt ngon; 4-Nhẹ mềm; 5-Nhuần láng; 6-An hòa;7-Trừ đói khát; 8-Nuôi lớn các căn lành). Đại địa ở thế giới Cực Lạc là vô lượng trân bảo, trong kinh nói lấy lưu ly làm đất. Lưu ly chính là đá quí, là ngọc màu xanh trong suốt, từ trên mặt đất có thể nhìn thấu tận xuống lòng đất. Trang nghiêm của hư không cũng vô cùng đẹp đẽ: Mưa hoa từ trên không trung rơi xuống, trải trên mặt đất giống như thảm hoa, khi không muốn xem nữa thì lập tức nó biến mất, không còn lưu lại dấu tích nào. Đây là ba loại trang nghiêm.

i. Vũ Trang Nghiêm

“Vũ” ở đây không phải là mưa, nó không phải danh từ mà là động từ. “Vũ hoa, y trang nghiêm; vô lượng hương huân khắp”: Từ trên không trung rơi xuống toàn là bảo hoa, bảo y, “vô lượng chi diệu hương phổ huân giả”. Cho nên, thế giới Cực Lạc được gọi là “Thế giới hương quang”, không khí là hương thơm, là bảo hương. Mùi hương này rất vi diệu; vi diệu ở chỗ có thể giúp ta ướp hương cho tập khí phiền não, có thể nuôi dưỡng Pháp Thân Tuệ mạng, giúp ta tăng trưởng trí tuệ, tăng trưởng phước đức, tiêu trừ nghiệp chướng. Tóm lại, cũng chính là nói muôn sự muôn vật ở thế giới Cực Lạc đều giúp ta thành tựu đạo nghiệp.

j. Quang Minh Trang Nghiêm

“Quang minh này chính là trí tuệ quang minh của Phật. “Phật tuệ minh tịnh chi nhật, trừ thế chi si minh giả” (Mặt trời Phật tuệ sáng, sạch trừ thế ám si): “Nhật” ở đây là ví dụ Trí Tuệ quang minh thanh tịnh của Phật giống như mặt trời. Ánh sáng của Phật phổ chiếu khắp nơi. Đương nhiên, chỗ phổ chiếu đầu tiên là thế giới Cực Lạc, sau đó mới biến chiếu hư không pháp giới. Phật quang của Phật A Di Đà vô lượng vô biên không cùng tận.

– Có chiếu đến chỗ chúng ta chăng?

– Đương nhiên là có!

– Phật quang ở đâu?

– Phật quang trong biến pháp giới, hư không giới. Chúng ta hầu như không cảm giác được! Đó là do nghiệp chướng của chúng ta ngăn chận. Nếu có thể tiêu trừ nghiệp chướng thì Phật quang sẽ chiếu đến.

Tất cả chúng sinh trong ánh sáng của Phật, tiếp nhận được sự gia trì của Phật A Di Đà, mỗi người đều không giống nhau. Vì sao? Vì thiện căn, phước đức, nhân duyên của mỗi người không giống nhau! Chúng sinh có niềm tin chân thành, khẩn thiết cầu sinh Tịnh Độ, họ tiếp nhận được nhiều nhất. Tiếp nhận được nhiều nhất thì nghiệp chướng của họ cũng tiêu trừ nhiều nhất, phước tuệ của họ cũng tăng trưởng nhiều nhất.

Chư Phật Như Lai trong mười phương đều khuyên chúng ta nên tin Phật. Vì sao? Vì ta sẽ được lợi ích của Phật quang chiếu diệu. Nếu ta không tin và hoài nghi thì chẳng còn cách nào! Thường được đắm mình trong hào quang của Phật, người này làm sao không khai trí tuệ. Công năng của hào quang Phật là phá trừ ngu si, tối tăm của thế gian. “Si” là ngu si; “minh” là ngu đần, khờ khạo; chúng ta thường gọi là tê liệt, khờ khạo. Đây là quả báo do nghiệp bất thiện tích lũy từ vô thỉ kiếp đến nay.

Chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác không có gì chẳng phải là “nghiệp”. Trong “nghiệp” có tịnh, có nhiễm, có thiện, có ác. Thử nghĩ xem: Nghiệp mà ta tạo là nhiễm hay tịnh, là thiện hay ác? Tự mình rõ ràng minh bạch: Nếu khởi tâm động niệm là lợi ích chúng sinh, ấy là thiện; người này có trí tuệ, tuyệt đối không bị khờ khạo. Bất thiện là tự tư tự lợi. “Thiệnsố một là chuyển tâm thành A Di Đà Phật. Đây là số một trong số một, quả báo của nó thật không thể nghĩ bàn!

k. Diệu Thanh Trang Nghiêm

Tịnh độ diệu thanh thâm viễn, thiện văn ư thập phương giả” (Phạm thanh nói vang xa, vi diệu vọng mười phương). Theo Vãng Sinh Luận: “Người Ấn tự cho ngôn ngữ của họ do Phạm Thiên truyền lại, gọi là phạm thanh. Phạm thanh ở nước Cực Lạc có thể (vang) đến các nơi rất xa, không cần lớn tiếng, âm thanh này hòa nhã vi diệu, mười phương đều nghe (liền) khởi tâm thanh tịnh”.

– Âm thanh vi diệu của Tịnh Độ là gì?

–  Phẩm cuối cùng của Kinh Vô Lượng Thọ nói là Diệu Âm, đây chính là âm thanh vi diệu của Tịnh Độ, là câu “Nam mô A Di Đà Phật”.

Câu danh hiệu này biến pháp giới hư không giới; người nghe được phước, chỉ cần lọt qua tai thì vĩnh viễn trở thành hạt giống của đạo nghiệp. Họ nghe âm thanh này là có duyên với Phật A Di Đà. Tuy đời này duyên chưa thành thục, còn phải luân hồi trong lục đạo, nhưng họ đã có sự liên quan với Phật A Di Đà; đời sau nhân duyên thành thục, chủng tử này sẽ khởi tác dụng; khẳng định đầy đủ tín, nguyện, hạnh; đầy đủ thiện căn, phước đức, nhân duyên, họ liền được vãng sinh.

Tôi (tức Hòa Thượng Tịnh Không) cảm thấy trong mười bảy loại trang nghiêm, “Diệu Âm trang nghiêm” là đệ nhất. Kinh Vô Lượng Thọ từ đầu đến cuối chủ đích đều là nói câu Phật hiệu này. Câu Phật hiệu này khi đại thiên tai đến có thể cứu vãn. Nhưng, rất tiếc là không ai tin tưởng! Nếu ngày nay, người trên thế giới đều biết, đều niệm A Di Đà Phật thì tai nạn có thể hóa giải. Hiệu nghiệm này ít nhất là mười năm mới có thể thấy rõ ràng.

l.  Chủ Trang Nghiêm

“Chủ” là thầy, là Phật A Di Đà. “Chánh Giác chi A Di Đà vi Pháp vương, thiện trụ trì giả” (A Di Đà Chánh Giác, Pháp vương khéo trụ trì). “Vương” là thí dụ không phải là địa vị mà là tán thán Phật A Di Đà. “Vương” cũng có nghĩa là tự tại, bởi quốc vương chỉ cần phát ra hiệu lệnh, mọi người đều tuân thủ, đây là được đại tự tại. Mặt khác, đối với tất cả pháp, Phật A Di Đà đều thông đạt thấu triệt, được đại tự tại nên xưng là Pháp vương.

Thiện trụ trì giả”, theo Vãng Sinh Luận: “Trụ trì: Trụ là ở yên bất động, trì là chống giữ không đổ. Khéo trụ trì là không để cho biến chất vậy. Phật pháp đã đạt đến địa vị cứu cánh, không còn cái gọi là phải tiến thêm bước nữa. Nên những gì đáng sợ chính là xen tạp không còn chánh nữa. Cho nên, phải khéo làm trụ trì để khỏi biến đọa”. “Trụ trì” cũng có nghĩa là chủ đạo, chánh pháp chủ đạo việc dạy học. Phật A Di Đà đang chủ trì truyền thừa chánh pháp ở thế giới Tây Phương Cực Lạc. Mỗi người vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, trong tương lai đều thành tựu giống như Phật A Di Đà, đều là hóa thân của Phật A Di Đà. Một vị Phật A Di Đà đều biến thành vô lượng vô biên vô số vô tận vị Phật A Di Đà mới có thể đem pháp môn vô cùng thù thắng này truyền khắp biến pháp giới, hư không giới.

Vị thầy giỏi thật sự luôn hy vọng học sinh thành tựu hơn mình (Riêng Phật A Di Đà là bậc tối tôn đệ nhất, không còn có địa vị nào cao hơn nữa, cho nên thành tựu cao nhất của người vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc là ngang bằng với đức Phật A Di Đà). Có câu “Thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam”, như vậy là giáo dục thành công. Thành tựu của học sinh nếu ngang hàng với thầy, giáo dục đó cũng chưa xem là thất bại, nhưng không được xem là thành công. Nếu dạy học trò không được như thầy thì giáo dục đó đã thất bại!

Truyền thừa trong gia đình cũng vậy! Làm cha mẹ luôn hy vọng con cái thành tựu hơn mình thì gia đình này mới hưng vượng. Nếu đời sau không như đời mình thì gia đạo này đang suy yếu, suy yếu thì có lỗi với tổ tông!

Dạy học trong Phật pháp, nếu đời sau không thể vượt qua đời này là có lỗi với Phật, Bồ Tát, với chư vị Tổ sư!

– Vì sao họ có thể vượt hơn ta?

– Bởi ta là bàn đạp của họ, là cơ sở của họ.

Họ đứng từ trên vai ta, nhất định phải cao hơn ta. Điều này là khẳng định! Vấn đề là học sinh phải thật học, phải thật thực hành mới được! Chính họ không chịu học thì không còn cách nào khác! Trước đây thầy giáo có thể thôi thúc học sinh, bây giờ thì không được! Thời nay nói nhân quyền, đối với học sinh nghiêm khắc một chút, họ sẽ tố cáo với cảnh sát, cảnh sát đến làm phiền! Sao phải khổ sở như vậy?! Học sinh thời nay cần phải tự hiểu để siêng năng! Thầy giáo không dám đốc thúc! Con cái bây giờ cũng cần tự mình phấn đấu, cha mẹ không dám quản thúc con cái! Cho nên, đạo đức vì sao mà suy yếu? Pháp vì sao mà bị diệt? Đạo lý chính là ở đây!

Người bây giờ bất hiếu với cha mẹ, không tôn kính sư trưởng, họ làm sao thành tựu được?! Đại Sư Ấn Quang lớn tiếng thức tỉnh mọi người: “một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Đối với cha mẹ, sư trưởng không có tâm hiếu kính, tuyệt đối sẽ không có thành tựu! Câu nói này là chân lý! Tất cả pháp thế gian thành tựu đều từ sự cung kính mà có được, điều này nhất định phải biết.

m. Quyến Thuộc Trang Nghiêm

Theo Vãng Sinh Luận: “Như Lai tịnh hoa chúng, hóa sinh hoa chánh giác”: Sinh vào thế giới Cực Lạc là từ hoa sen hóa sinh. Hoa sen có đức tính khác thường, từ bùn mà không nhiễm. Quyến thuộc ở cõi Cực Lạc hóa sinh như vậy, cũng có nghĩa là từ đời ác năm trược sinh về cõi kia mà được thanh tịnh nên gọi là Như Lai tịnh hoa chúng.

Ở thế giới Cực Lạc: Chủ là thầy giáo, quyến thuộc là học sinh. Quyến thuộc này từ đâu đến? Có thể nói thế giới Cực Lạc thuần nhất không tạp, mỗi người vãng sinh đều đầy đủ điều kiện mà thế giới Cực Lạc yêu cầu; điều kiện không phù hợp thì không thể vãng sinh. Điều kiện này chủ yếu nhất là: “Phát Bồ Đề tâm, một lòng chuyên niệm”. Trong “Phát Bồ Đề tâm” còn có điều kiện, như trong Kinh Di Đà, đức Thế Tôn giới thiệu: Không thể thiếu thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sinh về nước kia. Ngoài ra, tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc, điều kiện cơ bản của tất cả chư Phật giáo hóa chúng sinh là: Giới-Định-Tuệ tam học, lục độ, lục hòa; bất luận tu pháp môn nào đều cần phải đầy đủ. Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn Phổ Hiền, có sự liên quan nhất với Phổ Hiền Bồ Tát, như phẩm thứ hai của kinh này là “Đức Tuân Phổ Hiền” đã nói.

Trước kia, khi tôi rời Mỹ, Tịnh Tông Học Hội, theo tôi biết có hơn ba mươi hội. Bây giờ, trên toàn thế giới, chỗ Tịnh Tông nhiều nhất là Malaysia. Nghe nói ở Malaysia có đăng ký với chính phủ có hơn năm mươi hội; không có đăng ký có thể gần một trăm hội. Tịnh Độ tông ở Malaysia đặc biệt thù thắng, không có khu vực nào hơn nơi đây. Họ rất nhiệt tâm, người học Phật chân chính rất đông. Chỗ này rất tốt! Xã hội an định, ít thiên tai. Âu Châu cũng có mấy Tịnh Tông Học Hội. Âu Châu là nơi đất nhiều, người ít; nhân khẩu cư trú đều tập trung dọc ven biển, ở giữa đất liền rất ít người trú, cho nên ven biển có mấy đô thị lớn đều có Tịnh Tông Học Hội.

Tịnh Tông Học Hội khi mới thành lập, tôi đã viết phần duyên khởi nêu ra phương pháp tu học cụ thể, gồm có năm khoa mục; những gì chúng tôi căn cứ là “Tịnh Độ Ngũ kinh, nhất Luận”: Thứ nhất là “Tịnh nghiệp tam phước”, đây là nguyên tắc chỉ đạo tối cao của Tịnh Tông, xuất phát từ Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, trong đó đức Phật nói với phu nhân Vi Đề Hi:

Thứ nhất: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”.

Thứ hai: “Thọ trì Tam qui, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”.

Thứ ba: “Phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”.

Tiếp theo đó, Phật lại nói: Ba điều này là “Tịnh nghiệp chánh nhân của chư Phật ba đời. Câu này rất quan trọng! Phàm phu, Bồ Tát tu hành thành Phật đều y theo ba điều này. Chúng ta có thể lãnh hội:

Điều thứ nhất là Tịnh nghiệp của phàm phu.

Điều thứ hai là Tịnh nghiệp của Nhị thừa.

Điều thứ ba là Tịnh nghiệp của Bồ Tát Đại thừa.

Trong vấn đề tu tập, nếu làm người chưa tốt, sao có thể làm Bồ Tát! Sao có thể vãng sinh thế giới Cực Lạc?! Vãng sinh thế giới Cực Lạc, ba điều kiện này cần phải đầy đủ. Câu thứ nhất trong điều thứ nhất là “hiếu dưỡng phụ mẫu”, chúng ta đã làm được chưa? Câu thứ hai là “phụng sự sư trưởng”, là truyền thống văn hóa xưa của chúng ta; trong đây nói “hiếu thân tôn sư”; không đầy đủ điều kiện này không thể vãng sinh! Cho nên, người niệm Phật rất nhiều mà vãng sinh rất ít!

– “Hiếu thân tôn sư” nên làm cách nào?

-Phải thực hành “Đệ tử qui”; “Đệ tử qui” chính là “hiếu thân tôn sư”, từ nhỏ phải bắt đầu dạy.

Câu thứ ba “Từ tâm bất sát”, đây là thực hành trong “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên”, là giáo dục nhân quả. Câu cuối “Tu thập Thiện nghiệp” tức là thực hành trong “Thập Thiện Nghiệp Đạo” Kinh. Trong đây căn bản của Thích, Đạo, Nho đều đã hiển bày.

Ngày xưa, thời đại Đế Vương, có thể nói mỗi người từ nhỏ đều đã tiếp nhận giáo dục này, nên nền tảng của họ rất vững chắc, trải qua bao thời đại, gương mẫu tư tưởng của họ đều là “hiếu trị thiên hạ”, không có vị Đế Vương nào không nói hiếu đạo.

Những năm cuối nhà Thanh, Từ Hi Thái Hậu chấp chánh, đối với truyền thống xưa đã sơ sót; xã hội lúc đó tuy vẫn còn có người đề cập nhưng không thực hành; thế gian gọi họ là “ngụy quân tử”, không phải là thật! Đến thời Dân Quốc, người nói cũng không có, nên “ngụy quân tử” cũng không tìm thấy! Do đó, người xưa trong vòng một trăm năm gần đây đã quên lãng truyền thống văn hóa! Bây giờ nói đến “Nho, Thích, Đạo” hay “Đệ tử qui”, mọi người đều cảm thấy xa lạ!

Trước đây, chúng tôi ở thị trấn Thang Trì, Lô Giang thành lập một trung tâm thí nghiệm, chính là để đẩy mạnh “Đệ tử qui”, làm được ba năm và hiệu quả vô cùng tốt. Nhân dân ở đây rất vui mừng, không ngờ tổ tiên họ đã để lại thứ quí giá như vậy. Chúng tôi làm thí nghiệm này là vì Liên Hiệp Quốc mà thực hiện. Trong mấy năm đó tôi tham gia rất nhiều lần Hội nghị hòa bình của Liên Hiệp Quốc, mỗi lần trong Hội nghị, tôi đều có chủ giảng. Tôi đem những thứ thuộc về truyền thống văn hóa giới thiệu cho mọi người. Khi nghe xong, họ đều rất hoan hỉ, nhưng sau đó, lúc dùng cơm, mọi người cùng nhau trò chuyện; rất nhiều người đưa ra vấn đề để hỏi tôi. Họ nói: Pháp sư! Ông giảng rất hay! Nhưng đây là lý tưởng không thể thực hành được! Tôi đã bị quan niệm sai lầm như vậy của họ kích động, cảm thấy không thể không làm ra một thành tích kiểu mẫu cho mọi người xem. Nếu không làm ra kiểu mẫu họ sẽ không tin tưởng.

Trước đây ở Mỹ, ở Singapore, ở Indonesia, Âu Châu, tôi cũng đã cố công tìm một chỗ để làm thí nghiệm nhưng duyên chưa thành thục Tôi muốn dùng một thị trấn nhỏ để thúc đẩy việc này, dạy “Đệ tử qui”, truyền thống văn hóa xưa. Mùa xuân, đầu năm 2005, tôi trở về quê sau bảy mươi năm xa cách chỉ còn gặp lại một vài thân thích, anh em cùng hàng dòng tộc có khoảng ba mươi người. Thật là tuổi nhỏ xa quê, già trở về! Hơn bảy mươi tuổi trở về với vô vàn cảm khái! Họ mời tôi dùng cơm, tôi đem tình hình những năm lưu lạc ở nước ngoài kể với mọi người. Khi nói đến tham gia công việc này với Liên Hiệp Quốc, muốn tìm một chỗ để làm thí nghiệm nhưng không tìm thấy; các lão huynh đệ ở quê, sau khi nghe xong đều rất nhiệt tình: – Thôi thì trở lại quê hương mình làm thí nghiệm vậy! Lúc đó, lãnh đạo địa phương cũng hoan hỉ tán thành, và như vậy chúng tôi đã làm thành công.

Chúng tôi vốn tự nghĩ ít nhất phải hai, ba, năm mới thấy được hiệu quả, không ngờ chưa đến bốn tháng, hiệu quả đã ngoài sức tưởng tượng. Các thầy giáo chúng tôi cảm thấy vô cùng kinh ngạc, đã chứng minh được hai việc:

–  Thứ nhất là như cổ nhân thường nói: “Tánh người vốn thiện”. Câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh là “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”. Tánh con người thật sự là thiện, chỉ là không có người dạy họ!

–  Thứ hai con người rất dễ dạy: Chưa đến bốn tháng họ đã hồi đầu; đã từ phàm phu biến thành quân tử; đã hiểu lễ phép, tâm lành phát khởi, không muốn làm việc xấu, không muốn áp bức người khác. Thật hiếm có! Việc này là việc tốt!

Nhưng, khi chiếu theo pháp luật của Trung Quốc thì chúng tôi đã làm không đúng pháp! Vì chúng tôi là người xuất gia, lại là người hải ngoại. Chính sách của chính phủ: Người xuất gia ở hải ngoại có thể về nước thăm thân bằng quyến thuộc, tham quan du lịch, điều này không hạn chế, nhưng không được hoạt động những việc liên quan đến tôn giáo. Tôi làm điều này tuy không phải là hoạt động tôn giáo    mà là hoạt động của truyền thống văn hóa, nhưng đối với người xuất gia thì cũng không được, cho nên cuối cùng trung tâm phải đóng cửa!

Các thầy giáo chúng tôi, một số đang ở Malaysia tiếp tục học tập. Tôi hy vọng họ đều tinh tấn học tập ba truyền thống căn bản của “Thích, Đạo, Nho” này; thời gian phải là mười năm; chưa đến mười năm không thể thành công. Sau mười năm, họ có thể trở thành những nhà Hán học hàng đầu của thế giới.

Tôi đã hai lần phỏng vấn ở Đại học Luân Đôn, Đại học Cambridge, đã giao lưu với họ, cũng rất thân với các vị giáo thọ này. Tôi cũng rất khâm phục, họ không những học tập truyền thống văn hóa Trung Quốc mà công lực của họ về thể loại văn cổ cũng tương đối sâu dày, có thể đọc những tác phẩm văn cổ, xem chú giải cổ của truyền thống Trung Quốc. Điều này khoa văn học của một số trường Đại học hiện nay không làm được! Cùng giao lưu với họ không cần phải thông dịch, vì họ đều am hiểu Hán học, chúng ta chẳng thể không bội phục!

Bây giờ thầy giáo Hán học không còn nữa! Nếu không có người truyền thừa, Hán học sẽ bị đoạn! Như vậy thì thật đáng tiếc! Điển tịch còn lưu lại sẽ không có ai đọc được! Cho nên, hai ba mươi thầy giáo này đã phát tâm truyền thừa.

Quyến thuộc trang nghiêm” trong Vãng Sinh Luận nói đến “chư Bồ Tát”; “Chư Bồ Tát” ở đây là người vãng sinh. Tất cả người vãng sinh đều được gọi là Bồ Tát. Cho dù họ vãng sinh về thế giới Cực Lạc vào cõi Phàm thánh Đồng Cư, Hạ Hạ phẩm vãng sinh; cũng được oai thần bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà gia trì, họ chính là A Duy Việt Trí Bồ Tát chớ không phải Bồ Tát bình thường, nên ở thế giới Tây Phương Cực Lạc đều thuần là Bồ Tát. Ở đó chỉ có hai hạng người: Chủ là Phật, Bồ Tát là học sinh.

Mục tiêu của thế giới Cực Lạc là “tức thân thành Phật”, chính là ngay trong đời này giúp ta chứng được quả Phật cứu cánh viên mãn, hoàn toàn giống như Phật A Di Đà. Trí tuệ, thần thông, đạo lực, phước báo cũng đều là đệ nhất, điều này không đáng nễ sao? Sự việc này thật không thể nghĩ bàn! Thông thường nói: Đó chỉ là lý tưởng không thể làm được, nhưng Phật A Di Đà đã làm được.

– Sao ngài làm được?

– Bởi ngài phát bốn mươi tám nguyện, mỗi nguyện không vì mình mà vì tất cả chúng sinh.

Quốc độ chư Phật trong biến pháp giới, hư không giới; trong đó lục đạo là đáng thương nhất! Mê sâu nhất! Tạo nghiệp nặng nhất! Giúp họ một đời thành Phật ngài đã làm được. Ngài dùng thời gian năm kiếp để thực hành bốn mươi tám nguyện và mỗi nguyện đều đã viên mãn. Thực hành viên mãn bốn mươi tám nguyện thì thế giới Cực Lạc liền xuất hiện. Đạo lý này không khó hiểu, người học Phật nghe rất quen thuộc.

Trong Kinh Đại thừa, đức Phật thường dạy: “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sinh”. Thế giới Cực Lạc là từ trong tâm tưởng của Phật A Di Đà biến hiện ra. Lợi ích bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà, chúng ta mỗi ngày đều niệm; khi niệm chúng ta sẽ dần dà thể hội mà phát tâm giống như A Di Đà Phật. Tuy chúng ta chưa làm được như A Di Đà Phật nhưng cũng đừng vội lo lắng! Đến thế giới Tây phương Cực Lạc, chúng ta làm tiếp, nhất định sẽ làm được! Mỗi nguyện cần phải thực hiện; nguyện nguyện phải vì tất cả chúng sinh không phải vì mình. Có ý niệm vì mình là tiểu thừa thì không thể vãng sinh!

Đức Phật yêu cầu chúng ta phải “Phát Bồ Đề tâm”, tâm lượng của Bồ Đề tâm không có biên tế. Trong đời này chúng ta nhất định chỉ có một phương hướng là thế giới Tây Phương Cực Lạc; một  mục tiêu là thân cận Phật A Di Đà; nhất hướng chuyên chí đồng tâm, đồng nguyện với Phật A Di Đà.

Đến thế giới Cực Lạc tất cả đều là liên hoa hóa sanh, thân tướng hoàn toàn tương đồng với Phật A Di Đà. Cho nên thế giới Cực Lạc là pháp giới bình đẳng; không như thế giới Ta Bà chúng ta: Con người sau khi sinh ra từ nhỏ mới dần dần lớn lên, không phải vậy! Ở thế giới Cực Lạc, trong liên hoa thất bảo đột nhiên có Bồ Tát xuất hiện, họ và Phật A Di Đà hoàn toàn giống nhau. Thể chất của họ là tử ma chân kim sắc, thân có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, nên với Phật A Di Đà không có gì khác biệt. Trong bốn mươi tám nguyện nói: Nếu có tướng hảo sai biệt, Phật A Di Đà thệ sẽ không thành Phật. Nhưng, bây giờ ngài đã thành Phật.

Cho nên, mỗi người ở thế giới Cực Lạc, tướng mạo đều tương đồng, hoàn toàn là tướng Phật cứu cánh viên mãn. Vãng sinh đến thế giới Cực Lạc gặp được Phật A Di Đà, được oai thần bổn nguyện của Phật A Di Đà gia trì, lập tức họ sẽ có năng lực ứng hóa đến mười phương thế giới để hóa độ tất cả chúng sinh có duyên. Thế giới Cực Lạc thật bất khả tư nghị! Trong Vãng Sinh Luận nói ba loại thù thắng:

– Thứ nhất: Phật là thầy giáo thù thắng.

– Thứ hai: Bồ Tát là học sinh thù thắng.

– Thứ ba: là quốc độ thù thắng, là đạo tràng thù thắng. Môi trường học tập quá tốt! Bất cứ ai tu tập trong môi trường này đều có thể đào thải được tập khí vô thỉ vô minh, nâng cao cảnh giới của chính mình, thành tựu trí tuệ viên mãn, đức tướng viên mãn.

n.  Thọ Dụng Trang Nghiêm

“Thọ dụng” là nói trong cuộc sống hàng ngày. “Thọ dụng Đại thừa chi pháp vị, thiền vị, tam-muội vị giả”. Theo Vãng Sinh Luận: “Thế giới Cực Lạc cũng có thọ dụng, song không giống như cách ăn uống của thế gian. Vị Phật pháp tức là pháp hỉ, là niềm vui sướng hân hoan do thấu hiểu Phật pháp mang lại. Thiền tam-muội là thiền duyệt , là niềm an lạc có được do thiền định mang lại. Thiền là tĩnh lự, có định có tuệ. Tam-muội là đẳng trì có nghĩa là bình đẳng giữ tâm không hề tán loạn cũng không hề sôi động. Tuệ mệnh của đại chúng Cực Lạc dùng Định-Tuệ để nuôi lớn nên lấy Định-Tuệ làm thọ dụng”.

Chúng ta vãng sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc hoàn toàn không giống như ở thế giới này. Phía trước đã nói qua: Ở thế giới này thân chúng ta là thân nghiệp báo, mỗi người đều có số mạng chủ định. Muốn chuyển đổi số mạng chỉ có cách duy nhất là vâng theo những lời Phật dạy, y giáo phụng hành. Ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, thân là thân pháp tánh nên không cần ẩm thực. Khí hậu ôn hòa rất tốt không có bốn mùa, không có nóng, lạnh. Y phục vô cùng mềm mại, thoải mái. Thân pháp tánh nên cư ngụ ở cõi Pháp tánh. Những thọ dụng của họ là “Đại thừa pháp vị”, chúng ta ở đây một phần cũng có thể nếm được.

Trong những năm gần đây, hàng ngày chúng tôi đọc tụng kinh luận Đại thừa, cùng nhau chia sẻ Phật pháp với các đồng tu, tôi cảm nhận được điều này thật vô cùng hạnh phúc! Vui không biết mệt! Có đồng tu ngại tôi tuổi lớn, mỗi ngày giảng bốn tiếng đồng hồ thì quá mệt. Tôi nói: Không giảng kinh mới thật sự là mệt! Đừng nói chi bốn tiếng đồng hồ, mười hai tiếng cũng không mệt! Càng giảng càng vui! Pháp hỉ sung mãn! Tôi hoan hỉ, mọi người cũng hoan hỉ. Đây là “Thiền vị, tam-muội vị”, điều này không phải nhân gian, đến cả thiên nhân cũng không hưởng thụ được!

“Sắc giới thiên” tuy tu thiền nhưng đó chỉ là thế gian thiền, hoàn toàn không tương đồng với xuất thế gian thiền. Thân pháp tánh hoàn toàn nương theo tánh đức, Pháp hỉ sung mãn. Người xưa nói: “Nhân phùng hỉ sự, tinh thần soảng”, con người gặp được việc vui thì đặc biệt hưng phấn, đặc biệt vui vẻ. Chư Phật, Bồ Tát từ sớm đến tối đều pháp hỉ sung mãn, thường sinh tâm hoan hỉ. Vì sao? Vì cảnh giới của chính họ không ngừng nâng cao! Vui vì nhìn thấy chúng sinh có thể tiếp nhận Phật pháp, có thể thực hành giáo huấn những lời Phật dạy mà sinh tâm hoan hỉ; nếu họ không thể tiếp nhận Phật pháp thì biết rằng nghiệp chướng của họ quá sâu nặng, phải tha thứ họ, hi vọng nghiệp chướng của họ sẽ dần dà được tiêu trừ, rồi họ sẽ tin tưởng. Đặc biệt là đối với thời đại hiện nay, nghiệp chướng của chúng sinh quá sâu nặng! Không những thế mà còn báo ứng hiện tiền!