Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
Bổn Nguyện Công Đức Kinh Giảng Ký

Đại sư Ấn Thuận giảng
Tại Chùa Thiện Đạo, Đài Bắc, Đài Loan
Mùa thu năm 1954

Thích Pháp Chánh dịch

 

F3. Tổng kết.

Văn Thù Sư Lợi! Đó là mười hai lời nguyện vi diệu cao quý mà đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã phát khi còn tu đạo Bồ tát. 

Phần trên là phân biệt giảng nói về mười hai nguyện lớn, hiện nay chúng ta sẽ tổng kết lại.

Đức Thế Tôn nói xong mười hai nguyện lớn của đức Như Lai Dược Sư, lại gọi ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Đây là mười hai nguyện lớn mà đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, ở cõi tịnh độ Đông phương, đã phát trong lúc tu nhân địa, hành Bồ tát đạo.” Phần trên đã giải thích về Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác. Trong kinh điển, đối với danh hiệu của chư Phật, có khi dùng đủ mười hiệu, có lúc nói lược ba danh hiệu, có lúc chỉ nói một danh hiệu. Ở đây chỉ dùng ba danh hiệu. Mười hai nguyện lớn này, không phải những thệ nguyện thông thường có thể so sánh được. Đây hoàn toàn là đại nguyện lợi tha, tuôn trào từ tâm đại bi của Phật Dược Sư, cho nên gọi là “những lời nguyện vi diệu cao quý.”

Từ nội dung của mười hai nguyện lớn này mà nhìn, nguyện lớn thứ nhất là nguyện chúng sinh và chư Phật bình đẳng; từ nguyện lớn thứ hai trở đi là chú trọng về tư tưởng chánh đáng, hành vi hợp lý, sinh hoạt sung túc, bổ túc những khiếm khuyết, cứu trị sự bệnh hoạn, khiến cho những kẻ thống khổ được an lạc, v.v… Không những chú trọng đến sinh hoạt vật chất như quần áo, ăn uống, v.v…, mà còn chú ý đến giáo dục, sức khỏe, sự vui thú chánh đáng, để đạt đến sự sinh tồn hòa lạc của nhân loại. Học Phật, chắc chắn không phải SAU KHI CHẾT mới có sự ích lợi. Mười hai nguyện lớn của đức Như Lai Dược Sư khải thị rất là rõ ràng. Cho nên từ sự lưu hành của Phật pháp trên thế gian, chúng ta chắc chắn nhận lãnh được những ân huệ chân thực, Phật pháp đã thích ứng hiện thực nhân sinh một cách rất rõ ràng.

Ngài Thái Hư đề xướng Phật giáo Nhân sinh, tức là chú trọng đến cải thiện, tinh lọc sự sinh hoạt. Điều này không phải chỉ chuyên trọng đến vấn đề ăn mặc, mà còn muốn chỉ dẫn cho chúng ta, trên cơ sở an lạc của nhân sinh hiện thực, mà phát tâm Đại thừa. Tinh thần của Bồ tát là phục vụ cho chúng sinh. Tu học Phật pháp, nếu có thể y vào tinh thần Bồ tát mà tu tập thực tiển, thì tức là Bồ tát. Mọi người hãy nghĩ xem, nếu chúng ta đều có thể theo như lời chỉ dẫn của mười hai nguyện lớn của đức Như Lai Dược Sư mà thực hành, thì thế giới chẳng lẽ không trở thành tịnh độ, quốc gia chẳng lẽ không trở nên an lạc, xã hội chẳng lẽ không trở nên lý tưởng hay sao? …

Pháp môn Dược Sư, ngoài việc chú trọng đến sinh hoạt thực tế như ăn, mặc, ở,…, cùng với sức khỏe, vệ sinh, giải trí, v.v…, còn đặc biệt xem trọng đến tư tưởng chánh xác (chánh kiến). Cho nên trọng tâm của pháp môn Dược Sư là mười hai nguyện lớn, vô cùng phù hợp với tinh thần của chủ nghĩa Dân Sinh (của ông Tôn Dật Tiên). Chúng ta nếu có thể tịnh hóa thân tâm, xây dựng quốc gia, mở rộng phạm vi, giúp cho toàn thể nhân loại có được chánh kiến, chỉnh đốn hành vi, phát triển sản nghiệp, v.v…, thì sẽ có hy vọng thực hiện được một thế giới hòa bình. Chúng ta cần phải y theo bổn nguyện của đức Như Lai Dược Sư mà thực hành, thì mới có thể gọi là chân thực tu tập pháp môn Tịnh Độ Dược Sư.

E2. Quả đức.
F1. Nói lược để chỉ rộng.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Những nguyện lớn mà đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy đã phát khi còn tu đạo Bồ tát, và những công đức trang nghiêm nơi cõi Phật ấy, dù ta nói suốt trong một kiếp hay hơn một kiếp cũng chẳng thể nói hết.

Những hạnh nguyện rộng lớn mà đức Như Lai Dược Sư đã tu tập khi còn là Bồ tát đã được giảng giải. Hiện nay nêu rõ quả đức của sự chứng đắc Bồ đề.

Hiện nay đức Phật muốn nói về một luận đề khác, cho nên nói: Lại nữa, đức Thế Tôn bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: “Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai của cõi tịnh độ Đông phương, trong lúc tu nhân địa, hành Bồ tát đạo, đã phát những nguyện đại bi rộng lớn, đến lúc thành Phật, đã thành tựu được cõi Phật trang nghiêm công đức thù thắng, nếu đức Thế Tôn giảng nói trong khoảng thời gian một kiếp, hoặc hơn một kiếp cũng không thể giảng nói hết được. Kiếp, tiếng Phạn là kalpa, dịch nghĩa là thời phần, có tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp. Y  vào Phật pháp mà nói, thế giới lúc mới thành lập, loài người sống lâu tám vạn bốn ngàn tuổi, sau đó, cứ mỗi một trăm năm giảm xuống một tuổi, dần dần giảm xuống đến còn mười tuổi, lúc đó, lại bắt đầu một trăm năm tăng lên một tuổi, dần dần tăng lên đến tám vạn bốn ngàn tuổi, một tăng một giảm như vậy gọi là một tiểu kiếp (= 16 triệu 800 ngàn năm). Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp (= 336 triệu năm). Bốn trung kiếp là một đại kiếp (= 1 tỷ 334 triệu năm). Hạnh nguyện của Bồ tát nhiều vô lượng vô biên, quả đức của đức Phật cũng rộng lớn vô lượng vô biên, làm sao mà có thể giảng nói hết được? Cho nên đức Thế Tôn nói về bổn nguyện công đức, sự trang nghiêm của quả đức, cũng chỉ là nói sơ lược một phần rất nhỏ, giống như một hạt nước trong biển cả. Nói nghe đơn giản, nhưng thật ra dù có nói một kiếp, hay là hơn một kiếp cũng không thể nói hết.

F2. Dùng cõi Tây phương để ví dụ cõi Đông phương.

Hơn nữa, cõi Phật ấy hoàn toàn thanh tịnh,  không có người nữ, cũng không có những nẻo ác và âm thanh khổ. Đất đai bằng ngọc lưu ly, có dây bằng vàng giăng ra ngăn thành đường đi. Thành quách, cung điện, nhà cửa, màn lưới, v.v…, đều do bảy món báu tạo thành, chẳng khác gì những công đức trang nghiêm của thế giới Tây phương Cực Lạc.  

Trước khi đức Thế Tôn tuyên thuyết pháp môn Dược Sư, ngài đã giảng thuyết Kinh A Di Đà, nói rõ về pháp môn Tịnh độ của thế giới Tây phương Cực Lạc. Cho nên quyển kinh này đối với cõi Tịnh độ thanh tịnh của Phật Dược Sư không cần phải mô tả lại một cách chi tiết. Bởi vì con đường tu tập của chư Phật đều giống nhau, cho nên các cõi Tịnh độ của chư Phật cũng không có gì khác biệt. Hiện nay, từ hai phương diện nói về sự trang nghiêm của cõi Tịnh độ Đông phương: (1) Chánh báo (hữu tình),  và (2) y báo (thế giới). Thế giới Tịnh Lưu Ly của đức Như Lai Dược Sư từ lúc được thành tựu đến nay đều hoàn toàn thanh tịnh. Thế giới Ta Bà của chúng ta, hoặc là lúc đầu thì thanh tịnh, sau đó biến thành ô uế, hoặc lúc đầu thì ô uế, sau đó chuyển thành thanh tịnh, còn thế giới Tịnh độ Đông phương trước sau như một. Rốt ráo thanh tịnh như thế nào? (a) Không có người nữ: Như phần trước đã nói, thân thể của người nữ có trăm việc bất như ý, đồng thời, có nam nữ thì có vấn đề vợ chồng, do đây sinh khởi đủ loại không thanh tịnh. Tịnh độ của Phật Dược Sưu không có người nữ, tất cả đều là đại trượng phu; nói cách khác là không có hình tướng nam nữ, tất cả đều bình đẳng, không có sự khác biệt nam nữ. (b) Không có nẻo ác: Tất cả nẻo ác đều do nghiệp ác chiêu cảm, nhưng những chúng sinh vãng sinh Tịnh độ đều đã tiêu trừ nghiệp chướng, thiện căn đầy đủ. Như Kinh A Di Đà nói: “Cõi Phật ấy không có ba nẻo ác”, “Ở cõi Phật ấy còn không có tên ‘nẻo ác’, huống là có thật?” Nhân vì không có nẻo ác, nên có sự kiện thứ ba: (c) Không có tiếng (âm thanh) khổ. Dưới đây là thuật sơ lược y báo của cõi Tịnh độ: Cõi Phật của Như Lai Dược Sư, mặt đất đều là do chất báu lưu ly tạo thành, rực rỡ sáng láng, dùng dây bằng vàng để phân thành đường đi. Thành quách, cung điện, nhà cửa, màn lưới, v.v…, đều là do bảy báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xích châu, xa cừ, mã não tạo thành. Tất cả công đức trang nghiêm đều giống như thế giới Tây phương Cực Lạc, hoàn toàn không có sự khác biệt. Nếu ai muốn biết rõ chi tiết, thì có thể đọc Kinh Vô Lượng Thọ.

F3. Dùng bạn để tán thán chủ.

Ở cõi Phật ấy có hai vị Bồ tát, một vị tên là Nhật Quang Biến Chiếu, một vị tên là Nguyệt Quang Biến Chiếu, đều là Nhất sanh bổ xứ, đứng đầu trong chúng Bồ tát vô lượng vô số nơi đó, có thể giữ gìn kho báu Chánh pháp của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

Tịnh độ Đông phương, không những có đức Như Lai Dược Sư, mà còn có vô lượng vô biên Bồ tát phụ giúp đức Phật giáo hóa. Giống như một quốc gia, ngoài vị nguyên thủ (lãnh đạo) ra, còn có bá quan văn võ phụ giúp trị lý quốc gia. Tịnh độ Đông phương cũng như vậy, cũng có hai vị Đại bồ tát là hai vị phụ tá đắc lực cho đức Phật Dược Sư trong việc giáo hóa chúng sinh. Một vị tên là Nhật Quang Biến Chiếu, một vị tên là Nguyệt Quang Biến Chiếu, là hai vị thượng thủ trong vô lượng vô số các Bồ tát ở cõi Phật đó. Thượng thủ, tức là người lãnh đạo. Dùng thí dụ để nói, trên bầu trời trong sáng, ánh sáng của mặt trời và ánh sáng của mặt trăng là thượng thủ trong tất cả ánh sáng của các vì sao. Hai vị Bồ tát này là người thừa kế của đức Như Lai Dược Sư, sẽ được bổ nhiệm vào ngôi vị Phật. Vị Bồ tát bổ xứ của cõi Ta Bà là ngài Di Lặc. Hai vị Bồ tát bổ xứ của tịnh độ Tây phương là Quán Âm và Thế Chí. Còn thế giới Tịnh Lưu Ly thì là hai vị Bồ tát bổ xứ là Nhật Quang và Nguyệt Quang. Công đức trí tuệ của hai vị Bồ tát này lớn nhất, cho nên đều có thể thọ trì kho báu Chánh pháp của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Giống như Thái tử có thể thi hành chánh sách của vua cha thì mới có thể thừa kế ngôi vua. Bồ tát bổ xứ là kẻ thừa kế Chánh pháp của đức Phật, đương nhiên có thể giữ gìn kho báu Chánh pháp của đức Phật. Chữ “pháp” của Chánh pháp, có nghĩa là thực tướng thường hằng phổ biến. Pháp này không tà, nên gọi là Chánh, cũng có thể gọi là Diệu pháp, tức là không  thô thiển mà là vi diệu. Nếu ước định sự xa lìa hai bên, cũng có thể gọi là Trung pháp. Kho, tức là chỗ cất chứa. Tất cả tiền tài châu báu không dùng đến đều có thể cất vào trong đó, khi cần thì đem ra sử dụng, cho nên gọi là kho. Tất cả công đức pháp tài thanh tịnh vi diệu cũng đều từ Chánh pháp này mà xuất phát, tất cả vô biên công đức pháp môn cũng đều được cất chứa trong đây, cho nên Chánh pháp được gọi là kho báu. Đối với kho báu Chánh pháp này, hai vị Đại bồ tát Nhật Quang và Nguyệt Quang đều có thể giữ gìn không mất, hoằng truyền lưu thông vô tận.

D3. Kết khuyến vãng sinh.

Vì thế, này Văn Thù Sư Lợi! Những kẻ nam người nữ nào có lòng tin, phải nên phát nguyện sinh về thế giới của đức Phật ấy.

Phần trên nêu rõ “hạnh nguyện ở nhân địa”, và “y chánh của quả đức” của đức Phật Dược Sư, tức là cho chúng ta biết được cõi Phật ấy trang nghiêm như vậy. Kế đến, đức Phật nói tiếp: “Vì thế, này Văn Thù Sư Lợi, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào có lòng tin đối với pháp môn Dược Sư, phải nên phát nguyện quyết định sinh về thế giới Tịnh Lưu Ly của Phật Dược Sư!” Ở cõi Phật ấy, không những hưởng thọ vật chất phong phú vô hạn, mọi người sống vô cùng hòa lạc, mà lại còn được thọ nhận sự dạy dỗ hướng dẫn của đức Phật Dược Sư. Phần dưới của kinh nói: “Nếu được sinh về Tịnh độ Đông phương thì sẽ không còn thoái chuyển đạo Vô thượng Bồ đề.” Pháp môn Tịnh độ như vầy, trong tất cả cõi Tịnh độ ở mười phương rất là vô cùng hiếm có, cho nên chúng ta cần phải nên phát nguyện vãng sinh về cõi Phật Dược Sư thì mới đúng!

C2. Phương tiện thiện xảo.
D1. Lợi ích của sự nghe tên nhớ niệm.
E1. Lợi ích của sự lìa ác.
F1. Lìa sự ác tham lam bỏn xẻn.

Lúc ấy, đức Thế Tôn lại bảo ngài Đồng tử Văn Thù Sư Lợi rằng: “Này, Văn Thù Sư Lợi! Có những chúng sinh chẳng biết lành dữ, chỉ biết ôm lòng tham lam, bỏn xẻn, không biết bố thí và phước báo của việc bố thí; ngu si không có trí tuệ, thiếu mất lòng tin, thường chất chứa tiền bạc của cải, chăm chăm giữ gìn. Thấy người đến xin, trong lòng không thích. Nhưng nếu cực chẳng đã mà phải bố thí, thì đau đớn luyến tiếc, giống như phải lóc thịt cho người. Lại có vô lượng những hữu tình tham lam keo kiết,  tích trữ tiền bạc của cải, tự mình không dám tiêu xài, nói chi đến việc đem cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ, người giúp việc, hoặc kẻ đến xin? Những hữu tình ấy, sau khi mạng chung, sẽ sinh vào cảnh giới ngạ quỷ, hoặc trong loài bàng sinh.

Trong phần khai thị về đức Như Lai Dược Sư, chúng ta đã giảng xong phần Y chánh hạnh nguyện. Hiện nay nói về phương tiện thiện xảo của Phật Dược Sư. Đức Như Lai Dược Sư y vào bổn nguyện lực của sự tu nhân trong quá khứ, và vô lượng vô biên công đức của quả Phật hiện đang chứng đắc để cứu độ tất cả chúng sinh khổ nạn.

Điều kiện chủ yếu của việc độ sinh là lòng từ bi, nhưng từ bi là phần nội tại của tâm, cần phải có phương tiện thiện xảo cao độ mới có thể biểu hiện ra ngoài. Lợi ích của sự cứu tế chúng sinh có thể phân làm ba loại, tức là: (a) lợi ích của sự nghe danh hiệu và nhớ niệm, (b) lợi ích của sự trì chú trị bệnh, và (c) lợi ích của sự cúng dường thọ trì. Trong phần lợi ích của sự nghe danh hiệu lại có hai loại là xa lìa sự ác, và được sự thiện lợi. Xa lìa sự ác có bốn loại.

Trước tiên nói về xa lìa sự ác bỏn xẻn tham tiếc.

Đây là một đoạn văn dài, cho nên bắt đầu nói: “Lúc ấy”, tức là lúc đức Thế Tôn khai thị về sự trang nghiêm của cõi Phật Dược Sư, và đang khuyến khích mọi người vãng sinh về cõi ấy. Đức Thế Tôn lại bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: “Có những chúng sinh chẳng có thể phân biệt lành dữ, mà chỉ biết ôm lòng tham lam bỏn xẻn. Người không biết thiện ác này không phải là người ngu si. Thế gian có rất nhiều người thông minh, rất nhiều mưu lược, đa tài đa nghệ, thế nhưng lại không biết làm việc thiện, mà lại chỉ biết làm ác. Chỗ này muốn ám chỉ là những người phủ nhận nhân quả thiện ác, mạt sát giá trị đạo đức. Nhân vì không biết nhân quả thiện ác, cho nên không biết ý nghĩa và quả báo của sự bố thí. Có nhiều người, trong một ván bài có thể thua vài ngàn đô la, thế nhưng, gặp những sự việc từ thiện xã hội lại không chịu trợ giúp, dù chỉ là một vài đô la. Lại có nhiều người, có thể vì bạn bè trai gái, tiêu xài hàng ngàn hàng vạn đô la vào những việc giải trí vô vị, nhưng lại không hề bố thí, dù một bát cơm cho những người nghèo đói. Những người này tuy không phải bỏn xẻn, nhưng không biết giữa người và người với nhau có một sự tương quan về họa phước, cần phải giúp đỡ cứu vớt,  cần phải từ sự bố thí mà tăng trưởng công đức của chính mình, cầu được quả báo lớn hơn cho chính mình. Tài sản hiện có vốn là do công đức của bố thí mà đạt được. Giống như gieo một hạt lúa giống thì tương lai sẽ thâu hoạch được nhiều hạt lúa. Thế nhưng, có nhiều người, vì không biết nhân quả thiện ác này, cho rằng bố thí là một việc không đáng làm. Những người không biết nhân quả thiện ác này là những người ngu si vô trí, đối với công đức của Tam bảo cũng thiếu lòng tin. Do vì không biết nhân quả, không tin Tam bảo, cho nên không chịu bố thí cho những người nghèo khổ bệnh hoạn và cúng dường Tam bảo. Bọn họ lúc nào cũng vậy, chỉ biết tham lam bỏn xẻn, lao khổ lo lắng giữ gìn tài vật, không chịu thí xả. Nếu như có người nghèo khổ đến xin, hoặc các cơ quan từ thiện đến quyên góp, trong tâm họ cảm thấy chán ghét bực bội. Nhưng cũng có lúc, vì sự quan hệ cá nhân, hoặc vì muốn giữ thể diện, bất đắc dĩ họ phải bố thí, thì lại cảm thấy đau đớn hối tiếc, giống như cắt xẻo xương thịt của chính mình. Những loại người này, vì bản thân vốn có thể bỏ tiền ra tiêu xài, nhưng lại tiêu xài không chính đáng.

Lại còn có vô lượng vô số hữu tình tham lam keo kiết, chỉ biết tích tập tài sản, đối với chính bản thân còn không dám tiêu xài, huống chi việc đem bố thí cho cha mẹ, nuôi dưỡng vợ con. Không cần phải nói, đối với tôi tớ, người giúp việc, ắt phải rất là khắc nghiệt. Còn như đối với những người đến xin thì một xu cũng không chịu bố thí. Trong tâm của những người này chỉ có tiền là hơn hết, còn như xài tiền vào việc gì thì họ hoàn toàn không nghĩ đến. Những hữu tình bỏn xẻn không biết bố thí này, sau khi mạng chung, nhất định sẽ từ thế giới này sinh vào thế giới của ngạ quỷ, hoặc đọa vào nẻo bàng sinh. Đây là nói sơ lược, thật ra, còn phải có thêm địa ngục. Ngạ quỷ, nhìn tên mà suy ngẫm ý nghĩa, bọn này lúc nào cũng đi tìm thức ăn, mà vĩnh viễn không bao giờ được no đủ. Lúc khát, ngay cả nước uống cũng tìm không ra một giọt. Bọn họ phải sống trong cảnh đói khát như vậy trong một thời gian rất lâu dài. Đây là quả báo của sự tham lam không biết đủ, có tiền tài mà không chịu bố thí. Bàng sinh, tức là loài đi ngang (không thể đứng thẳng như loài người được). Có nhiều người vì tham lam bỏn xẻn mà bị đọa vào loài này. Bàng sinh cũng có lúc tìm không ra thức ăn, như loài hổ lang tuy mạnh mẽ, nhưng có lúc phải chịu đói. Những người tham lam bỏn xẻn không bao giờ biết đủ, cho nên bị ác báo là vĩnh viễn không bao giờ được đầy đủ.

Do thuở còn làm người đã từng tạm nghe qua danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nên hiện nay tuy đang ở nẻo ác, tạm thời nhớ lại. Ngay khi nhớ nghĩ đến, liền được bỏ thân nơi nẻo ác, sinh trở lại loài người. Người ấy nhớ lại được đời trước của mình, lấy làm ghê sợ sự khổ nơi nẻo ác nên không còn ưa thích dục lạc, ưa làm việc bố thí, khen ngợi những người bố thí. Họ không còn tham tiếc tất cả tài vật mà mình sở hữu, dần dần có thể đem cả đầu, mắt, tay chân, máu thịt, thân thể bố thí cho người đến xin, huống chi là những tài vật khác!

Phần trên nói đến những chúng sinh nhân vì bỏn xẻn mà bị đọa vào những nẻo ác. Bọn họ lại do vì thuở còn làm người đã từng tạm nghe qua danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, hoặc cố ý hoặc vô ý, đã từng niệm qua danh hiệu, trong tâm đã trồng xuống hạt giống (danh hiệu của Phật Dược Sư), cho nên lúc bọn họ đang bị đọa trong nẻo ác, nhận chịu sự khổ sở bức bách, chẳng còn nơi nào để trốn tránh, bổng nhiên tạm thời nhớ lại danh hiệu của đức Như Lai ấy, sinh tâm cung kính, chí thành khẩn thiết quy hướng về ngài. Nương vào công đức của sự tạm thời nhớ lại thánh hiệu của đức Như Lai Dược Sư, thì ngay trong thời điểm đó, xả thân nơi nẻo ác đó, kết thúc sinh mạng khổ nạn mà được sinh trở lại làm người. Do đây chúng ta có thể thấy được phương tiện từ bi của đức Như Lai Dược Sư! Chỉ ngẫu nhiên nghe được danh hiệu của Phật Dược Sư mà đã được công đức to lớn như vậy, đây quả thật là Phật đức khôn lường! Chúng sinh nghe được danh hiệu Phật, trong tâm lưu giữ một ảnh tượng (chủng tử), Phật pháp gọi là “văn huân tập” (huân tập do sự nghe). Một mai gặp phải nạn khổ thì có thể nhớ trở lại, và hơn nữa, do đây mà được thoát khổ. Có nhiều người lúc bình thường thì nửa tin nửa ngờ, nhưng khi gặp phải một ách nạn thì mới nhớ lại thánh hiệu của đức Bồ tát Quán Thế Âm, bèn kiền thành xưng niệm danh hiệu, nhân đây mà được tránh khỏi ách nạn. Đây  là sự việc thường xảy ra. Sau khi sinh trở lại cõi người, bèn nhớ lại đời trước đã sinh vào nẻo ác là do tham lam keo kiết, không chịu bố thí. Do nhớ lại mà đời này sợ sự khổ ở nẻo ác, triệt để cải đổi lỗi lầm quá khứ, không còn chỉ vì riêng mình mà hưởng thú vui ngũ dục, mà có thể làm việc lợi ích cho người khác, ưa thích làm việc bố thí – hoặc bố thí cho kẻ đến xin, hoặc cúng dường Tam bảo, hoặc nhiệt tâm tham gia những công việc từ thiện xã hội. Không những riêng mình làm việc bố thí, mà còn tùy hỷ tán thán người khác bố thí. Như vậy, tất cả tài sản sở hữu đều có thể đem bố thí không chút luyến tiếc, dần dần tu tập, từ ngoại tài (đồ vật bên ngoài) đến nội tài (bộ phận trong cơ thể, như đầu, mắt, tay chân, máu thịt, v.v…) đều có thể bố thí cho người đến xin, huống chi là những tài vật khác? Như vậy, do nghe được danh hiệu của đức Như Lai Dược Sư mà có thể xả bỏ được ác hành và ác quả của sự tham lam bỏn xẻn.

F2. Xa lìa sự hủy phạm, tà kiến, kiêu mạn…

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Nếu có những hữu tình, tuy từ đức Như Lai thọ các học xứ, nhưng lại phạm vào các giới cấm; hoặc tuy không phạm giới, nhưng lại vi phạm phép tắc; hoặc tuy không phạm giới và phép tắc, nhưng lại hủy phạm chánh kiến; hoặc tuy không hủy phạm chánh kiến, nhưng lại không chịu nghe pháp nhiều, cho nên không thể hiểu rõ những ý nghĩa sâu xa trong kinh điển; hoặc tuy nghe pháp nhiều, nhưng lại sinh tâm “tăng thượng mạn”, do tăng thượng mạn che lấp tâm tánh, cho nên lúc nào cũng cho mình là đúng, người khác là sai, chê bai chánh pháp, kết bạn với ma. Những kẻ ngu si như vậy, chẳng những tự mình đi theo tà kiến, mà còn làm cho vô lượng hữu tình khác phải bị đọa vào hố sâu hiểm ác. Những hữu tình ấy, đáng lẽ phải bị trôi lăn không cùng trong các cõi địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Nhưng nếu nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, liền bỏ các hành vi ác, tu các pháp lành, khỏi bị đọa vào các nẻo ác. 

Đức Thế Tôn lại bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: “Nếu có các hữu tình”, tuy từ chánh pháp của đức Như Lai (Thích Ca) thọ nhận các học xứ, nhưng lại phá phạm các giới cấm (thi la). Học xứ, tức là ba tụ giới luật, là những chỗ mà đệ tử (thọ giới) của đức Phật cần phải học hỏi. Phật pháp có nhiều loại học xứ, như chúng tại gia thọ năm giới, chúng tỳ kheo thọ tỳ kheo giới, chúng Bồ tát thọ Bồ tát giới. Có nhiều loại học xứ khác nhau như vậy, cho nên nói “các học xứ.” Sau khi thọ nhận học xứ thì phải giữ gìn không được vi phạm. Thế nhưng, chúng sinh vì nhiều phiền não, hoặc vì hoàn cảnh xấu ác, cho nên thường thường phóng dật mà hủy phạm giới luật. Tiếng Phạn “thi la”, có nghĩa là thanh tịnh, dịch nghĩa là “giới.” Trì giới có thể diệt trừ tất cả phiền não nghiệp chướng, được sự thanh tịnh tự tại, cho nên gọi là thi la. Phá phạm thi la, tức là phá phạm tịnh giới như sát hại, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, v.v… Có người tuy không phá phạm giới luật, nhưng lại phá phép tắc (Hán: quy tắc). Đệ tử của Phật cần phải giữ gìn phép tắc liên quan đến sự sinh hoạt của tăng đoàn, hoặc phép tắc sinh hoạt của đoàn thể. Phá phạm giới luật bị tội nặng, nhưng chỉ tổn hoại đến đức hạnh cá nhân, còn như phá phạm phép tắc, tức là vi phạm quy luật chung của đoàn thể. Sự việc liên quan đến mọi người, tội lỗi thực sự cũng không phải nhẹ. Đây tức là đức hạnh cá nhân (Hán: tư đức) thì tốt, nhưng mà đức hạnh đối với đoàn thể (Hán: công đức) thì lại không tốt! Có người đối với giới luật và phép tắc, tuy thọ nhận giữ gìn, chưa từng hủy phạm, thế nhưng lại hủy phạm chánh kiến. Đây muốn nói rằng hành vi tuy không xấu, nhưng tư tưởng thì lại sai lầm, không chánh xác. Nếu biết thiện ác, nhân quả, có sinh tử, có giải thoát, có hiền thánh, có phàm phu, thì đây là chánh kiến thế gian. Nếu hiểu rõ khổ, không, vô thường, vô ngã, Niết bàn tịch tĩnh, pháp tính như như, v.v…, thì đây là chánh kiến xuất thế gian. Lúc đức Phật còn tại thế, có một tỳ kheo cho rằng Niết bàn là cái gì cũng không có, đây tức là tà kiến, phá hoại chánh kiến. Tuy giữ gìn giới luật, quy luật, nhưng nếu phá hoại chánh kiến, thì tội ác lại càng lớn hơn là phạm giới. Bởi vì phá hoại chánh kiến ảnh hưởng đến người khác, nếu như có kiến giải sai lầm đối với Phật pháp, truyền bá giáo pháp tà vạy lệch lạc thì sẽ có rất nhiều người bị thiệt hại. Có nhiều người tuy không hủy hoại chánh kiến, nhưng lại không chịu nghe nhiều Phật pháp (xả bỏ đa văn). Loại chúng sinh này, tri kiến tuy chánh xác, nhưng lại xả bỏ tinh thần “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, mà chỉ lấy một bộ kinh, một câu nói của đức Phật, rồi cho là đủ (không cần học thêm nữa), và còn cho rằng tất cả kinh luận khác đều là dư thừa. Do đây, đương nhiên là không thể hiểu rõ những ý nghĩa sâu xa mà đức Phật giảng nói trong các kinh điển. Bọn họ thường hiểu lầm, cho rằng kinh điển bất liễu nghĩa là liễu nghĩa. Giả như học Phật đều theo “kiểu” này, thì Tam tạng Bảo điển đều đành phải để đóng bụi trên kệ sách. Vả lại, không chịu học hỏi kinh điển còn giết hại tuệ mệnh của người khác, tiêu diệt sự hiểu biết của người khác (Nd: vì kiến giải cho rằng một câu niệm Phật là đủ), thật sự tội lỗi không còn gì nặng hơn! Có người tuy không bỏ sự đa văn, thông hiểu Phật pháp, trình độ rất cao thâm, nhưng lại khởi tâm tăng thượng mạn (Nd: y vào giáo pháp tăng thượng mà khởi tâm kiêu mạn), tức là chưa chứng mà tự cho là đã chứng, chưa được mà tự cho là đã được. Các học giả ngoài thế gian, học thức cao hơn mọi người một bậc, thường hay khởi tâm kiêu mạn, người học Phật cũng giống như vậy, nghe nhiều học rộng, hoặc tu tập thiền định có chút thể nghiệm, bất giác khởi tâm tăng thượng mạn. Loại người này, do vì bị tăng thượng mạn che lấp tâm chí, trở nên kiêu cuồng ngã mạn (không chỉ trong một đời), cho nên lúc nào cũng cho mình là đúng (tự thị), người khác là sai (phi tha), kết quả là chê bai (hủy báng) chánh pháp, tự nhận là con ruột của đức Như Lai, chỉ riêng mình là đắc được chánh pháp, nhưng không biết rằng mình mới thật là bè đảng với ma! Những kẻ ngu si này, không những tự họ đi theo tà kiến, mà đồng thời còn khiến cho vô lượng hữu tình khác phải bị đọa vào hố sâu tà kiến nguy hiểm.

Những hữu tình học Phật pháp mà lại nhập vào đường tà này, phạm tội nặng vô cùng, đáng lẽ phải bị đọa vào địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ, trôi lăn sinh tử, nhận chịu sự khổ sở không cùng tận. Thế nhưng, uy lực từ bi của đức Phật Dược Sư quả thật là không thể nghĩ bàn. Cho nên trong khi họ đang phạm thi la, cho đến khởi tâm tăng thượng mạn, nếu như nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì có thể giống như “thắng ngựa lại ngay trên bờ vực” (Hán: huyền nhai lặc mã), tha thiết cải đổi lỗi lầm quá khứ, liền xả bỏ các hành vi ác. Phá thi la có thể chuyển sang trì tịnh giới, lúc trước phạm quỹ tắc thì hiện nay có thể tuân hành, cho đến không bỏ sự đa văn, không khởi tăng thượng mạn. Ngược lại, lại dũng mãnh tinh tiến, tu tập các loại thiện pháp như trì giới, chánh kiến, đa văn, xa lìa tăng thượng mạn, thì có thể không còn bị đọa vào các nẻo ác. Đây cũng giống như từ trên lầu cao đang bị rơi xuống đất, mà ở giữa lừng không được cứu thoát!

Giả như họ chẳng bỏ được các điều ác, không thể tu tập các pháp lành, mà phải bị đọa vào các cõi ác, nhưng nhờ oai lực bổn nguyện của đức Như Lai Dược Sư, khiến cho họ khi ấy được tạm nghe qua danh hiệu của ngài, thì khi mạng chung, từ cõi ác kia được sinh trở lại làm người, được chánh kiến, tinh tiến, khéo điều phục tâm ý, liền có thể lìa bỏ gia đình, hướng đến đời sống xuất gia. Ở trong giáo pháp của Như Lai, thọ trì học xứ, không hề hủy phạm. Lại được chánh kiến, đa văn, hiểu rõ ý nghĩa sâu xa, xa lìa tăng thượng mạn, không chê bai chánh pháp, không làm bạn với ma. Dần dần tu hành các hạnh Bồ tát, mau chóng được thành tựu viên mãn.

Nếu nghiệp chướng nhẹ, thiện căn sâu dày, xưng niệm thánh hiệu của đức Như Lai Dược Sư thì có thể nhân vào sự gia bị của nguyện lực từ bi của ngài mà có thể cải ác hướng thiện, không bị đọa vào nẻo ác. Thế nhưng, nếu như nghiệp chướng quá nặng, thiện căn ít ỏi, đôi khi không thể chuyển đổi được tư tưởng hoặc hành vi, không thể xả bỏ được những hành vi ác để tu hành các pháp thiện, đương nhiên sẽ bị đọa vào các nẻo ác. Thế nhưng, do uy lực của bổn nguyện của đức Dược Sư khiến cho những chúng sinh ác này, hiện tiền tạm thời nghe được danh hiệu của ngài, và do công đức (nghe danh hiệu) này mà có thể từ nơi nẻo ác mạng chung, sinh trở lại cõi người. Lần này nhận được sự dạy dỗ, suy ngẫm về những khổ sở đã nhận thọ, cho nên hiểu rõ sự sai lầm của những hành vi phá giới, phá chánh kiến, mà đạt được sự an trụ trên cơ sở của chánh kiến. Kế đến, tinh tiến tu hành, khéo léo điều phục những sự mong muốn của nội tâm, khiến cho chúng trở thành hợp lý. Nhân vì đã thể nhận một cách thiết thực về sự đáng sợ của ba nẻo ác, cảm nhận sâu xa  về sự sùng cao của Phật đức, cũng như ân đức của Phật Dược Sư đã từ bi cứu độ, cho nên không còn tham luyến thế gian, bèn có thể xả bỏ đời sống gia đình mà sống một đời sống xuất gia. Trong chánh pháp của đức Như Lai, thọ trì các loại học xứ, cẩn thận giữ gìn, không dám hủy phạm. Hơn nữa, lại có thể khởi chánh kiến, cầu đa văn, hiểu rõ ý nghĩa thâm sâu của kinh điển, mà lại còn xa lìa tăng thượng mạn, không còn hủy báng chánh pháp, không còn đánh bạn với ma, cho nên không còn bị rơi xuống hố thẳm của chúng. Như vậy, dần dần tăng tiến, tu hành lục độ vạn hạnh của Bồ tát, cho nên công đức được viên mãn nhanh chóng.

Đoạn văn này, đối với sự tu học Phật pháp, đặc biệt là thời mạt pháp hiện nay, rõ rang lại càng trở nên quan trọng hơn. Nếu như bị phạm vào các điều lỗi lầm nêu trên, sắp sửa bị đọa lạc mà không có cách nào tự cứu mình, thì ngay trong đời này, phải nên siêng năng tu tập pháp môn Dược Sư, xưng niệm danh hiệu Phật Dược Sư, cầu khẩn nguyện lực từ bi của đức Phật Dược Sư gia bị, khiến cho chúng ta tiêu trừ nghiệp chướng, cải ác hướng thiện. Không nên đợi đến khi đọa vào ba đường ác thọ khổ rồi mới quay đầu lại tu hành.

F3. Xa lìa tâm ghen ghét khen mình chê người.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Nếu những hữu tình có tâm tham lam ghen ghét, khen mình chê người, tội đáng bị đọa vào trong ba đường ác, nhận chịu các khổ não nặng nề đến vô lượng ngàn năm; sau khi nhận thọ các sự khổ não nặng nề đó, đến khi mạng chung, trở lại thế gian, thọ sinh làm các loài bò, ngựa, lạc đà, lừa, thường bị đánh đập, đói khát khổ sở, lại thường phải chở đồ vật nặng nề trên những quãng đường xa. Nếu được làm người, phải sinh vào nhà hèn hạ, làm thân tôi tớ, thường bị sai khiến phục dịch, chẳng được tự do theo ý mình. 

Ganh ghét (Hán: tật đố), tức là không thích thấy sự trỗi bậc (vinh quang) của người khác, đây là từ tâm tham lam bỏn xẻn phát sinh. Do vì ganh ghét cho nên sẽ khen mình chê người. Như thấy người khác có tiền tài, có thế lực, hoặc có danh vọng, có địa vị, có học vấn, có đạo đức, tất cả đều vượt trội hơn mình, cảm thấy không thể nhẫn chịu nổi, bèn khởi tâm ganh ghét chướng ngại, khen mình chê người. Nếu không chê người thì không thể nâng cao ưu điểm của mình. Thế nhưng, nên biết rằng khen mình chê người, tội ác rất lớn, trong tương lai sẽ bị đọa vào ba đường ác, nhận thọ các sự khổ não nặng nề trải qua đến vô lượng ngàn năm. Không những chịu nhiều khổ sở ở các cõi địa ngục, ngạ quỷ, mà sau khi đã thọ xong các quả báo cực khổ đó, thì từ những nẻo ác đó mạng chung, trở lại sinh ở thế giới loài người, làm thân súc sinh, như trâu, ngựa, lạc đà, lừa, v.v…, thường bị loài người đánh đập, nhận chịu các sự khổ sở đói khát. Lại thường phải chuyên chỡ đồ vật nặng nề trên những quãng đường xa. Dù cho được làm thân người, cũng bị sinh vào những gia đình bần hèn, ngu ngốc bất tài, phải làm thân tôi tớ, thường bị người khác sai khiến, phải phục dịch cho họ không được một chút tự do. Khen mình chê người, tưởng là cao quý hơn người khác, thì ngược lại, bị quả báo sinh vào làm con nhà hèn hạ, bị người khác sai khiến.

Nếu như thuở trước, khi còn làm người, đã từng nghe qua danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, do nhân lành ấy nay tưởng nhớ lại, hết lòng quy y. Nhờ sức thần của Phật, liền được thoát hết mọi khổ não, các căn đều lanh lợi, lại được trí tuệ, nghe nhiều, thường cầu giáo pháp cao thâm, thường gặp bạn lành, vĩnh viễn đoạn tuyệt với những quyến thuộc của ma, phá vỡ lớp võ vô minh, làm cạn nước sông phiền não, giải thoát hết thảy mọi nỗi khổ não của sinh, già, bệnh, chết.

Nếu những chúng sinh này, trong đời quá khứ, lúc còn trong cõi người đã từng nghe qua danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, do nhân thiện của đời quá khứ này, hiện nay nhớ lại đức Như Lai Dược Sư bèn sinh tâm hổ thẹn, chí tâm quy với ngài, khẩn cầu cứu hộ. Lúc ấy, đức Phật Dược Sư bèn dùng sức oai thần, từ bi hộ niệm, thì tất cả sự thống khổ đó, bất luận là trâu ngựa súc sinh, tôi tớ nô bộc, v.v…, đều khiến cho được giải thoát. Hơn nữa, sau khi chuyển thân, các căn đều thông suốt lanh lợi, lại được trí tuệ, đa văn, thường tìm cầu Phật pháp cao thâm, thường gặp bạn lành, xa lìa những ác tri thức, vĩnh viễn rời bỏ vòng lưới của ma, phá vở lớp vỏ vô minh. Vỏ, tức là vỏ trứng, giống như gà con còn ở trong quả trứng, cảnh giới ngu si tăm tối, không được tự do. Cho nên phá trừ vô minh thì gọi là phá vở lớp vỏ vô minh. Nước sông phiền não cuồn cuộn,  vô cùng nguy hiểm, là nơi mà chúng sinh bị chìm đắm, cũng nhờ oai lực của Phật Dược Sư gia trì, khiến cho khô cạn. Vô minh và phiền não là nguồn gốc bồi dưỡng cho sự lưu chuyển sinh tử, nay đã phá vở vỏ vô minh, làm khô cạn sông phiền não, thì đương nhiên sẽ được hoàn toàn giải thoát khỏi tất cả mọi sự ưu sầu khổ não của sinh lão bệnh tử.

F4. Xa lìa tranh chấp, kiện tụng, trù ếm. 

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Nếu có những người ưa thích gây việc ngang trái chia lìa, lại hay tranh chấp kiện tụng, gây não loạn cho mình và người khác; dùng thân miệng ý mà tăng trưởng mọi thứ nghiệp dữ; từ lâu thường làm những việc chẳng chút lợi ích, mưu hại lẫn nhau; cầu đảo các vị thần núi, thần rừng, thần cây, thần đất; giết hại chúng sinh mà tế tự các loài dược xoa, la sát; viết tên kẻ oán thù, làm hình tượng kẻ ấy, rồi trù ẻo bằng chú thuật ác độc; dùng bùa ếm, hoặc cầu yêu tinh, hoặc dùng sâu độc để hại người khác; đọc chú thuật gọi thây ma dậy, sai khiến đi giết hại, hoặc làm tổn thương thân thể kẻ khác. 

Ở đây là xa lìa sự tranh chấp, kiện tụng, trù ếm, v.v… Chúng sinh tranh chấp, kiện tụng, trù ếm, mưu hại, v.v…, đủ các loại hành vi vô đạo đức, nguồn gốc đều là từ tâm sân hận. Điều này có thể nhờ sự tụng niệm danh hiệu của đức Như Lai Dược Sư mà được giải trừ.

Bổn nguyện của đức Phật Dược Sư lại nói: “Nếu có những hữu tình, nhân vì tâm sân hận nặng nề, cư xử với nhau, không thể mưu cầu sự hòa hợp thông cảm, mà lại ưa việc thị phi, gây sự ngang trái, như sự tranh chấp lẫn nhau, kiện tụng lẫn nhau. Tranh chấp (Hán: đấu) là sự xung đột. Kiện tụng (Hán: tụng) tức là sự tranh cãi, hoặc tranh cãi trên mặt văn tự, hoặc tố cáo trước pháp luật. Kết quả, não loạn chính mình và đồng thời não loạn cho kẻ khác, cả hai bên đều bị tổn thương. Giữa người và người với nhau không thể đối xử hòa mục, bèn tạo thành sự tranh chấp trong gia đình, sự bất an trong xã hội. Nếu giữa các quốc gia không thể đối xử hòa mục, thì sẽ đưa đến chiến tranh trên thế giới. Nói tóm lại, loài người không thể sống hòa bình, không thể giúp đỡ nhau đều là do phiền não sân hận tác quái. Những chúng sinh ưa thích việc ngang trái, não loạn mình và người, dùng ba nghiệp thân miệng ý mà tạo tác tăng trưởng mọi thứ ác nghiệp. Anh hại tôi, tôi cũng hại anh, trả thù qua lại, thường làm những việc chẳng chút lợi ích, hoặc công khai, hoặc mờ ám, để mưu hại lẫn nhau.

Những người có sức mạnh, có thế lực có thể trực tiếp mưu hại đối phương, còn những kẻ yếu thế thì bí mật đi tìm những biện pháp tà ác để mưu hại. Ví dụ như đi cầu đảo các vị thần núi, thần rừng, thần cây, hoặc những loại quỷ thần sống gần mồ mã (Hán: trủng), để họ giúp mình báo thù. Hoặc là giết hại các loài chúng sinh như trâu, dê, gà, v.v…, lấy máu thịt để cúng tế các loài dược xoa, la sát, v.v… Dược xoa, dịch nghĩa là nhanh chóng, hành động vô cùng nhanh nhẹn. La sát, dịch nghĩa là bạo ác. Hai loại này là loài có sức lực mạnh nhất trong các loại quỷ, cho nên cúng tế cầu mong chúng làm thương tổn đối phương. Hoặc viết tên của kẻ oán thù, ở Trung Quốc lại có tục lệ viết thêm tám chữ về ngày sinh của kẻ thù, dùng cây (hoặc cỏ) làm hình tượng của họ, rồi dùng chú thuật ác độc để trù ẻo. Hoặc dùng bùa ếm (Hán: yểm), giống như những thợ nề thợ mộc oán ghét chủ nhà đối đãi với họ không tốt, bèn lén đem đao, tên, hình nộm, v.v…, đặt trên xà nhà, hoặc trong vách tường, khiến cho người chủ nhà sinh sống không được an vui. Sâu độc (trùng độc), tức là tụ hợp nhiều trùng độc lại với nhau, khiến cho chúng tàn sát lẫn nhau, cuối cùng còn lại một con, rồi đem nó giết đi, xay thành phấn, sau đó lén bỏ chất độc đó vào thức ăn hoặc quần áo kẻ thù, khiến cho họ bị nhiễm độc mà chết. Lại còn “đọc chú thuật gọi thây ma dậy”, nghĩa là niệm chú cho xác chết hoạt động trở lại, rồi đưa cho nó đao, thương (giáo), sai khiến nói đi giết chết kẻ thù, hoặc làm tổn hoại thân thể của họ. Những sự kiện này đều xuất phát từ tâm sân hận, vì không thể trực tiếp trả thù, cho nên nghĩ ra những tà thuật độc ác, đây đều là vô đạo đức. Hiện nay, thời đại tiến bộ, ít có người dùng những tà thuật này hại người, thế nhưng sự cừu hận giữa người và người vẫn còn vô cùng sâu nặng, mà hơn nữa, những thủ đoạn tàn hại lẫn nhau càng lúc càng trở nên hiểm ác, tàn khốc.

Những hữu tình ấy, nếu được nghe danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì những việc ác kia không thể làm hại được. Tất cả đều dần dần phát khởi lòng lành, muốn làm những việc lợi ích an lạc, không có ý não hại, không ôm lòng oán hận. Ai nấy đều vui vẻ, tùy theo chỗ có được, đều thấy vui đủ, không xâm hại nhau, lại còn làm lợi ích cho nhau.

Những hữu tình đang bị kẻ khác hãm hại này, nếu như nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì có thể nương vào oai lực từ bi của ngài, khiến cho tất cả các việc ác vừa nêu trên đều mất đi hiệu lực, không thể còn gây nguy hại. Đây gọi là “tà không thể thắng chánh.” Tà thần ác quỷ, dù lực lượng có lớn bao nhiêu chăng nữa, cũng không thể nào so sánh được với nguyện lực từ bi của chư Phật. Ví như có người bị hãm hại, bị các quan chức cấp thấp giam cầm, chỉ cần cơ quan cao nhất hạ lệnh phóng thích thì ai mà còn có thể cưỡng lệnh? Cho nên công đức xưng niệm thánh hiệu của đức Như Lai Dược Sư là vĩ đại nhất! Căn cứ vào Phật pháp mà nói, tuy muốn hãm hại người khác, nhưng có làm được hay không là một vấn đề. Nếu như nạn nhân quả thật bị tổn hại, thì đây là do tự thân của kẻ đó (nạn nhân) nhất định có vấn đề. Ví như trường hợp của đức Bổn Sư Thích Ca, thân tâm của ngài không còn một tơ hào ô nhiễm, thanh tịnh không chút tì vết, dù bất cứ một lực lượng cường bạo như thế nào cũng không thể làm tổn hại một sợi lông của ngài! Giống như thân thể chúng ta, nếu trên da có một vết thương nhỏ, thì chỉ cần dính một chút độc dược cũng có thể bị trúng độc; nếu như da hoàn toàn lành lặn thì sẽ không bị ảnh hưởng bởi thuốc độc. Lúc đức Phật Thích Ca còn tại thế, rất nhiều ngoại đạo muốn hãm hại ngài, như dùng thuốc độc, ác chú thuật, voi điên, tảng đá lớn, v.v…, thế nhưng, hoàn toàn không có hiệu dụng gì đối với ngài. Cho nên muốn không bị nguy hại, muốn giảm bớt lửa độc của đối phương, thì cần phải tăng cường lực lượng của chính mình. Nếu như gặp phải các loại mưu hại bức não, cần phải thiết thực thọ trì pháp môn Dược Sư, nương vào lực gia bị của đức Như Lai Dược Sư, tăng cường sức lực nội tâm của chính mình để có thể kháng cự tiêu trừ những ma lực từ bên ngoài.

Nếu được oai lực của đức Như Lai Dược Sư gia trì, thì không những tất cả việc ác không thể xâm hại, mà hơn nữa, tất cả những ác ý muốn làm tổn hại người khác cũng đều bị hóa giải. Do đây, hai bên có thể đối xử với nhau một cách hòa lạc, đều khởi lòng từ, và đồng thời có thể làm lợi ích cho nhau, và như vậy, mọi người đều đạt được sự an lạc. Hai bên không còn ôm lòng não hại và hiềm hận lẫn nhau, mọi người đều nhìn nhau bằng đôi mắt thân thiện, nói năng hòa nhã, tất cả đều được an vui khoái lạc. Đối với những quả báo mà mình đã nhận thọ, dù có khó khăn gian khổ cũng có thể “an bần lạc đạo”, sinh tâm an vui biết đủ, không xâm hại lẫn nhau, mà còn làm lợi ích cho nhau.

Phần trên là xa lìa bốn loại ác: (1) Xuất phát từ tâm tham mà trở nên bỏn xẻn tham tiếc, không chịu bố thí. (2) Xuất phát từ tâm kiêu mạn, hủy báng Tam bảo. (3) Xuất phát từ tâm ganh ghét (đố kỵ), khen mình chê người. (4) Xuất phát từ tâm sân hận, tranh cãi kiện tụng, bùa chú trù ếm. Những việc này, trong Phật pháp Đại thừa, là những tội ác rất lớn. Không có gì khác biệt so với sự hủy phạm tội căn bổn như sát sinh, trộm cướp, v.v… Bất luận là Kinh Thắng Man Phu Nhân, Kinh Phạm Võng, Kinh Bồ Tát Anh Lạc, Kinh Du Già Bồ Tát Giới đều đặc biệt nêu ra. Nếu phạm bốn loại tội ác này, tức là vi phạm giới luật Đại thừa, phạm tội Ba la di của Bồ tát. Bốn loại tội ác này, nếu như cá nhân không thể tiêu trừ thì không thể hành Bồ tát đạo. Nếu như loài người không thể giảm trừ những loại tội ác này thì sẽ không có hy vọng cho nền hòa bình vĩnh cửu của thế giới! Cho nên, nếu chúng ta muốn hành Bồ tát đạo, tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình, muốn ngăn ngừa sự đấu tranh điên cuồng, xây dựng thế giới lý tưởng, thì cần phải thiết thực tu trì Tịnh độ Dược Sư, hoằng dương pháp môn Dược Sư!

E2. Được lợi lành.
F1. Được vãng sinh tịnh độ.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Nếu trong bốn chúng: tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, cùng những kẻ nam người nữ có lòng tin trong sạch, có những người thọ trì tám phần trai giới, hoặc được một năm, hoặc được ba tháng, thọ trì học xứ, dùng những căn lành ấy nguyện vãng sinh cõi Tây phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà để được nghe chánh pháp, nhưng tâm vẫn chưa quyết chắc. 

Phần trên nêu rõ bốn sự lợi ích xa lìa tội ác, phần dưới đây nêu rõ những lợi lành cũng có bốn điều. Trước tiên nói rõ lợi lành được vãng sinh tịnh độ.

Đức Thế Tôn nói với ngài Văn Thù Sư Lợi: “Nếu trong bốn chúng” đệ tử của Phật (tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di). Tỳ kheo, tỳ kheo ni là hai chúng nam nữ xuất gia, ưu bà tắc, ưu bà di là hai chúng nam nữ tại gia. Danh xưng của hai chúng tại gia dịch nghĩa là cận sự nam, cận sự nữ, nhân vì bọn họ đều tin tưởng phụng trì Tam bảo, gần gũi Phật pháp. Ngoại trừ bốn chúng đệ tử ra, còn có những người tin Phật pháp nhưng chưa thọ Tam quy năm giới, gọi là những người “có lòng tin trong sạch.” Những đệ tử này của Phật, có những người thọ trì tám phần trai giới. Tám phần trai giới, hoặc gọi là

Bát quan trai giới: (1) Không sát sinh, (2) không trộm cắp, (3) không hành dâm, (4) không vọng ngữ, (5) không uống rượu, (6) không được đeo hoa, thoa hương thơm, (7) không được ca hát nhảy múa và đi xem nghe, (8) không được nằm giường cao tốt đẹp. Tám điều này là giới, lại còn một loại không được ăn phi thời (quá ngọ) gọi là trai. Hợp lại gọi là tám phần trai giới. Có người thọ trì học xứ này trong thời gian dài một năm, hoặc là ba tháng (theo lệ của Trung quốc là ba tháng giêng, năm, và chín; còn theo Việt nam là ba tháng giêng, bảy, và mười), rồi hồi hướng thiện căn trì giới này cầu vãng sinh về Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà để được nghe đức Phật A Di Đà và các vị Đại bồ tát khai thị chánh pháp.  Thế nhưng, đây chỉ là nguyện vọng, trên thực tế có được vãng sinh hay không vẫn chưa có thể quyết định được. Chúng sinh nhân vì hoàn cảnh của thế giới Ta Bà quá phức tạp, quá nhiều chướng ngại, không dễ dàng tu học chánh pháp, cho nên phát nguyện vãng sinh Tây phương Tịnh độ để có được một nơi an thân tương đối thích hợp cho việc tu học Phật pháp. Nếu như đã phát nguyện như vậy, nhưng trong tâm vẫn chưa quyết chắc (được vãng sinh hay không), thì nên tu tập pháp môn Dược Sư như một biện pháp để bổ túc. Muốn vãng sinh tịnh độ, ngoài việc nhất tâm xưng danh hiệu Phật, còn phải tu học những công đức khác, tích tập thiện căn, chứ không phải chỉ xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Như kinh này nói là phải thọ tám phần trai giới, lại như Kinh A Di Đà nói: “Không thể dùng ít thiện căn, ít phước đức, ít nhân duyên mà có thể vãng sinh nước

(Cực Lạc) đó!” Cho nên tu hành pháp môn vãng sinh cần phải tu tập các công hạnh khác như bố thí, trì giới, v.v…

Nếu người đó nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì khi mạng chung, sẽ có tám vị Đại bồ tát: Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, Bồ tát Vô Tận Ý, Bồ tát Bảo Đàn Hoa, Bồ tát Dược Vương, Bồ tát Dược Thượng, Bồ tát Di Lặc từ không trung đến, đưa đường chỉ lối, khiến cho được tự nhiên hóa sinh trong các loại hoa báu đủ màu ở nơi thế giới kia. 

Những chúng sinh cầu nguyện vãng sinh Tây phương nhưng tâm chưa quyết chắc này, nếu như nghe được danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, bèn chí tâm trì niệm, nương vào công đức xưng danh này, cùng với lực bổn nguyện của đức Như Lai Dược Sư thì có thể đạt được trợ lực. Cho nên lúc mạng chung có tám vị Đại bồ tát: Văn Thù Sư Lợi, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Vô Tận Ý, Bảo Đàn Hoa, Dược Vương, Dược Thượng và Di Lặc, từ không trung đến, đưa đường chỉ lối cho sự vãng sinh, trong một khoảnh khắc sẽ được tự nhiên hóa sinh trong những loại hoa báu đủ màu ở nơi thế giới kia. Hoa báu ở cõi Cực Lạc, như Kinh A Di Đà nói: “Lớn như bánh xe, màu xanh phát ánh sáng xanh, màu vàng phát ánh sáng vàng, màu đỏ phát ánh sáng đỏ, màu trắng phát ánh sáng trắng.” Chúng sinh vãng sinh Tây phương, có thể từ trong các hoa sen báu màu sắc khác biệt tự nhiên hóa sinh, mà không cần phải nương vào nhân duyên của cha mẹ. Niệm Phật A Di Đà, khi mệnh chung có hai vị Đại bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đến tiếp dẫn, còn niệm Phật Dược Sư, khi mệnh chung có tám vị Đại bồ tát đến nghinh tiếp.

Ở đây có một vấn đề là trong kinh có câu “ở nơi thế giới kia”, rốt ráo chữ “kia” là chỉ cho thế giới Tịnh Lưu Ly ở phương Đông, hay là chỉ cho thế giới Cực Lạc ở phương Tây? Có thể giải thích hai cách: (1) Được tám vị Đại bồ tát đưa đường chỉ lối vãng sinh Tây phương Tịnh độ, điều này rất hợp tình hợp lý. (2) Phát nguyện vãng sinh Tây phương Tịnh độ, nhân vì chưa quyết chắc, sau đó nghe được danh hiệu của đức Như Lai Dược Sư thì mới có tám vị Đại bồ tát đến tiếp dẫn, thì đây là vãng sinh Đông phương Tịnh độ. Hai lối giải thích này đều hợp lý, bởi vì chư Phật bình đẳng, cho nên các cõi Tịnh độ đương nhiên cũng giống nhau. Chúng ta vãng sinh về một cõi tịnh độ nào đều là nương vào nguyện lực, công đức lực ở quá khứ. Nếu như có tín tâm mạnh mẽ đối với Phật A Di Đà, nếu xưng niệm danh hiệu của đức Như Lai Dược Sư thì đức Như Lai Dược Sư dùng từ bi nguyện lực trợ giúp cho chúng ta được vãng sinh về cõi Phật A Di Đà. Phật lực của đức A Di Đà đưa tay kéo chúng ta, còn Phật lực của đức Dược Sư lại từ phía sau đẩy tới, thì việc vãng sinh Tây phương sẽ trở nên dễ dàng. Nếu như chúng sinh có lòng tin sâu xa đối với Phật Dược Sư, và trong quá khứ đã từng niệm Phật A Di Đà, thì hiện nay Phật A Di Đà có thể trợ giúp chúng ta vãng sinh Tịnh độ của Phật Dược Sư. Ý nghĩa của tịnh độ giống nhau, ưa thích Tây phương thì vãng sinh Tây phương, ưa thích Đông phương thì vãng sinh Đông phương. Chư Phật đạo đồng, cho nên những cõi tịnh độ của các ngài cũng hoàn toàn bình đẳng không khác biệt.

F2. Được sinh lên cõi trời.

Hoặc có người do nhân duyên như vậy được sinh lên cõi trời. Tuy sinh cõi trời, nhưng căn lành từ trước chưa hết, không còn sinh vào các nẻo ác. 

Sự lợi ích tế độ hữu tình của pháp môn Dược Sư vô cùng rộng lớn phổ biến. Hoặc có chúng sinh nhân vì được nghe danh hiệu của đức Như Lai Dược Sư, nhờ công đức này mà được sinh lên cõi trời. Không sinh tịnh độ mà sinh lên cõi trời, không phải là không được đức Như Lai Dược Sư gia bị, nhưng vì tín tâm, nguyện lực và tư lương của chúng sinh không đủ để đạt đến điều kiện vãng sinh tịnh độ, mà chỉ có thể sinh lên cõi trời để hưởng sự vui sướng. Chẳng qua, những chúng sinh này khác với những kẻ sinh lên cõi trời khác. Những chúng sinh khác sinh lên cõi trời, sau khi hưởng hết phước cõi trời thì thường bị đọa lạc (vào các nẻo ác), còn những chúng sinh tu tập pháp môn Dược Sư này, do vì trong đời quá khứ đã từng nghe qua danh hiệu của đức Dược Sư, tuy sinh lên cõi trời hưởng phước, nhưng đến khi hết tuổi thọ cõi trời, thiện căn sinh lên cõi trời vẫn chưa hết, cho nên tuyệt đối có thể bảo đảm không còn bị sinh vào các nẻo ác như địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, v.v… Không giống như các vị trời khác có thể bị đọa lạc.

F3. Được sinh lại làm người.

Khi hết tuổi thọ nơi cõi trời, sinh trở lại nhân gian, hoặc làm luân vương thống lãnh bốn châu, oai đức tự tại, giúp cho vô lượng trăm ngàn hữu tình tu tập mười điều lành một cách vững vàng; hoặc sanh vào trong các nhà danh giá thuộc dòng sát đế lợi, bà la môn, cư sĩ, giàu có sung túc, kho lẫm tràn đầy, lại được hình tướng đoan chánh, quyến thuộc đầy đủ, thông minh trí tuệ, mạnh mẽ oai dũng như đại lực sĩ.

Sinh lên cõi trời cũng đến lúc chung tận, nhưng lại không bị đọa vào ba nẻo ác, cho nên đến khi hết tuổi thọ cõi trời, tự nhiên sẽ được sinh trở lại cõi người. Thông thường, mọi người đều cho rằng cõi người rất khổ, nhưng thật ra, cõi người là một nơi tốt đẹp, cho nên đức Thế Tôn không xuất hiện trên cõi trời mà lại sinh ở cõi người. Chúng ta có thể hiểu được là cõi người đối với sự tu tập Bồ đề đạo, trên thực tế, rất là có giá trị! Hoàn cảnh trên cõi người không quá khổ mà cũng không quá vui sướng, không bị dục lạc của cõi trời làm mê hoặc, mà cũng không bị bức bách bởi sự khổ sở của ba nẻo ác, cho nên cõi người quả thật là một nơi lý tưởng cho sự tu hành học đạo. Nếu chúng ta có thể lợi dụng hoàn cảnh một cách thiết thực, tinh tiến tu tập tư lương phước tuệ, thì Phật quả sẽ không còn quá xa đối với chúng ta.

Những hữu tình cõi trời sinh trở lại cõi người, nhân vì quá khứ đã từng nghe được thánh hiệu của đức Phật Dược Sư, nhưng không thành tựu được thiện căn thâm hậu, cho nên những người đó phần lớn chỉ trở thành những người lãnh đạo có thế lực. Họặc làm chuyển luân thánh vương, thống nhiếp bốn đại châu. Y theo Phật pháp nói, ở chính giữa thế giới này có núi Tu Di, bốn phía là bốn đại châu.  Kim luân vương thống lãnh bốn châu, Ngân luân vương thống lãnh ba châu, Đồng luân vương thống lãnh hai châu, và Thiết luân vương thống lãnh một châu. Kim luân vương có oai đức rất lớn, quyền lực không ai sánh bằng, tất cả đều có thể như ý tự tại. Luân vương trị vì thiên hạ là vì muốn tất cả loài người đều sinh hoạt một cách lý tưởng, cũng tức là dùng chính sách chánh trị tốt đẹp, khiến cho mọi người đều trải qua một cuộc sống hướng thượng, có ý nghĩa, cho nên nói: “Giúp cho vô lượng trăm ngàn hữu tình tu tập mười điều lành một cách vững vàng.” Chánh trị tốt đẹp, tức là nền chánh trị thi hành mười điều thiện. Mười điều thiện là: thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm; miệng không nói dối, không nói đâm thọc, không  nói lời ác, không nói lời vô ích; ý không tham, không sân, không tà kiến. Trong kinh điển nói quyền lực của luân vương đến nơi nào thì các tiểu vương ở vùng đó đều đem vàng bạc châu báu ra cống hiến, nhưng luân vương đều không nhận, mà chỉ một mực khuyên răn, hướng đạo các tiểu vương phải nên dùng pháp thập thiện để cai trị nhân dân. Thiên hạ lý tưởng của luân vương là một thiên hạ mà pháp thập thiện được phổ cập, còn chánh trị là một loại chánh trị đạo đức, dẫn đạo nhân dân hướng đến một nếp sống mỹ mãn và an lạc. Cho nên trong kinh điển nói các vị luân vương phần nhiều là Bồ tát hóa thân. Ngài Khổng Tử cũng nói đến một nền chánh trị “dùng đức để dẫn đạo, dùng lễ để an định”, so ra cũng gần với chánh trị đạo đức của luân vương.  Loại chánh trị chú trọng đến việc kích phát đạo đức, tịnh hóa tư tưởng này, từ cơ sở của tinh thần văn minh mà kiến lập một sự sinh hoạt đạo đức cao thượng, hòa hợp đạo đức và chánh trị thành một thể.

Các chúng sinh phước đức tương đối lớn, sinh trở lại cõi người làm luân vương, còn kém hơn thì, hoặc sinh làm sát đế lợi – giai cấp võ sĩ quý tộc, hoặc sinh vào dòng dõi bà la môn – giai cấp tăng lữ, tôn giáo sư, hoặc sinh vào nhà danh giá (cư sĩ đại gia), tức là những nhà giàu có, danh vọng. Được chuyển sinh vào ba dòng dõi lớn này là vì: (1) Thứ nhất là tài sản dư dật (giàu có sung túc, kho lẫm tràn đầy). (2) Thứ hai là hình tướng, sinh ra được tướng mạo cực kỳ đoan chánh trang nghiêm. (3) Thứ ba là có đầy đủ quyến thuộc: cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, v.v… (4) Thứ tư là sinh ra rất thông minh, có trí tuệ, nghe nhiều học rộng. (5) Thứ năm là dũng cảm, mạnh mẽ, oai dũng không ai sánh bằng, giống như một đại lực sĩ, có thể hàng phục tất cả, mà không ai có thể không khuất phục được. Sinh ra trên đời mà có tất cả những điều kiện ưu việt này thì mới được xem là đời người mỹ mãn.

F4. Được chuyển thành thân trượng phu.

Nếu có người nữ, nghe danh hiệu đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, hết lòng thọ trì, về sau chẳng còn phải sanh làm thân nữ.

Nếu vốn là người nữ, đối với thân nữ sinh tâm nhàm chán, nhân vì nghe được danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, sau đó chí tâm lãnh thọ phụng trì, cho nên có thể vĩnh viễn không còn thọ lại thân nữ, mà dùng thân đại trượng phu tinh tiến tu hành, cho đến ngày thành Phật.

Phần trên xa lìa bốn loại ác, đạt được bốn loại thiện đều là do nghe được thánh hiệu của đức Như Lai Dược Sư, sau đó chí tâm xưng niệm, tu trì đúng như pháp, cho nên đạt được hiệu quả. Chúng ta muốn xa lìa việc ác, đạt được điều lành thì phải y vào giáo pháp này mà tín thọ phụng hành.