Phụng Hoàng Cảnh Sách Tập
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 

TẬP IV

Thỉnh Nguyện Ni

Ngày 28-10 Ất Hợi (19-12-1995)

Hôm nay Thầy có những điều nhắc nhở toàn chúng.

Ở đây, với tinh thần Thiền viện, Thầy sẵn sàng để ngỏ, khi nào có ai chán ở đây cứ thưa rõ, Thầy cho đi liền, lại có tiền xe đi, còn nếu trốn thì không có tiền xe. Cứ việc thưa: “con không thích ở đây nữa, cho con đi chỗ khác”, Thầy cho đi liền, không bao giờ ngăn một lời, sẵn sàng cho đi không có điều kiện gì hết, cũng không khuyên răn, rầy phạt hay bắt bồi hoàn gì. Xin là cho đi ngay.

Thầy từng nói với tất cả tụi con, Thầy muốn những người tới đây đều quyết tâm nhiệt tình tu giải thoát sanh tử, nên Thầy tạo duyên cho tu, còn ai không thích ở nữa, muốn rời đi chỗ khác, Thầy sẵn sàng vui vẻ cho đi để người khác đến tu. Chính bây giờ còn nhiều người xin mà Thầy không nhận vì chỗ có giới hạn, khi nào ai vắng Thầy cho người khác vào, chớ không phải vì sợ không có chúng mà giữ lại. Giả sử ở đây còn chừng mười người mà quyết tâm tu Thầy cũng hoan hỉ như thường, chớ không cần đông số lượng để khoe người ta. Thầy không chủ trương như vậy.

Cho nên, cửa Viện để ngỏ, tụi con đứa nào không thích ở đây nữa cứ thưa, Thầy nói Thủ bổn cho tiền xe đi, chớ không ngăn, không rầy. Đừng muốn đi rồi trốn, người ta sẽ nghĩ ở đây chắc Thầy khó khăn lắm, sợ bồi hoàn gì đó nên phải trốn đi, không dám thưa trình. Đó là điều không tốt, làm cho người ta nghĩ xấu về Thiền viện.

Từ xưa tới giờ, Thầy thâu đệ tử hay thâu chúng ở các Thiền viện, Thầy thường nói vô thì khó mà ra rất dễ. Tại sao vậy? Vì vô phải có đủ điều kiện, có cha mẹ cho phép, có giấy tờ hợp pháp Thầy mới nhận. Còn ra thì vị nào có ý chán không thích ở nữa Thầy cho đi, không bao giờ ngăn. Thầy không sợ mất người, mất số Tăng Ni rồi Thiền viện mình vắng, ít. Thầy không có quan niệm đó.

Thầy từng nói với tụi con, Thầy làm Phật sự là vì chúng sanh chớ không phải cho bản thân Thầy, hay vì củng cố địa vị. Thấy tụi con quyết tâm nên Thầy tạo duyên cho tụi con tu. Nếu người lớn không tạo duyên cho người nhỏ tu, đó là lỗi của người lớn. Vì Thầy thấy các nơi, người mới xuất gia rất tốt. Xuất gia thời gian lâu rồi thối tâm, đó là lỗi của người lớn không khéo sắp đặt, không hướng dẫn đúng mức.

Ở đây Thầy chủ trương rõ ràng: chỉ một việc tu thôi, không có việc gì khác. Bởi vậy nên cấm đi đây, đi kia là muốn cho tụi con yên tu. Cấm không được kết bè bạn vì sợ tụi con phiền não, rối tâm tu không được. Cấm không cho giữ tiền bạc vì sợ tụi con bận lo lắng này kia. Cấm làm những chuyện phi pháp vì sợ tụi con lãng phí thời giờ vô ích. Tất cả những cấm đoán đó là vì tụi con, muốn tụi con trong thời gian ở đây năm, mười năm tu có kết quả tốt, mỗi đứa đều có tiến, dù không tới chỗ cao tột cũng phải có tiến, chớ không phải ở đây đi ra rồi cũng như hồi mới đến.

Bởi trách nhiệm đó nên Thầy cố gắng tạo duyên cho tụi con tu. Mà tạo duyên thuận trên đường tu thì nghịch trên đường đời, phải không? Ba mẹ bệnh không cho về lâu, bạn bè gởi thư lên không trả lời, cũng không rủ lên thăm, đó là trái với đời. Chính vì trái với đời mà thuận với đạo. Đó là kinh nghiệm bao nhiêu năm của Thầy ở Phật học đường.

Từ nhiều năm nay Thầy lo cho Tăng Ni tu hành, Thiền viện này là chuyến chót. Thầy dồn hết sức lực, hết khả năng để lo cho tụi con yên tu, làm sao để năm bảy năm tụi con tu có kết quả thật sự Thầy mới vui. Bởi vậy cái gì lo được cho tụi con Thầy đều ráng lo. Chỗ tận lực của Thầy, ai quyết tâm tu sẽ thấy, còn đứa nào mãi theo các duyên bên ngoài thì không thấy.

Không phải Thầy kể công với tụi con, mà muốn cho tụi con biết rằng bổn phận của người lớn là lo cho có người sau tiếp nối. Ngọn đèn trước sắp tắt, ngọn đuốc trước sắp tàn, thì phải có ngọn đèn sau, cây đuốc sau nối tiếp. Đó là trách nhiệm của người đi trước. Không phải Thầy lo cho tụi con học giỏi, học hay, có danh tiếng để Thầy nhờ. Thầy không nghĩ vậy. Thầy nghĩ cái gì người trước làm được thì người sau phải kế thừa, tiếp nối, cho mỗi ngày mỗi tốt hơn, sáng hơn, chớ không để tối tăm, mờ mịt. Đó là chỗ Thầy trông đợi và quyết tâm làm cho được.

Vì vậy, ai quyết tu thì những cái nghịch với thế gian phải cố gắng chấp nhận làm cho được. Đồng thời những cái thuận với sự tu cũng phải làm cho được, đừng có lơ lửng mất hết thì giờ quí báu. Tuổi tụi con còn thanh niên, còn đủ sức lực, đủ sáng suốt, phải ráng thực hiện cho được. Đừng để mai kia già yếu, muốn vươn lên cũng không được. Nên thời gian ở đây là thời gian quí báu chớ không phải thường, tụi con đừng xem thường cái quí báu của mình. Mỗi đứa phải cố gắng thực hành cho tốt.

Hiện nay việc ăn, mặc, ở đối với tụi con đã tạm đủ, tới uy tín Thiền viện Thầy cũng gây được cho tụi con. Đã tạo uy tín lớn cho tụi con rồi, Thầy rất lo ngại mai kia tụi con ra, không đúng như những gì người ta tin tưởng, đó là điều đáng tiếc.

Bởi vậy Thầy mong tất cả tụi con, đứa nào cũng ráng tu, nghĩa là những gì người ta trông đợi tụi con mười phần, ít ra cũng phải được năm, bảy phần, chớ rồi không có gì hết là rất dở.

Tụi con thử nghĩ, từ ngày ở Chân Không cho tới nay là bao nhiêu năm? Hồi ở Chân Không không ai biết tới thiền, Thầy cố gắng một mình vận động, tu hành, giảng dạy khiến cho nhiều người trong nước được biết, rồi đến những người ở nước ngoài cũng biết, rằng Phật giáo Việt Nam có những cái rất hay.

Chỉ cá nhân Thầy thôi mà đã gây được uy tín như vậy, tụi con Tăng Ni dồn lại mấy trăm người, nếu đứa nào cũng nỗ lực tu học, thâm nhập lý thiền, thấy rõ đường lối của chư Tổ Việt Nam, nhận được cái hay đó đem ứng dụng vào đời sống của mình được kết quả tốt, thì mai kia người ta sẽ thấy Phật giáo Việt Nam có những cái kỳ đặc. Thầy thường nói với những người tới hỏi han về đường lối tu ở đây rằng Thầy đang làm bổn phận của Thầy:

– Một là tạo hình thức về kiến trúc Thiền viện thuần túy Việt Nam. Điều đó Thầy đã làm được.

– Hai là Thầy ráng giảng cho hết những tài liệu của Thiền học Phật giáo Việt Nam để in thành sách.

– Ba là tạo duyên cho Tăng Ni tu có kết quả.

Thầy thường nói, dù mình khen Phật giáo Việt Nam hay đến thế nào, nếu người tu theo không ra gì, rốt cuộc lời khen ngợi tán thán của mình chỉ là lời rỗng, không có ý nghĩa. Vì vậy, Thầy vừa tán thán Phật giáo Việt Nam, vừa phải cố gắng tạo điều kiện tốt để tụi con tu theo cho có kết quả. Mai kia người ta thấy lời của chư Tổ rất hay, nhìn lại sự tu của tụi con cũng hay, chừng đó mới tin chắc Phật giáo Việt Nam thật là cao quí. Nếu chúng ta nói hay mà làm không được, làm sao người ta tin?

Vậy nên Thầy nhắc nhở tụi con, đứa nào có duyên đến đây thì phải quyết tâm tu, tu làm sao cho có kết quả tốt. Đó là tụi con đáp lại sự mong mỏi của Thầy, đáp lại sự trông đợi của Phật tử. Nếu tụi con lơ là, phí thời giờ vô ích, đó là tụi con không làm tròn bổn phận của mình, làm cho Phật giáo Việt Nam ngày mai không còn có giá trị đúng như thuở xưa.

Hôm nay, nhân H.C trốn đi, Thầy nhắc lại cho chúng biết rõ ràng mục tiêu Thầy nhắm. Thầy không bao giờ thấy người đó đi rồi mà Thầy hối tiếc. Bởi vì, ai không muốn ở Thầy rất hoan hỉ cho đi. Nhưng Thầy trách một điều là ở đây Thầy để ngỏ mà không đi ngõ chánh, lại chui rào, đó là đáng trách. Nếu ai muốn đi cứ đến thưa đàng hoàng Thầy cho đi ngay, đừng chui rào không hay. Thầy nói cho tất cả tụi con hiểu, nên theo đó thực hành.

Ngày 15-11 Ất Hợi (5-1-1996)

Thỉnh nguyện hôm nay xét thấy trong chúng có những lỗi nhỏ đều biết sám hối để chừa bỏ, đó là rất tốt. Nay có những sơ sót đó, tuy nhỏ không đáng kể nhưng là cái mầm, nếu biết chừa và trừ dẹp thì lỗi lớn không xảy ra.

Hôm nay Thầy nhắc chung tất cả, chúng ta là người tu, dù ít dù nhiều đều đã nhận định được đâu là thông minh sáng suốt, đâu là mù tối mê mờ. Tất cả tụi con đều có lý tưởng cao cả, có chí nguyện quyết cầu giải thoát sanh tử đã nguyện hứa từ khi phát tâm xuất gia cho đến hôm nay. Vì tụi con có nguyện lớn đó, nên phải biết thận trọng đừng nuôi dưỡng ba độc tham, sân, si.

Ba độc là nhân dẫn chúng sanh tới con đường sanh tử đau khổ, đưa mình đọa trong ba đường ác: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Cái đau khổ của kiếp người còn rất nhẹ so với địa ngục. Ở đó một ngàn lần khổ, thế gian chưa có khổ nào bằng, vậy mà người thế gian đã đổ biết bao nhiêu nước mắt, thì cái khổ địa ngục biết ngần nào tính kể! Nhẹ nhất trong ba đường ác là súc sanh như bò, trâu, dê, chó… Những con vật đó mình thấy dường như ít khổ, nhưng thật ra chúng khổ dai dẳng. Chẳng hạn như những con chó chùa nuôi, mình thương, săn sóc, cho ăn uống đầy đủ, nhưng nó lúc nào cũng ngứa ngáy, nằm đâu gãi đó, lăng xăng đủ thứ. Đó là cái khổ tự thân của chúng, ngoài ra vì ngu khờ dại dột, chúng làm những điều trái ý người, nên bị rầy la đánh đập… Đó là nói sơ cái khổ của các loài.

Bởi vậy, biết tu rồi tụi con phải hằng tỉnh giác, đừng nuôi dưỡng cái nhân đi trong ba đường ác. Trái lại, phải gỡ bỏ hết các mầm xấu xa đó để vươn lên, vượt hẳn những con người tầm thường, thành bậc Thánh nhân, chớ đâu thể chấp nhận tầm thường mãi. Nếu còn nuôi dưỡng tham, sân, si là không nhớ tới lý tưởng cao siêu của mình nữa.

Trong khi tu, không thể một lúc bừng giác ngộ liền, mà phải thường tỉnh sáng, các nhân xấu đưa tới chỗ đọa tụi con phải trừ dẹp. Dẹp những cái đó trước, rồi các quả cao siêu mới đến với tụi con được. Ngồi đó mong giác ngộ mà những điều xấu dở lại nuôi dưỡng thì làm sao được quả tốt. Vậy nên tụi con luôn kiểm điểm lại tâm mình, đừng để cho tham, sân, si che lấp, lôi kéo đi trong ba đường xấu ác. Dẹp hết ba độc thì tâm tỉnh giác mới hiện tiền, bằng không chỉ là mong rỗng.

Tụi con nên dè dặt, cẩn thận trong cuộc sống chung đụng giữa mình với huynh đệ. Khi tụi con thấy bản thân mình đang gỡ bỏ ba độc thì cũng nhắc cho huynh đệ gỡ bỏ, dứt trừ, như vậy mới đồng tiến, đồng vươn lên. Nếu mình nuôi dưỡng ba độc thì người khác cũng dễ nhiễm theo, phải không? Ví dụ mình nổi sân nói bậy, người kia cũng nổi sân nói bậy lại, như vậy gây ra một đám sân si với nhau.

Cho nên trong chúng, một người tu được tốt, được hay thì những người khác từ từ bắt chước theo. Ngược lại, có một người xấu cũng sẽ gây mầm ung độc cho bao người. Vậy nên tụi con ráng dè dặt, chúng ta tu đừng mong cái gì cao siêu đến, mà phải hằng tỉnh giác dẹp bỏ những thứ dở xấu đang che đậy nội tâm mình. Đừng ngồi mơ ước một hôm nào đó mình sẽ phát hào quang, thấy được mười phương thế giới. Mơ ước vậy mà ai động tới liền nổi sân thì có mâu thuẫn không?

Không có ông Phật nào còn tham sân si. Ba món đó hết mới đạt được Phật quả. Nên tụi con phải ráng nhìn lại mình cho thật tường tận để gạt bỏ hết những thứ hư dở, chính mình được an nhiên thanh tịnh rồi, mai kia mới được giác ngộ. Đó là điều Thầy nhắc tụi con nhớ, nhớ cho thật kỹ, thật sâu để sự tu hành của mình đúng với nhân, đạt đến quả. Đừng mong quả mà không chịu tu nhân. Nhân sạch tam độc mới có quả giác ngộ. Đó là điều chắc chắn không nghi ngờ. Vậy tất cả tụi con cố gắng!

Ngày 28-11 Ất Hợi (18-1-1996)

Hôm nay có ít lời nhắc nhở tụi con.

Trong kinh dạy: “trực tâm là đạo tràng”, tức là người biết giữ tâm ngay thẳng chân chất thì gần đạo, sống đúng với đạo. Tụi con sống với Thầy, với ban Lãnh đạo và huynh đệ, cần cái gì nên nói thẳng cái ấy, không giấu giếm, không sợ sệt gì hết, bởi vì đó là chuyện thật có sao nói vậy.

Tụi con cứ thật thà ngay thẳng với nhau thì cuộc sống sẽ đem lại một tình thương. Chính nhờ chân thật mới có lòng tin. Người ta thường nói “tin yêu”, nghĩa là có tin mới có thương mến, nếu không tin không bao giờ thương được. Vì vậy toàn chúng phải tập, thấy thế nào thì nói thế ấy, nghe thế nào thuật lại như vậy, đừng nên tô điểm thêm theo ý riêng của mình rồi sanh ra nghi ngờ huynh đệ.

Lúc nào tụi con cũng thành tâm nhiệt tình nhắc nhở nhau trên sự tu hành, luôn luôn phải có lòng chân thật thương giúp nhau, thấy cái gì trở ngại chướng đạo phải răn nhắc nhau để chừa bỏ. Làm sao cho Thầy thấy tụi con yên ổn tu học tiến bộ Thầy mới yên tâm, đồng thời những người chịu trách nhiệm trong chúng mới có thể vừa lo cho tụi con, vừa được tu thanh tịnh.

Nếu tụi con thiếu thật thà ngay thẳng hay nghi ngờ nhau, sẽ làm trong chúng xáo trộn. Từ sự xáo trộn đó, việc tu của tụi con không an thì tất cả sự trông đợi của Thầy không bao giờ có kết quả. Thầy không mong tụi con nói những điều cao siêu, chỉ mong trong cuộc sống thực tế gần gũi, tụi con thật thà với nhau và thật thà với người trên. Như vậy tụi con dễ tu dễ tiến, vì đường tu là con đường đạo đức, đạo đức quí trọng tâm thật thà ngay thẳng. Thiếu thật thà thì không thể có đạo đức.

Phật dạy người cư sĩ giữ năm giới, trong năm giới có giới không nói dối. Huống nữa chúng ta xuất gia rồi, thọ Tỳ-kheo rồi, lại còn những lời nói trái với lẽ thật, không tốt. Nên Phật thường răn dạy chúng ta tu “trực tâm”, tức là tâm ngay thẳng. Chính nhờ tâm ngay thẳng, chúng ta gần đạo và sống đúng với đạo, cho nên nói “đạo tràng”. Nếu tâm mình quanh co là trái đạo, dù cho ngồi trong chùa hay trước Phật cũng không gần Phật được.

Vậy nên người biết tu phải dè dặt tự ngừa đón, những gì mình thấy có vẻ quanh co không được ngay thẳng thì sửa liền, đừng để thành bệnh. Tất cả chúng ta đang tu chớ không phải Thánh nên vẫn còn cái xấu. Nay học lời Phật, Tổ dạy, nghe lời Thầy nhắc nhở cố gắng sửa, nhờ sự sửa đổi đó mai kia tụi con mới hay, tốt và đạt được đạo. Biết rõ như vậy, chúng ta đồng cố gắng chuyển hoá từ tâm phàm tình lần lần thành tâm trong sáng, đầy đủ trí tuệ và tình thương để tự mình giác ngộ rồi dìu dắt mọi người.

Nếu chúng ta tâm không ngay thẳng, không chân thật thì làm sao có được trí tuệ và lòng từ bi? Bởi vì trí tuệ là thấy đúng như thật, từ bi là lòng thương chân thành, chớ không phải tình thương ngoài miệng hoặc chiều uốn. Huynh đệ thương nhau vì cùng chung lý tưởng giải thoát, cùng nhau giúp đỡ tu để có kết quả tốt, đó là tình thương chân chánh. Nếu thương nhau vì tình cảm riêng tư quanh co, đó là lòng tà. Trí tuệ cũng vậy, nếu người thấy đúng như thật rồi dạy người khác cái thấy biết đó để ứng dụng tu hành giải thoát gọi là chánh trí. Ngược lại, trí khôn ngoan xảo ngụy là tà. Tà trí hay thế trí không phải là trí giác ngộ giải thoát.

Vậy nên tụi con phải tập thấy biết đúng như thật, có tình thương đúng như thật và đối với người, lúc nào cũng xử sự đúng như thật. Được như thế, tụi con sẽ là người mẫu mực tu hành, có đủ tư cách để hướng dẫn người sau. Nếu không như vậy, chính mình không ra gì làm sao dìu dắt người khác được.

Thầy mong tất cả tụi con sống đúng như thật, thấy nghe, chỉ dạy hay nói năng đều giữ tâm chân thật.

Ngày 28-12 Ất Hợi (16-2-1996)

Thỉnh nguyện hôm nay chỉ có những lỗi nhỏ, tụi con biết sám hối sửa đổi là tốt. Nếu lỗi nhỏ mà không sửa, lần lần thành lỗi lớn, làm chướng ngại sự tu của mình.

Thầy lúc nào cũng mong mỏi, trông đợi tụi con cố gắng. Một là tự tu, tâm mình càng ngày càng thanh tịnh sáng suốt. Hai là đối với chị em chung quanh thường hướng dẫn, giúp đỡ, nhắc nhở, sao cho tất cả trong chúng trở thành người hay, người tốt. Phải đầy đủ cả hai phần trí tuệ và đạo đức chớ không thể chỉ có một bên. Kẻ dở mà biết tu sửa sẽ trở thành hay, còn người hay mà cố chấp những bệnh của mình rồi cũng thành dở.

Thầy mong tất cả tụi con, khi biết mình còn những sơ sót vì thói quen tập nghiệp cũ, nay được nhắc nhở, chỉ bảo phải cố gắng sửa. Như thế từ đây về sau mới trở thành người tốt. Thầy lo lắng cho tụi con, không phải vì muốn có đông người tu để được tiếng tốt cho Thầy, cũng không phải cố kềm tụi con trong hình thức thời khóa, nói năng, đi đứng nghiêm chỉnh để cho người ta thấy mà nể phục. Điều Thầy lo là làm sao khi Thầy nhắm mắt rồi, tụi con đủ khả năng gánh vác chút ít Phật sự, duy trì chánh pháp trong thời hiện tại này.

Cho nên Thầy muốn tụi con là những người quyết tâm tu hành. Quyết tâm thì trên đường tu sẽ có những cái hay, lúc ấy tụi con nghĩ thương những người chưa biết, chưa sáng, cố gắng trợ giúp họ. Những người mới tới với tụi con không thể nào đầy đủ tất cả các hạnh. Tụi con chỉ cần sống đúng tư cách một người tu hành có đức hạnh thì những người sau đến đây, được tụi con hướng dẫn cũng sẽ có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh. Như vậy mới có thể duy trì được Phật pháp lâu dài.

Nếu có hạnh mà không có trí cũng khó làm lợi cho đạo. Còn có trí lại không hạnh thì không đủ tư cách để người ta quí mến, cũng không lợi cho đạo bao nhiêu. Vì vậy cả hai mặt, tụi con cố gắng giữ tròn thì mai kia mới làm được nhiều điều lợi ích. Được vậy, tụi con sẽ thẳng tiến trên con đường tu hành lợi mình lợi người đầy đủ.

Chúng ta tu, nếu không nghĩ tới lợi ích chung cho chúng sanh, thì lối tu đó chưa thật tình theo Phật, vì đạo Phật không cho phép ích kỷ, trái lại phải luôn luôn có tâm từ bi. Mình lợi lạc được bao nhiêu thì đem chỉ dạy người khác cũng được lợi như mình. Không phải mình tu phần mình, còn ai sao mặc kệ.

Thầy mong tất cả tụi con, một năm qua là một bước tiến, những gì còn vướng mắc trong năm bây giờ bỏ hết để chuẩn bị qua năm mới có những cái hay hơn, tốt hơn. Đó là sự trông đợi của Thầy.

Ngày 13-1 Bính Tý (2-3-1996)

Hôm nay là buổi thỉnh nguyện đầu năm, trong chúng thấy có ít lỗi không đáng kể. Tất cả tụi con tu hành trong một năm qua chắc chắn nội tâm có những chuyển biến tốt. Sống chung trong chúng tụi con không còn phiền hà nhau, không còn những sai sót đáng trách nữa, đó là điều đáng mừng.

Như trong kinh A-hàm kể rằng: Khi Phật thấy chư Tăng hoà hợp chung sống với nhau liền khen: “Hạnh phúc thay, Tăng già hoà hợp!” Khi xưa, chúng Tăng hoà hợp tu hành vui vẻ được tán thán, đó là hạnh phúc, là bước tiến đáng kể của người xuất gia. Hôm nay tụi con sống trong đoàn thể bốn, năm mươi người cũng được hoà hợp tu hành yên ổn, thật là tốt!

Có những người nhập thất năm, ba tháng có được những bước tiến đáng mừng, nhưng khi ra khỏi thất, đối duyên xúc cảnh, lâu lâu cũng bị xao lãng. Ở đây tụi con tuy không có những bước tiến vượt bậc đó, nhưng mỗi ngày tu đều đặn, sống trong huynh đệ đông đảo, thông cảm và tha thứ nhau, giúp đỡ nhau nên không có chuyện gì đáng trách xảy ra. Như vậy, tuy sống trong chúng nhiều người mà lòng không phiền não, tâm vẫn an ổn. Đó là một điều rất tốt, chứng tỏ tập khí tụi con có phần giảm nhẹ, không sanh bỉ thử, thị phi nên sống trong hoà hợp. Tuy tụi con không tiến nhanh, chỉ từng bước đều đều, nhưng bước nào vững bước ấy, thì tới một ngày nào đó tụi con sẽ đủ sức, đủ điều kiện bước ra khỏi Thiền viện để làm Phật sự không ngại. Người xưa thường nói: “Đức chúng như hải.” Tụi con ở trong đoàn thể, cùng nhau tu hành, sống theo nếp đạo thì phước đức dần dần được tăng trưởng.

Tụi con sống trong chúng coi như thường nhưng người ngoài thấy nếp sống, nếp tu hành của tụi con, họ rất hoan hỉ. Dù không giảng nói một câu nào, nhưng hành động và sự tu hành vững chắc của tụi con người ta nhìn thấy đều phát tâm, tùy hỉ. Đây là một điều đáng mừng. Vì vậy Thầy thường nhắc tụi con hãy lo tu, tu cho đúng tinh thần đạo lý, đó chính là truyền bá Phật pháp. Tụi con chỉ yên lặng tu, nhưng nhờ có đức hạnh mà người ngoài cảm mến quí phục. Từ tâm cảm mến quí phục đó họ tiến gần với đạo.

Thầy thường nói đây là thời mạt pháp, có nhiều điều phức tạp, trong giới tu hành xảy ra những chuyện không vui. Vậy mà tụi con khép mình vào đây, chịu sự hướng dẫn của Thầy, hoà hợp trong tình huynh đệ, quyết chí lo tu. Tuy chưa làm gì quan trọng, nhưng chính nhờ chỗ tu hành miên mật của tụi con mà Phật tử đặt nặng lòng tin, xem là nơi nương tựa. Nếu số Tăng Ni đông mà tìm không ra người quyết tâm tu đúng với tinh thần đạo đức, hoặc ở chung một chỗ một nơi mà không hoà hợp với nhau thì lòng tin của Phật tử sẽ mất từ từ.

Là người tu, chúng ta có bổn phận giữ gìn ngôi Tam Bảo mãi trường tồn, mỗi ngày mỗi sáng sủa hơn. Chúng ta còn phải làm sao cho lòng tin Tam Bảo của Phật tử mỗi ngày mỗi vững mạnh hơn, khiến họ luôn giữ được tâm mến đạo kính Tăng. Vì vậy, đầu năm Thầy thấy tụi con hoà hợp, nương nhau tiến tu, Thầy rất vui mừng. Mong rằng nề nếp này được duy trì mãi mãi, để tụi con bước từng bước vững chắc đến chỗ viên mãn. Đó là lời nhắc nhở của Thầy.

Ngày 28-1 Bính Tý (17-3-1996)

Phần thỉnh nguyện xong, Thầy có ít lời nhắc nhở trong chúng.

Gần đây Thầy có đọc một quyển sách khoa học có liên hệ đến người tu thiền. Trong đó người ta cho rằng những người suy nghĩ nhiều cái đầu thường nóng, nên bị yểu, sống không lâu; còn người tu thiền để tâm yên không suy nghĩ, không dấy động, nên trong đầu mát dịu có thể sống dai. Họ còn nói người ở xứ lạnh dễ sống dai hơn người xứ nóng. Bởi vì người xứ lạnh như được ở trong tủ lạnh hoài nên mát mẻ, không chết yểu. Ở xứ nóng đã nóng nực, còn thêm suy nghĩ, thần kinh căng thẳng rất có hại cho sức khoẻ.

Ngồi thiền tuy không bị căng thẳng nhưng do tập trung nhiều nên hơi ấm xông lên. Bởi vậy khi ngồi thiền tụi con hay đội mũ, quấn khăn là không tốt, phải để cho cái đầu thoáng mát mới dễ chịu.

Trừ hôm nào lạnh quá thì đội mũ sợ lạnh lỗ tai bị cảm, còn thường nên để đầu trống, khi hơi ấm xông lên không bị nhức đầu. Thầy tối ngồi thiền cũng bỏ mũ không đội, chỉ trừ khi trời gió. Thầy nói cho tụi con hiểu, nhiều khi tụi con không biết, tưởng giữ ấm là không bệnh, chính như vậy mới là bệnh. Khi nào đầu mới cạo, sợ lạnh đầu bị cảm mới cần đội mũ.

Ngày 13-2 Bính Tý (31-3-1996)

Tất cả trong chúng đều cố gắng nỗ lực tu hành, nên những lỗi lầm ngày càng giảm bớt, Thầy rất hoan hỉ.

Kế đây Thầy nhắc tụi con, ở trong chúng nên dè dặt cẩn thận, đừng nói thị phi, vì thị phi dễ gây mích lòng người này người kia, sanh chuyện không tốt. Thị là phải, phi là quấy, nói người này phải, người kia quấy thì người quấy thế nào cũng buồn. Chúng ta nên dè dặt, đừng nói việc phải quấy của huynh đệ. Như có trách nhiệm trưởng liêu, huynh đệ sai, mình chỉ. Khi không có trách nhiệm gì, nếu huynh đệ yêu cầu chỉ chỗ sai trái, mình cũng vui vẻ chỉ cho. Nếu người ta không muốn mà mình chỉ, người ta sẽ phiền não.

Bệnh của con người, ai cũng như ai, ngồi lại một hồi là kể chuyện người này hay người kia dở. Người xưa thường nói: “Điểm thiết hóa thành kim ngọc dị, khuyến nhân trừ khước thị phi nan.” Chỉ khối sắt biến thành vàng chuyện đó dễ làm, khuyên bảo người ta bỏ thị phi còn khó hơn. Thật ra, điều này bên Ni dễ phạm hơn Tăng. Phái nữ tụi con tuy không nổi sân to tiếng, nhưng hay kể lể khen chê, sanh ra giận hờn nhau làm nội tâm dấy động, trở ngại việc tu hành.

Bởi vậy Thầy khuyên tụi con chỉ nên nói chuyện vui vẻ với nhau. Chúng ta người nào cũng còn tâm chúng sanh, hoặc nhiều hoặc ít. Trong đó có đủ cả dở lẫn hay chớ chưa ai hoàn toàn thánh thiện. Nếu thấy huynh đệ nào có tật xấu mà không biết sửa, nói ra mích lòng, thì đến kỳ thỉnh nguyện trình lên trước đại chúng Thầy sẽ nhắc cho. Ở đây Thầy chịu trách nhiệm rầy nhắc tụi con. Thầy nhắc rồi thôi, không ôm ấp trong lòng, còn tụi con tâm phàm phu hơi nhiều, ai hay thì khen, dở thì chê, không phải nói một lần mà nhắc đi nhắc lại năm bảy lượt, khiến người nghe sanh phiền não.

Vì vậy tụi con dè dặt bớt nói phải quấy, chỉ cần bàn nhắc nhau những gì chưa hợp với đạo lý rồi bỏ, cái nào hợp đạo lý thì tu. Sống trong chúng, tụi con nên sách tấn nhau về việc tu hành chớ đừng gây phiền não cho nhau. Lỗi thị phi rất nặng, bỏ rất khó. Điều hết sức khó làm mà tụi con làm được mới hay.

Thầy nhớ trong bài Sơn Phòng Mạn Hứng của vua Trần Nhân Tông khi ở trên non Yên Tử có câu đầu là: “Thị phi niệm trục triêu hoa lạc.” Ngài diễn tả niệm thị phi của Ngài giống như những cánh hoa rơi lả tả. Tụi con tu làm sao cho niệm thị phi rơi từng cánh, sáng ra thấy nó rụng hết, trơ trụi chẳng còn gì.

Người xưa cũng khổ vì thị phi chớ không riêng gì tụi con. Đây là bệnh chung. Tụi con thấy có lắm vị làm Pháp sư giảng kinh rồi cũng chỉ trích người này người kia, đó cũng là thị phi. Người lớn còn vậy huống là nhỏ như tụi con làm sao tránh khỏi điều đó. Chúng ta tu để được an ổn thì những cái chướng đạo, những điều không thanh tịnh phải bỏ. Cố gắng tập rồi sẽ bỏ được chớ không khó. Đó là điều Thầy nhắc trong chúng, mỗi đứa tụi con nên cố gắng.

Điều thứ hai tụi con phải tập là ái ngữ. Tại sao lời nói của mình người khác nghe khó ưa? Mình nghĩ tại người ta có ác ý với mình. Không phải đâu! Do lời nói mình có vẻ xẵng quá hay chua chát quá, người ta khó thương. Nên phải tập nói năng nhẹ nhàng, tao nhã một chút, mới dễ nghe, dễ mến.

Ái ngữ là một trong Tứ nhiếp pháp. Không phải mình nói lời chiều lòng người để cho họ thương, nhưng người tu lúc nào cũng phải nhẹ nhàng, dù cho mình nhắc nhở người những điều sai lầm, họ nghe rồi cũng không giận. Còn những lời nói không khéo, dù cho người ta quấy một trăm phần trăm mà nghe mình nói họ giận liền. Đó là tại ngôn ngữ mình thiếu ái ngữ.

Muốn giáo hoá hay làm lợi ích cho chúng sanh, tụi con phải dè dặt, tập lời nói sao cho êm ái nhẹ nhàng, tao nhã, đừng nên thô xẵng. Khi nào nổi giận thì đừng nói, vì nói ra không bao giờ êm ái được. Nếu cảm thấy trong lòng bực bội, hãy bỏ đi chơi một hồi, chừng nào dịu lại rồi nói. Bởi vì chúng ta tuy bớt được tham, sân, si thô nhưng vẫn còn phần tế. Nó vẫn còn, khó mà hết được, nên khi trong lòng đang khó chịu, nếu ta nói nó sẽ tuôn ra theo ngôn ngữ. Do đó, tụi con phải khéo, dù ở hoàn cảnh nào cũng xử sự một cách nhẹ nhàng, êm ái, từ lời nói đến hành động đều dễ thương và có đạo đức. Đừng nên nói xẵng lè, nghe chát lỗ tai, như vậy người ta sẽ cười: “Quí vị này tu cái gì mà ăn nói không êm ái chút nào hết!”

Thầy mong tụi con ráng tập, tuy nó không phải là điều thiết yếu trên con đường giải thoát, nhưng nó cũng trợ duyên cho sự giải thoát và sự giáo hoá chúng sanh nên mình không được xem thường. Đó là lời Thầy nhắc nhở hôm nay, mong tất cả cố gắng.

Ngày 13-3 Bính Tý (30-4-1996)

Đây là lời nhắc nhở toàn chúng. Sau chuyến đi Hà Nội về, Thầy thấy Phật tử ngoài Bắc cũng như trong Nam đều hướng trọn lòng tin về Thiền viện Trúc Lâm. Người ta đang trông chờ để mai kia được tụi con hướng dẫn chỉ dạy. Thật ra, từ khi Thiền viện được thành lập, người ta không biết tụi con tu như thế nào, mà chỉ biết qua Thanh qui và qua sự giảng dạy của Thầy. Họ nhắm vào đó nên trông cậy nhiều.

Khi đã được mọi người tin tưởng, tụi con từ lớn tới nhỏ đều phải hiểu trách nhiệm của mình là tự lợi và lợi tha. Trong thời gian còn ở đây, tụi con cố gắng tu học, đó là tự lợi. Chính do sự cố gắng đó, những Phật tử xa gần khi tới ở tập tu đôi ba hôm, thấy nề nếp tu hành của mình đáng quí, họ về sẽ kể lại cho nhiều người nghe. Như vậy, từ một người có lòng tin với mình sẽ có nhiều người tin theo, đó là lợi tha. Tuy tụi con không nói với họ điều gì nhưng đã ảnh hưởng không ít.

Thầy cố gây ảnh hưởng tốt cho Thiền viện, bổn phận tụi con là phải tu hành nghiêm chỉnh, giữ đúng theo những gì Thầy dạy trong Thanh qui, để người Phật tử khi tới đây họ tăng thêm lòng tin tưởng. Không phải đợi đến mai kia tụi con ra giáo hóa mới là lợi tha, ngay khi tu tụi con cũng đã có lợi tha rồi.

Lúc Thầy ở Chân Không chưa ai biết đến thiền. Dần dần Thầy cố gắng gầy dựng để người ta biết được chút ít, cho đến khi xuống Thường Chiếu càng ngày càng lan rộng ra. Tới bây giờ, chẳng những trong nước mà nước ngoài cũng biết mình, biết đường lối Thầy hướng dẫn cho tụi con tu. Phật tử tin tưởng vì thấy đạo Phật còn có tia sáng, mai kia sẽ có người hướng dẫn họ tu hành. Cũng như họ tin rằng sau khi Thầy trăm tuổi sẽ có người tiếp tục hướng dẫn họ, tiếp tục hoằng dương Phật pháp và truyền bá Thiền tông.

Vì vậy, Thầy mong tất cả tụi con từ lớn đến nhỏ đều ý thức trách nhiệm của mình, không phải chỉ đơn thuần là an ổn tu thôi mà còn làm mẫu mực cho nhiều người. Thầy đâu ở đời hoài để tụi con ngồi không tu. Đến ngày Thầy mệt mỏi không làm được nữa, lúc đó tới phiên tụi con phải gánh vác mọi việc để cho Phật pháp được lâu dài, và để Phật giáo Việt Nam có được một nền tảng chắc chắn. Những điều làm lợi mình, lợi người đó nói theo từ chuyên môn là tự giác, giác tha. Không phải chỉ riêng một người nào, mà tất cả tụi con đều có trách nhiệm lớn: tự mình an ổn để thành tựu công phu tu và khiến cho mọi người phát tâm mạnh mẽ.

Khi nói chuyện với một số người, họ thấy Thầy có lập trường tu hành rõ ràng, liền đặt câu hỏi: “Ngoài Thầy ra còn có ai thay thế không?” Thầy trả lời: “Hiện giờ chưa có nhưng sau này sẽ có, vì tôi đang chuẩn bị, không phải tôi nghỉ rồi là tắt luôn.” Thầy trả lời vậy để người ta có đủ hi vọng. Hiện giờ Thầy làm cho mọi người biết Phật giáo Việt Nam có Thiền tông tu hành cao cả như vậy, khi Thầy mất đi sẽ có những đồ đệ tiếp nối xứng đáng, không đến nỗi buồn tủi là không có người kế tục.

Do đó Thầy mong tất cả tụi con phải thấy rõ bổn phận của mình là sẽ tiếp nối một việc lớn chớ không phải làm việc tầm thường. Cho nên bây giờ trong sự tu tập hằng ngày tụi con phải sống có nề nếp, có tư cách tốt, phải cố gắng vượt qua những vướng mắc nhỏ nhặt. Nếu không thắng được những cái nhỏ thì mai kia e khó làm được việc lớn. Đó là lời Thầy nhắc nhở, mong tất cả cố gắng.

Ngày 28-3 Bính Tý (15-5-1996)

Hôm nay thỉnh nguyện ai có lỗi đều ra sám hối. Tụi con thấy ở đây kiểm lại dường như khó hơn các nơi khác, phải không? Thầy sẽ nói cho tụi con rõ mục tiêu của Thầy nhắm.

Như vừa rồi ra ngoài Bắc có một số người phát tâm qui y, như vậy chủ trương, đường lối của Thầy càng ngày càng được nhiều người hưởng ứng từ gần đến xa. Tụi con thấy nếu cây to tàng lớn mà rễ cạn thì sẽ lo cái họa gì? Lo có một cơn giông lớn là ngã, phải không? Bởi vì ở ngoài người ta đang phát tâm hướng về Thiền viện mình rất đông, giống như cây có tàn lớn, nếu chư Tăng Ni không có sức tu hành thâm hậu là điều đáng lo ngại. Sự tu hành của chư Tăng Ni là rễ cái. Nếu rễ cái sâu thì dù cho cây tàn lớn cũng không nguy hiểm. Còn rễ cái cạn mà tàn cây quá lớn e nguy hiểm sau này. Bởi vậy tụi con phải ráng nỗ lực tu. Bao nhiêu lòng tin người ta đang dồn về mình, người ta để ý từng lời nói, từng hành động của mình. Nếu tụi con lôi thôi, Phật tử sẽ dễ thối tâm. Càng được nhiều người chú tâm hướng về, trách nhiệm chúng ta càng nặng nề.

Thầy từng tuyên bố với tụi con và với mọi người Thiền viện Trúc Lâm này là lý tưởng tối hậu của đời Thầy. Trước kia đã có những Thiền viện như: Thường Chiếu, Linh Chiếu, Viên Chiếu, Huệ Chiếu… nhưng lúc ấy Thầy không sắp đặt được như ý. Mặc dù trong đó cũng có một số người tu tốt tu hay, nhưng Thầy chưa thực hiện được tất cả những gì Thầy muốn.

Nơi này là lý tưởng tối hậu của Thầy. Chưa có Thiền viện nào mỗi tháng Thầy phải ngồi thỉnh nguyện hai lần như ở đây, nhắc nhở không những chỉ việc tu thôi, mà còn phải dạy tụi con từ lời nói đến hành động sao cho thuần túy đạo đức, để khi mọi người tới đây, tiếp xúc với tụi con lòng tin họ tăng trưởng. Đó là đúng với bản nguyện của Thầy.

Những nơi kia Thầy không nói là lý tưởng tối hậu, vì Thầy không thực hiện được ý nguyện lục hoà, đồng thời các công tác cũng còn bận bịu bên ngoài nhiều. Còn ở đây ròng rã cho tụi con chuyên tu, Tăng Ni khỏi bận tâm lo lắng ăn mặc, thuốc men…, lao động vừa phải để đủ sức khỏe chớ không đặt nặng vấn đề kinh tế. Kế nữa là Tăng Ni ở đây rất ít đi đâu, nhờ vậy tâm hồn không bị dao động, dễ hướng đến chỗ thanh tịnh. Cảnh trí mát mẻ, yên tĩnh, thích hợp cho người tu thiền.

Chỉ còn một điều chót là tụi con thành tâm, nhiệt tình tu cho đạt kết quả, đó là duyên lành cho Phật pháp lâu dài. Thầy muốn Tăng Ni ở Trúc Lâm này là những người mai kia đi ra hoằng hóa làm lợi ích chúng sanh, đúng như những gì Thầy đã ước mơ lúc còn tu học ở các trường cho đến khi ra làm Phật sự.

Bởi vậy ở đây dù một lỗi nhỏ tụi con cũng có thể bị rầy. Ở những chỗ khác thì không ai để ý, không ai nhắc nhở kỹ. Do Thầy đặt Trúc Lâm là lý tưởng cuối cùng của đời Thầy nên Phật tử tin tưởng mà nhắm tới, hướng về. Nếu sự tu tập và việc làm, lời nói của tụi con còn sơ sót lôi thôi, người ta dễ sanh chán nản rồi mất lòng tin, thì lý tưởng của Thầy không thành, Phật tử cũng buồn chán.

Do đó, ở đây Thầy không muốn chúng đông, chỉ chừng bốn mươi người thôi, mà sống có đạo đức, giới luật tinh nghiêm, theo đúng lục hoà và quyết tâm chết sống vì đạo, để cho những người tới thấy có thể phát tâm. Đồng thời đòi hỏi tụi con tu phải sáng đạo. Nếu Thầy nói một đàng trò sống một ngả thì tất cả uy tín của Thầy sẽ theo đó suy giảm, đến khi Thầy mất rồi tụi con làm Phật sự cũng không được.

Cho nên tất cả tụi con ráng giữ quyết tâm tu hành chết sống và giữ thái độ hoà nhã đối với huynh đệ chung quanh. Tuy tụi con hoà mà không đồng, vì mỗi người đều có một nghiệp riêng, có thói quen riêng. Mặc dù không đồng nhưng vẫn hoà hợp chớ không thù nghịch chống đối. Nếu nội tâm mình có thù nghịch chống đối thì thế nào cũng thể hiện ra thành sự bất bình nhau.

Tụi con phải có tâm hoà hợp, sống như nước hoà với sữa. Tất cả những gì hơn thua, phải quấy đều vô giá trị, đều không thật, tụi con phải thấy cho tường tận. Tất cả ngôn ngữ thế gian chỉ tuỳ theo niệm thương ghét mà sanh ra lời hay tiếng dở, chớ không có giá trị thật. Người biết tu coi khen chê, phải quấy như trò chơi. Làm sao trước mọi cảnh, tâm mình thản nhiên không động, đó mới là đạo đức chân thật.

Người ta cứ nghĩ Tăng Ni ở Trúc Lâm này rất thuần thục, thanh tịnh. Nếu có ai đến đây tập tu mà thấy có những điều dở, nghĩa là còn đủ tham sân si, người ta sẽ đánh giá chung cả Thiền viện mình. Nếu ở đây tụi con vẫn thị phi, bỉ thử, nhân ngã thì vô phước cho Thiền viện, cũng là vô phước cho Phật tử.

Cho nên tụi con phải sống và tu sao cho tốt để Trúc Lâm có đủ uy tín. Mai kia Thầy nhắm mắt, người nào từ Thiền viện ra, người ta đều tin đó là những người Thầy đã chọn lựa để làm Phật sự kế tiếp Thầy. Nếu tụi con lơ là, không có được ý chí chết sống với đạo, không có tâm bao dung hoà hợp, mai kia người ta thấy được, sẽ cười tụi con lại còn chê trách Thầy. Thầy đã dồn hết tâm lực trong những ngày tháng cuối cùng mà không ra gì, không đến đâu, như vậy uổng công của Thầy. Nên tất cả phải chấp nhận cái khó. Khó ở đây là khép tụi con vào nề nếp, để xứng đáng với lòng tin của mọi người, ngày sau có thể làm được các Phật sự, chớ không phải tụi con bị khó vì những lý do vô nghĩa.

Sau này người ta tin tưởng, hưởng ứng tu theo đường lối của Thầy ngày càng nhiều, nếu ở đây tụi con tu hành đàng hoàng, thâm hậu, đó là điều rất tốt. Còn nếu mọi người ở ngoài phát tâm tu theo mình nhiều, mà ở đây tụi con tu hời hợt, rời rạc, không có một cái gì xứng đáng để cho người ta học hỏi thì đó là điều nguy hiểm, uổng công Thầy mở rộng mà không gìn giữ được.

Vì vậy hôm nay nhắc nhở tụi con phải ý thức được trách nhiệm chung. Tất cả tụi con ở đây, Thầy đều đem hết tâm lực chỉ dạy nhắc nhở, lo lắng, để tụi con tu thành công, mai sau xứng đáng cho người ta tin tưởng và có đủ khả năng tiếp tục việc làm của Thầy chưa xong. Đó là lời Thầy nhắc nhở tất cả.

Ngày 13-5 Bính Tý (28-6-1996)

Hôm nay thỉnh nguyện chỉ có những lỗi lầm nhỏ không đáng kể, như vậy là tốt.

Bây giờ Thầy nhắc nhở thêm. Tụi con tu là phải nuôi trong tâm mình một ý chí thật mạnh mẽ, như trong lời nói đầu bản Thanh qui đã ghi: phải có tinh thần dứt khoát. Dứt khoát nghĩa là làm cái gì hẳn cái đó, đừng bị cái khác làm trở ngại mất thời giờ. Khi phát nguyện tụi con đâu có nói tu nửa vời, mà là phát nguyện giải thoát sanh tử. Đó là một thái độ hết sức dứt khoát. Nhưng con người có thói quen yếu đuối, làm cái gì trong thời gian ngắn thì lập trường không thay đổi, còn thời gian dài lại dễ quên và lơi lỏng. Nên mỗi tháng Thầy phải nhắc tới nhắc lui cho tụi con nhớ, để việc tu hành có được kết quả.

Ở thế gian, khi người ta lớn lên phải chọn một nghề hoặc một nếp sống nào đó để hướng trọn đời mình theo. Bây giờ tụi con đã chọn một lối đi thì phải vạch một con đường ra khỏi sanh tử. Con đường đó Phật, Tổ đã chỉ rồi, bây giờ mình chịu khó cương quyết đi, bền chí không nản lòng thì có ngày sẽ đến đích. Một khi đã can đảm chọn một lối đi từ buổi đầu, thì từ đây về sau phải luôn luôn tỉnh giác, đừng để những điều nhỏ nhặt, tầm thường làm trở ngại con đường cao cả của mình.

Thầy nghĩ rằng người nào tu cũng quyết chí. Đường đi lâu và dài nên ý chí phải rất mạnh. Tuy nhiên, sức mạnh này cũng có giới hạn, chừng mực, nên một thời gian nó yếu đi. Thầy muốn nuôi dưỡng nó càng ngày càng tăng trưởng nên mỗi tháng phải nhắc, phải rầy để tụi con tỉnh và nhớ những gì mình đã quyết tâm. Đó là tinh thần thỉnh nguyện của mỗi tháng.

Tuy vậy, lâu lâu Thầy có việc phải đi nơi này nơi kia nên không thể nhắc đều. Thầy nghĩ tụi con tu đến nay đã được ba năm, đường lối tu đã nắm vững và lập trường tu cũng đã cứng cỏi rồi, có lẽ lâu lâu Thầy bỏ qua không nhắc, tụi con cũng không đến đỗi bị xao lãng. Dầu sao Thầy vẫn thấy bổn phận của Thầy là phải nhắc luôn luôn để tụi con tiến.

Từ đây về sau Thầy có một hai trường hợp đi xa. Tụi con phải luôn nhớ con đường mình đang đi, nguyện lớn mình đã nguyện, làm sao ngày, tháng, năm nào cũng là những ngày tháng tu hành thanh tịnh. Đừng đợi có nhắc mới ráng tu, không nhắc thì thả trôi giống như lục bình dưới sông, nước chảy lên nó trôi lên, nước chảy xuống nó trôi xuống, suốt cuộc đời cũng không ra gì.

Tụi con là người quyết tâm, dù cho gặp trường hợp thuận hay nghịch vẫn nhất định vươn lên không thối chuyển. Được như vậy thì đời tu mới có giá trị cao cả. Thầy mong tất cả tụi con nhận định rõ ràng dứt khoát và nuôi dưỡng trong thâm tâm mình một ý chí mãnh liệt. Khi đã chọn một con đường thì phải đi đến nơi đến chốn. Mình quyết làm gì thì phải làm cho có kết quả, không bỏ dở nửa chừng. Như vậy mới không uổng một đời tu, lợi ích cho mình và cho người. Nếu tụi con tiến không tiến mà lùi cũng không lùi, cứ lỡ dở như vậy chỉ làm trò cười cho thế gian, làm cho người thân buồn nản.

Tu hành là một việc làm rất cao cả và đầy đủ phước đức, nhưng nếu mình không cố gắng cũng sẽ thành dở xấu. Cho nên, chưa đạt được kết quả thì không bao giờ yên lòng, tụi con phải ráng vượt lên, ráng đi đến nơi đến chốn, đừng tự mãn ta tu vậy đủ rồi, hay hơn người khác rồi. Phải dứt khoát, cố gắng đi cho tới kết quả cuối cùng mới thôi. Như vậy mới xứng đáng người con dòng họ Thích, xứng đáng là người tu hạnh giải thoát sanh tử.

Thầy có ít lời nhắc nhở, mong tất cả tụi con cố gắng!

Ngày 28-5 Bính Tý (13-7-1996)

Qua kỳ thỉnh nguyện, thấy chúng có tâm tự giác ra sám hối, đó là điều tốt.

Giờ đây Thầy có ít lời nhắc toàn chúng để nỗ lực tu hành.

Trong Thanh qui phần đầu nói rõ rằng chúng ta tu phải có tinh thần dứt khoát và ý chí kiên quyết. Hôm nay Thầy nói về kiên quyết cho tất cả trong chúng hiểu. Trên thế gian này muốn hoàn thành một công việc gì, dù lớn hay nhỏ cũng phải kiên quyết, nói theo từ ngữ bây giờ là quyết tâm. Đối với người tu không những quyết tâm mà còn quyết tử, đã quyết định làm một việc gì thì phải cương quyết, dù khó khăn, trở ngại cũng vượt qua, không để nó ngăn trở bước tiến của mình. Nếu quyết chí tu, liều chết tu thì trong thời gian ngắn mà có kết quả tốt. Còn ngược lại, tu lơ mơ cho qua ngày sẽ mất thời gian dài mà kết quả rất ít.

Đọc sử Phật giáo Trung Hoa, chúng ta thấy có ngài Huyền Trang đã để lại tấm gương kiên trì, quyết liệt ai nghe cũng kính nể. Ngài đi thỉnh kinh bằng ngựa, từ Trung Quốc sang Ấn Độ trải qua bao nhiêu nước, bao nhiêu sa mạc, bao rừng núi hiểm trở. Nếu không quyết tâm thì không bao giờ dám đi. Quyết tâm như vậy mà khi đi cũng gặp rất nhiều trở ngại.

Trong sử ghi: Khi Ngài đến sa mạc thì không còn một miếng nước nào, Ngài thầm nghĩ chắc phải chết. Vậy mà Ngài vẫn quyết tâm đi cho đến lúc ngất xỉu vì nắng gắt và quá khát. Chợt có trận gió mát dần, dường như Ngài thấy đức Quan Âm rải nước cho Ngài hồi tỉnh, rồi Ngài đi tìm được nước uống. Sau đó Ngài khỏe lại và tiếp tục vượt hết con đường, đến được Ấn Độ. Nếu ai nhút nhát, sợ hãi không bao giờ làm được việc như Ngài.

Gần nhất, chúng ta thấy đức Bổn sư, khi đi tu cũng quyết chết sống. Nói rằng Ngài là vị Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, mà chúng ta thấy đương thời Ngài quyết tâm phi thường. Từ khi ra khỏi cung đi tầm học, tu khổ hạnh, cuối cùng đến cội cây bồ-đề, Ngài thề rằng: “Nếu không thành đạo, dù thịt nát xương tan, ta quyết không đứng dậy khỏi chỗ này.” Nhờ cương quyết như vậy, Ngài đã chứng đạt đạo quả.

Gương quyết tâm của người xưa không phải chỉ một, hai mà rất nhiều. Nếu quyết tâm thì dù con đường khó khăn hay gặp trở ngại gì người ta cũng đến nơi được. Còn nếu tu lừng chừng lấy có, dù hoàn cảnh thuận mấy cũng không đi đến đâu. Bởi vậy trong nhà thiền thường dạy chúng ta trên đường tu phải có tâm quyết tử. Không phải quyết tử với người thù oán, mà là quyết chiến đấu với nội tâm mình.

Trong khi tu, có khi vì tập khí lâu đời làm trở ngại, có khi vì thân bệnh, nghĩ chắc mình tu không được, sanh buồn chán đi đến chỗ thối lui. Có khi tu gặp những hoàn cảnh bên ngoài, như thầy hay bạn xử sự với mình không tốt, rồi chán nản lui sụt. Hoặc ở chỗ khó khăn, thiếu ăn thiếu mặc, nếu mình không cương quyết, không liều chết thì không tiến lên nổi.

Thầy mong trên đường tu, tụi con đứa nào cũng lập chí quyết liệt, thầm quyết định với lòng mình, dù ở hoàn cảnh nào, thân bệnh, người xử tệ, hoặc chướng ngại nội tâm, đều phải vượt qua, thà chết chớ không lùi bước. Nhờ quyết tâm đó, trên đường tu tụi con sẽ thành công không nghi ngờ. Ai còn nhút nhát, sợ sệt, do dự thì không bao giờ tu đến nơi đến chốn được. Đó là điều Thầy đã kinh nghiệm qua.

Quyết tâm chính là ý chí, lập trường. Người có ý chí và lập trường thì làm mọi việc đều đạt kết quả, bằng không sẽ bị gió này gió nọ thổi đùa nghiêng ngả, bị thối lui hoặc không thể yên ổn. Cho nên khi đã đặt mình trên con đường tu rồi, tụi con nên nghĩ: một là tu để được giác ngộ, tự lợi lợi tha, hai là chết trên con đường đó, chớ không có ý nghĩ thứ ba rằng lỡ mình tu không được thì làm cái gì. Đừng bao giờ có ý nghĩ đó, chỉ một lòng tu. Nếu có chết trong ý niệm quyết liệt đó thì đời sau sẽ tiếp tục không nghi ngờ. Phải đi đến đích để làm lợi ích cho đời cho đạo, đó là quyết định của mình, không có con đường nào khác.

Tóm lại, trên đường tu, điều kiện thiết yếu là phải lập tâm quyết tử, tu đến chết thôi. Chỉ một con đường đó, hoặc chết hoặc thành công, chớ không có con đường thứ ba.

Ở thế gian người nào có ý chí và quyết tâm đều làm được việc lớn. Trong đạo cũng vậy, người có ý chí và quyết tâm thì sẽ thành công trên đường tu. Thầy mong tụi con đứa nào cũng phải có lập trường và ý chí vững chắc, không để bị lung lay dù gặp bất cứ trận gió nào.

Ngày 12-6 Bính Tý (26-7-1996)

Hôm nay trong buổi thỉnh nguyện hầu hết chúng đều được thanh tịnh không lỗi lầm, đó là điều rất tốt. Chúng ta tu ở đây gần tròn ba năm. Trên phương diện tu hành mỗi vị đều có nỗ lực, có cố gắng rất nhiều, nhưng cũng không tránh khỏi bệnh thâm căn cố đế là chấp ngã.

Chúng ta hầu hết ai cũng mang bệnh chấp ngã rất nặng, đó là gốc của luân hồi sanh tử. Chấp các ý kiến của mình là chấp ngã về tâm. Còn chấp ngã về thân gọi là ái thân, bởi ái thân nên khi thân này bại hoại liền tìm thân khác, không bao giờ dừng được.

Vì vậy đức Phật dạy mình tu trước phải thấy rõ thân này là vô thường bại hoại, là khổ, không, vô ngã. Thuyết vô thường, khổ, không, vô ngã của Phật dạy cốt đi tới trọng tâm dẹp ngã. Muốn dẹp ngã, trước hết phải thấy các pháp là vô thường, bại hoại, đó là khổ. Kế đến, pháp đó bại hoại tức thành không, mà thành không thì đâu còn cái gì là ta, nên tới cuối cùng là vô ngã.

Vô thường, khổ, không, vô ngã là pháp Phật dạy tất cả Tăng Ni, Phật tử ứng dụng tu hành. Vì vậy chúng ta tu là phải nhớ luôn luôn, đối với thân là tướng vô thường sanh diệt, không có giá trị gì hết. Ngày nay nó còn, mai sẽ bại hoại, không có gì bảo đảm. Đã không bảo đảm thì có gì quan trọng để hơn thua, phải quấy. Cho nên từ vô thường, rồi khổ, tới không, để chúng ta không còn một tí chấp nào về bản ngã.

Chấp ngã đưa tới đủ thứ bệnh. Từ chấp ngã là si đưa tới ái thân là tham. Do ái thân nên động tới thân mình liền nổi sân. Như vậy tham sân si, nói theo thông thường, hoặc là si tham sân, ba thứ theo nhau luôn luôn, vì vậy mà chúng ta tạo bao nhiêu thứ nghiệp sanh tử luân hồi.

Giờ đây chúng ta tu hạnh giải thoát thì phải phá si, tức là phá cái tâm niệm chấp thân này là thật, chấp tâm suy nghĩ của mình là thật. Phá được cái chấp thân, chấp tâm, không còn thấy nó thật, đó là phá si. Thân tâm không thật thì còn cái gì để cho mình mến yêu, nên ái ngã theo đó cũng hết. Không mến yêu nên không còn tham. Không tham thì có gì để nổi sân! Vì sân là do đụng tới bản ngã của mình, nay rõ bản ngã không thật thì còn gì nữa mà sân.

Cho nên Phật thường dạy chư Tỳ-kheo, nếu thấy thân này như đất, người ta đi, người ta giẫm đạp, hoặc đổ đồ dơ lên trên đất, đất cũng không oán hờn. Lại phải quán thân này như nước, tất cả đồ dơ người ta tuôn xuống nước, nước cũng không giận, không chống trái.

Đất, nước, gió, lửa là tứ đại bên ngoài, khi kết hợp thành thân này gọi là tứ đại bên trong. Tứ đại bên ngoài không tranh chấp, sao tứ đại bên trong lại hơn thua tranh chấp? Quán như thế để tu hạnh nhẫn nhục, dù cho có gì trái ý, ngược với sở thích của mình, mình vẫn an nhiên, không bực bội, tức tối. Đó là làm cho cái ngã càng ngày càng mòn mỏng bớt.

Thầy nói cho tụi con thấy tinh thần tu của đạo Phật, kể cả Đại thừa và Tiểu thừa đều tu như vậy. Còn về Thiền tông lại càng rõ nét hơn, bởi vì không có một Thiền sư nào thấy thân này là thật hết. Thí dụ chúng ta đọc bài thơ của Thiền sư Vạn Hạnh, Ngài thấy thân người chỉ như bóng chớp, có rồi không. Rồi qua các vị Thiền sư khác, không có bài kệ nào nói thân này thật. Do vậy, chúng ta mới đào sâu, biết được Thể chân thật bất sanh bất diệt của chính mình. Còn nếu thấy thân giả tạm này và tâm sanh diệt huyễn hóa này là thật thì không bao giờ thấy được cái thâm sâu, chân thật của chính mình.

Vì vậy Thầy nhắc tất cả tụi con từ lớn đến nhỏ, đều phải nhớ rõ ràng thân này là hư huyễn, ảo hóa không thật, còn mất bất thường. Tâm sanh diệt cũng hư vọng, nên gọi là vọng tưởng. Không thật thì còn cái gì mà chấp. Không chấp cái hư dối mới thấy được cái chân thật. Cái chân thật này ai cũng có, cho nên Bồ-tát Thường Bất Khinh không dám khinh ai. Bây giờ chúng ta khinh người này dại, người kia khờ…, đó là chúng ta cũng chỉ nhìn trên tướng giả của thân tâm, còn Thể chân thật không ai hơn ai thì có gì để khinh!

Hiểu như vậy rồi chúng ta tu mới dễ, còn không thì hay sanh bệnh. Càng tu lại càng sân, càng chấp ngã. Hồi mới đi tu gọi là xả thân cầu đạo, dù ai chê, ai chửi bới mình cũng coi thường. Nhưng tu riết lên cao rồi, ai nói động liền nổi giận. Như vậy tu lâu là tiến hay lùi?

Hồi mới tu cái gì cũng xả, tu lâu rồi động tới nổi sân. Như vậy mới thấy vô tình chúng ta xả cái ngã thế gian rồi lại chấp cái ngã trong đạo. Ngã trong đạo chấp mình là Hoà thượng, Thượng tọa, là thầy của nhiều người, có chùa to, Phật lớn… rồi tự nhiên thấy mình quan trọng, cái ngã sống lại hồi nào không hay.

Cho nên chúng ta phải khéo cảnh giác, đừng để mê lầm phủ che. Chúng ta phải vạch nó ra để thấy được lẽ thật. Tu lâu cái ngã càng cao là sai lầm, chúng ta không thể như vậy được. Do đó, Thầy mong toàn thể đại chúng phải ý thức được trên đường tu làm sao mỗi ngày chúng ta mỗi mòn mỏng bản ngã. Nếu còn nặng quá thì không bao giờ chúng ta ngộ nhập được Tâm thể chân thật. Có chăng chỉ là thoáng qua thôi chớ không nhập nổi. Đó là lời nhắc nhở của Thầy.

Kế đây, Thầy nhắc thêm về chuyện xả thiền. Ở đây không phải chỉ riêng tụi con tu, còn có các Phật tử và những vị tôn giáo bạn tới xin tập tu. Nếu tụi con mỗi đứa xả theo mỗi ý là không được. Tất cả nên cẩn thận, khi xả thiền làm động tác nào cũng phải đúng cách và có chừng mực để người khác tới có thể quan sát học hỏi.

Khách tập tu ngồi chung trong Thiền đường nên tụi con nhập thiền, xả thiền ra sao họ nhìn theo bắt chước. Đừng nghĩ đã có quí Cô lớn dạy họ rồi, mình làm đúng sai gì chắc họ không quan tâm. Tụi con là hình ảnh cụ thể gần nhất, rất quan trọng. Bởi vậy hành động nào tụi con cũng phải dè dặt, từ việc tụng kinh, ngồi thiền cho đến cuộc sống hằng ngày. Trách nhiệm chúng ta rất nặng, tụi con đừng xem thường, nhiều khi xem thường quá người ta mất niềm tin, tổn phước.

Không phải có khách mình mới tu, mới nghiêm chỉnh. Tụi con vẫn sống thực như lâu nay chớ không giả bộ, nhưng phải dè dặt, đừng nói năng, hành động quá trớn, vì nhiều khi tụi con sống với nhau thường chủ quan, sơ sót chút ít không để ý. Vậy nên phải cẩn thận. Trong giờ thiền, từ cách ngồi đến cách xả, hoặc choàng khăn, đội mũ, đều thanh thản mà nghiêm trang. Tâm niệm của chúng ta không ai thấy, người ngoài chỉ thấy hình tướng và nghe lời nói của mình, nên hành động và lời nói là cái họ đánh giá trước tiên, còn chuyện ngộ đạo hay không ngộ đạo ở tâm mình người ta chưa thấy được. Cho nên khi tới đây, quan sát mọi hành động, cách cư xử và nói năng của tụi con, người ta đánh giá ngay.

Khi làm một hành động từ lớn đến nhỏ, tụi con lúc nào cũng đàng hoàng khoan thai, không nên hấp tấp. Tu đâu không biết mà đi vội vàng, nói hấp tấp, làm cẩu thả, người ta sẽ cười, đó là chưa có đạo lý thật. Cho nên phải bình tĩnh, điềm đạm, khoan thai. Có gì cũng từ từ nói, từ từ giải quyết, đừng vội vã quá. Làm cái gì cũng vừa phải, dù nói chuyện vui hay có chuyện gì không vừa ý mình cũng điềm đạm. Bởi vì trong cuộc sống tu hành, người ta thường nói các vị Thiền sư rất bình tĩnh, điềm đạm, nếu khách vô đây trông thấy các Thiền sinh thô tháo, hấp tấp, người ta sẽ cười.

Về lời nói, nếu thấy có giá trị, hợp thời, đúng lúc mới nói, không thì thôi, để giữ cho tâm sáng suốt thanh tịnh. Đừng phát ngôn bừa bãi, người ta thấy mình không biết thúc liễm.

Tụi con đừng xem thường hình thức, hình thức cũng làm cho người mới đến đánh giá mình. Nên từ hình thức đến nội tâm, tất cả khéo giữ gìn, để cho sự tu hành của mình vừa thanh tịnh, an ổn, mà người ngoài nhìn vào cũng hoan hỉ, quí mến và học theo. Thầy nghĩ mỗi lần có khách như vậy tụi con lại được tiến bộ hơn. Đừng nên quan niệm: “Tôi hiểu đạo, tôi thấy đạo đủ rồi.” Chúng ta sống trong hoàn cảnh một trăm người chưa được một người biết tu Thiền. Nếu tụi con tu Thiền mà không có đức hạnh bằng tu Tịnh độ thì người ta sẽ cười mình. Hoàn cảnh chúng ta muốn mở mang, đòi hỏi phải đủ về phần đạo lý của nội tâm và có oai nghi đức hạnh. Hai cái đó không thể thiếu một.

Vậy tụi con phải cố gắng tối đa để xứng đáng với trách nhiệm mình đang nhận. Đó là lời Thầy nhắc nhở hôm nay.

Ngày 28-7 Bính Tý (10-9-1996)

Ở đây có vị chưa thông suốt về thỉnh nguyện. Khi bắt đầu thỉnh nguyện, tụi con nghe Tri sự đọc bản nội qui, rồi kiểm tra lại nơi nội tâm, hành động mình trong một tháng, nếu có lỗi mới ra sám hối. Trong trường hợp tâm chạy theo cảnh, hay dính mắc gì đó mà trong nội qui chưa nêu, thì tụi con tự biết ráng tu cho hết, khỏi ra thỉnh nguyện. Nếu phạm giới luật, lục hoà và nội qui mới ra sám hối, còn không thì thôi. Đó là Thầy nhắc chung cho tụi con được rõ.

Bây giờ Thầy nhắc thêm vài điều, tụi con cố gắng tu hành để mau được kết quả như sở nguyện. Tất cả tụi con đến đây đều với ý chí cố gắng tu, để từ ba đến năm năm có kết quả tốt, xứng đáng với tâm nguyện tu hành của mình. Khi vào đây, buổi đầu tụi con ngỡ ngàng vì nếp sống nơi này không giống các chỗ khác, phải luôn luôn dè dặt, cẩn thận, không được tự do như những nơi tụi con đã ở qua. Chính cái dè dặt cẩn thận đó là sự tiến bộ đáng kể nơi tụi con.

Chẳng hạn như ngày xưa tụi con thấy lòng mến thương huynh đệ là bình thường, nhưng giờ đây lại đặt thành vấn đề quan trọng. Đương nhiên buổi đầu tụi con bỡ ngỡ, hơi lạ trước sự nghiêm khắc này, nhưng bây giờ tụi con xét lại mới thấy đó là bước tiến vượt bậc. Thầy thường trách giới tu sĩ chúng ta, lúc còn trẻ và khỏe, có đủ tinh thần sáng suốt để tu và làm Phật sự lại phí thời giờ vì những điều không đáng, như có tình cảm với huynh này, huynh nọ. Từ tình huynh đệ rồi trói buộc, từ trói buộc sanh ra phiền não, chính cái đó làm cho sự tu hành của tụi con trễ nải.

Có lắm chuyện Thầy đã từng nghe, từng thấy. Cứ hai người thân thiết với nhau quá, bị rầy, thấy mất tự do rủ nhau đi ở nơi khác. Đến một lúc cảm thấy không còn hợp nhau nữa, rã gánh, rồi ra đời. Chuyện này vẫn thường xảy ra. Mới đầu thấy không có gì quan trọng, cho là tình trong đạo, huynh đệ mến thương nhau, nhưng sự thật càng đi sâu càng nguy hiểm. Bởi vì từ tình đạo, dần dần biến thành tình cảm thế gian, đưa tới chỗ thối tâm lùi bước trên đường tu. Nên ở đây Thầy bắt tụi con phải tự thúc liễm. Sống với nhau chỉ là tình đạo cao thượng trong sáng, chớ không ái nhiễm gây trở ngại trên bước đường tu. Gần mãn ba năm, tu tập theo lời dạy và sự sắp đặt của Thầy, tụi con đã vượt qua được những cái tầm thường đó.

Từ đây về sau đứa nào cũng phải can đảm, gan dạ, quyết chí tiến tu đến chỗ giải thoát. Những gì có tánh cách trói buộc, tụi con phải mạnh dạn bứt bỏ để không trở ngại đường tu của mình. Như vậy trong ba, bảy năm mới có kết quả thật sự. Bằng không hình thức bên ngoài tu hành dường như nghiêm chỉnh, mà bên trong lại bị những khó khăn, phiền não dai dẳng chướng ngại đường tu, thành ra thời gian quí báu của Thầy dành cho tụi con, tụi con không tận dụng để thực hiện lời Thầy dạy. Mà bây giờ không thực hiện được, khi Thầy già không còn dạy dỗ nữa, hoặc Thầy theo Phật thì tụi con không tiến bao nhiêu. Rốt cuộc trên đường tu chỉ uổng công, không có kết quả.

Bởi vậy tất cả những gì Thầy thấy không hay, làm chướng ngại đường tu Thầy dạy phải dứt khoát buông bỏ, tụi con nên nỗ lực ráng làm theo lời Thầy nhắc nhở. Nếu có một chút dính mắc, vướng víu, tụi con phải cắt đứt liền, chớ để nó làm phiền hà, lãng phí thời giờ quí báu, sau này không tìm lại được nữa. Điều Thầy nhắc tuy ít mà tụi con gẫm lại sẽ thấy có lợi ích rất lớn trên đường tu của mình.