KINH HOA NGHIÊM ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

QUYỂN SÁU MƯƠI BA
 
PHẨM VÀO PHÁP GIỚI
THỨ BA MƯƠI CHÍN PHẦN BỐN

4. DI GIÀ ĐẠI SĨ PHÓ THÁC THỨ TƯ SINH QUÝ TRỤ

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng chánh niệm pháp môn pháp quang minh, tin sâu hướng vào, chuyên niệm Phật, chẳng dứt Tam Bảo, hoan hỉ lìa tánh dục. Niệm thiện tri thức, chiếu khắp ba đời, nhớ các đại nguyện, cứu khắp chúng sinh, chẳng chấp hữu vi, suy gẫm rốt ráo tự tánh các pháp, đều nghiêm tịnh tất cả thế giới, nơi chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật, tâm không chấp trước.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng chánh niệm pháp môn pháp quang minh, tin sâu hướng vào pháp môn nầy, không có chút nghi hoặc nào. Chuyên tâm niệm Phật, chẳng dứt giống tánh Tam Bảo, hoan hỉ lìa tâm dục thanh tịnh. Xưng niệm thiện tri thức, chiếu sáng khắp ba đời, nhớ lại các đại nguyện xưa đã phát ra, cứu khắp chúng sinh, chẳng chấp trước vào tướng hữu vi, suy gẫm rốt ráo tự tánh các pháp, đều trang nghiêm thanh tịnh tất cả thế giới, trong chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật, trong tâm không có sự chấp trước nào.

Dần dần đi về hướng nam, đến thành Tự Tại, tìm cầu Di Già. Bèn thấy vị đó ở giữa chợ, ngồi trên toà sư tử thuyết pháp, có đại chúng mười ngàn người cùng vây quanh, nói pháp môn Luân tự trang nghiêm.

Thiện Tài đồng tử dần dần đi về hướng nam, đến thành Tự Tại, tìm cầu Di Già đại sĩ. Bèn thấy Di Già đại sĩ ở giữa chợ, ngồi trên toà sư tử, vì đại chúng nói pháp, có mười ngàn người cùng vây quanh Ngài, lắng nghe Ngài nói pháp môn luân tự trang nghiêm.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Di Già, đi nhiễu quanh vô lượng vòng. Ở trước Di Già chắp tay mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà con chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh ? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Làm thế nào lưu chuyển nơi các cõi, mà không quên mất tâm bồ đề? Làm thế nào được tâm bình đẳng, kiên cố chẳng động? Làm thế nào được tâm thanh tịnh, không gì trở ngại phá hoại được? Làm thế nào sinh ra tâm đại bi, luôn không mệt nhọc? Làm thế nào vào đà la ni, khắp được thanh tịnh? Làm thế nào phát sinh trí huệ, quang minh rộng lớn, nơi tất cả pháp, lìa các ám chướng? Làm thế nào đủ sức biện tài vô ngại, quyết định thấu rõ tất cả tạng nghĩa thâm sâu? Làm thế nào được sức chánh niệm, nhớ trì tất cả pháp luân khác nhau? Làm thế nào được sức thanh tịnh các cõi, nơi tất cả cõi khắp diễn nói các pháp? Làm thế nào được sức trí huệ, nơi tất cả pháp đều quyết định phân biệt được nghĩa lý?

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử hướng về vị Di Già đảnh lễ, đi nhiễu bên phải vô lượng vòng. Ở trước Di Già chắp tay mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà con chưa biết Bồ Tát làm thế nào học hạnh của Bồ Tát tu hành? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Bồ Tát làm thế nào lưu chuyển nơi các cõi, mà luôn luôn không quên mất tâm bồ đề? Bồ Tát làm thế nào được tâm bình đẳng, kiên cố chẳng động? Bồ Tát làm thế nào để được tâm thanh tịnh, không gì trở ngại phá hoại được? Bồ Tát làm thế nào để sinh ra tâm đại bi, vĩnh viễn cũng không mệt nhọc? Bồ Tát làm thế nào mới có thể chứng nhập vào pháp môn đà la ni, khắp được thanh tịnh? Bồ Tát làm thế nào để phát sinh trí huệ, quang minh rộng lớn, nơi tất cả pháp, lìa các ám chướng đen tối. Bồ Tát làm thế nào đầy đủ sức hiểu biết và biện tài vô ngại, quyết định thấu rõ tất cả tạng nghĩa thâm sâu? Bồ Tát làm thế nào đắc được sức chánh niệm, nhớ trì tất cả pháp luân khác nhau? Bồ Tát làm thế nào để đắc được sức thanh tịnh các cõi ác, ở trong tất cả cõi khắp diễn nói các pháp? Bồ Tát làm thế nào để đắc được sức trí huệ, nơi tất cả pháp đều quyết định phân biệt được nghĩa lý của pháp”?

Bấy giờ, Di Già bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề chăng?
Thiện Tài thưa: Vâng, con đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Lúc đó, Di Già đại sĩ bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề chăng”?
Thiện Tài đáp: “Vâng, con đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề rồi”.

Di Già liền xuống toà sư tử, đến chỗ Thiện Tài năm thể sát đất, rải vàng, bạc, hoa, bảo châu vô giá, cùng với bột chiên đàn thượng diệu, vô lượng thứ y phục dùng phủ phía trên. Lại rải vô lượng đủ thứ hương hoa, đủ thứ đồ cúng, dùng để cúng dường. Sau đó đứng lên mà khen ngợi rằng: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Đã có thể phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Di Già đại sĩ liền xuống toà sư tử, đến chỗ Thiện Tài năm thể sát đất, sau đó lại rải vàng, bạc, hoa, và bảo châu vô giá, cùng với bột chiên đàn thượng diệu, và vô lượng thứ y phục dùng che phủ phía trên Thiện Tài đồng tử. Lại rải vô lượng đủ thứ hương hoa, đủ thứ đồ cúng, dùng để cúng dường. Sau đó đứng lên mà khen ngợi Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Đã có thể phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đây thật là việc khó”.

Thiện nam tử! Nếu có ai có thể phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, thì sẽ không dứt tất cả giống tánh Phật. Sẽ nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Sẽ thành thục  tất cả chúng sinh. Sẽ thấu đạt tất cả pháp tánh. Sẽ ngộ hiểu tất cả thứ nghiệp. Sẽ viên mãn tất cả các hạnh. Sẽ không dứt tất cả đại nguyện. Sẽ hiểu như thật giống tánh lìa tham. Sẽ thấy rõ được ba đời khác biệt. Sẽ khiến cho tin hiểu vĩnh viễn được kiên cố.

Thiện nam tử! Nếu như lại có ai có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì sẽ không dứt tất cả giống tánh Phật. Sẽ nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Sẽ thành thục tất cả chúng sinh. Sẽ thấu đạt tất cả pháp tánh. Sẽ ngộ hiểu tất cả các thứ nghiệp. Sẽ viên mãn tất cả các hạnh. Sẽ không dứt tất cả đại nguyện đã phát thuở xưa. Sẽ hiểu như thật giống tánh xa lìa tham. Sẽ thấy rõ được pháp ba đời khác biệt. Sẽ khiến cho tin hiểu của chúng sinh vĩnh viễn được  kiên cố.

Sẽ được tất cả Như Lai nhiếp trì. Sẽ được tất cả chư Phật nghĩ nhớ. Sẽ bình đẳng với tất cả Bồ Tát. Sẽ được tất cả hiền Thánh khen ngợi hoan hỉ. Sẽ được tất cả Phạm Vương lễ kính. Sẽ được tất cả Thiên chủ cúng dường. Sẽ được tất cả Dạ Xoa giữ gìn. Sẽ được tất cả La Sát hầu hạ. Sẽ được tất cả Long Vương nghinh tiếp. Sẽ được tất cả Khẩn Na La Vương ca ngâm khen ngợi. Sẽ được tất cả các chủ thế gian khen ngợi vui mừng.

Vị đã phát tâm bồ đề đó, sẽ được tất cả Như Lai nhiếp thọ hộ trì. Sẽ được tất cả chư Phật thường thường nghĩ nhớ. Sẽ bình đẳng với tất cả Bồ Tát. Sẽ được tất cả hiền Thánh khen ngợi hoan hỉ. Sẽ được tất cả Phạm Vương lễ kính. Sẽ được tất cả Thiên chủ cúng dường. Sẽ được tất cả Dạ Xoa giữ gìn. Sẽ được tất cả La Sát hầu hạ. Sẽ được tất cả Long Vương nghinh tiếp. Sẽ được tất cả Khẩn Na La Vương ca ngâm khen ngợi. Sẽ được tất cả các chủ thế gian khen ngợi vui mừng.

Sẽ khiến cho tất cả các cõi chúng sinh đều được an ổn. Đó là: Khiến cho họ bỏ cõi ác. Khiến cho họ khỏi xứ nạn. Khiến cho họ dứt tất cả gốc rễ bần cùng. Khiến cho họ sinh về tất cả cõi trời người yên vui. Gặp được thiện tri thức gần gũi. Nghe pháp thọ trì rộng lớn, sinh ra tâm bồ đề, thanh tịnh tâm bồ đề, chiếu sáng Bồ Tát đạo, nhập vào Bồ Tát trí, trụ bậc Bồ Tát.

Vị đã phát tâm bồ đề đó, sẽ khiến cho tất cả các cõi chúng sinh đều được an ổn vui vẻ. Nghĩa là khiến cho chúng sinh bỏ cõi ác. Khiến cho chúng sinh thoát khỏi nơi tám nạn (Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Bắc Câu Lư Châu, trời Vô Tưởng, đui mù câm điết, thế trí biện thông, trước Phật sau Phật). Khiến cho chúng sinh dứt tất cả gốc rễ phiền não bần cùng. Khiến cho chúng sinh sinh về tất cả cõi trời người yên vui. Gặp được thiện tri thức gần gũi cúng dường. Lắng nghe thiện tri thức dạy pháp rộng lớn, thọ trì nơi tâm, sẽ sinh ra tâm bồ đề, sẽ thanh tịnh tâm bồ đề, sẽ chiếu sáng Bồ Tát đạo, sẽ nhập Bồ Tát trí huệ, sẽ trụ quả vị Bồ Tát.

Thiện nam tử! Nên biết việc Bồ Tát làm rất khó, khó gặp Bồ Tát hiện ra. Người thấy được Bồ Tát lại càng khó hơn. Bồ Tát là chỗ nương nhờ của tất cả chúng sinh, vì sinh trưởng thành tựu. Là chỗ cứu giúp của tất cả chúng sinh, vì nhổ sạch các khổ nạn. Là chỗ nương tựa của tất cả chúng sinh, vì giữ gìn thế gian. Là chỗ cứu hộ của tất cả chúng sinh, vì khiến cho không sợ hãi.

Thiện nam tử! Ngươi nên biết việc Bồ Tát làm rất khó, gặp được Bồ Tát xuất hiện ra đời cũng rất khó. Người thấy được Bồ Tát lại càng khó hơn. Bồ Tát là chỗ nương nhờ của tất cả chúng sinh, vì sinh trưởng thành tựu hết thảy chúng sinh. Ngài là chỗ cứu giúp của tất cả chúng sinh, vì nhổ sạch các thống khổ hoạn nạn. Là chỗ nương tựa của tất cả chúng sinh, vì giữ gìn thế gian. Ngài là chỗ cứu hộ của tất cả chúng sinh, vì khiến cho không sợ hãi.

Bồ Tát như phong luân, vì giữ gìn các thế gian không khiến cho đoạ lạc cõi ác. Như đại địa, vì tăng trưởng căn lành chúng sinh. Như biển cả, vì phước đức sung mãn vô tận. Như mặt trời thanh tịnh, vì trí huệ quang minh chiếu khắp. Như núi Tu Di, vì căn lành cao hơn. Như mặt trăng sáng, vì trí quang xuất hiện. Như mãnh tướng, vì hàng phục được ma quân. Như ông vua, vì ở trong thành Phật pháp được tự tại. Như lửa mạnh, vì thiêu sạch tâm ngã mạn và ái dục của chúng sinh. Như mây lớn, vì rưới xuống vô lượng mưa diệu pháp. Như mùa mưa, vì tăng trưởng tất cả mầm tín căn. Như thuyền sư, vì chỉ dẫn nơi bờ mé biển pháp. Như cây cầu, vì khiến cho họ qua được biển sinh tử.

Bồ Tát như phong luân, vì giữ gìn tất cả thế giới, không khiến cho đoạ lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh các cõi ác. Lại giống như đại địa, vì tăng trưởng căn lành của tất cả chúng sinh. Lại giống như biển cả, vì phước đức sung mãn vô cùng tận. Lại giống như mặt trời thanh tịnh, vì trí huệ quang minh của Ngài chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Lại giống như núi Tu Di, vì căn lành của Ngài cao hơn tất cả chúng sinh. Lại giống như mặt trăng sáng, vì trí huệ quang minh xuất hiện nơi đời. Lại giống như thiên tướng dũng mãnh, vì hàng phục được ma quân. Lại giống như ông vua, vì ở trong thành Phật pháp được tự tại. Lại giống như lửa mạnh, vì thiêu sạch tâm ngã mạn và ái dục của chúng sinh. Lại giống như mây lớn, vì rưới xuống vô lượng mưa diệu pháp. Lại giống như mùa mưa, vì tăng trưởng tất cả mầm tín căn. Lại giống như thuyền sư, vì chỉ dẫn nơi bờ mé biển pháp. Lại giống như cây cầu, vì khiến cho hết thảy chúng sinh qua được biển sinh tử.

Di Già khen ngợi Thiện Tài như vậy, khiến cho các Bồ Tát đều hoan hỉ rồi. Từ trên mặt phóng ra đủ thứ quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Chúng sinh trong đó gặp được quang minh đó rồi, các rồng thần cho đến Phạm Thiên, thảy đều đi đến chỗ vị Di Già. 
Di Già đại sĩ liền dùng phương tiện, để vì họ khai ngộ diễn nói phân biệt giải thích Phẩm luân tự pháp môn trang nghiêm. Các chúng sinh đó nghe pháp nầy rồi, đều đắc được không thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Di Già đại sĩ khen ngợi Thiện Tài đồng tử như vậy, khiến cho các Bồ Tát đều hoan hỉ rồi. Từ trên mặt của Ngài phóng ra đủ thứ quang minh, chiếu sáng khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Chúng sinh trong đó gặp được quang minh đó rồi, tất cả trời rồng quỷ thần cho đến Phạm Thiên, thảy đều đi đến đạo tràng của Di Già. Di Già đại sĩ liền dùng pháp môn phương tiện, để vì họ khai ngộ diễn nói, phân biệt giải thích Phẩm luân tự pháp môn trang nghiêm. Các chúng sinh đó nghe được pháp nầy rồi, đều đắc được không thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Trong Kinh Tỳ Lô Xá Na thứ năm Phẩm Tự Luân có nói: “Nếu Bồ Tát trụ pháp môn tự luân nầy. Trước hết từ ban đầu phát diệu bồ đề tâm, cho đến thành Phật. Ở trong khoảng giữa đó, hết thảy tất cả tự lợi lợi tha đủ thứ sự nghiệp, đều được thành tựu”. Ví như lúc ban đầu chữ “A”, tức là tâm bồ đề. Nếu quán chữ nầy mà được tương ưng với nhau, thì liền đồng thể với pháp thân của Tỳ Lô Giá Na.
Lại có nói rằng: Tự luân “A” nầy, như vĩ luân quang minh của khổng tước, vây quanh hành giả mà trụ trong đó, tức là trụ nơi Phật vị. Lại nữa ba chữ “A Sa Phược”, là tổng nhiếp ba bộ, chữ “A” là Như Lai bộ, chữ “Sa” là Liên hoa bộ, chữ “Phược” là Kim cang bộ. Tuỳ trong một bộ đều có năm chữ. Đó là tự luân, là từ luân chuyển nầy mà sinh các chữ. Luân là sinh nghĩa. Ví như từ chữ A bồ đề tức chuyển sinh bốn chữ, gọi là một chữ A, đây là tu hành luân, tức đã phát tâm, sẽ tu các hạnh.

Chữ thứ hai là “Ám”, là thành bồ đề luân, tức tu hành rồi, sẽ chứng bồ đề. Chữ thứ ba là “Á”, là đại tịch diệt Niết Bàn luân, tức là đã đến được bồ đề. Chữ thứ tư là “Ác”, là phương tiện luân, mà đương ở trong chữ A, quanh bốn chữ nầy, từ dưới thứ lớp vòng qua phải, cũng như luân tướng. Đưa ra một ví dụ, ngoài chữ tập. Nếu hành giả có thể thấu đạt như vậy, thì sẽ nhập vào được môn đà la ni, chuyển vòng vô ngại, nên gọi là luân tự phẩm. Đủ thứ bày bố vòng tròn, nên gọi là trang nghiêm.

Di Già bèn thăng lên toà ngồi, bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử! Ta đã đắc được Diệu âm đà la ni, phân biệt biết được lời nói của chư Thiên trong ba ngàn đại thiên thế giới. Các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người, với các Phạm Thiên, hết thảy lời nói. Như ba ngàn đại thiên thế giới nầy, mười phương vô số, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, cũng đều như vậy.

Di Già đại sĩ bèn thăng lên toà ngồi, bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta đã đắc được pháp môn Diệu âm đà la ni, phân biệt biết được lời nói của tất cả chư Thiên trong ba ngàn đại thiên thế giới, và các tất cả các loài rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người, với các Phạm Thiên, hết thảy lời nói, ta cũng đều biết rõ phân biệt được. Như ba ngàn đại thiên thế giới nầy, mười phương vô số, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, cũng đều như vậy”.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Bồ Tát diệu âm đà la ni quang minh nầy. Như các đại Bồ Tát vào khắp được đủ thứ biển tư tưởng của tất cả chúng sinh, đủ thứ biển thi thiết, đủ thứ biển danh hiệu, đủ thứ biển lời nói. Vào khắp nói biển tất cả câu pháp thâm mật. Nói biển tất cả câu pháp rốt ráo. Nói biển câu pháp trong một sở duyên có sở duyên tất cả ba đời. Nói biển câu pháp thượng đẳng. Nói biển câu pháp thượng thượng đẳng. Nói biển câu pháp khác biệt. Nói biển câu pháp tất cả khác biệt. Vào khắp biển tất cả chú thuật thế gian. Tất cả âm thanh trang nghiêm luân. Tất cả bờ mé tự luân khác biệt. Những công đức như vậy, ta nay làm sao biết được, nói được?

Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Bồ Tát diệu âm đà la ni quang minh nầy. Như các đại Bồ Tát vào khắp được đủ thứ biển tư tưởng của tất cả chúng sinh, đủ thứ biển thi thiết, đủ thứ biển danh hiệu, đủ thứ biển lời nói. Ngài có thể vào khắp nói biển tất cả câu pháp thâm mật, nói biển tất cả câu pháp rốt ráo, nói biển câu pháp trong một sở duyên có sở duyên tất cả ba đời, nói biển câu pháp thượng đẳng, nói biển câu pháp thượng thượng đẳng, nói biển câu pháp khác biệt, nói biển câu pháp tất cả khác biệt. Ngài có thể vào khắp biển tất cả chú thuật thế gian, tất cả âm thanh trang nghiêm luân, tất cả bờ mé tự luân khác biệt. Đủ thứ những công đức như vậy, hiện nay ta làm sao biết được nói được?

Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam, có một thôn xóm, tên là Trụ Lâm. Ở thôn xóm đó, có vị trưởng giả tên là Giải Thoát, ngươi đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào thành tựu Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào tích tập Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào suy gẫm tu Bồ Tát hạnh?

Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam, có một thôn xóm, tên là Trụ Lâm, nơi nầy là phương tiện cụ túc trụ, chúng đức sở kiến lập. Ở trong thôn xóm đó, có vị trưởng giả tuổi cao có đức tên là Giải Thoát. Trưởng giả đó tu căn lành đều vì giải thoát tất cả chúng sinh, cho đến khiến cho chúng sinh chứng đại Niết Bàn. Ngươi đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào thành tựu Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào tích tập Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào suy gẫm tu hành Bồ Tát hạnh”?

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử nhờ các vị thiện tri thức, nên đối với pháp nhất thiết trí, sinh tâm tôn trọng thâm sâu, trồng niềm tin thanh tịnh thâm sâu, tự tăng ích thâm sâu. Bèn đảnh lễ Di Già, rơi lệ buồn khóc, nhiễu quanh Di Già vô lượng vòng, hâm mộ chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe lời giáo huấn của Di Già đại sĩ, nhờ hiểu biết rất nhiều về Phật pháp, nên Ngài đối với pháp môn nhất thiết trí, niệm niệm sinh vô lượng trí huệ, niệm niệm diệt vô lượng ngu si, sinh tâm tôn trọng thâm sâu, trồng niềm tin thanh tịnh thâm sâu, tự đắc được lợi ích thâm sâu, pháp hỉ sung mãn. Ngài bèn đảnh lễ Di Già đại sĩ, rơi lệ buồn rầu khóc lóc, đi nhiễu quanh Di Già vô lượng vòng, hâm mộ chiêm ngưỡng Di Già đại sĩ, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam, để tham vấn vị thiện tri thức khác.

 

5. TRƯỞNG GIẢ GIẢI THOÁT PHÓ THÁC THỨ NĂM PHƯƠNG TIỆN CỤ TÚC TRỤ

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử suy gẫm môn các Bồ Tát vô ngại giải đà la ni quang minh trang nghiêm. Thâm nhập biển môn lời nói của các Bồ Tát. Nghĩ nhớ môn phương tiện vi tế của các Bồ Tát biết tất cả chúng sinh. Quán sát môn tâm thanh tịnh của các Bồ Tát. Thành tựu môn căn lành quang minh của các Bồ Tát. Tịnh trị môn giáo hoá chúng sinh của các Bồ Tát. Minh bạch môn nhiếp chúng sinh trí của các Bồ Tát. Kiên cố môn chí nguyện ưa thích rộng lớn của các Bồ Tát. Trụ trì môn chí nguyện ưa thích thù thắng của các Bồ Tát. Tịnh trị môn đủ thứ tin hiểu của các Bồ Tát. Suy gẫm môn vô lượng thiện tâm của các Bồ Tát.

Thiện Tài đồng tử từ biệt Di Già đại sĩ mà đi về hướng nam, giữa đường suy gẫm pháp môn trí huệ vô ngại giải thoát đà la ni và sinh ra quang minh trang nghiêm của tất cả Bồ Tát làm sao tu hành mà đắc được. Ngài thâm nhập biển môn lời nói của tất cả Bồ Tát mà thông đạt vô ngại. Ngài lại nghĩ nhớ môn tất cả Bồ Tát biết vọng tưởng vi tế và ý niệm vi tế của tất cả chúng sinh, mà dùng phương tiện để giáo hoá tất cả chúng sinh. Lại quán sát môn tâm thanh tịnh của các Bồ Tát làm sao tu hành mà đắc được. Ngài lại thành tựu pháp môn căn lành quang minh của tất cả Bồ Tát. Ngài lại tu hành viên mãn tịnh trị pháp môn giáo hoá chúng sinh của các Bồ Tát. Ngài lại minh bạch hiểu biết pháp môn nhiếp thọ chúng sinh trí huệ của tất cả Bồ Tát. Ngài lại kiên cố pháp môn chí nguyện ưa thích rộng lớn của tất cả Bồ Tát. Ngài lại quán sát làm thế nào mà trụ trì môn chí nguyện ưa thích thù thắng của các Bồ Tát. Làm thế nào mà tịnh trị pháp môn đủ thứ tin hiểu của tất cả Bồ Tát. Lại suy gẫm pháp môn vô lượng thiện tâm của tất cả Bồ Tát.

Thệ nguyện kiên cố, tâm không nhàm mỏi. Dùng các áo giáp mà tự trang nghiêm. Thâm tâm tinh tấn, không thể thối chuyển. Đầy đủ niềm tin bất hoại, tâm kiên cố như kim cang và Na la diên, không gì phá hoại được. Giữ gìn lời dạy của tất cả thiện tri thức. Nơi các cảnh giới, đắc được trí bất hoại. Phổ môn thanh tịnh, chỗ làm đều không ngại. Trí quang viên mãn, chiếu khắp tất cả. Đầy đủ các địa tổng trì quang minh. Biết rõ pháp giới đủ thứ khác biệt. Không nương, không trụ. Bình đẳng không hai. Tự tánh thanh tịnh, mà trang nghiêm khắp. Đối với các chỗ làm, đều được rốt ráo. Trí huệ thanh tịnh, lìa các chấp trước.

Thiện Tài đồng tử phát thệ nguyện rất kiên cố, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi, cho rằng mình đã đầy đủ. Dùng các áo giáp để trang nghiêm chính mình. Dùng thâm tâm tinh tấn để tu hành, vĩnh viễn cũng không thối chuyển, chỉ có tiến về trước mà không lùi về sau, đầy đủ niềm tin bất hoại. Tâm ý của Ngài kiên cố như kim cang, hoặc Na la diên, không gì phá hoại được. Ngài giữ gìn lời dạy của tất cả thiện tri thức để y giáo phụng hành. Đối với các cảnh giới, đắc được trí huệ bất hoại, phổ môn thanh tịnh, chỗ làm đều không có chướng ngại. Trí huệ quang minh viên mãn, chiếu sáng khắp tất cả, đầy đủ các địa tổng trì quang minh, biết rõ pháp giới đủ thứ cảnh giới khác biệt, không nương tựa, không chấp trước, tất cả bình đẳng không hai. Tự tánh luôn thanh tịnh, mà trang nghiêm khắp tất cả lục độ vạn hạnh. Đối với tất cả các chỗ làm, hoàn toàn đều được rốt ráo, đến được bờ kia. Trí huệ thanh tịnh, lìa khỏi tất cả chấp trước.

Biết pháp mười phương khác biệt, trí không chướng ngại. Đến nơi mười phương khác biệt, thân không mỏi lười. Đối với nghiệp mười phương khác biệt, đều thấu rõ được. Đối với chư Phật mười phương khác biệt, đều hiện thấy hết. Đối với thời gian mười phương khác biệt, đều thâm nhập được. Diệu pháp thanh tịnh, đầy dẫy trong tâm. Phổ trí tam muội, chiếu sáng tâm ý. Tâm luôn vào khắp cảnh giới bình đẳng. Được trí huệ Như Lai chiếu đến. Dòng nhất thiết trí, liên tục không dứt. Hoặc thân, hoặc tâm, không lìa Phật pháp. Được tất cả thần lực chư Phật gia trì. Được quang minh tất cả Như Lai chiếu đến. Thành tựu đại nguyện. Nguyện thân khắp cùng tất cả lưới cõi. Tất cả pháp giới vào khắp thân mình. 

Thiện Tài đồng tử lại biết pháp mười phương khác biệt, đắc được trí huệ không chướng ngại. Lại đi đến cõi nước mười phương khác biệt, thân cũng không cảm thấy mỏi lười. Đối với hết thảy nghiệp báo mười phương khác biệt, Ngài đều thấu rõ được. Đối với chư Phật mười phương khác biệt, đều hiện thấy hết. Đối với thời gian mười phương khác biệt, đều minh bạch thâm nhập được. Ngài đắc được diệu pháp thanh tịnh, cảnh giới đầy dẫy trong tâm. Dùng định lực trí huệ thấy khắp, chiếu sáng tâm ý, thường thường hiện tiền. Trong tâm luôn khoái lạc bình đẳng, không sầu, không lo, không tham, không cầu, do đó có câu: “Đến chỗ không cầu, sẽ hết lo”. Đại quang minh tạng của Phật luôn chiếu đến thân tâm của Ngài. Dòng nhất thiết trí huệ, liên tục không dứt. Thân tâm thường ở trong Phật pháp, vĩnh viễn không lìa. Được thần lực của tất cả chư Phật gia bị cho Ngài. Được quang minh tất cả Như Lai chiếu đến Ngài. Thành tựu đại nguyện. Đại nguyện đó thân khắp cùng tất cả pháp giới, tất cả cõi Phật, và tất cả hạt bụi, giống như tấm lưới La. Hết thảy tất cả pháp giới đều vào khắp trong thân Thiện Tài đồng tử.

Dần dần đi du hành khoảng mười hai năm, thì đến thành Trụ Lâm. Thiện Tài đi các nơi tìm kiếm trưởng giả Giải Thoát, khi thấy được rồi, bèn đảnh lễ năm thể sát đất, đứng dậy chắp tay, bạch đức Thánh rằng: Nay con gặp được thiện tri thức, là con đắc được lợi lành rộng lớn. Tại sao? Vì bậc thiện tri thức khó thấy được, khó nghe được, khó xuất hiện, khó được phụng sự, khó gần gũi được, khó được tiếp rước, khó gặp gỡ được, khó ở chung được, khó khiến vui mừng được, khó theo đuổi được, nay con được gặp, là được lợi lành.

Thiện Tài đồng tử đi về hướng nam, dần dần du hành khoảng mười hai năm, thì đến thành Trụ Lâm. Thiện Tài bèn đi các nơi để tìm kiếm trưởng giả Giải Thoát. Khi thấy được trưởng giả Giải Thoát rồi, bèn đảnh lễ năm thể sát đất, sau đó đứng dậy chắp tay, mà nói với đức Thánh rằng: “Bạch đức Thánh! Nay con được gặp thiện tri thức, là con đắc được lợi lành rộng lớn. Tại sao? Vì bậc thiện tri thức khó thấy được, trăm ngàn vạn kiếp cũng không dễ gì gặp được, trăm ngàn vạn kiếp cũng không dễ gì nghe được thiện tri thức nói pháp. Thiện tri thức trăm ngàn vạn kiếp cũng không dễ gì xuất hiện nơi thế gian, cũng không dễ gì được phụng sự thiện tri thức, người có căn lành lớn, mới gặp được thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức, người không có căn lành, tuy gặp thiện tri thức cũng không nhận ra. Gặp được thiện tri thức, cũng không thể gần gũi thiện tri thức, cũng không dễ gì tiếp nhận được lời dạy dỗ của thiện tri thức, cũng không dễ gì gặp gỡ được thiện tri thức, cũng không dễ gì ở cùng đạo tràng với thiện tri thức, cũng không dễ gì khiến cho thiện tri thức hoan hỉ vui mừng, vì Ngài thường ở trong định, không tham cũng không cầu, bất cứ việc gì cũng không động tâm. Cũng không dễ gì theo đuổi được nhất cử nhất động của thiện tri thức. Nay con được gặp thiện tri thức, là con được lợi lành lớn”!

Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn phụng thờ tất cả chư Phật. Vì muốn gặp tất cả chư Phật. Vì muốn thấy tất cả chư Phật. Vì muốn quán sát tất cả chư Phật. Vì muốn biết tất cả chư Phật. Vì muốn chứng bình đẳng của tất cả chư Phật. Vì muốn phát đại nguyện của tất cả chư Phật. Vì muốn viên mãn đại nguyện của tất cả chư Phật. Vì muốn đầy đủ trí quang của tất cả chư Phật. Vì muốn thành tựu các hạnh của tất cả chư Phật. Vì muốn đắc được thần thông của tất cả chư Phật. Vì muốn đầy đủ các lực của tất cả chư Phật. Vì muốn đắc được vô uý của tất cả chư Phật.

Thiện Tài đồng tử lại nói: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Hiện tại con vì muốn phụng thờ tất cả chư Phật. Con vì muốn gặp tất cả chư Phật. Con vì muốn thấy tất cả chư Phật. Vì muốn quán sát tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn biết rõ cảnh giới tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn chứng nhập quả vị bình đẳng của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn phát đại nguyện của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn viên mãn đại nguyện của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn đầy đủ trí huệ quang minh của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn thành tựu các hạnh của tất cả chư Phật tu, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn đắc được thần thông của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn đầy đủ các lực của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn đắc được vô uý của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Ở trên là đủ thứ nhân duyên của Thiện Tài đồng tử muốn đạt được, mà phát bồ đề tâm

Vì muốn nghe pháp của tất cả chư Phật. Vì muốn thọ pháp của tất cả chư Phật. Vì muốn trì pháp của tất cả chư Phật. Vì muốn hiểu pháp của tất cả chư Phật. Vì muốn hộ pháp của tất cả chư Phật. 

Con vì muốn nghe hết thảy pháp của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn thọ pháp của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn trì pháp của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn thấu hiểu pháp của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Con vì muốn hộ trì pháp của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm. Ở trên là Thiện Tài đồng tử muốn nghe tất cả Phật pháp, nên muốn khánh tận nguồn pháp.

Vì muốn đồng một thể với tất cả các Bồ Tát. Vì muốn đồng căn lành không khác với tất cả các Bồ Tát. Vì muốn viên mãn Ba la mật của tất cả Bồ Tát. Vì muốn thành tựu sự tu hành của tất cả Bồ Tát. Vì muốn sinh ra nguyện thanh tịnh của tất cả Bồ Tát. Vì muốn đắc được tạng oai thần của tất cả chư Phật Bồ Tát. Vì muốn đắc được pháp tạng vô tận trí huệ đại quang minh của tất cả Bồ Tát. Vì muốn đắc được tạng tam muội rộng lớn của tất cả Bồ Tát. Vì muốn thành tựu vô lượng vô số tạng thần thông của tất cả Bồ Tát. Vì muốn dùng tạng đại bi giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, đều khiến rốt ráo đến bờ mé. Vì muốn hiển hiện tạng thần biến. Vì ở trong tất cả tạng tự tại, đều dùng tâm mình đắc được tự tại. Vì muốn vào trong tạng thanh tịnh, dùng tất cả tướng mà trang nghiêm.

Con vì muốn đồng một pháp thân với tất cả các chúng Bồ Tát, do đó “đồng thể đại bi”, mà phát tâm bồ đề. Con vì muốn đồng căn lành không có gì khác với tất cả các Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề. Con vì muốn viên mãn pháp Ba la mật đến bờ kia của tất cả Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề. Con vì muốn thành tựu pháp tu hành của tất cả Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề. Con vì muốn sinh ra nguyện thanh tịnh của tất cả Bồ Tát đã phát, mà phát tâm bồ đề. Con vì muốn đắc được tạng đại oai thần lực của tất cả chư Phật Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề. Con vì muốn đắc được pháp tạng vô tận trí huệ đại quang minh của tất cả Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề. Con vì muốn đắc được tạng tam muội rộng lớn của tất cả Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề. Con vì muốn thành tựu vô lượng vô số tạng thần thông của tất cả Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề. Con vì muốn dùng tạng đại bi giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ rốt ráo đến bờ mé, mà phát tâm bồ đề. Con vì muốn hiển hiện tạng thần thông biến hoá, mà phát tâm bồ đề. Con vì ở trong tất cả tạng tự tại, hoàn toàn đều dùng tâm mình đắc được tự tại, mà phát tâm bồ đề. Con vì muốn chứng nhập trong tạng thanh tịnh, dùng tất cả tướng mà trang nghiêm cõi nước chư Phật, mà phát tâm bồ đề. Ở trên là Thiện Tài đồng tử muốn bằng Bồ Tát hạnh, mà phát tâm bồ đề.

Đức Thánh! Nay con dùng tâm như vậy, ý như vậy, ưa thích như vậy, muốn như vậy, cầu mong như vậy, suy gẫm như vậy, tôn trọng như vậy, phương tiện như vậy, rốt ráo như vậy, khiêm hạ như vậy, mà đến chỗ đức Thánh.

Đức Thánh! Nay con dùng tâm như vậy, ý như vậy, ưa thích như vậy, muốn như vậy, cầu mong như vậy, suy gẫm như vậy, tôn trọng như vậy, phương tiện như vậy, rốt ráo như vậy, khiêm hạ như vậy, mà đến chỗ đạo tràng của đức Thánh.

Con nghe đức Thánh khéo dạy dỗ các chúng Bồ Tát. Hay dùng phương tiện xiển minh sở đắc. Chỉ bày con đường. Ban cho cầu đò. Truyền thọ pháp môn. Khiến cho trừ diệt mê hoặc điên đảo chướng ngại. Nhổ mũi tên do dự. Cắt lưới mê hoặc. Soi tâm rừng rậm. Rửa tâm dơ đục. Khiến cho tâm sạch trắng. Làm cho tâm thanh tịnh. Chánh tâm siểm khúc. Tuyệt tâm sinh tử. Dừng tâm bất thiện. Giải tâm chấp trước. Đối với chỗ chấp trước khiến tâm giải thoát. Đối với chỗ nhiễm ái làm tâm động chuyển. Khiến cho họ sớm nhập vào cảnh nhất thiết trí. Khiến cho họ sớm đắc được pháp thành vô thượng. Khiến cho trụ đại bi. Khiến cho trụ đại từ. Khiến cho vào Bồ Tát hạnh. Khiến cho tu môn tam muội. Khiến cho nhập chứng vị. Khiến cho quán pháp tánh. Khiến cho tăng trưởng lực. Khiến cho tu tập hạnh. Khắp tất cả tâm được bình đẳng. 

Xin nguyện đức Thánh, vì con tuyên nói: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh ? Tu Bồ Tát đạo? Tuỳ sự tu tập, mau được thanh tịnh, mau được thấu rõ.

Con nghe có người nói đức Thánh khéo dạy dỗ tất cả đại chúng Bồ Tát. Hay dùng pháp môn phương tiện xiển minh sở đắc. Chỉ bày con đường. Ban cho cầu đò. Lại truyền thọ pháp môn, khiến cho hết thảy mọi người trừ diệt mê hoặc điên đảo chướng ngại. Nhổ mũi tên độc do dự. Cắt đứt lưới mê hoặc. Chiếu soi tâm rừng rậm. Rửa sạch tâm dơ đục, khiến cho tâm sạch trắng, làm cho tâm khôi phục lại thanh tịnh. Chánh tâm siểm khúc, do đó có câu: “Tâm thẳng là đạo tràng”, không còn tư tưởng nịnh bợ xiểm khúc. Tuyệt tâm sinh tử. Dừng tâm bất thiện, không làm các điều ác, làm các việc lành. Hiểu rõ đạo lý tâm chấp trước. Đối với chỗ chấp trước khiến tâm không còn chấp trước mà được giải thoát. Đối với chỗ nhiễm ái làm tâm động chuyển. Khiến cho họ sớm nhập vào cảnh giới nhất thiết trí. Khiến cho họ sớm đắc được pháp thành vô thượng. Khiến cho họ trụ tâm đại bi. Khiến cho họ trụ tâm đại từ. Khiến cho họ vào Bồ Tát hạnh. Khiến cho họ tu pháp môn tam muội. Khiến cho họ nhập chứng quả vị. Khiến cho họ quán sát tất cả pháp tánh, không giao động. Khiến cho họ tăng trưởng tất cả lực. Khiến cho họ tu tập tất cả hạnh. Khắp tất cả tâm được bình đẳng, không có phân biệt.

Con xin nguyện đức Thánh, vì con tuyên nói đạo lý nầy: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Tuỳ sự tu tập của họ, mau được thanh tịnh, mau được thấu rõ.

Bấy giờ, trưởng giả Giải Thoát do nhờ sức căn lành quá khứ, oai lực của đức Phật, sức nghĩ nhớ của Văn Thù Sư Lợi đồng tử, nên liền nhập vào môn tam muội Bồ Tát, tên là Phổ nhiếp tất cả cõi Phật vô biên toàn Đà La Ni.

Lúc đó, trưởng giả Giải Thoát do nhờ sức căn lành quá khứ, oai lực của đức Phật, sức nghĩ nhớ của Văn Thù Sư Lợi đồng tử, nên lập tức chứng nhập vào môn tam muội Bồ Tát, tên là Phổ nhiếp tất cả cõi Phật vô biên toàn Đà La Ni. Đây là trưởng giả Giải Thoát phổ nhiếp các cõi ở trong thân, do tâm trí, xưng tánh tổng trì, khiến như thể dụng, toàn chuyển diệu dụng vô ngại.

Nhập vào tam muội đó rồi, đắc được thân thanh tịnh. Ở trong thân đó, hiển hiện mười phương, mỗi phương đều có các đức Phật, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, và cõi nước Phật, chúng hội đạo tràng, đủ thứ quang minh các việc trang nghiêm. Cũng hiện các đức Phật đó thuở xưa sở hành thần thông biến hoá, tất cả đại nguyện, pháp trợ đạo, các hạnh xuất ly, thanh tịnh trang nghiêm. Cũng hiện chư Phật thành Đẳng Chánh Giác, chuyển diệu pháp luân, giáo hoá chúng sinh. Tất cả như vậy, ở trong thân đó, thảy đều hiển hiện ra, không có sự chướng ngại.

Trưởng giả Giải Thoát nhập vào tam muội đó rồi, liền đắc được thân thanh tịnh không nhiễm. Ở trong thân đó, hiển hiện mười phương, mỗi phương đều có các đức Phật nhiều như số hạt bụi cõi Phật, và cõi nước Phật, chúng hội đạo tràng, đủ thứ quang minh các việc trang nghiêm. Lại thị hiện các đức Phật đó, thuở xưa sở hành tất cả thần thông biến hoá, phát tất cả đại nguyện, pháp môn trợ đạo, các hạnh môn xuất ly ba cõi: cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Cũng tu pháp thanh tịnh trang nghiêm. Lại thị hiện chư Phật thành Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe diệu pháp, giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh chấm dứt sinh tử. Đủ thứ tất cả sự việc như vậy, ở trong thân trưởng giả Giải Thoát, thảy đều hiển hiện ra, không có bất cứ sự chướng ngại gì.

Đủ thứ hình tướng, đủ thứ lớp, như xưa mà trụ, chẳng tạp loạn nhau. Đó là: Đủ thứ cõi nước, đủ thứ chúng hội, đủ thứ đạo tràng, đủ thứ nghiêm sức. Trong đó chư Phật hiện đủ thứ thần lực. Lập đủ thứ thừa đạo. Bày đủ thứ nguyện môn, hoặc ở nơi một thế giới cung Đâu Suất mà làm Phật sự. Hoặc ở nơi một thế giới ẩn cung Đâu Suất mà làm Phật sự. 
Như vậy, hoặc có trụ thai, hoặc lại đản sinh, hoặc ở trong cung, hoặc lại xuất gia, hoặc đến đạo tràng, hoặc phá ma quân, hoặc chư Thiên Long cung kính vây quanh, hoặc các thế chủ thỉnh cầu thuyết pháp, hoặc chuyển bánh xe pháp, hoặc vào Niết Bàn, hoặc chia xá lợi, hoặc xây chùa tháp. 

Các Như Lai đó ở trong đủ thứ chúng hội, đủ thứ thế gian, đủ thứ cõi sinh, đủ thứ gia tộc, đủ thứ dục lạc, đủ thứ nghiệp hạnh, đủ thứ tiếng nói, đủ thứ căn tánh, đủ thứ phiền não, tuỳ miên tập khí. Trong các chúng sinh, hoặc nơi đạo tràng vi tế, hoặc nơi đạo tràng rộng lớn, hoặc nơi đạo tràng rộng một do tuần, hoặc nơi đạo tràng rộng mười do tuần, hoặc nơi đạo tràng rộng bất khả thuyết bất khả thuyết do tuần nhiều như số hạt bụi cõi Phật. 

Dùng đủ thứ thần thông, đủ thứ lời lẽ, đủ thứ âm thanh, đủ thứ pháp môn, đủ thứ môn tổng trì, đủ thứ môn biện tài. Dùng đủ thứ biển Thánh đế, đủ thứ vô uý đại sư tử hống. Nói các chúng sinh đủ thứ căn lành, đủ thứ nghĩ nhớ, thọ đủ thứ Bồ Tát ký, nói đủ thứ các Phật pháp.

Ở trong thân trưởng giả Giải Thoát, hiện ra đủ thứ hình tướng, đủ thứ lớp, y chiếu như xưa mà trụ, chẳng tạp loạn nhau. Đó là: Đủ thứ cõi nước, đủ thứ chúng hội, đủ thứ đạo tràng, đủ thứ nghiêm sức. Trong đó, hết thảy tất cả chư Phật hiện ra đủ thứ thần lực, kiến lập đủ thứ thừa đạo, lại thị hiện đủ thứ môn đại nguyện. Hoặc ở nơi một thế giới cung Đâu Suất (trời Tri Túc) mà làm Phật sự. Hoặc ở nơi một thế giới ẩn cung Đâu Suất mà làm Phật sự. Thị hiện đủ thứ cảnh giới, khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, cầu vô thượng đạo.

Phật thị hiện trụ thai, từ cung trời Đâu Suất hạ sinh xuống. Bất cứ một vị Phật nào, trước khi thành Phật, đều trụ ở nội viện Đâu Suất, hậu bổ Phật vị. Đợi vị Phật trước đó vào Niết Bàn, sau đó sẽ xuất thế làm Phật, từ cung trời Đâu Suất hạ sinh vào thai mẹ. Phật trụ ở trong thai mẹ cũng giống như ở trong cung điện, chẳng bị sự nhiễm ô.

Chúng ta một số người ở trong thai mẹ chẳng giống nhau, ở trong thai giống như ngủ, tất cả đều chẳng biết. Song, khi đức Phật trụ thai thì vẫn vì hết thảy quỷ thần thuyết pháp, giáo hoá tất cả quỷ thần. Cho nên cảnh giới của phàm phu và cảnh giới của chư Phật hoàn toàn khác nhau. Cảnh giới của người chẳng có trí huệ và cảnh giới của người có trí huệ hoàn toàn khác nhau. Người ngu si suốt ngày đến tối chỉ tạo nghiệp ngu si. Người trí huệ thì mỗi ngày đều tu hành nghiệp trí huệ, chẳng tạo nghiệp ngu si.

Sự trụ thai của con người, trong mười hai nhân duyên có nói rất rõ ràng. Trong mười hai nhân duyên, thứ nhất là vô minh. Vô minh thì che lấp đi trí huệ vốn có của chúng ta, không còn biết gì nữa. Cũng chẳng biết gì là đúng, gì không đúng. Có lúc điên điên đảo đảo, lấy phải làm quấy, lấy quấy làm phải, hồ đồ. Vô minh tức là một cái tên khác của hồ đồ. Sự hồ đồ nầy, tức là nam tham nữ ái. Người nam thấy người nữ đẹp thị bị mê hoặc, người nữ thấy người nam đẹp thì cũng bị mê hoặc. Sau đó thì hổ tương sinh ra một thứ tâm ái, nếu hỏi họ rằng: “Tại sao lại có tâm ái”? thì họ sẽ trả lời nói : “Không biết”. Tại sao? Tức là vì vô minh. Khi vô minh khởi lên thì có hành vi, tức là tánh hành vi nam nữ. Một khi có tánh hành vi thì rơi vào thức. Tinh cha huyết mẹ kết hợp với nhau thì có thức. Có thức rồi, thì có danh sắc, tức là tên gọi, gọi nó là cái thai. Có danh sắc rồi, thì có lục nhập, tức là sinh ra: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Có lục nhập rồi, thì có xúc giác. Đứa bé ở trong bụng mẹ, thường có sự xúc chạm với thân thể người mẹ. Cho nên đứa bé thường hoan hỉ người đến vỗ về nó, đến ôm bế nó. Có xúc rồi, thì có thọ dụng. Có thọ dụng rồi, thì sinh ra một thứ ái. Có ái rồi thì sinh ra một thứ thủ. Có thủ rồi, thì sinh ra có (hữu). Có hữu (có) rồi thì có sinh. Có sinh thì có già chết. Cho nên mười hai nhân duyên nầy là tương nhân tương tục, hổ tương trợ giúp. Song, một số người chẳng minh bạch mười hai nhân duyên nầy, cho nên sinh tử không ngừng ở trong luân hồi. Đời nầy mê mỏng đi một chút, đời sau lại mê dày thêm một chút, càng mê thì càng sâu, càng sâu thì càng mê, sẽ không biết:

“Biển khổ không bờ, quay đầu là bến”.

Cho nên chuyển tới chuyển lui ở trong luân hồi, lúc lên, lúc xuống, sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, nhận giả làm thật, nhận giặc làm con, ở tại thế giới Ta Bà nầy, thật là đáng thương xót! Song, vẫn không muốn thoát khỏi, mê chẳng biết quay về, đây là một thứ phiền não của chúng ta chúng sinh.
Chư Phật tuy cũng trụ thai, nhưng chẳng mê hoặc hồ đồ như chúng ta. Ngài là vì giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác. Vì chúng ta mê mất quá lâu, cho nên phải hồi đầu lại, do đó:

“Biển khổ không bờ, quay đầu là bến”.

Đức Phật vì đây mà thị hiện trụ thai, hoặc thị hiện đản sinh, hoặc thị hiện ở trong cung làm thái tử. Hoặc thị hiện xuất gia tu đạo. Hoặc thị hiện xuất gia thành đạo, ngồi đạo tràng. Hoặc thị hiện phá chúng ma quân. Hoặc thị hiện chư Thiên Long đến cung kính vây quanh. Hoặc thị hiện tất cả các ông vua thế gian đến thỉnh cầu thuyết pháp. Hoặc thị hiện ở trong đạo tràng chuyển bánh xe pháp. Hoặc thị hiện vào Bát Niết Bàn. Hoặc vào Niết Bàn rồi, đốt thân thiêu ra xá lợi. Hoặc chúng sinh vì Phật xây dựng chùa tháp. Hoặc tất cả các Như Lai đó ở trong đủ thứ chúng hội đạo tràng thuyết pháp. Hoặc tại thế gian ngửa, thế gian úp, thế gian hình tròn, thế gian hình vuông, đủ thứ thế gian khác nhau, vì chúng sinh thuyết pháp. Hoặc đến thọ sinh vào tứ sinh lục đạo các cõi. Hoặc xuất thân ở trong đủ thứ gia tộc làm quý tộc, hoặc dân nghèo. Hoặc thị hiện đủ thứ dục lạc. Hoặc thị hiện đủ thứ nghiệp hạnh. Hoặc nói đủ thứ tiếng. Hoặc hiện đủ thứ căn tánh. Hoặc thị hiện đủ thứ phiền não, tuỳ miên tập khí.

Ở trong các chúng sinh, hoặc ở nơi đạo tràng vi tế cực nhỏ, hoặc ở nơi đạo tràng rộng lớn. Ví như Vạn Phật Thành là một đạo tràng lớn, đây là đạo tràng chư Phật dự bị cho chúng sinh tu hành, giảng kinh thuyết pháp. Hoặc ở nơi đạo tràng rộng một do tuần. Hoặc ở nơi đạo tràng rộng mười do tuần. Hoặc ở nơi đạo tràng rộng bất khả thuyết bất khả thuyết do tuần nhiều số hạt bụi cõi Phật. Đây là chư Phật thị hiện đủ thứ cảnh giới đạo tràng khác nhau, để giáo hoá chúng sinh, mà vận dụng đủ thứ thần thông.

Hiện tại là thời đại mạt pháp, một số người lấy phải làm quấy, lấy quấy làm phải, mà nói người tu đạo không thể hiển thần thông. Nếu có thần thông tức là bàng môn tả đạo, hoặc là nha sơn. Cho nên làm cho làm cho một số người nhận lầm mắt cá tưởng hạt châu, tựa đúng mà sai, họ vâng cũng vâng, chẳng biết phải trái, chẳng biết đi đâu, theo đâu, do đó làm cho thế giới ngày càng hỗn đục. Vì đa số người xuất gia chẳng nhận thức được đạo lý nầy, lấy mù dẫn mù, cho nên cũng làm cho một số người tựa đúng mà sai.

Vậy, cứu kính thần thông có thể hiển hiện chăng? Có thể! Nếu bạn có thần thông, đừng ngại hiển thần thông. Nếu bạn chẳng có thần thông, thì đừng giả trang có thần thông. Nếu không thể hiển thần thông, thì tại sao Phật phải hiển thần thông? Tại sao Bồ Tát hiển thần thông? Tại sao A la hán hiển thần thông? Tức nhiên Phật, Bồ Tát, A la hán đều hiển thần thông, bạn là người có thần thông tại sao không thể hiển? Không có lý nào, đây là không đúng. Chỉ sợ bạn không có thần thông, nếu bạn có thần thông, thì có thể hiển cho đại chúng nhìn xem. Đây là chủ trương của tôi. Vì tôi chẳng có thần thông, hiển chẳng được thần thông, cho nên tôi muốn người có thần thông, hãy hiển thần thông. Người hiển thần thông chẳng phạm pháp. Người hiển thần thông, chẳng phải là trộm cướp, chẳng phải muốn tống họ vào trong ngục tù, đây là không hợp lý. Cho nên đức Phật chẳng cho bạn hiển thần thông, là vì bạn chẳng có thần thông mà giả trang có thần thông. Nếu bạn có thần thông, mà thần thông chẳng phải trộm về, chẳng phải đoạt được, thì tại sao không thể hiển? Nếu có thần thông, lại không thể hiển, vậy nó làm gì? Đây chẳng phải là biến thành phế vật chăng? Cho nên hy vọng các vị nhận thức cho rõ ràng, đừng có nói những lời lấy đen làm trắng như thế. Nếu không thể hiển thần thông, trong Kinh Phật không đáng có hai chữ “thần thông” nầy. Tức nhiên hai chữ nầy, tai sao lại không thể hiển? Nói nó để làm gì? Cho nên chúng ta phải nghiên cứu chân lý cho rõ ràng.

Chư Phật lại dùng đủ thứ lời lẽ để giáo hoá chúng sinh, đủ thứ âm thanh, đủ thứ pháp môn, đủ thứ môn tổng trì, đủ thứ pháp môn biện tài, đủ thứ biển Thánh đế (khổ tập diệt đạo). Bốn Thánh đế nầy nghiên cứu ra thì sâu rộng như biển. Lại dùng đủ thứ vô uý đại sư tử hống. Do đó có câu : “Bách thú văn chi giai não liệt”, để diễn nói đủ thứ căn lành của các chúng sinh, đủ thứ nghĩ nhớ của chúng sinh, thọ đủ thứ Bồ Tát ký biệt hiệu, nói đủ thứ pháp môn của chư Phật nói.

Hết thảy lời nói của các Như Lai đó, Thiện Tài đồng tử đều nghe lãnh thọ được. Cũng thấy tam muội thần thông không thể nghĩ bàn của chư Phật và các Bồ Tát.

Tất cả những lời nói của các Như Lai đó, Thiện Tài đồng tử đều nghe được, lãnh thọ được. Lại thấy tam muội thần thông biến hoá không thể nghĩ bàn của chư Phật và các Bồ Tát.

Các vị hãy nghĩ xem, nếu thần thông không thể hiển hiện, thì tại sao trong Kinh Phật thường có hai chữ “thần biến” nầy? Đây chẳng phải là biến thành phế vật chăng? dư thừa chăng? Cho nên chúng ta phải biết chân lý, hiểu cho rõ ràng, đừng có người sao, mình cũng vậy, mà chẳng nghiên cứu khảo nghiệm thêm. Ví như, nghe người ta nói lễ Phật tốt, có thể phát tài thăng quan tiến chức, làm ăn kiếm được nhiều tiền, đây nói thẳng ra là chửi người! Nếu bạn lễ Phật, Phật bảo hộ cho bạn phát tài, thăng quan tiến chức, kiếm được nhiều tiền, như vậy, chẳng phải Phật đã biến thành người tham ô hối lộ chăng? Nếu bạn lạy một lạy, thì Phật bảo hộ bạn, còn nếu bạn không lạy thì Phật không bảo hộ bạn, như vậy, chẳng phải Phật có tâm phân biệt chăng?

Phật rất là bình đẳng, bạn đối với Ngài tốt, Ngài cũng vậy; bạn đối với Ngài không tốt, Ngài cũng vậy. Ngài chẳng vì bạn lạy Ngài một lạy, thì Ngài bảo hộ bạn tất cả đều cát tường như ý. Đây nói thẳng là mắng Phật! Bạn cho rằng Phật cũng tham ô giống như bạn chăng? Đây là sai lầm!

Phật là cảnh giới không thể nghĩ bàn, Phật bảo hộ người thiện, mà chẳng bảo hộ người ác. Do đó có câu: “Đừng làm các điều ác, hãy làm các việc lành”. Nếu bạn cứ làm các điều ác, thì Phật cũng không thể bảo hộ bạn. Song, nói đi rồi nói lại, kỳ thật chẳng phải Phật bảo hộ bạn, mà là chính bạn tự bảo vệ mình. Chính bạn đi trên con đường lành, thì tự nhiên tất cả đều cát tường, gặp hung hoá cát. Chính bạn đi trên con đường ác, thì tự nhiên sẽ nhiều tai nhiều nạn, tất cả không thuận lợi. Cho nên người học Phật đừng có mê tín, đừng có nịnh bợ Phật.

Bấy giờ, trưởng giả Giải Thoát từ tam muội dậy, bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Ta đã nhập xuất môn giải thoát Như Lai vô ngại trang nghiêm.

Lúc đó, trưởng giả Giải Thoát từ tam muội dậy, bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta đã nhập xuất môn giải thoát Như Lai vô ngại trang nghiêm”.
Môn Như Lai vô ngại trang nghiêm, có năm ý nghĩa:

1. Tất cả Như Lai, đều đủ tất cả trang nghiêm.
2. Mỗi mỗi Như Lai, khắp vô ngại với nhau.
3. Tất cả Như Lai trang nghiêm, đều nhập vào thân trưởng giả.
4. Trưởng giả thấy triệt biển Phật mười phương.
5. Trưởng giả trí trì, chẳng lấy làm ngại.

Thiện nam tử! Khi ta nhập xuất môn giải thoát nầy, thì liền thấy thế giới Diêm Phù Đàn Kim Quang Minh ở phương đông, đức Như Lai Long Tự Tại Vương, Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Tỳ Lô Giá Na Tạng làm thượng thủ. 

Lại thấy thế giới Tốc Tật Lực ở phương nam, Như Lai Phổ Hương, Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Tâm Vương làm thượng thủ.

Lại thấy thế giới Hương Quang ở phương tây, Như Lai Tu Di Đăng Vương, Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Vô Ngại Tâm làm thượng thủ.

Lại thấy thế giới Ca Sa Tràng ở phương bắc, Như Lai Bất Khả Hoại Kim Cang, Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Kim Cang Bộ Dũng Mãnh làm thượng thủ. 

Thiện nam tử! Khi ta nhập xuất môn giải thoát nầy, thì liền thấy thế giới Diêm Phù Đàn Kim Quang Minh ở phương đông, có vị Phật Long Tự Tại Vương, đang ở đó thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đạo tràng của Ngài có đại chúng hội vây quanh. Có vị Bồ Tát Tỳ Lô Giá Na Tạng làm thượng thủ pháp hội.

Lại thấy thế giới Tốc Tật Lực ở phương nam, có vị Phật Phổ Hương, đang ở đó thành Chánh Đẳng Chánh Giác, đang ở đó giảng kinh thuyết pháp, giáo hoá chúng sinh, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Có vị Bồ Tát Tâm Vương làm thượng thủ pháp hội.

Lại thấy thế giới Hương Quang ở phương tây, có vị Phật Tu Di Đăng Vương, cũng thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Vô Ngại Tâm làm thượng thủ trong pháp hội.

Lại thấy thế giới Ca Sa Tràng ở phương bắc, có vị Phật Bất Khả Hoại Kim Cang, đang ở đó thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Kim Cang Bộ Dũng Mãnh làm thượng thủ trong pháp hội.

Lại thấy thế giới Nhất Thiết Thượng Diệu Bảo ở phương đông bắc, Như Lai Vô Sở Đắc Cảnh Giới Nhãn, Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Vô Sở Đắc Thiện Biến Hoá làm thượng thủ. 

Lại thấy thế giới Hương Diệm Quang Âm ở phương đông nam, Như Lai Hương Đăng, Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Kim Cang Diệm Huệ làm thượng thủ. 

Lại thấy thế giới Trí Huệ Nhựt Phổ Quang Minh ở phương tây nam, Như Lai Pháp Giới Luân Tràng, Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Hiện Nhất Thiết Biến Hoá Tràng làm thượng thủ. 

Lại thấy thế giới Phổ Thanh Tịnh ở phương tây bắc, Như Lai Nhất Thiết Phật Bảo Cao Thắng Tràng, Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Pháp Tràng Vương làm thượng thủ. 

Lại thấy thế giới Phật Thứ Đệ Xuất Hiện Vô Tận ở phương trên, Như Lai Vô Biên Trí Huệ Quang Viên Mãn Tràng, Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Pháp Giới Môn Tràng Vương làm thượng thủ. 

Lại thấy thế giới Phật Quang Minh ở phương dưới, Như Lai Vô Ngại Trí Tràng, Ứng Chánh Đẳng Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Nhất Thiết Thế Gian Sát Trang Vương làm thượng thủ. 

Trưởng giả Giải Thoát lại nói: “Lại thấy thế giới Nhất Thiết Thượng Diệu Bảo ở phương đông bắc, có vị Phật Vô Sở Đắc Cảnh Giới Nhãn, đang ở đó thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trong đạo tràng chúng hội có vô lượng đại chúng vây quanh Ngài. Bồ Tát Vô Sở Đắc Thiện Biến Hoá làm thượng thủ trong pháp hội.

Lại thấy thế giới Hương Diệm Quang Âm ở phương đông nam, có vị Phật Hương Đăng, đang ở đó thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Kim Cang Diệm Huệ làm thượng thủ trong pháp hội.

Lại thấy thế giới Trí Huệ Nhựt Phổ Quang Minh ở phương tây nam, có vị Phật Pháp Giới Luân Tràng, đang ở đó thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Hiện Nhất Thiết Biến Hoá Tràng làm thượng thủ trong pháp hội.

Lại thấy thế giới Phổ Thanh Tịnh ở phương tây bắc, có vị Phật Nhất Thiết Phật Bảo Cao Thắng Tràng, đang ở đó thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Pháp Tràng Vương làm thượng thủ trong pháp hội.

Lại thấy thế giới Phật Thứ Đệ Xuất Hiện Vô Tận ở phương trên, có vị Phật Vô Biên Trí Huệ Quang Viên Mãn Tràng, đang ở đó thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Pháp Giới Môn Tràng Vương làm thượng thủ trong pháp hội.

Lại thấy thế giới Phật Quang Minh ở phương dưới, có vị Phật Vô Ngại Trí Tràng, đang ở đó thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Nhất Thiết Thế Gian Sát Trang Vương làm thượng thủ trong pháp hội đại chúng.

Thiện nam tử! Ta thấy mười phương như vậy, mỗi phương đều có các Như Lai, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật. Các Như Lai đó chẳng đi đến đây, ta cũng chẳng đến đó.

Thiện nam tử! Ta nhìn thấy mười phương như vậy, mỗi phương đều có các Như Lai nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật. Các Như Lai đó chẳng đi đến đây, ta cũng chẳng đến thế giới của đức Phật đó, vì thể tướng chẳng đến đi, chỉ tâm thấy.

Nếu ta muốn thấy thế giới An Lạc của A Di Đà Như Lai, thì tuỳ ý liền thấy. Nếu ta muốn thấy thế giới Chiên Đàn của Kim Cang Quang Minh Như Lai. Thế giới Diệu Hương của Bảo Quang Minh Như Lai. Thế giới Liên Hoa của Bảo Liên Hoa Quang Minh Như Lai. Thế giới Diệu Kim của Tịch Tĩnh Quang Như Lai. Thế giới Diệu Hỉ của Bất Động Như Lai. Thế giới Thiện Trụ của Sư Tử Như Lai. Thế giới Kính Quang Minh của Nguyệt Giác Như Lai. Thế giới Bảo Sư Tử Trang Nghiêm của Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Tất cả như vậy, thảy đều liền thấy được.

Tuy nhiên Phật cũng chẳng đến đây, mà ta cũng chẳng đến thế giới của các đức Phật đó, nhưng đó đây thấy nhau rõ ràng, chẳng có tơ hào chướng ngại. Nếu ta muốn thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, thì chỉ cần tác ý, tuỳ tâm tưởng, thì liền thấy ngay. Nếu ta muốn thấy thế giới Chiên Đàn của đức Phật Kim Cang Quang Minh. Thế giới Diệu Hương của đức Phật Bảo Quang Minh. Thế giới Liên Hoa của đức Phật Bảo Liên Hoa Quang Minh. Thế giới Diệu Kim của đức Phật Tịch Tĩnh Quang. Thế giới Diệu Hỉ của đức Phật Bất Động. Thế giới Thiện Trụ của đức Phật Sư Tử. Thế giới Kính Quang Minh của đức Phật Nguyệt Giác. Thế giới Bảo Sư Tử Trang Nghiêm của đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Tất cả chư  Phật như vậy, thảy đều liền thấy ngay.
Do đó trong Kinh có câu:

“Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo”.

Đây tức là nói rõ tâm tức Phật.
Lại trong Kinh có nói:

“Như tâm Phật cũng thế
Như Phật chúng sinh vậy
Nên biết Phật với tâm
Thể tánh đều vô tận”.

Tức cảnh tức là tâm, tâm tức là Phật. Không cảnh không Phật vậy!

Các đức Như Lai đó chẳng đến đây, thân ta cũng chẳng đi đến đó. Biết tất cả chư Phật với tâm ta thảy đều như mộng. Biết tất cả chư Phật như hình bóng, tâm mình như nước. Biết hết thảy sắc tướng của tất cả chư Phật với tâm mình, thảy đều như huyễn. Biết tất cả chư Phật với tâm mình, thảy đều như vang. Ta biết như vậy, nghĩ nhớ như vậy, hết thảy chư Phật đều do tâm mình.

Các đức Như Lai đó cũng chẳng đến chỗ ta, mà thân ta cũng chẳng đi đến chỗ các đức Phật đó. Ta biết tất cả chư Phật với tâm ta thảy đều như mộng, chỉ là một thứ cảnh giới, không chân thật, như huyễn, như hoá. Lại biết tất cả chư Phật giống như hình bóng, tâm mình như nước. Do đó có câu:

“Phật pháp thanh lương nguyệt
Thường du tất kính không
Chúng sinh tâm cấu tịnh
Bồ đề ảnh hiện trung”.

Lại biết hết thảy sắc tướng của tất cả chư Phật với tâm mình, thảy đều như huyễn, chẳng tồn tại. Đây là ví dụ đạo lý không có vô ngại. Lại biết tất cả chư Phật với tâm mình, thảy đều như tiếng vang, đó đây cảm ứng đạo giao. Do đó có câu: “Dùng tâm làm duyên, mà Phật vang ứng, Phật không phân biệt. Dùng Phật làm duyên, mà tâm thấy Phật, tâm đi đến đâu”. Ta biết như vậy, nghĩ nhớ như vậy, mà thấy tất cả chư Phật, thảy đều do tâm mình mà hiện ra.

Thiện nam tử! Nên biết Bồ Tát, tu các Phật pháp, tịnh cõi nước chư Phật, tích tập diệu hạnh, điều phục chúng sinh, phát đại thệ nguyện, vào nhất thiết trí, du hí tự tại. Môn giải thoát không thể nghĩ bàn, đắc được Phật bồ đề, hiện đại thần thông. Đi đến khắp tất cả mười phương pháp giới, dùng trí vi tế, vào khắp các kiếp. Tất cả như vậy, đều do tâm mình.

Thiện nam tử! Ông nên biết tất cả Bồ Tát, tu hành tất cả Phật pháp, trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật, tích tập đủ thứ công đức diệu hạnh, dùng đủ thứ oai đức để điều phục hết thảy chúng sinh, đó đều do quá khứ họ đã phát đại thệ nguyện, và hiện tại phát đại thệ nguyện, họ nhập vào môn nhất thiết trí, du hí tự tại, ở tại thế giới nầy chẳng chấp trước, không có gì lưu luyến, chẳng có tư tưởng buông xả chẳng đặng. Đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn, môn giải thoát không thể nghĩ bàn. Họ đắc được Phật bồ đề, hiện ra đại thần thông. Đi đến khắp tất cả mười phương tận hư không khắp pháp giới. Họ dùng trí vi tế, vào khắp các kiếp quá khứ, kiếp hiện tại, và kiếp vị lai. Tất cả đủ thứ như vậy, đều do tâm mình hiện ra.

Bởi vậy thiện nam tử! Nên dùng pháp lành, phù trợ tâm mình. Nên dùng nước pháp, thấm nhuần tâm mình. Nên nơi cảnh giới, tịnh trị tâm mình. Nên dùng tinh tấn, kiên cố tâm mình. Nên dùng nhẫn nhục, san bằng tâm mình. Nên dùng trí chứng, trắng sạch tâm mình. Nên dùng trí huệ, sáng lợi tâm mình. Nên dùng Phật tự tại, khai phát tâm mình. Nên dùng bình đẳng của Phật, rộng lớn tâm mình. Nên dùng mười lực của Phật, chiếu soi tâm mình.

Bởi vậy, thiện nam tử! Ông nên dùng pháp lành “đừng làm các điều ác, hãy làm các việc lành” để phù trợ tâm mình, khiến cho tâm mình tăng trưởng từ bi hỉ xả. Đoạn Kinh văn nầy các vị nên chú ý, chúng ta tu hành nên chiếu theo kinh văn nói mà đi làm. Đây chẳng những chỉ vì Thiện Tài nói, mà là vì các bạn, tôi và họ, những người đang nghe Kinh Hoa Nghiêm mà nói. Người tu đạo nên dùng pháp lành để phù trợ tâm mình.

Nên dùng đạo lý Phật pháp và trí huệ để thấm nhuần tâm mình. Nên dùng tất cả cảnh giới để tịnh trị tâm mình. Phải thọ nhận khi cảnh nghịch đến, đương đầu với tất cả cảnh giới, phải tịnh trị tâm mình, tức cũng là “khắc kỷ phục lễ”, khắc phục được tư dục của chính mình; cách vật chí tri, cách trừ vật dục của chính mình. Nếu chúng ta tịnh trị được tâm mình, thì nhất định sẽ khai ngộ. “Tịnh trị tâm mình”, tức cũng là đừng khởi vọng tưởng, đừng có dục niệm, đừng có tà tri tà kiến, đừng có tự tư tự lợi, phải có tâm đại công vô tư. Nên dùng tinh tấn để kiên cố tâm mình, chúng ta tu đạo phải tinh tấn càng tinh tấn, đừng có tư tưởng thối lùi. Như vậy cần phải có sức lực kiên cố, có hoằng nguyện kim cang bất hoại. Nên dùng pháp môn nhẫn nhục để san bằng tâm mình, phải quang minh lỗi lạc, chẳng có đen tối.

Chúng ta người tu đạo, phải thân thể lực hành để tu pháp môn nhẫn nhục nầy, nhẫn điều mà người khác không nhẫn được, làm điều mà người khác không làm được, nhường cho người điều mà người khác không nhường được. Có người nói : “Hoà thượng! Tôi muốn nhẫn, nhưng khi cảnh giới đến thì tôi không chịu được”. Đó là vì bạn chẳng có công phu, nếu có công phu thì sao lại chẳng chịu được? Tu hành chẳng phải là nói ngoài miệng, phải cung hành thực tiễn. Nên dùng trí huệ chứng được đạo tâm, rửa tâm tịnh lự, chẳng còn chút dơ bẩn nào. Lại nên dùng kiếm bát nhã trí huệ để sáng lợi tâm mình, phá tất cả vô minh, đối với tất cả phiền não, đều có thể nghênh nhận mà giải. Nên dùng Phật tự tại vô ngại để khai phát trí huệ tâm mình. Nên dùng bình đẳng của Phật, để rộng lớn tâm mình.

Chúng ta đừng chỉ biết có mình, mà chẳng biết có người khác. Phải đối với tất cả hết thảy đều bình đẳng, phải chân chánh minh lý, chân chánh đại công vô tư, khiến cho tâm mình rộng lớn vô ngại. Nên dùng mười trí huệ lực của Phật để chiếu soi tâm mình, chẳng khiến cho tâm mình ngu si.

Thiện nam tử! Ta chỉ ở nơi môn giải thoát Như Lai vô ngại trang nghiêm nầy, mà được nhập xuất. Như các đại Bồ Tát được trí vô ngại, trụ hạnh vô ngại, thường thấy được tam muội của tất cả chư Phật, được tam muội chẳng trụ bờ mé Niết Bàn. Thấu đạt cảnh giới tam muội phổ môn. Nơi pháp ba đời, thảy đều bình đẳng. Khéo phân thân khắp tất cả cõi. Trụ nơi cảnh giới bình đẳng của chư Phật. Cảnh giới mười phương thảy đều hiện tiền. Trí huệ quán sát thảy đều thấu rõ. Ở trong thân đều hiện tất cả thế giới thành hoại. Mà nơi thân mình và các thế giới không sinh hai tưởng. Những diệu hạnh như vậy, mà ta làm sao biết được, nói được?

Thiện nam tử! Ta chỉ ở nơi môn giải thoát Như Lai vô ngại trang nghiêm nầy, đã minh bạch, mà được nhập vào tam muội nầy và xuất tam muội nầy. Như tất cả các đại Bồ Tát đắc được trí huệ vô ngại, trụ hạnh vô ngại, đắc được thường thấy tam muội của tất cả chư Phật, đắc được tam muội chẳng trụ bờ mé Niết Bàn. Thấu đạt cảnh giới tam muội phổ môn. Nơi pháp ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, thảy đều bình đẳng. Khéo phân thân khắp tất cả cõi. Trụ nơi cảnh giới bình đẳng của chư Phật. Cảnh giới mười phương thảy đều hiện tiền ở trước mắt. Dùng trí huệ quán sát thảy đều thấu rõ thật tướng của các pháp. Ở trong thân đều hiện tất cả thế giới thành trụ hoại không. Mà nơi bản thân mình và các thế giới không sinh hai tưởng. Những diệu hạnh như vậy, đủ thứ cảnh giới vô ngại của chư Phật Bồ Tát, mà ta làm sao biết được, diễn nói được? Cho nên ngươi hãy đi đến chỗ vị thiện tri thức khác để thưa hỏi, ngươi sẽ được lợi ích rất lớn.

Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam, đến bờ Diêm Phù Đề, có một cõi nước tên là Ma Lợi Già La. Ở đó có vị Tỳ Kheo tên là Hải Tràng, ngươi đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam, đến bờ Diêm Phù Đề, có một cõi nước tên là Ma Lợi Già La. Ở đó có vị Tỳ Kheo tên là Hải Tràng, ngươi đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? Ngài sẽ vì người mà nói.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ trưởng giả Giải Thoát, đi nhiễu bên phải quán sát, tán thán khen ngợi, suy gẫm chiêm ngưỡng, buồn rầu rơi lệ, một lòng nghĩ nhớ, nương thiện tri thức, phụng thờ thiện tri thức, cung kính thiện tri thức, nhờ thiện tri thức mà thấy được nhất thiết trí. Nơi thiện tri thức chẳng sinh trái nghịch. Nơi thiện tri thức tâm không dua dối. Nơi thiện tri thức tâm thường tuỳ thuận. Nơi thiện tri thức khởi tưởng là mẹ hiền, vì xả lìa tất cả pháp vô ích. Nơi thiện tri thức khởi tưởng là cha lành, vì sinh ra tất cả các pháp lành. Rồi từ tạ mà đi.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ trưởng giả Giải Thoát, đi nhiễu bên phải quán sát, tán thán khen ngợi, suy gẫm chiêm ngưỡng, buồn rầu rơi lệ. Lúc đó, Ngài một lòng nghĩ nhớ lời dạy của thiện tri thức rằng: “Ta phải làm thế nào nương theo lời dạy của thiện tri thức mà tu hành? Ta phải làm thế nào để phụng thờ thiện tri thức, để báo đáp ân huệ của thiện tri thức? Ta phải cung kính thiện tri thức. Ta nhờ thiện tri thức mà thấy được nhất thiết trí. Ta ở chỗ thiện tri thức không nên sinh tâm trái nghịch, hoặc lừa gạt thiện tri thức. Những gì ta thọ giáo ở chỗ thiện tri thức, trong tâm cũng không dua nịnh thiện tri thức, không thể nói dối đối với thiện tri thức. Ta đối với thiện tri thức, trong tâm thường tuỳ thuận lời dạy dỗ của thiện tri thức mà tu hành. Ta đối với thiện tri thức, nên sinh khởi tưởng là mẹ hiền, vì xả lìa tất cả pháp ác vô ích, mà tu hành pháp lành. Ta đối với thiện tri thức, nên sinh khởi tưởng là cha lành, vì nương tựa theo thiện tri thức mà sinh ra tất cả các pháp lành”. Lúc đó Thiện Tài đồng tử hướng về trưởng giả Giải Thoát rồi từ tạ mà đi, đi về hướng nam, đi tìm vị thiện tri thức khác.

 

6. TỲ KHEO HẢI TRÀNG PHÓ THÁC THỨ SÁU CHÁNH TÂM TRỤ

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng chánh niệm lời dạy của vị trưởng giả đó. Quán sát lời dạy của vị trưởng giả đó. Nghĩ nhớ môn giải thoát Bồ Tát không nghĩ bàn đó. Suy gẫm Bồ Tát trí quang minh không nghĩ bàn đó. Thâm nhập môn pháp giới không nghĩ bàn đó. Xu hướng môn Bồ Tát vào khắp không nghĩ bàn đó. Thấy rõ Như Lai thần biến không nghĩ bàn đó. Hiểu rõ vào khắp cõi Phật không nghĩ bàn đó. Phân biệt Phật lực trang nghiêm không nghĩ bàn đó. Suy gẫm cảnh giới Bồ Tát tam muội giải thoát phần vị không nghĩ bàn đó. Thấu đạt thế giới rốt ráo vô ngại khác biệt không nghĩ bàn đó. Tu hành thâm tâm Bồ Tát kiên cố không nghĩ bàn đó. Phát khởi Bồ Tát đại nguyện tịnh nghiệp không nghĩ bàn đó.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng chánh niệm quán sát lời dạy của vị trưởng giả Giải Thoát. Lại nghĩ nhớ môn giải thoát Bồ Tát không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại suy gẫm Bồ Tát trí quang minh không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại thâm nhập môn pháp giới không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại xu hướng môn Bồ Tát vào khắp không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại thấy rõ Như Lai thần biến không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại hiểu rõ vào khắp cõi Phật không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại phân biệt Phật lực trang nghiêm không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại suy gẫm cảnh giới Bồ Tát tam muội giải thoát phần vị không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại thấu đạt thế giới rốt ráo vô ngại khác biệt không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại tu hành thâm tâm Bồ Tát kiên cố không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại phát khởi Bồ Tát đại nguyện tịnh nghiệp không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát.
Phó thác chánh tâm trụ, là chỉ Tỳ Kheo Hải Tràng, thành tựu Bát Nhã, thấu rõ pháp tánh là không tịch, là không trụ, không nương, không tà, không chánh. Cho nên dù Ngài nghe khen hay chê, tâm đều bất động.

Từ từ đi về hướng nam, đến bờ Diêm Phù Đề, xóm Ma Lợi Gia, đi khắp tìm kiếm Tỳ Kheo Hải Tràng.

Thiện Tài đồng tử từng bước, từng bước, từ từ đi về hướng nam, đến bờ Diêm Phù Đề, nước Để Đạt Ma Lợi Già La, Ngài bèn đi các nơi tìm kiếm Tỳ Kheo Hải Tràng.

Bèn thấy vị Tỳ Kheo đó, đang ngồi kiết già bên cạnh chỗ đi kinh hành. Đang nhập tam muội, bặc hơi thở, không còn tư lự và cảm giác, toàn thân bất động. 

Thiện Tài đồng tử bèn thấy vị Tỳ Kheo Hải Tràng, đang ngồi kiết già bên cạnh chỗ đi kinh hành, đang nhập tam muội. Lúc đó, Ngài đã bặc hơi thở, không còn thở ra, thở vào nữa, không còn tư lự và cảm giác, thân tâm an lạc như như bất động.

Từ dưới chân Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức vị trưởng giả, cư sĩ, chúng Bà La Môn, đều dùng đủ thứ các đồ trang nghiêm, để trang nghiêm thân họ. Đều đội mũ báu, đỉnh đeo minh châu, qua khắp mười phương tất cả thế giới, mưa xuống tất cả báu, tất cả chuỗi anh lạc, tất cả y phục, tất cả thức ăn uống, thượng vị như pháp. Tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương thoa, tất cả đồ dục lạc tư sanh. Ở tất cả mọi nơi, cứu nhiếp tất cả chúng sinh bần cùng, an ủi tất cả chúng sinh khổ não, đều khiến cho họ hoan hỉ, tâm ý thanh tịnh, thành tựu đạo bồ đề vô thượng.

Từ dưới chân của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức trưởng giả, cư sĩ, chúng Bà La Môn, đều dùng đủ thứ các đồ trang nghiêm, để trang nghiêm thân mình. Trên đầu đều đội mũ báu, trên mũ lại đeo một sợi minh châu. Các vị đó qua khắp mười phương tất cả thế giới, mưa xuống tất cả báu, tất cả chuỗi anh lạc, tất cả y phục, tất cả thức ăn uống, thượng vị như pháp. Lại mưa xuống tất cả hoa, tất cả man, tất cả hương, tất cả hương thoa, tất cả đồ dục lạc tư sanh. Họ ở tất cả mọi nơi, cứu hộ nhiếp thọ tất cả chúng sinh bần cùng, an ủi tất cả chúng sinh khổ não, đều khiến cho họ hoan hỉ, tâm ý thanh tịnh, mà thành tựu đạo bồ đề vô thượng.
Đủ có hai ý nghĩa: 1. Hiển thí hành vạn hạnh. 2. Lại biểu hạnh trụ nghĩa. Trưởng giả, là hạnh trưởng. Cư sĩ, là đắc được an xứ. Bà la môn nghĩa là tịnh hạnh. Thành tựu bồ đề nghĩa là lợi hành.

Từ hai đầu gối của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức chúng Sát Đế Lợi, Bà La Môn, thảy đều thông minh trí huệ. Đủ thứ sắc tướng, đủ thứ thân hình, đủ thứ y phục, tốt đẹp trang nghiêm. Khắp cùng mười phương tất cả thế giới, dùng ái ngữ và đồng sự, nhiếp các chúng sinh. Đó là: Người nghèo thì khiến cho được đầy đủ, người bệnh thì khiến cho được lành, người nguy hiểm thì khiến cho được an, người sợ hãi thì khiến cho hết sợ, người lo khổ đều khiến cho được an vui. Lại dùng phương tiện khuyên bảo, đều khiến cho họ bỏ ác, an trụ pháp lành.  

Từ hai đầu gối của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức chúng Sát Đế Lợi (quý tộc), Bà La Môn, họ thảy đều thông minh có trí huệ. Họ có đủ thứ sắc tướng rất viên mãn. Đủ thứ thân hình cũng rất đẹp đẽ. Đủ thứ y phục đều tốt đẹp trang nghiêm. Họ ở khắp cùng mười phương tất cả thế giới, dùng ái ngữ và đồng sự, để nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Đó là: Người nghèo thì khiến cho được giàu sang. Người bệnh thì khiến cho họ được lành. Người nguy hiểm thì khiến cho được bình an. Người sợ hãi thì khiến cho họ hết sợ. Người lo khổ đều khiến cho họ được được an vui. Sau đó lại dùng pháp môn phương tiện để khuyên bảo, đều khiến cho họ bỏ tà về chánh, cải ác hướng thiện, mà an trụ trong pháp lành.
Hai đầu gối hiện ra Sát Đế Lợi là vì thổ điền đế chủ, khuất thân tự tại. Lại vì hạnh do nơi đầu gối hiện ra tịnh hạnh.

Từ giữa lưng của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô lượng Tiên nhơn đồng với số chúng sinh. Hoặc mặc y phục bằng cỏ, hoặc y phục bằng vỏ cây, đều cầm bình rửa. Oai nghi tịch tĩnh, đi đến khắp cùng mười phương thế giới ở trong hư không, dùng diệu âm của Phật để khen ngợi Phật, diễn nói các pháp. Hoặc nói đạo phạm hạnh thanh tịnh, khiến cho họ tu tập, điều phục các căn. Hoặc nói các pháp đều không tự tánh, khiến cho họ quán sát, phát sinh trí huệ. Hoặc nói ngôn luận quỹ tắc thế gian. Hoặc lại khai thị trí nhất thiết trí, phương tiện xuất yết, khiến cho tuỳ theo thứ lớp, đều tu nghiệp của mình.

Từ giữa lưng của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô lượng Tiên nhơn đồng với số chúng sinh. Họ mặc y phục bằng cỏ, hoặc y phục bằng vỏ cây. Mỗi vị Tiên nhơn đều cầm bình rửa, oai nghi rất nghiêm lệ tịch tĩnh. Họ đi đến khắp cùng mười phương thế giới, ở trong hư không, dùng tám thứ diệu âm (tiếng rất hay, tiếng mềm mại, tiếng hoà thích, tiếng tôn huệ, tiếng chẳng phải người nữ, tiếng chẳng lầm, tiếng sâu xa, tiếng không khan) của Phật để khen ngợi Như Lai, diễn nói các pháp. Hoặc nói làm thế nào tu đạo phạm hạnh thanh tịnh, khiến cho chúng sinh y pháp tu tập, điều phục các căn. Khiến cho con mắt chẳng bị sắc trần lay chuyển, lỗ tai không bị thanh trần lay chuyển, lỗ mũi không bị hương trần lay chuyển, cái lưỡi không bị vị trần lay chuyển, thân không bị xúc trần lay chuyển, ý không bị pháp trần lay chuyển. Điều phục các căn, tức cũng là: “Nhiếp lấy sáu căn, tĩnh niệm liên tục, nhập Tam ma địa, đó là đệ nhứt”. Nhiếp lấy sáu căn, tức là điều phục. Con người có thể chuyển cảnh, mà cảnh không thể chuyển người. Hoặc diễn nói tất cả các pháp, đều không có tự tánh, đều do nhân duyên sinh ra. Do đó có câu:

“Các pháp do duyên sinh
Các pháp do duyên diệt”.

Tức cũng là :

“Nhân duyên sinh ra pháp
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa trung đạo”.

Ngài hay khiến cho chúng sinh quán sát mà ngộ đạo, lãnh thọ được đạo lý tất cả các pháp, đều không tự tánh, mà sinh ra trí huệ chân chánh, khiến cho trí quang hiện tiền. Hoặc nói tất cả ngôn luận thế gian, tất cả quỹ tắc pháp luật thế gian. Hoặc lại vì chúng sinh khai thị trí nhất thiết trí, đạo lý phương tiện xuất ly tam giới, khiến cho chúng sinh tuỳ thuận thứ lớp, đều tuỳ theo căn tánh của mình, đều tu pháp môn của mình. Xem chúng sinh có nhân gì, tu thứ pháp gì. Đều tuỳ theo căn tánh của mình, mà tu đạo nghiệp của mình.
Trên lưng của trưởng giả hiện ra Tiên nhơn, lưng ở dưới tế luân, giữa biển khí, là chỗ hiện ra Tiên.

Từ hai bên hông của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra rồng không thể nghĩ bàn, rồng nữ không thể nghĩ bàn. Thị hiện các thần biến của rồng không thể nghĩ bàn. Đó là: Mưa mây hương không thể nghĩ bàn. Mây hoa không thể nghĩ bàn. Mây tràng hoa không thể nghĩ bàn. Mây lọng không thể nghĩ bàn. Mây phan không thể nghĩ bàn. Mây đồ trang nghiêm báu đẹp không thể nghĩ bàn. Mây đại ma ni báu không thể nghĩ bàn. Mây chuỗi báu không thể nghĩ bàn. Mây toà báu không thể nghĩ bàn. Mây cung điện báu không thể nghĩ bàn. Mây hoa sen báu không thể nghĩ bàn. Mây mũ báu không thể nghĩ bàn. Mây thân trời không thể nghĩ bàn. Mây thể nữ không thể nghĩ bàn. Đều đầy khắp hư không dùng để trang nghiêm. Đầy khắp đạo tràng chư Phật trong tất cả mười phương thế giới, để dâng lên cúng dường. Khiến cho các chúng sinh đều sinh hoan hỉ.

Từ hai bên hông của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra rồng trên trời không thể nghĩ bàn, rồng nữ không thể nghĩ bàn. Lại thị hiện thần thông biến hoá của tất cả các rồng trời không thể nghĩ bàn. Từ có hoá không, từ không hoá có, thần thông biến hoá, diệu dụng vô cùng. Như là: Rồng mưa xuống mây hương không thể nghĩ bàn. Mưa mây hoa không thể nghĩ bàn. Mưa mây tràng hoa không thể nghĩ bàn. Mưa mây lọng báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây phan báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây đồ trang nghiêm báu đẹp không thể nghĩ bàn. Mưa mây đại ma ni báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây chuỗi báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây toà báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây cung điện báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây hoa sen báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây mũ báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây thân trời không thể nghĩ bàn. Mưa mây thể nữ không thể nghĩ bàn. Đử thứ mây như vậy, đều đầy khắp hư không để trang nghiêm đạo tràng. Đầy khắp cùng đạo tràng chư Phật trong tất cả mười phương thế giới để dâng lên cúng dường. Khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh hoan hỉ.
Từ hai bên hông hiện ra các rồng, là vì loài rồng thuộc về bàng sanh.

Từ trong tướng chữ vạn trước ngực, hiện ra vô số trăm ngàn ức A Tu La Vương, thảy đều thị hiện sức huyễn tự tại không thể nghĩ bàn, khiến cho trăm thế giới đều đại chấn động. Tất cả nước biển tự nhiên sôi trào. Tất cả núi chúa hổ tương xung kích. Cung điện chư Thiên đều lay động. Quang minh chúng ma đều bị che lấp. Binh chúng các ma đều bị thôi phục. Khiến khắp chúng sinh xả bỏ tâm kiêu mạn, trừ diệt tâm nộ hại. Phá núi phiền não, dứt các pháp ác, nuôi lớn tâm không đấu tranh, vĩnh viễn cùng hoà thiện. Lại dùng sức huyễn khai ngộ chúng sinh, khiến diệt tội ác. Khiến sợ sinh tử. Khiến thoát các cõi. Khiến lìa nhiễm trước. Khiến trụ tâm vô thượng bồ đề. Khiến tu tất cả các hạnh Bồ Tát. Khiến trụ tất cả các Ba La Mật. Khiến vào tất cả các địa Bồ Tát. Khiến quán tất cả pháp môn vi diệu. Khiến biết tất cả phương tiện chư Phật. Những việc làm như vậy, đầy khắp pháp giới.

Từ trong tướng chữ vạn trước ngực của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức A Tu La Vương. Họ đều thị hiện sức thần thông huyễn hoá tự tại không thể nghĩ bàn, khiến cho trăm thế giới đều phát sinh đại chấn động. Tất cả nước biển tự nhiên sôi trào lên. Tất cả núi chúa hổ tương xung kích với nhau. Tất cả các cung điện chư Thiên đều lay động. Quang minh của tất cả chúng ma đều ẩn che lấp mất. Tất cả binh chúng các ma đều bị thôi phục, chúng đều bại phục mà bỏ chạy, hoàn toàn đầu hàng. Lại khiến cho hết thảy chúng sinh xả bỏ tâm kiêu mạn, trừ diệt tâm nộ hại người khác. Phá trừ núi lớn phiền não, dứt trừ các pháp ác, nuôi lớn tâm không đấu tranh, lúc nào cũng dùng thái độ hoà thiện, để đối đãi tất cả chúng sinh. Lại dùng sức huyễn hoá, khiến cho tất cả chúng sinh đều khai ngộ, khiến cho chúng sinh diệt trừ tội ác, mà sinh ra tâm sợ hãi sinh tử. Khiến cho tất cả chúng sinh bỏ mê về giác, thoát khỏi tất cả các cõi ác. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi hết thảy pháp nhiễm ô và chấp trước pháp. Khiến cho tất cả chúng sinh đều trụ tâm vô thượng bồ đề. Khiến cho tất cả chúng sinh đều tu tất cả các hạnh Bồ Tát. Khiến cho tất cả chúng sinh đều trụ tất cả các Ba La Mật đến bờ kia. Khiến cho chúng sinh vào tất cả các quả vị chứng được của các Bồ Tát. Lại khiến cho chúng sinh quán tất cả pháp môn vi diệu của Phật. Khiến cho tất cả chúng sinh biết tất cả pháp môn phương tiện của chư Phật. Những cảnh giới làm như vậy, đều đầy khắp pháp giới.

Đức tướng trước ngực của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra A Tu La, vì ngực là nơi huyễn thuận, hay sinh, hay diệt kiêu mạn, còn là tướng minh đức, hay hàng phục chúng ma.

Từ trên lưng của Tỳ Kheo Hải Tràng, vì người đáng dùng pháp nhị thừa mà được độ, hiện ra vô số trăm ngàn ức Thanh Văn Duyên Giác. Vì người chấp ngã, nói không có ngã. Vì người chấp thường, nói tất cả hạnh đều vô thường. Vì người tham lam, nói quán bất tịnh. Vì người sân hận, nói quán từ tâm. Vì người ngu si, nói quán duyên khởi. Vì người đẳng phần, nói pháp cảnh giới tương ưng với trí huệ. Vì người thích chấp cảnh giới, nói pháp không chỗ có. Vì người thích chấp nơi tịch tĩnh, nói pháp phát đại thệ nguyện, khắp lợi ích tất cả chúng sinh. Những việc như vậy, đầy khắp pháp giới.

Từ trên lưng của Tỳ Kheo Hải Tràng, vì người đáng dùng pháp nhị thừa mà được độ, thị hiện ra vô số trăm ngàn ức Thanh Văn và Duyên Giác. Vì người chấp trước ngã kiến, thì nói pháp vốn không có ngã. Vì người chấp trước thường kiến, thì nói tất cả hạnh đều vô thường. Cho nên gặp người căn cơ gì thì nói pháp đó. Vì người tâm tham dục nặng không tơ hào nhàm đủ, thì nói quán bất tịnh. Thân thể chúng ta, chín lỗ thường chảy ra đồ bất tịnh: Mắt thường có nghèn, tai thường có cức váy, mũi thường chảy mũi, miệng có nước miếng, lại có tiểu tiện và đại tiện. Chẳng màn bạn yêu thích nó như thế nào, nếu thời gian lâu mà không tắm rửa, thì nó sẽ toả ra mùi hôi. Thân thể con người thường toả ra mùi hôi, là vì họ chẳng giữ giới luật. Bất cứ là người quốc tịch nào, họ ăn cái gì, thì trên thân sẽ có thứ mùi vị đó. Người thích ăn cá, thì trên thân có mùi vị cá. Người thích ăn thịt bò, thì trên thân có mùi vị thịt bò. Người thích ăn thịt heo, thì trên thân có mùi vị thịt heo. Người thích ăn thịt dê, thì trên thân có mùi vị thịt dê. Mỗi thứ đều có mùi vị của nó, ăn gì thì sẽ phối hợp thành một công ty đó. Cho nên ăn thứ gì thì có mùi vị đó.

Nếu thọ giới rồi, ngược lại chẳng giữ giới, thì đời sau thân thể của bạn sẽ hôi, rất hôi dơ, toàn thân đều hôi hám. Ai ngửi được mùi đó, thì sẽ nhàm chán. Cũng giống như người thọ giới, mà chẳng giữ giới, khiến cho một số người đều nhàm chán, là cùng một đạo lý. Cho nên thọ giới rồi, thì nhất định nghiêm trì giới luật, tơ hào không thể huỷ phạm. Đừng có nương Phật mặc y, nương Phật ăn cơm, cứ làm những chuyện phạm giới, nhất là giới dâm. Tham dục ở đây là chỉ tham dâm, biết rõ đó là phạm giới, mà vẫn đi làm. Làm rồi, còn cho rằng người khác không biết. Nhưng đó là tự mình lừa gạt mình, xí đồ bịt tai ăn cắp chuông, là rất sai lầm! Cho nên chúng ta người xuất gia, nhất định phải giữ giới luật. Người giữ giới luật, trên thân thường toả ra một mùi thơm của giới. Dù có bao nhiêu ngày không tắm rửa, cũng không có mùi hôi. Tại sao vậy? Vì giữ giới thanh tịnh. Bạn không cần xịt nước thơm lên trên mình, nó tự nhiên có một mùi thơm, đó là hương giới của sự giữ giới. Bạn không giữ giới, thì có mùi hôi, sẽ đoạ lạc vào ba đường ác, tuy tương lai được tái sinh làm người, trên thân vẫn đầy dẫy mùi hôi. Trên thân phát ra mùi hôi, tức là do không giữ giới luật.

Vì chúng sinh nhiều tham, phải tu quán bất tịnh. Quán thân bất tịnh, chín lỗ thường chảy đồ bất tịnh. Khi chết rồi, thì toàn thân sình lên, lại có gì để tham luyến? Tại sao phải vì cái túi da hôi thối này mà điên đảo? Cho nên người học Phật, đối với điểm nầy phải nhận thức cho rõ ràng, đừng có nhiều tham dục, phải thanh tâm quả dục, rửa sạch vọng tưởng tạp niệm và tất cả ý niệm nhiễm ô. Luôn luôn phải tu quán bất tịnh, đừng chấp trước vào thân thể nầy, mà cứ lo cho nó tốt đẹp. Làm cho nó tốt đẹp là vì cái gì? Chỉ là muốn đi lường gạt người mà thôi. Làm cho nó tốt đẹp có thể hấp dẫn người khác phái, khiến cho người khác phái thích mình. Đây chẳng phải là quá điên đảo chăng? Cho nên phải tu quán bất tịnh, để không còn vì cái túi da hôi thối nầy mà điên đảo.

Vì người sân hận, thích sinh vô minh, nói quán từ tâm. Quán từ tâm, tức là phải có tâm tha thứ đối với tất cả chúng sinh. Bất cứ họ làm việc gì sai, chỉ cần họ sửa đổi, thì nên tha thứ cho họ. Cho nên chúng sinh nhiều sân, phải tu quán từ bi nầy. “Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ”. Muốn giáo hoá chúng sinh ngu si, thậm chí ngu si đến độ cho rằng tất cả sự việc không làm mà có được – không chịu đi làm mà muốn có tiền lương. Không học nghề, mà muốn trở thành nhà phát minh. Không học qua nghề y khoa, mà muốn làm bác sĩ. Đó đều là một lối nghĩ ngu si. Song, lối nghĩ ngu si nhất là nghĩ muốn “Hoa đẹp thường tươi hoài”: Người thích hoa thì muốn hoa ngày nào cũng nở tươi đẹp. Người háo sắc thì muốn vợ, hoặc chồng của mình luôn luôn trẻ trung cường tráng, mãi mãi không già. Đó đều là lỗi nghĩ ngu si. Còn có “Trăng sáng luôn luôn đêm đêm tròn”. Người thích ngắm trăng thì muốn mỗi đêm trăng tròn chiếu sáng. Ánh trăng chiếu soi mặt đất, do đó:

“Nguyệt bổn vô tư chiếu
Dạ dạ độc lãm ngâm”.

Họ muốn ban ngày đều trong sáng, đại địa đầy ánh sáng, cho nên đêm đêm ngắm trăng, là một sự kiện vui nhất của đời người! Lại nghĩ: “Đại địa các suối đều hoá rượu”: Người thích uống rượu, họ ngu si đến độ cứ nghĩ muốn nước của các con suối chảy ra, đều biến thành rượu, họ có thể tha hồ mà đi lấy về uống, muốn uống lúc nào thì đi múc uống. “Trường lâm vô thụ bất diêu tiền”: Người tham tài thì nghĩ ngày ngày làm công, kiếm được ít tiền, thật là khổ! Nếu hết thảy lá cây đều biến thành tiền. Khi tôi cần tiền, đến dưới gốc cây lượm tiền, thì tốt biết bao! Đó đều là  lối nghĩ ngu si. Thậm chí người thích đánh bạc, cũng không mua tờ vé số, mà muốn có tiền. Không làm ruộng, mà muốn thu hoạch. Chẳng có đi học, mà muốn có bằng bác sĩ. Đó đều là si tâm vọng tưởng. Do đó, vì loại chúng sinh nầy mà nói quán duyên khởi, tức là quán nhân duyên. Do đó :

“Các pháp do duyên sanh
Các pháp do duyên diệt”.

“Nhân duyên sinh ra pháp
Ta nói tức là không”.

Vì người tham sân si đồng nhau, thì nói pháp môn cảnh giới tương ưng với trí huệ. Tương ưng với trí huệ, thì chẳng bị ba độc đồng nhau che đậy, mà đắc được trí huệ. Vì người ngu si thích chấp trước cảnh giới, thì nói pháp không chỗ có. Vốn gì cũng chẳng có, sau khi chết rồi, còn chấp trước cái gì? Vì những người tu đạo một mình ở trong thâm sơn cùng cốc, chẳng muốn gặp người, họ chấp trước nơi tịch tĩnh, chỉ muốn làm tự liễu hán, thì lúc đó phải chỉ dẫn họ nói pháp phát đại thệ nguyện, để khắp lợi ích tất cả chúng sinh. Do đó:

“Nương tâm pháp giới
Tu hạnh pháp giới
Vào pháp giới chúng sinh
Thành Phật pháp giới”.

Những việc như vậy, đều đầy khắp pháp giới.

Từ trên lưng hiện ra Thanh Văn Duyên Giác, biểu thị hàng nhị thừa, quay lưng lại đại thừa giáo nghĩa.

Từ hai vai của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức các Dạ Xoa, La Sát Vương. Đủ thứ hình dáng, đủ thứ sắc tướng, hoặc dài, hoặc ngắn, đều đáng sợ hãi. Vô lượng quyến thuộc tự vây quanh. Giữ gìn tất cả chúng sinh hành thiện và các hiền Thánh, Bồ Tát chúng hội. Hoặc hướng chánh trụ và người chánh trụ. Hoặc có lúc hiện làm Thần Chấp Kim Cang. Giữ gìn chư Phật và trụ xứ của Phật. Hoặc khắp giữ gìn tất cả thế gian. Người có sự sợ hãi, khiến cho được an ổn. Người có bệnh tật, khiến cho được lành bệnh. Người có khổ não, khiến cho được lìa khỏi. Người có tội ác, khiến cho họ hối cải. Người có tai nạn, khiến cho tiêu diệt. Lợi ích tất cả chúng sinh như vậy, đều khiến cho họ xả bỏ luân hồi sinh tử, chuyển bánh xe chánh pháp.

Từ hai vai của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức các Dạ Xoa La Sát Vương. Vai hiện ra Dạ Xoa là biểu thị có đại dũng lực đáng sợ, lại có thể phụ giúp giữ gìn Phật pháp gia nghiệp. La Sát có đủ thứ hình dáng khác nhau, có La Sát sinh ra ba đầu, có La Sát trên đầu có mọc ra hai cái sừng, có La Sát trên đầu có ba con mắt. Có La Sát hình thù nhìn rất đáng sợ! Lại có đủ thứ sắc tướng khác nhau, hình thù rất ghê sợ, bạn mà nhìn thấy chúng, thì sợ toát mồ hôi, thậm chí là run lập cập. Có quỷ La Sát cao như cây tre, hoặc cao như khúc gỗ. Tóm lại, tướng mạo của chúng đều khiến cho người sợ hãi. Mỗi một quỷ La Sát, lại dẫn theo vô lượng quyến thuộc vây quanh mình, để giữ gìn tất cả chúng sinh hành thiện, hoặc tất cả hiền Thánh và Bồ Tát chúng hội, vì những vị đó đi trên con đường Phật đạo, hoặc người đã chứng được quả vị Phật, họ thị hiện làm Thần Chấp Kim Cang để giữ gìn chư Phật và đạo tràng trụ xứ của Phật. Hoặc khắp giữ gìn hết thảy chúng sinh tất cả thế gian. Chúng sinh có sự sợ hãi, thì khiến cho được an ổn. Chúng sinh có bệnh tật, thì khiến cho được lành bệnh. Chúng sinh có khổ não, khiến cho được lìa khỏi. Chúng sinh có tội ác, khiến cho họ ăn năn hối cải. Người có tai nạn, thì khiến cho tiêu diệt, tất cả đều được thuận lợi. Những sự việc lợi ích tất cả chúng sinh như vậy, đều khiến cho họ xả bỏ luân hồi sinh tử, mà chuyển bánh xe chánh pháp.

Từ bụng của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức Khẩn Na La Vương. Đều có vô số Khẩn Na La nữ, vây quanh trước sau. Lại hiện ra vô số trăm ngàn ức Càn Thát Bà Vương. Đều có vô số Càn Thát Bà Vương nữ, vây quanh trước sau. Đều tấu lên vô số trăm ngàn thứ nhạc trời, để ca ngâm khen ngợi thật tánh của các pháp. Ca ngâm khen ngợi tất cả chư Phật. Ca ngâm khen ngợi phát bồ đề tâm. Ca ngâm khen ngợi tu Bồ Tát hạnh. Ca ngâm khen ngợi pháp môn tất cả chư Phật thành Chánh Giác. Ca ngâm khen ngợi pháp môn tất cả chư Phật chuyển bánh xe pháp. Ca ngâm khen ngợi pháp môn tất cả chư Phật hiện thần biến. Khai thị diễn nói pháp môn tất cả chư Phật Bát Niết Bàn. Khai thị diễn nói pháp môn giữ gìn tất cả giáo pháp của chư Phật. Khai thị diễn nói pháp môn khiến cho tất cả chúng sinh đều hoan hỉ. Khai thị diễn nói pháp môn nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Khai thị diễn nói pháp môn hiển bày tất cả pháp vi diệu. Khai thị diễn nói pháp môn xả lìa tất cả các chướng ngại. Khai thị diễn nói pháp môn phát sinh tất cả các căn lành. Như vậy khắp cùng mười phương pháp giới.

Từ trong bụng của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức Khẩn Na La Vương. Mỗi vị Khẩn Na La Vương, đều có vô số Khẩn Na La nữ, vây quanh trước sau. Lại hiện ra vô số trăm ngàn ức Càn Thát Bà Vương. Mỗi vị Càn Thát Bà Vương đều có vô số Càn Thát Bà Vương nữ, vây quanh trước sau. Ai nấy đều tấu lên vô số trăm ngàn thứ nhạc trời, để ca ngâm khen ngợi thật tánh của các pháp. Ca tức là ca xướng, ngâm tức là ngâm thơ. Khen ngợi là dùng lời lẽ tốt đẹp để khen ngợi. Các vị ấy ca ngâm khen ngợi tất cả chư Phật thành Chánh Giác. Lại ca ngâm khen ngợi chúng sinh phát bồ đề tâm như thế nào. Lại ca ngâm khen ngợi làm thế nào tu Bồ Tát hạnh. Lại ca ngâm khen ngợi pháp môn tất cả chư Phật làm thế nào thành Chánh Giác. Lại ca ngâm khen ngợi pháp môn tất cả chư Phật sau khi thành Chánh Giác rồi, làm thế nào chuyển bánh xe pháp. Lại ca ngâm khen ngợi pháp môn tất cả chư Phật làm thế nào hiện thần thông biến hoá. Lại khai thị diễn nói pháp môn tất cả chư Phật làm thế nào vào Bát Niết Bàn. Lại khai thị diễn nói pháp môn giữ gìn tất cả giáo pháp của chư Phật. Lại khai thị diễn nói pháp môn, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được đại hoan hỉ. Lại khai thị diễn nói pháp môn, làm thế nào nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Lại khai thị diễn nói pháp môn, hiển bày tất cả pháp vi diệu không thể nghĩ bàn. Lại khai thị diễn nói pháp môn, làm thế nào xả lìa tất cả các phiền não chướng ngại. Lại khai thị diễn nói pháp môn, làm thế nào khiến cho tất cả chúng sinh, phát tâm tu hành tất cả các căn lành. Đủ thứ những sự việc ca ngâm khen ngợi, khai thị diễn nói như vậy, khắp cùng mười phương pháp giới.

Từ trên mặt của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức Chuyển Luân Thánh Vương, đầy đủ bảy báu, bốn binh vây quanh. Phóng quang minh đại xả, mưa xuống vô lượng châu báu. Người nghèo thiếu, đều khiến cho đầy đủ, khiến cho họ vĩnh viễn dứt hẳn hành vi trộm cắp. Có vô số trăm ngàn thể nữ xinh đẹp, đều đem xả thí, tâm không chấp trước. Khiến cho họ vĩnh viễn dứt hạnh tà dâm. Khiến cho họ sinh tâm từ, không giết hại sinh mạng. Khiến cho họ rốt ráo thường nói lời chân thật, không nói lời hư dối vô ích. Khiến cho họ nhiếp lời người khác, không nói lời ly gián. Khiến cho họ nói lời nhu hoà, không nói lời thô ác. Khiến cho họ thường diễn nói nghĩa lý thâm sâu quyết định sáng tỏ, không nói lời lẽ thêu dệt vô nghĩa. Vì họ nói ít dục, khiến trừ tham ái, tâm không dơ bẩn. Vì họ nói đại bi, khiến trừ phẫn nộ, ý được thanh tịnh. Vì họ nói thật nghĩa, khiến cho họ quán sát tất cả các pháp, vào sâu nhân duyên. Khéo rõ đế lý, nhổ gai tà kiến. Phá núi nghi hoặc, tất cả chướng ngại, thảy đều trừ diệt. Việc làm như vậy, đầy khắp pháp giới.

Từ trên mặt của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức Chuyển Luân Thánh Vương. Trên mặt hiện ra luân vương, biểu thị rộng bày thập thiện, khiến cho chúng sinh hướng về Phật pháp. Chuyển Luân Thánh Vương là người có phước bậc nhất thế gian, lúc con người thọ tám vạn bốn ngàn tuổi thì xuất hiện, thống trị bốn thiên hạ, có bốn thứ phước báu:

1. Đại phú, trân bảo, tài vật, ruộng nhà rất nhiều, là bậc nhất thiên hạ.
2. Tướng mạo đoan chánh trang nghiêm, đủ ba mươi hai tướng.
3. Thân thể mạnh khoẻ không bệnh, an ổn khoái lạc.
4. Thọ mạng lâu dài, bậc nhất thiên hạ.

Khi Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện, thì thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc, chẳng có thiên tai nhân hoạ. Đó là do trong đời quá khứ, tu nhiều phước nghiệp, đáng tiếc không tu huệ nghiệp xuất thế, cho nên trở thành đại vương có phước báu thống trị thế gian, mà không thể tu hành ngộ đạo chứng quả.

Mỗi một vị Chuyển Luân Thánh Vương đều có đầy đủ bảy báu, có bốn binh vây quanh. Phóng ra quang minh đại thí xả, mưa xuống vô lượng châu báu, khiến cho người nghèo thiếu, đều được đầy đủ, khiến cho họ vĩnh viễn dứt hẳn hành vi trộm cắp. Lại có vô số trăm ngàn thể nữ xinh đẹp, đều đem xả thí cho hết, mà tâm không có chút chấp trước nào. Không có người thí, không có kẻ nhận, không có vật thí, đó là tam luân thể không. Khiến cho chúng sinh vĩnh viễn dứt hạnh tà dâm. Khiến cho chúng sinh sinh tâm từ, không giết hại sinh mạng kẻ khác. Khiến cho chúng sinh rốt ráo thường nói lời chân thật, không nói lời hư dối vô ích. Khiến cho họ nhiếp lời người khác, không nói lời ly gián. Khiến cho chúng sinh nói lời nhu hoà, không nói lời thô ác. Khiến cho chúng sinh thường diễn nói nghĩa lý thâm sâu quyết định sáng tỏ, không nói lời lẽ thêu dệt vô nghĩa. Vì chúng sinh nói pháp môn ít dục, khiến cho họ trừ khử tham ái, trong tâm không còn cấu bẩn và nhiễm ô. Vì chúng sinh nói pháp đại bi, khiến cho họ tiêu trừ phẫn nộ, thân miệng ý ba nghiệp đều được thanh tịnh. Vì chúng sinh nói nghĩa lý chân thật, khiến cho hết thảy chúng sinh quán sát tất cả các pháp, vào sâu nhân duyên các pháp. Khéo thấu rõ đế lý chân thật, nhổ trừ gai tà kiến, phá núi nghi hoặc đối với chân lý, tất cả chướng ngại, thảy đều trừ diệt hết. Những việc làm như vậy, đều đầy khắp pháp giới.

Từ hai mắt của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức vầng mặt trời, chiếu khắp tất cả các đại địa ngục và các cõi ác, đều khiến cho lìa khổ. Lại chiếu đến tất cả thế giới, khiến cho diệt trừ đen tối. Lại chiếu đến tất cả mười phương chúng sinh, đều khiến cho xả lìa màng chướng ngu si. Ở cõi nước dơ đục, thì phóng quang minh thanh tịnh. Cõi nước bạc trắng, thì phóng quang minh màu vàng ròng. Cõi nước vàng ròng, thì phóng quang minh màu bạc trắng. Cõi nước lưu ly, thì phóng quang minh màu pha lê. Cõi nước pha lê, thì phóng quang minh màu lưu ly. Cõi nước xa cừ, thì phóng quang minh màu mã não. Cõi nước mã não, thì phóng quang minh màu xa cừ. Cõi nước đế thanh, thì phóng quang minh màu nhựt tạng ma ni vương. Cõi nước nhựt tạng ma ni vương, thì phóng quang minh màu đế thanh. Cõi nước xích chân châu, thì phóng quang minh màu nguyệt quang võng tạng ma ni vương. Cõi nước nguyệt quang võng tạng ma ni vương, thì phóng quang minh màu xích chân châu. Cõi nước một báu làm thành, thì phóng quang minh đủ thứ sắc báu. Cõi nước đủ thứ báu làm thành, thì phóng quang minh một sắc báu. Chiếu khắp tâm rừng rậm của các chúng sinh. Biện lý vô lượng sự nghiệp của các chúng sinh, nghiêm sức cảnh giới của tất cả thế gian, khiến cho tâm các chúng sinh được mát mẻ, sinh đại hoan hỉ. Những việc làm như vậy, đầy khắp pháp giới.

Từ hai mắt của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức vầng mặt trời, chiếu sáng khắp tất cả các đại địa ngục và tất cả các cõi ác, đều khiến cho chúng sinh trong cõi ác lìa khổ được vui. Lại chiếu đến tất cả thế giới, khiến cho diệt trừ đen tối. Lại chiếu đến tất cả mười phương chúng sinh, đều khiến cho họ xả lìa màng chướng ngu si. Lại ở cõi nước dơ đục, tức cũng là thế giới Ta Bà mà chúng ta đang sống, thì phóng đại quang minh thanh tịnh. Ở cõi nước bạc trắng, thì phóng quang minh màu vàng ròng. Cõi nước vàng ròng, thì phóng quang minh màu bạc trắng. Cõi nước lưu ly, thì phóng quang minh màu pha lê. Cõi nước pha lê, thì phóng quang minh màu lưu ly. Cõi nước xa cừ, thì phóng quang minh màu mã não. Cõi nước mã não, thì phóng quang minh màu xa cừ. Cõi nước đế thanh, thì phóng quang minh màu nhựt tạng ma ni vương. Cõi nước nhựt tạng ma ni vương, thì phóng quang minh màu đế thanh. Cõi nước xích chân châu, thì phóng quang minh màu nguyệt quang võng tạng ma ni vương. Cõi nước nguyệt quang võng tạng ma ni vương, thì phóng quang minh màu xích chân châu. Cõi nước một báu làm thành, thì phóng quang minh đủ thứ sắc báu. Cõi nước đủ thứ báu làm thành, thì phóng quang minh một sắc báu. Dùng đủ thứ quang minh chiếu soi khắp tâm rừng rậm của tất cả các chúng sinh. Biện lý vô lượng sự nghiệp của tất cả các chúng sinh, nghiêm sức cảnh giới của tất cả thế gian, khiến cho tâm của tất cả các chúng sinh đều được mát mẻ, sinh đại hoan hỉ. Đủ thứ những cảnh giới việc làm như vậy, đều đầy khắp mười phương pháp giới.

Từ trong tướng bạch hào giữa lông mày của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức Đế Thích, đều tự tại nơi cảnh giới. Trên đảnh có ma ni bảo châu, ánh sáng chiếu tất cả cung điện chư Thiên. Chấn động tất cả núi chúa Tu Di, giác ngộ tất cả đại chúng chư Thiên. Khen lực phước đức, nói lực trí huệ, sinh lực an vui, giữ lực chí nguyện, tịnh lực niệm, kiên cố lực phát bồ đề tâm. Khen ngợi ưa thích thấy Phật, khiến cho trừ tham dục thế gian. Khen sự ưa thích nghe pháp, khiến cho nhàm chán cảnh thế gian. Khen ưa thích quán trí, khiến cho dứt hẳn nhiễm thế gian. Ngừng tu chiến tranh của Tu La, dứt phiền não đấu tranh. Diệt tâm sợ chết, phát nguyện trừ ma. Hưng lập chánh pháp núi chúa Tu Di. Thành tựu tất cả sự nghiệp của chúng sinh. Những việc như vậy, khắp cùng pháp giới.

Từ trong tướng bạch hào giữa lông mày của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức trời Đế Thích, tức là Thích Đề Hoàn Nhân, là Thiên chủ cõi trời Ba Mươi Ba. Trong Chú Lăng Nghiêm có nói đến là “Nhân Đà La Gia”, tức Nhân Đà La Vương, đều đắc được tự tại nơi tất cả cảnh giới. Giữa lông mày hiện ra trời Đế Thích, vì Đế Thích ở giữa địa cư thiên, là tối tôn thắng. Đây là biểu thị dùng trung đạo Bát Nhã, hoá đạo chúng sinh, khiến cho họ lìa năm dục, mà đắc được pháp trắng thanh tịnh. Trên đảnh của mỗi vị trời Đế Thích, đều có hạt ma ni bảo châu, ánh sáng chiếu sáng khắp tất cả cung điện chư Thiên. Chấn động tất cả núi chúa Tu Di, giác ngộ tất cả đại chúng chư Thiên, họ đều chẳng nhập định, mà cùng nhau tìm hỏi: “Đó là sự việc gì thế? Sao núi Tu Di lại giao động”?

Quang minh của bảo châu ma ni lại khen ngợi lực phước đức, diễn nói lực trí huệ, khiến cho chúng sinh đều sinh hoan hỉ, mà phát nguyện tu hành. Thanh tịnh lực niệm, trừ đi tất cả vọng tưởng. Họ kiên cố lực phát bồ đề tâm của mỗi chúng sinh. Khen ngợi chúng sinh ưa thích thấy Phật, khiến cho họ trừ khử tham dục, dâm dục và vật dục thế gian. Khen ngợi chúng sinh ưa thích nghe pháp, khiến cho họ nhàm chán cảnh thế gian. Khen ngợi chúng sinh ưa thích diệu quán sát trí, khiến cho họ dứt hẳn pháp ô nhiễm thế gian. Ngừng tư tưởng đấu tranh giống như A Tu La, dứt trừ tất cả phiền não tranh luận. Diệt trừ tâm sợ chết của chúng sinh, mà phát nguyện hàng phục tất cả các ma. Hưng lập đại tràng chánh pháp, cao vời nguy nga như núi chúa Tu Di. Họ thành tựu tất cả sự nghiệp của chúng sinh. Đủ thứ những cảnh giới sự việc như vậy, đều khắp cùng pháp giới.

Từ trên trán của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức Phạm Thiên. Sắc tướng đoan chánh, thế gian không thể sánh bằng. Oai nghi tịch tĩnh, lời nói hay đẹp, khuyến thỉnh Phật thuyết pháp. Khen ngợi công đức của Phật, khiến cho các Bồ Tát thảy đều hoan hỉ. Hay biện lý vô lượng sự nghiệp của chúng sinh, khắp cùng tất cả mười phương thế giới.

Từ trên trán của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức Đại Phạm Thiên Vương. Trên trán hiện Phạm Vương, vì Phạm Vương đã vượt qua dục giới. Hơn nữa trán kế trên lông mày, biểu thị sự thỉnh pháp. Sắc tướng của mỗi vị Phạm Thiên Vương, đều rất đoan chánh trang nghiêm, trên thế gian không ai có thể sánh bằng. Oai nghi của họ rất tịch tĩnh, lời nói rất hay đẹp. Họ khuyến thỉnh Phật vì chúng sinh thuyết pháp. Khen ngợi công đức của Phật, khiến cho các Bồ Tát thảy đều hoan hỉ. Họ hay biện lý vô lượng sự nghiệp của chúng sinh, khắp cùng trong tất cả mười phương thế giới.

Từ trên đầu của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra các chúng Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi vô lượng cõi Phật, đều dùng tướng tốt trang nghiêm thân mình. Phóng ra vô biên quang minh, nói đủ thứ hạnh. Đó là: Khen ngợi bố thí, khiến bỏ xan tham, đắc được các báu đẹp, trang nghiêm thế giới. 

Tán thán khen ngợi công đức trì giới, khiến các chúng sinh vĩnh viễn dứt các điều ác, trụ nơi giới đại từ bi của Bồ Tát. Nói tất cả cõi, đều như mộng. Nói các dục lạc, không có từ vị. Khiến các chúng sinh lìa phiền não ràng buộc. 

Nói sức nhẫn nhục, khiến nơi các pháp tâm được tự tại. Khen thân sắc vàng, khiến các chúng sinh lìa sân hận cấu bẩn. Khởi hạnh đối trị, dứt hẳn đường súc sinh. 

Khen hạnh tinh tấn, khiến họ xa lìa phóng dật thế gian, đều siêng tu vô lượng diệu pháp. 

Lại vì họ khen ngợi thiền Ba La Mật, khiến cho họ tất cả tâm được tự tại. 

Lại vì họ diễn nói Bát Nhã Ba La Mật, khai thị chánh kiến, khiến cho các chúng sinh ưa thích tự tại trí, nhổ các kiến độc. 

Lại vì họ diễn nói đủ thứ việc làm tuỳ thuận thế gian, khiến các chúng sinh tuy lìa sinh tử, mà nơi các cõi tự tại thọ sinh. 

Lại vì họ thị hiện thần thông biến hoá, nói thọ mạng tự tại, khiến các chúng sinh phát đại thệ nguyện. 

Lại vì họ diễn nói thành tựu sức tổng trì, sinh ra sức đại nguyện, sức tịnh trị tam muội, sức tự tại thọ sinh. 

Lại vì họ diễn nói đủ thứ các trí huệ, đó là: Trí biết khắp các căn của chúng sinh, trí biết khắp tất cả tâm hạnh, trí biết khắp mười lực của Như Lai, trí biết khắp tự tại của chư Phật.

Những việc như vậy, khắp cùng pháp giới.

Từ trên đầu của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra các chúng Bồ Tát nhiều như số hạt bụi vô lượng cõi Phật. Mỗi vị Bồ Tát đều dùng ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm thân mình. Phóng ra vô biên quang minh, diễn nói đủ thứ hạnh. Đầu hiện ra Bồ Tát, là vì Bồ Tát là tối thượng thủ. Sau đây diễn nói về hạnh mười độ của Bồ Tát. Đó là:

1. Khen ngợi hạnh bố thí, khiến cho tất cả chúng sinh lìa bỏ xan tham, đắc được các diệu báu, để trang nghiêm thế giới.

2. Tán thán khen ngợi công đức trì giới, khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn dứt các điều ác. Do đó: “Đừng làm các điều ác, hãy làm các việc lành”, trụ nơi giới đại từ bi của Bồ Tát. Nói tất cả tam giới hai mươi lăm cõi, đều như mộng huyễn bọt bóng. Nói các dục lạc, đều không có từ vị, khiến cho hết thảy chúng sinh lìa khỏi phiền não ràng buộc, mà được tự tại.

3. Lại vì tất cả chúng sinh diễn nói pháp môn nhẫn nhục, khiến cho các chúng sinh nơi các pháp tâm được tự tại. Lại khen ngợi thân sắc vàng của Phật, khiến cho các chúng sinh lìa sân hận cấu bẩn. Lại phát khởi hạnh đối trị, ví như chúng sinh nhiều sân, thì dạy họ tu quán từ bi, sẽ dứt hẳn đoạ lạc vào con đường súc sinh.

4. Khen hạnh tinh tấn, khiến cho tất cả chúng sinh xa lìa sự phóng dật của thế gian, đều siêng tu vô lượng diệu pháp.

5. Lại vì họ khen ngợi thiền định Ba La Mật, khiến cho hết thảy chúng sinh tâm đều được tự tại.

6. Lại vì họ diễn nói Bát Nhã Ba La Mật, khai thị chánh tri chánh kiến, khiến cho các chúng sinh hoan hỉ tự tại trí huệ, nhổ trừ ác độc tất cả tà tri tà kiến.

7. Lại vì họ diễn nói cảnh giới đủ thứ việc làm tuỳ thuận thế gian, khiến cho tất cả chúng sinh tuy lìa sinh tử, mà ở trong các cõi tự tại thọ sinh.

8. Lại vì họ thị hiện thần thông biến hoá, diễn nói thọ mạng tự tại, khiến cho tất cả chúng sinh phát đại thệ nguyện Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

9. Lại vì họ diễn nói thành tựu sức tổng trì Đà La Ni, hay sinh ra sức đại nguyện, sức tịnh trị tam muội, sức tự tại thọ sinh.

10. Lại vì họ diễn nói đủ thứ các trí huệ, đó là: Trí huệ biết khắp các căn của tất cả chúng sinh, trí huệ biết khắp tất cả tâm hạnh của tất cả chúng sinh, trí huệ biết khắp mười lực của Như Lai, trí biết khắp tự tại của chư Phật. Những việc như vậy, đều khắp cùng pháp giới.

Từ trên đỉnh của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức thân Như Lai, thân đó không gì sánh bằng. Các tướng vẻ đẹp, thanh tịnh trang nghiêm, oai quang rực rỡ như núi vàng thật. Vô lượng quang minh, chiếu khắp mười phương, vang diệu âm thanh, đầy khắp pháp giới. Thị hiện vô lượng sức đại thần thông, vì tất cả thế gian khắp mưa pháp vũ.

Từ trên đỉnh của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức pháp thân Như Lai. Trên đỉnh hiện ra Phật, biểu thị Phật vô thượng nhất. Mỗi pháp thân của Như Lai, đều không gì sánh bằng, đều đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, thanh tịnh trang nghiêm, oai quang rực rỡ như núi vàng thật. Phóng ra vô lượng quang minh, chiếu khắp mười phương pháp giới. Lại vang âm thanh vi diệu, đầy khắp pháp giới. Lại thị hiện vô lượng sức đại thần thông, vì tất cả thế gian khắp mưa pháp vũ, thấm nhuần hết thảy chúng sinh.

Đó là: Vì các Bồ Tát ngồi Bồ đề đạo tràng, khắp mưa pháp vũ biết bình đẳng. Vì các Bồ Tát bậc quán đảnh, mưa pháp vũ nhập phổ môn. Vì các Bồ Tát bậc Pháp Vương tử, mưa pháp vũ khắp trang nghiêm. Vì các Bồ Tát bậc đồng tử, mưa pháp vũ núi kiên cố. Vì các Bồ Tát bậc bất thối, mưa pháp vũ hải tạng. Vì các Bồ Tát bậc thành tựu chánh tâm, mưa pháp vũ khắp cảnh giới. Vì các Bồ Tát bậc phương tiện đầy đủ, mưa pháp vũ tự tánh môn. Vì các Bồ Tát bậc sinh quý, mưa pháp vũ tuỳ thuận thế gian. Vì các Bồ Tát bậc tu hành, mưa pháp vũ khắp thương xót. Vì các Bồ Tát mới học, mưa pháp vũ tích tập tạng. Vì các Bồ Tát mới phát tâm, mưa pháp vũ nhiếp chúng sinh. Vì các Bồ Tát tin hiểu, mưa pháp vũ cảnh giới vô tận khắp hiện tiền.

Đó là: Vì các Bồ Tát ngồi Bồ đề đạo tràng, khắp mưa pháp vũ biết tất cả chúng sinh bình đẳng. Pháp vũ khắp biết bình đẳng có ba ý nghĩa:

1. Thuỷ giác là đồng bổn, chẳng có sự phân biệt thuỷ bổn.
2. Đồng chư Phật.
3. Chúng sinh và Phật là một tánh.

Lại vì các Bồ Tát bậc quán đảnh (tức trụ thứ mười trong thập trụ), mưa pháp vũ nhập phổ môn. Phổ môn tức ba đời đồng mười thứ trí huệ. Khuyên Bồ Tát đó trụ nơi bậc quán đảnh, bèn thắng tấn tu. Lại vì các Bồ Tát bậc Pháp Vương tử (trụ thứ chín), mưa pháp vũ khắp trang nghiêm. Trụ nơi bậc Pháp Vương tử, là Bồ Tát sắp thành Phật, khiến cho các Ngài học tập khéo léo nơi an lập của bậc Pháp Vương, mà tự trang nghiêm. Lại vì các Bồ Tát bậc đồng tử (trụ thứ tám), mưa pháp vũ núi kiên cố, khiến cho các Ngài học tập biết cõi động, đều không thể hoại, như núi cao nhất. Lại vì các Bồ Tát bậc bất thối (trụ thứ bảy), mưa pháp vũ hải tạng, khiến cho các Ngài học tập một tức là nhiều, nhiều tức là một, mười thứ diệu pháp rộng lớn thâm sâu. Lại vì các Bồ Tát bậc thành tựu chánh tâm (trụ thứ sáu), mưa pháp vũ khắp cảnh giới, khiến cho các Ngài học tập tất cả pháp đều không tướng, không thể, tức tất cả đều bình đẳng. Lại vì các Bồ Tát bậc phương tiện đầy đủ (trụ thứ năm), mưa pháp vũ tự tánh môn, khiến cho các Ngài biết chúng sinh vô biên, cho đến biết chúng sinh không tự tánh, đều là tự tánh môn, mà dùng vô biên đồng vào tự tánh. Lại vì các Bồ Tát bậc sinh quý (trụ thứ tư), mưa pháp vũ tuỳ thuận thế gian, khiến cho các Ngài biết rõ Phật pháp viên mãn ba đời, đều là tuỳ thuận thế gian. Lại vì các Bồ Tát bậc tu hành (trụ thứ ba), mưa pháp vũ khắp thương xót, khiến cho các Ngài quán sát khắp cõi chúng sinh, mà sinh tâm thương xót. Lại vì các Bồ Tát mới học (trụ thứ hai trị địa), mưa pháp vũ tích tập tạng, khiến cho các Ngài tụng tập đa văn, hư nhàn tịch tĩnh, gần gũi thiện tri thức, đều tích tập hàm tàng, mà nơi pháp tu hành, để trị tâm địa. Lại vì các Bồ Tát mới phát tâm (trụ thứ nhất), mưa pháp vũ nhiếp thọ chúng sinh, khiến cho các Ngài siêng cúng dường Phật, chủ đạo thế gian, mà nhiếp thọ chúng sinh. Lại vì các Bồ Tát tin hiểu (tức bậc thập tín), mưa pháp vũ cảnh giới vô tận khắp hiện tiền, khiến cho các Ngài khắp duyên cảnh giới vô tận của Như Lai và Phổ Hiền, mà sinh tín tâm, phân minh hiện tiền, mà tiến tu vào các bậc.

Vì các chúng sinh cõi sắc, mưa pháp vũ phổ môn. Vì các Phạm Thiên, mưa pháp vũ phổ tạng. Vì các trời Tự Tại, mưa pháp vũ sinh lực. Vì các chúng ma, mưa pháp vũ tâm tràng. Vì các trời Hoá Lạc, mưa pháp vũ tịnh niệm. Vì các trời Đâu Suất, mưa pháp vũ sinh ý. Vì các trời Dạ Ma, mưa pháp vũ hoan hỉ. Vì các trời Đao Lợi, mưa pháp vũ mau trang nghiêm cõi hư không. Vì các Dạ Xoa Vương, mưa pháp vũ hoan hỉ. Vì các Càn Thát Bà Vương, mưa pháp vũ kim cang luân. Vì các A Tu La Vương, mưa pháp vũ đại cảnh giới. Vì các Ca Lâu La Vương, mưa pháp vũ vô biên quang minh. Vì các Khẩn Na La Vương, mưa pháp vũ tất cả thế gian thù thắng trí. Vì các ông vua, mưa pháp vũ không thích chấp trước. Vì các Long Vương, mưa pháp vũ hoan hỉ tràng. Vì Ma Hầu La Già Vương, mưa pháp vũ đại hưu tức. Vì các chúng sinh địa ngục, mưa pháp vũ chánh niệm trang nghiêm. Vì các súc sinh, mưa pháp vũ trí huệ tạng. Vì cõi Diêm La Vương, mưa pháp vũ vô uý. Vì các chúng sinh nơi hiểm nạn, mưa pháp vũ khắp an ủi. Đều khiến cho họ được vào chúng hội hiền Thánh. Những việc như vậy, đầy khắp pháp giới.

1. Tỳ Kheo Hải Tràng lại vì các chúng sinh cõi sắc, mưa pháp vũ phổ môn, khiến cho họ xả bỏ ngoại duyên, mà hồi quang phản chiếu, đắc được tâm cảnh vô ngại.

2. Lại vì các Phạm Thiên (tức trời sơ thiền), mưa pháp vũ phổ tạng, vì họ vốn tích tập nhiều từ bi, nhưng luyến ái quyến thuộc của mình. Hiện khiến cho họ từ bi tất cả, hàm chứa phước vô cùng.

3. Lại vì các trời Tự Tại (tức Tha Hoá Tự Tại), mưa pháp vũ sinh lực, khiến cho họ chuyển thế vô ngại, sinh mười lực tự tại.

4. Lại vì các chúng ma (tức từ trong trời Tha Hoá, phân ra chúng ma), mưa pháp vũ tâm tràng, vì ma hoan hỉ tự cao, hiện khiến cho họ đắc được tâm từ pháp tràng, diệt trừ tâm tà mạn của họ.

5. Lại vì các trời Hoá Lạc, mưa pháp vũ tịnh niệm. Vì tuy họ tuỳ niệm hoá lạc, nhưng ô nhiễm tự tâm, cho nên khiến cho họ chuyển nhiễm niệm thành tịnh niệm.

6. Lại vì các trời Đâu Suất, mưa pháp vũ sinh ý. Họ tuy nơi thế lạc đắc được đầy đủ, nhưng nên sinh ý xuất thế.

7. Lại vì các trời Dạ Ma, mưa pháp vũ hoan hỉ. Vì thế lạc thời phần tuy khen vui, nhưng chẳng bằng niềm vui của pháp.

8. Lại vì các trời Đao Lợi, mưa pháp vũ mau trang nghiêm cõi hư không. Vì địa cư thiên tuy cho rằng địa cư thiên là thù thắng, vẫn chẳng bằng phước đức trí huệ, không tịch trang nghiêm pháp tánh.

9. Lại vì các Dạ Xoa Vương, mưa pháp vũ hoan hỉ. Vì Dạ Xoa tánh tình rất tàn bạo, nay dùng phương pháp đối, khiến cho chúng sinh tâm hoan hỉ.

10. Lại vì các Càn Thát Bà Vương, mưa pháp vũ kim cang luân. Vì chúng khéo tấu âm nhạc. Thượng đức thanh văn, cũng vì thôi hoại. Hiện khiến cho chúng được trí kim cang, tức không gì mà không thôi phá được, không gì mà không viên mãn.

11. Lại vì các A Tu La Vương, mưa pháp vũ đại cảnh giới. Vì A Tu La cậy mình thân lớn mà sinh tâm kiêu mạn, hiện khiến cho chúng thấy được pháp thân, mà khen ngợi cảnh giới của pháp giới.

12. Lại vì các Ca Lâu La Vương, mưa pháp vũ vô biên quang minh. Vì khi chúng dùng mắt tịnh quán sát biển, thì ý muốn bắt rồng làm thức ăn. Hiện khiến cho họ dùng mắt từ trí quang, khắp chiếu cơ cảm.

13. Lại vì các Khẩn Na La Vương, mưa pháp vũ tất cả thế gian thù thắng trí, tuỳ thuận chúng khéo ca xướng, mà khiến cho chúng đắc được thế trí thù thắng tức không bộ hữu.

14. Lại vì các ông vua, mưa pháp vũ không thích chấp trước. Vì nhân vương chấp trước dục lạc thế gian, hiện dùng pháp đối trị mà khiến cho họ không thích chấp trước.

15. Lại vì các Long Vương, mưa pháp vũ hoan hỉ tràng. Vì Long Vương sân độc, nên vì chúng nói hoan hỉ. Lại vì chúng có sự sợ khổ cát nóng, mà nói pháp tràng, khiến cho chúng diệt trừ khổ của chúng.

16. Lại vì Ma Hầu La Già Vương, mưa pháp vũ đại hưu tức. Vì mãng xà nhiều độc hại, lại bị trùng ăn thịt mà không ngừng nghỉ. Nên vì chúng nói pháp bên trong dừng tâm độc, thì khổ bên ngoài sẽ dừng lại.

17. Lại vì các chúng sinh địa ngục, mưa pháp vũ chánh niệm trang nghiêm. Vì chúng sinh địa ngục, thân thọ vô biên khổ, tâm niệm vô biên ác. Nếu dùng chánh niệm Tam Bảo để trang nghiêm, thì sớm sẽ thoát khỏi các khổ.

18. Lại vì các súc sinh, mưa pháp vũ trí huệ tạng. Vì súc sinh nhiều ngu si.

19. Lại vì cõi Diêm La Vương, mưa pháp vũ vô uý. Vì quỷ tốt Diệm Ma đều hổ tương sợ hãi, mới sinh thân vương, cũng có sợ sắt nóng cột đồng chảy.

20. Lại vì các chúng sinh nơi hiểm nạn, mưa pháp vũ khắp an ủi. Các nạn tức là tám nạn, cùng với ngục tù địa ngục nhân gian các sự khổ thế gian, đều nhiều sự bất an, cho nên khắp mưa pháp vũ an ủi, khiến cho họ được vào chúng hội hiền Thánh và nhập vào dòng pháp tánh của Thánh nhân, để thoát khỏi các xứ nạn đó. Đủ thứ cảnh giới những việc như vậy, đều đầy khắp pháp giới.

Lại nữa, tất cả lỗ chân lông trên thân của Tỳ Kheo Hải Tràng, đều hiện ra lưới quang minh, nhiều như số hạt bụi A tăng kỳ cõi Phật. Mỗi mỗi lưới quang minh, đủ A tăng kỳ sắc tướng, A tăng kỳ trang nghiêm, A tăng kỳ cảnh giới, A tăng kỳ sự nghiệp, đầy khắp mười phương tất cả pháp giới.

Lại nữa, tất cả lỗ chân lông trên thân của Tỳ Kheo Hải Tràng, đều hiện ra lưới quang minh nhiều như số hạt bụi A tăng kỳ cõi Phật. Mỗi mỗi lưới quang minh, đều đầy đủ A tăng kỳ sắc tướng, A tăng kỳ trang nghiêm, A tăng kỳ cảnh giới, A tăng kỳ sự nghiệp, đầy khắp mười phương tất cả pháp giới.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng quán sát Tỳ Kheo Hải Tràng, sinh tâm rất khát ngưỡng. Nghĩ nhớ tam muội giải thoát đó. Suy gẫm Bồ Tát tam muội không nghĩ bàn đó. Suy gẫm biển phương tiện lợi ích chúng sinh không nghĩ bàn đó. Suy gẫm môn vô tác dụng phổ trang nghiêm không nghĩ bàn đó. Suy gẫm trí thanh tịnh trang nghiêm pháp giới đó. Suy gẫm trí thọ Phật gia trì đó. Suy gẫm sinh ra Bồ Tát tự tại lực đó. Suy gẫm Bồ Tát đại nguyện lực kiên cố đó. Suy gẫm Bồ Tát các hạnh lực thêm rộng đó. 

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng quán sát cảnh giới tam muội của Tỳ Kheo Hải Tràng, rất khát ngưỡng đạo đức thần thông của Tỳ Kheo Hải Tràng. Do đó bèn suy gẫm nghĩ nhớ tam muội giải thoát của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm Bồ Tát tam muội không nghĩ bàn của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm biển phương tiện lợi ích chúng sinh không nghĩ bàn của Tỳ Kheo hải Tràng. Lại suy gẫm môn vô tác dụng phổ trang nghiêm không nghĩ bàn của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm trí thanh tịnh trang nghiêm pháp giới của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm trí thọ Phật gia trì của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm sinh ra Bồ Tát tự tại lực của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm Bồ Tát đại nguyện lực kiên cố của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm Bồ Tát các hạnh lực thêm rộng của Tỳ Kheo Hải Tràng.

Thiện Tài đồng tử đứng suy gẫm quán sát như vậy, trải qua một ngày, một đêm, cho đến trải qua bảy ngày, bảy đêm, nửa tháng, một tháng, cho đến sáu tháng. Lại trải qua sáu ngày nữa, qua thời gian nầy rồi, Tỳ Kheo Hải Tràng mới từ tam muội dậy.

Thiện Tài đồng tử đứng suy gẫm quán sát Tỳ Kheo Hải Tràng như vậy, trải qua một ngày một đêm, cho đến trải qua bảy ngày bảy đêm, nửa tháng một tháng, cho đến sáu tháng. Lại trải qua sáu ngày nữa, qua thời gian nầy rồi, Tỳ Kheo Hải Tràng mới từ tam muội dậy.

Sáu tháng sáu ngày, là viên mãn lục độ, trong trụ thứ sáu. Thiện Tài đồng tử nhờ dùng pháp vị tư thần, cho nên đều quên mất thân tâm, chẳng cảm thấy thời gian lâu.

Thiện Tài đồng tử khen rằng: Đức Thánh! Rất đặc biệt ít có, rất là thâm sâu, như tam muội nầy. Rất là rộng lớn, như tam muội nầy. Cảnh giới vô lượng, như tam muội nầy. Thần lực khó nghĩ bàn, như tam muội nầy. Quang minh không gì bằng, như tam muội nầy. Trang nghiêm vô số, như tam muội nầy. Khó chế ngự, như tam muội nầy. Cảnh giới bình đẳng, như tam muội nầy. Chiếu khắp mười phương, như tam muội nầy. Lợi ích vô hạn, như tam muội nầy. Vì có thể diệt trừ vô lượng khổ của tất cả chúng sinh.

Thiện Tài đồng tử khen ngợi rằng: “Đức Thánh! Ngài thật là đặc biệt ít có, rất là đặc thù! Thâm sâu vi diệu, như tam muội nầy. Rộng lớn vô biên, như tam muội nầy. Cảnh giới vô lượng vô số, như tam muội nầy. Thần lực khó nghĩ bàn, như tam muội nầy. Quang minh không gì bằng, như tam muội nầy. Trang nghiêm vô số vô biên, như tam muội nầy. Oai lực khó chế ngự vô địch, như tam muội nầy. Cảnh giới bình đẳng vô ngại, như tam muội nầy. Chiếu khắp mười phương tất cả thế giới, như tam muội nầy. Lợi ích chúng sinh vô hạn lượng, như tam muội nầy. Vì có thể diệt trừ vô lượng khổ của tất cả chúng sinh”.

Đó là : Hay khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ nghèo. Thoát khỏi địa ngục. Khỏi súc sinh. Đóng cửa các xứ nạn. Mở đường trời người. Khiến cho chúng sinh trời người vui thích. Khiến cho chúng sinh vui thích cảnh giới thiền. Khiến cho tăng trưởng vui hữu vi. Hay vì chúng sinh hiển bày an vui thoát ba cõi. Hay vì chúng sinh dẫn phát bồ đề tâm. Hay khiến cho tăng tưởng phước trí hạnh. Hay khiến cho tăng trưởng tâm đại bi. Hay khiến cho sinh khởi sức đại nguyện. Hay khiến cho thấu rõ Bồ Tát đạo. Hay khiến cho trang nghiêm trí rốt ráo. Hay khiến cho nhập vào cảnh giới đại thừa. Hay khiến cho chiếu rõ hạnh Phổ Hiền. Hay khiến cho chứng được Bồ Tát địa trí quang minh. Hay khiến cho thành tựu các hạnh nguyện của tất cả Bồ Tát. Hay khiến cho an trụ trong cảnh giới trí huệ nhất thiết trí. 

Đức Thánh! Tam muội nầy tên là gì?

Thiện Tài đồng tử lại nói: “Như tam muội nầy, hay khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi khổ bần cùng. Thoát khỏi khổ địa ngục. Khỏi khổ súc sinh. Đóng cửa các xứ ác nạn. Mở đường trời người. Khiến cho chúng sinh trời người vui thích. Khiến cho chúng sinh vui thích cảnh giới thiền định. Khiến cho họ tăng trưởng an vui hữu vi, mà chẳng bỏ hữu vi. Hay vì chúng sinh hiển bày an vui thoát khỏi ba cõi. Hay vì chúng sinh an vui dẫn phát bồ đề tâm. Hay khiến cho họ tăng tưởng hạnh phước đức trí huệ. Hay khiến cho họ tăng trưởng tâm đại bi. Hay khiến cho họ sinh khởi sức đại nguyện. Hay khiến cho họ thấu rõ pháp phương tiện Bồ Tát đạo. Hay khiến cho chúng sinh trang nghiêm trí huệ rốt ráo. Hay khiến cho chúng sinh nhập vào cảnh giới đại thừa. Hay khiến cho chúng sinh chiếu rõ hạnh Phổ Hiền. Hay khiến cho chúng sinh chứng được Bồ Tát địa trí huệ quang minh. Hay khiến cho thành tựu các hạnh nguyện của tất cả Bồ Tát tu hành. Hay khiến cho chúng sinh an trụ trong cảnh giới trí huệ nhất thiết trí.

Đức Thánh! Tam muội nầy tên gọi là gì”?

Tỳ Kheo Hải Tràng nói: Thiện nam tử! Tam muội nầy tên là Phổ nhãn xả đắc. Lại tên là Bát Nhã Ba La Mật cảnh giới thanh tịnh quang minh. Lại tên là Phổ trang nghiêm thanh tịnh môn. 

Thiện nam tử! Ta nhờ tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà đắc được tam muội Phổ trang nghiêm thanh tịnh nầy, có trăm vạn A tăng kỳ tam muội.

Tỳ Kheo Hải Tràng nói: “Thiện nam tử! Tam muội nầy tên là Phổ nhãn xả đắc. Lại tên là Bát Nhã Ba La Mật cảnh giới thanh tịnh quang minh. Lại tên là Phổ trang nghiêm thanh tịnh môn.
Thiện nam tử! Ta nhờ tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà đắc được tam muội Phổ trang nghiêm thanh tịnh nầy, có trăm vạn A tăng kỳ tam muội”.

Trí huệ Bát Nhã chiếu rõ tất cả các pháp, cho nên gọi là Phổ nhãn. Tất cả đều vô sở đắc, nên gọi là xả đắc. Nếu có sở đắc, thì không thể tức tịch mà dụng. Dùng vô sở đắc, tức chẳng có gì mà chẳng đắc. Bồ Tát không đắc, thì tâm không quái ngại. Chư Phật không đắc, liền được bồ đề.
Cho nên, Bát Nhã thanh tịnh, tức cảnh giới thanh tịnh, cảnh thanh tịnh, đều là cảnh Bát Nhã.

Thiện Tài đồng tử nói: Đức Thánh! Cảnh giới tam muội nầy, rốt ráo chỉ có vậy sao?

Thiện Tài đồng tử lại nói: Bạch đức Thánh! Cảnh giới tam muội nầy, rốt ráo chỉ có vậy thôi sao?

Tỳ Kheo Hải Tràng nói: Thiện nam tử! Khi nhập vào tam muội nầy, thì biết rõ tất cả thế giới không có chướng ngại. Đi đến tất cả thế giới không có chướng ngại. Vượt qua tất cả thế giới không có chướng ngại. Trang nghiêm tất cả thế giới không có chướng ngại. Tu trị tất cả thế giới không có chướng ngại. Nghiêm tịnh tất cả thế giới không có chướng ngại. 

Tỳ Kheo Hải Tràng nói: “Thiện nam tử! Khi nhập vào tam muội nầy, thì biết rõ tất cả thế giới không chướng ngại. Đi đến tất cả thế giới không chướng ngại. Vượt qua tất cả thế giới không chướng ngại. Trang nghiêm tất cả thế giới không chướng ngại. Tu trị tất cả thế giới không chướng ngại. Trang nghiêm thanh tịnh tất cả thế giới không chướng ngại”. Ở trên đây là biểu thị trong khí thế gian, không có chướng ngại.

Thấy được tất cả chư Phật không có chướng ngại. Quán sát được oai đức rộng lớn của tất cả chư Phật không có chướng ngại. Biết được thần lực tự tại của tất cả chư Phật không có chướng ngại. Chứng được lực rộng lớn của tất cả chư Phật không có chướng ngại. Vào được biển công đức của tất cả chư Phật không có chướng ngại. Thọ trì vô lượng diệu pháp của chư Phật không có chướng ngại. Vào trong tất cả Phật pháp, tu tập diệu hạnh không có chướng ngại. Chứng được trí chuyển pháp luân bình đẳng của tất cả chư Phật không có chướng ngại. Vào biển chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật không có chướng ngại. Quán sát mười phương Phật pháp không có chướng ngại. 

Tỳ Kheo Hải Tràng lại nói: “Thấy được tất cả chư Phật không chướng ngại. Quán sát được oai đức rộng lớn của tất cả chư Phật không chướng ngại. Biết được thần lực tự tại của tất cả chư Phật không chướng ngại. Chứng được lực rộng lớn của tất cả chư Phật không chướng ngại. Vào được biển công đức của tất cả chư Phật không chướng ngại. Thọ trì vô lượng diệu pháp của chư Phật không chướng ngại. Vào trong tất cả Phật pháp, tu tập diệu hạnh không chướng ngại. Chứng được trí huệ chuyển pháp luân, bình đẳng giáo hoá chúng sinh của tất cả chư Phật không chướng ngại. Vào biển chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật không chướng ngại. Quán sát được Phật pháp mười phương không chướng ngại”. Ở trên đây là biểu thị trí chánh giác thế gian, không có chướng ngại.

Đại bi nhiếp thọ chúng sinh mười phương không có chướng ngại. Thường khởi đại bi đầy khắp mười phương không có chướng ngại. Thấy chư Phật mười phương tâm không nhàm đủ không có chướng ngại. Vào biển tất cả chúng sinh không có chướng ngại. Biết biển căn tánh của tất cả chúng sinh không có chướng ngại. Biết các căn khác biệt của tất cả chúng sinh không có chướng ngại. 

Tỳ Kheo Hải Tràng lại nói: “Tam muội nầy hay dùng tâm đại bi để nhiếp thọ chúng sinh mười phương không chướng ngại. Thường khởi đại bi đầy khắp mười phương không chướng ngại. Thấy được chư Phật mười phương tâm không nhàm đủ không chướng ngại. Vào biển tất cả chúng sinh không chướng ngại. Biết biển căn tánh của tất cả chúng sinh không chướng ngại. Biết các căn khác biệt của tất cả chúng sinh không chướng ngại”. Ở trên đây là biểu thị chúng sinh thế gian không có chướng ngại.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết một tam muội Bát Nhã Ba La Mật quang minh nầy. Như các Bồ Tát vào biển trí huệ, tịnh cảnh pháp giới, đạt tất cả cõi, khắp vô lượng cõi. Tổng trì tự tại, tam muội thanh tịnh. Thần thông rộng lớn, biện tài vô tận. Khéo nói các địa, làm chỗ nương tựa của chúng sinh. Mà ta làm sao biết được những diệu hạnh đó, biện được công đức đó, thấu được những hạnh đó, rõ được cảnh giới đó, rốt ráo được nguyện lực đó, vào được yếu môn đó, đạt được sở chứng đó, nói được đạo phần đó, trụ được tam muội đó, thấy được tâm cảnh đó, đắc được hết thảy trí huệ bình đẳng đó?

Tỳ Kheo Hải Tràng nói: “Thiện nam tử! Ta chỉ biết một tam muội Bát Nhã Ba La Mật quang minh nầy. Như các Bồ Tát vào tam muội biển trí huệ, thanh tịnh cảnh pháp giới. Tam muội đạt đến tất cả các cõi, đến khắp vô lượng cõi Phật. Tổng trì tự tại, đắc được tam muội thanh tịnh. Thần thông rộng lớn, tam muội biện tài vô tận. Tam muội khéo diễn nói các địa, giáo hoá chúng sinh, vì chúng sinh làm chỗ nương tựa. Mà ta làm sao biết được đủ thứ những diệu hạnh đó? Làm sao biện được những công đức đó? Làm sao thấu được những hạnh đó? Làm sao rõ được những cảnh giới đó? Làm sao rốt ráo được nguyện lực đó? Làm sao vào được yếu môn đó? Làm sao đạt được những sở chứng đó? Làm sao nói được đạo phần đó? Làm sao trụ được những tam muội đó? Làm sao thấy được tâm cảnh đó? Làm sao đắc được hết thảy những trí huệ bình đẳng đó”?

Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam, có một trụ xứ, tên là Hải Triều. Ở đó có một vườn rừng, tên là Phổ trang nghiêm. Trong vườn rừng đó, có Ưu bà di, tên là Hưu Xả. Ngươi nên đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam, sẽ có một trụ xứ, tên là Hải Triều. Ở đó có một khu vườn rừng, tên là Phổ trang nghiêm. Trong khu vườn rừng đó, có Ưu bà di (nữ cư sĩ), tên là Hưu Xả. Ngươi nên đi đến đó để thưa hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu hành Bồ Tát đạo”?

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Tỳ Kheo Hải Tràng, đắc được thân kiên cố, đắc được diệu pháp tài. Vào sâu cảnh giới, trí huệ thấu triệt. Tam muội chiếu khắp, trụ giải thoát thanh tịnh. Thấy pháp thâm sâu, tâm an trụ các môn thanh tịnh. Trí huệ quang minh, đầy khắp mười phương. Tâm sinh hoan hỉ, vui mừng vô lượng. Năm thể sát đất, đảnh lễ dưới chân Tỳ Kheo Hải Tràng, đi nhiễu vô lượng vòng, cung kính chiêm ngưỡng. Suy gẫm quán sát, ngậm ngùi luyến mộ. Trì danh hiệu Ngài, tưởng dung nhan Ngài, niệm âm thanh Ngài, suy gẫm tam muội và đại nguyện sở hành cảnh giới đó. Thọ được trí huệ quang minh thanh tịnh, rồi từ tạ mà đi.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Tỳ Kheo Hải Tràng, đắc được thân kiên cố, đắc được tài bảo diệu pháp, chứng nhập được cảnh giới thâm sâu. Trí huệ của Ngài thấu triệt, thọ được sức tam muội chiếu soi khắp, mà trụ giải thoát thanh tịnh, thấy được pháp tạng thâm sâu. Tâm an trụ nơi các hạnh môn thanh tịnh, trí huệ quang minh, đầy khắp mười phương.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử tâm sinh đại hoan hỉ, vui mừng vô lượng, năm thể sát đất, đảnh lễ dưới chân Tỳ Kheo Hải Tràng, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, cung kính chiêm ngưỡng, suy gẫm quán sát, ngậm ngùi luyến mộ không muốn lìa xa. Ngài thọ trì danh hiệu Tỳ Kheo Hải Tràng, tưởng dung nhan của Ngài, niệm âm thanh của Ngài, suy gẫm tam muội và đại nguyện sở hành cảnh giới đó, thọ được trí huệ quang minh thanh tịnh chiếu soi. Sau đó, Thiện Tài đồng tử bèn từ tạ Tỳ Kheo Hải Tràng mà đi về hướng nam, đi tìm một vị thiện tri thức khác.

 

KINH HOA NGHIÊM ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

QUYỂN SÁU MƯƠI BỐN

PHẨM VÀO PHÁP GIỚI
THỨ BA MƯƠI CHÍN PHẦN NĂM

 

7. HƯU XẢ ƯU BÀ DI PHÓ THÁC THỨ BẢY BẤT THỐI TRỤ

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử nhờ sức thiện tri thức, nương theo lời dạy thiện tri thức, nhớ lời nói của thiện tri thức. Đối với thiện tri thức thâm tâm mến thích, bèn nghĩ như vầy: Nhờ thiện tri thức, khiến cho tôi được thấy Phật. Nhờ thiện tri thức, khiến cho tôi được nghe pháp. Bậc thiện tri thức là thầy dạy tôi, vì chỉ dẫn cho tôi các Phật pháp. Bậc thiện tri thức là con mắt của tôi, vì khiến cho tôi thấy Phật như hư không. Bậc thiện tri thức là chiếc đò của tôi, vì khiến cho tôi được vào ao sen của chư Phật Như Lai. 

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhờ sức gia bị thiện tri thức Tỳ Kheo Hải Tràng, nương theo lời dạy thiện tri thức để tu hành, thường nhớ lời nói của thiện tri thức không quên. Đối với thiện tri thức trong thâm tâm rất mến thích, bèn nghĩ như vầy: “Nhờ thiện tri thức, mà khiến cho tôi được thấy Phật. Nhờ gần gũi thiện tri thức, mà khiến cho tôi được nghe Phật pháp. Cho nên bậc thiện tri thức là thầy dạy tôi, vì các Ngài chỉ dẫn cho tôi học tập các Phật pháp. Bậc thiện tri thức là con mắt của tôi, vì khiến cho tôi thấy Phật như hư không. Biết hư không là vô tướng, mà Phật cũng như thế. Bậc thiện tri thức là chiếc đò của tôi, vì chỉ dẫn tôi chứng nhập vào ao sen của tất cả chư Phật Như Lai, hoa sen hoá sinh, do đó có câu:

“Chín phẩm hoa sen là cha mẹ,
Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh”.

Thiện Tài đồng tử từ từ đi về hướng nam, đến xứ Hải Triều, thấy vườn Phổ Trang Nghiêm, tường rào bằng các thứ báu bao bọc chung quanh.

Thiện Tài đồng tử từ từ đi về hướng nam, đến xứ Hải Triều, thấy vườn hoa Phổ Trang Nghiêm, tường rào bằng các thứ báu bao bọc chung quanh. Đây là việc trang nghiêm thứ nhất ở trong vườn, tức là các báu bao quanh.

Tất cả cây báu thẳng hàng trang nghiêm. Tất cả cây hoa báu, mưa xuống các hoa đẹp, rải khắp mặt đất. Tất cả cây hương báu, hương thơm ngào ngạt, xông khắp mười phương. Tất cả cây tràng hoa báu, mưa xuống tràng hoa báu lớn, nơi nơi thòng xuống. Tất cả cây ma ni vương báu, mưa xuống đại ma ni báu, đầy dẫy khắp nơi. Tất cả cây y phục báu, mưa xuống đủ thứ y màu sắc, tuỳ theo sở ứng, giăng bày khắp nơi. Tất cả cây âm nhạc, gió động thành tiếng, tiếng đó rất hay, hơn hẳn nhạc trời. Tất cả cây đồ trang nghiêm, đều mưa xuống đồ vật trân ngoạn kỳ diệu, phân bố khắp nơi, dùng để nghiêm sức.

Tất cả các cây báu, đều rất thẳng hàng trang nghiêm. Tất cả cây hoa báu, đều mưa xuống các hoa đẹp, rải khắp mặt đất để nghiêm sức. Tất cả cây hương báu, đều toả ra hương thơm ngào ngạt, xông khắp mười phương pháp giới. Tất cả cây tràng hoa báu, đều mưa xuống tràng hoa báu lớn, từ những nhánh cây nơi nơi thòng xuống. Tất cả cây ma ni vương báu, đều mưa xuống đại ma ni báu, đầy dẫy khắp vườn. Tất cả cây y phục báu, đều mưa xuống đủ thứ y màu sắc, tuỳ theo góc độ khác nhau trong vườn, mà giăng bày khắp nơi. Tất cả cây âm nhạc, gió thổi động thành tiếng nhạc, tiếng nhạc đó rất hay êm tai, hay hơn âm nhạc ở trên trời. Tất cả cây đồ trang nghiêm, đều mưa xuống đồ vật trân ngoạn kỳ diệu, phân bố khắp nơi, dùng để nghiêm sức vườn hoa. Đây là việc trang nghiêm thứ hai, tức rừng cây thẳng hàng.

Mặt đất vườn đó thanh tịnh, không có cao thấp. Trong đó có đủ trăm vạn điện đường, làm bằng đại ma ni báu hợp thành. Có trăm vạn lầu các, vàng Diêm Phù Đàn che phủ phía trên. Có trăm vạn cung điện, báu tỳ lô giá na ma ni xen lẫn trang nghiêm.

Mặt đất vườn Phổ Trang Nghiêm đó rất thanh tịnh, không có sự cao thấp không bằng phẳng. Trong vườn đó, có đủ trăm vạn toà điện đường, đều làm bằng đại ma ni báu hợp thành. Lại có trăm vạn lầu các, trên đỉnh lầu các đó đều làm bằng vàng Diêm Phù Đàn che phủ phía trên, lại có trăm vạn toà cung điện, đều dùng báu tỳ lô giá na ma ni xen lẫn trang nghiêm. Đây là việc trang nghiêm thứ ba, tức cung điệu lầu các nghiêm lệ.

Có một vạn ao tắm, các báu hợp thành. Lan can bằng bảy báu, bao bọc chung quanh. Thềm đường bằng bảy báu, phân bố bốn phía. Nước tám công đức, trong suốt tràn đầy, nước đó hương thơm, như chiên đàn trên trời. Cát vàng rải đáy ao. Thuỷ thanh bảo châu, xen lẫn khắp nơi. Nhiều loại chim đẹp, du ngoạn trong đó, vang tiếng hoà nhã. Cây bảo đa la, khắp nơi thẳng hàng. Lưới báu giăng phủ, thòng xuống các linh vàng. Gió nhẹ thổi động, luôn vang ra tiếng hay. Giăng màn báu lớn. Cây báu chung quanh. Kiến lập vô số tràng ma ni báu, quang minh chiếu khắp trăm ngàn do tuần.

Lại có một vạn ao tắm, đều là các báu hợp thành, đó đều là cảnh giới của Vạn Phật Thành. Lan can làm bằng bảy báu để bao bọc chung quanh. Thềm đường làm bằng bảy báu, phân bố bốn phía. Nước tám công đức, trong suốt tràn đầy ở trong đó.

Nước tám công đức có đủ tám lợi ích:

1. Trong mát.
2. Mát mẻ.
3. Ngon ngọt.
4. Nhẹ nhàng.
5. Thấm nhuần.
6. An hoà.
7. Uống vào trừ khát và tất cả các bệnh hoạn.
8. Tăng ích nuôi lớn căn lành.

Nước tám công đức đó thơm tho như chiên đàn trên trời, là một loại hương chiên đàn rất ít có. Lại có cát vàng rải dưới đáy ao, có thuỷ thanh bảo châu, xen lẫn khắp nơi trong ao. Lại có nhiều loại chim đẹp, du ngoạn ở trong vườn đó, đều hót vang lên tiếng hoà nhã. Lại có cây bảo đa la, bao quanh bốn phía, thẳng hàng ngay ngắn. Lại dùng lưới báu giăng phủ phía trên, có rất nhiều linh bằng vàng thòng xuống, khi gió nhẹ thổi động, luôn vang ra tiếng hay vi diệu. Lại giăng màn báu lớn, có vô số cây báu chung quanh bốn phía. Lại kiến lập vô số tràng ma ni báu, quang minh chiếu khắp trăm ngàn do tuần. Đây là việc trang nghiêm thứ tư, tức là ao hình cong hoa sen xanh.

Trong vườn đó, lại có trăm vạn ao nhỏ, bùn hắc chiên đàn lắng đọng dưới đáy ao. Tất cả báu đẹp, dùng làm hoa sen, nở rộ khắp trên mặt nước. Hoa đại ma ni, ánh sáng chiếu soi.

Trong vườn đó, lại có trăm vạn ao nước nhỏ, hương thơm bùn hắc chiên đàn lắng đọng dưới đáy ao. Có đủ thứ báu đẹp dùng làm hoa sen, đều nở rộ khắp trên mặt nước. Có hoa báu đại ma ni, ánh sáng chiếu soi khắp mười phương. Đây là việc trang nghiêm thứ năm, tức ánh sáng từ ao phát ra.

Trong vườn đó, lại có cung điện rộng lớn, tên là Trang Nghiêm Tràng Hải Tạng. Nền làm bằng báu đẹp, cột làm bằng báu tỳ lưu ly, vàng Diêm phù đàn che phủ phía trên. Quang tạng ma ni dùng để trang nghiêm. Có vô số bảo vương, ánh sáng rực rỡ. Lầu nhiều tầng giáp với gác, đủ thứ sự trang sức. Hương vương A lư na, hương vương giác ngộ, đều toả ra hương thơm vi diệu, xông khắp tất cả. 

Trong cung điện đó, lại có vô lượng toà hoa sen báu, bày bố giáp vòng. Đó là: Toà hoa sen ma ni báu chiếu sáng mười phương. Toà hoa sen tỳ lô giá na ma ni báu. Toà hoa sen ma ni báu chiếu sáng thế gian. Toà hoa sen diệu tạng ma ni báu. Toà hoa sen sư tử tạng ma ni báu. Toà hoa sen ly cấu tạng ma ni báu. Toà hoa sen phổ môn ma ni báu. Toà hoa sen quang nghiêm ma ni báu. Toà hoa sen an trụ đại hải tạng thanh tịnh ma ni báu. Toà hoa sen kim cang sư tử ma ni báu.

Trong vườn rừng Phổ Trang Nghiêm đó, lại có cung điện rộng lớn, tên là Trang Nghiêm Tràng Hải Tạng, nền làm bằng báu đẹp, cột làm bằng báu tỳ lưu ly, vàng Diêm phù đàn che phủ phía trên cung điện, có quang tạng ma ni dùng để trang nghiêm cung điện. Có vô số bảo vương, ánh sáng rực rỡ. Có lầu nhiều tầng giáp với gác, đủ thứ sự trang sức. Hương vương A lư na (hương màu đỏ), hương vương giác ngộ (ai ngửi được hương nầy liền giác ngộ), đều toả ra hương thơm vi diệu, xông khắp tất cả mười phương thế giới.

Trong cung điện đó, lại có vô lượng toà hoa sen báu, bày bố thẳng hàng giáp vòng. Đó là: Toà hoa sen ma ni báu chiếu sáng mười phương. Toà hoa sen tỳ lô giá na ma ni báu. Toà hoa sen ma ni báu chiếu sáng thế gian. Toà hoa sen diệu tạng ma ni báu. Toà hoa sen sư tử tạng ma ni báu. Toà hoa sen ly cấu tạng ma ni báu. Toà hoa sen phổ môn ma ni báu. Toà hoa sen quang nghiêm ma ni báu. Toà hoa sen an trụ đại hải tạng thanh tịnh ma ni báu. Toà hoa sen kim cang sư tử ma ni báu. Đây là việc trang nghiêm thứ sáu, tức trang nghiêm điện đường.

Trong vườn đó, lại có trăm vạn thứ trướng. Đó là: Trướng y, trướng man, trướng hương, trướng hoa, trướng cành, trướng ma ni, trướng vàng thật, trướng đồ trang nghiêm, trướng âm nhạc, trướng voi chúa thần biến, trướng ngựa chúa thần biến, trướng Đế Thích đeo ma ni báu. Những trướng như vậy có hàng trăm vạn thứ. 

Lại có trăm vạn lưới báu lớn che trùm phía trên. Đó là: Lưới linh báu, lưới lọng báu, lưới thân báu, lưới hải tạng chân châu, lưới cam lưu ly ma ni báu, lưới sư tử ma ni, lưới nguyệt quang ma ni, lưới đủ thứ hình bóng các hương, lưới mũ báu, lưới anh lạc báu. Những lưới như vậy có hàng trăm vạn thứ.

Trong vườn Phổ Trang Nghiêm đó, lại có trăm vạn thứ trướng khác nhau. Đó là: Trướng y, trướng man, trướng hương, trướng hoa, trướng cành, trướng ma ni, trướng vàng thật, trướng đồ trang nghiêm, trướng âm nhạc, trướng voi chúa thần biến, trướng ngựa chúa thần biến, trướng Đế Thích đeo ma ni báu. Những trướng như vậy có hàng trăm vạn thứ.

Lại có trăm vạn lưới báu lớn che trùm phía trên. Đó là: Lưới linh báu, lưới lọng báu, lưới thân báu, lưới hải tạng chân châu, lưới cam lưu ly ma ni báu, lưới sư tử ma ni, lưới nguyệt quang ma ni, lưới đủ thứ hình bóng các hương, lưới mão báu, lưới anh lạc báu. Những lưới báu như vậy có hàng trăm vạn thứ. Đây là việc trang nghiêm thứ bảy, tức dùng trướng lưới, trước trướng sau lưới.

Lại có trăm vạn đại quang minh chiếu sáng. Đó là: Quang minh diệm quang ma ni báu. Quang minh nhựt tạng ma ni báu. Quang minh nguyệt tràng ma ni báu. Quang minh hương diệm ma ni báu. Quang minh thắng tạng ma ni báu. Quang minh liên hoa tạng ma ni báu. Quang minh diệm tràng ma ni báu. Quang minh đại đăng ma ni báu. Quang minh phổ chiếu thập phương ma ni báu. Quang minh hương quang ma ni báu. Những quang minh như vậy có nhiều hàng vạn thứ.

Lại có trăm vạn đại quang minh chiếu sáng vườn rừng Phổ Trang Nghiêm. Đó là: Quang minh diệm quang ma ni báu. Quang minh nhựt tạng ma ni báu. Quang minh nguyệt tràng ma ni báu. Quang minh hương diệm ma ni báu. Quang minh thắng tạng ma ni báu. Quang minh liên hoa tạng ma ni báu. Quang minh diệm tràng ma ni báu. Quang minh đại đăng ma ni báu. Quang minh phổ chiếu thập phương ma ni báu. Quang minh hương quang ma ni báu. Những quang minh như vậy có nhiều hàng trăm vạn thứ. Đây là việc trang nghiêm thứ tám, tức dùng quang minh chiếu sáng.

Trong vườn đó, thường mưa xuống trăm vạn thứ đồ trang nghiêm. Trăm vạn hương hắc chiên đàn, vang ra âm thanh vi diệu. Trăm vạn hoa mạn đà la, hơn hẳn hoa mạn đà la của chư Thiên, mà rải xuống. Trăm vạn chuỗi anh lạc, hơn hẳn chuỗi anh lạc của chư Thiên, dùng để trang nghiêm. Trăm vạn tràng hoa báu đẹp, hơn hẳn tràng hoa của chư Thiên, thòng xuống khắp nơi. Trăm vạn y đẹp các màu, hơn hẳn y của chư Thiên. Trăm vạn ma ni báu đủ màu, ánh sáng vi diệu chiếu khắp.

Trong vườn Phổ Trang Nghiêm đó, thường mưa xuống trăm vạn thứ đồ trang nghiêm. Có trăm vạn hương hắc chiên đàn, đều vang ra âm thanh vi diệu, diễn nói đủ thứ diệu pháp. Lại có trăm vạn hoa mạn đà la (hoa trắng nhỏ), hơn hẳn hoa mạn đà la của chư Thiên, đều rải xuống khắp vườn đó. Lại có trăm vạn chuỗi anh lạc hơn hẳn chuỗi anh lạc của chư Thiên, dùng để trang nghiêm vườn đó. Lại có trăm vạn tràng hoa báu đẹp hơn hẳn tràng hoa của chư Thiên, thòng xuống khắp nơi trong vườn đó. Lại có trăm vạn y đẹp các màu hơn hẳn y của chư Thiên. Lại có trăm vạn ma ni báu đủ màu, ánh sáng vi diệu chiếu khắp mười phương thế giới. Đây là việc trang nghiêm thứ chín, tức mưa xuống đồ trang nghiêm.

Trăm vạn Thiên tử vui mừng chiêm ngưỡng, cúi đầu làm lễ. Trăm vạn thể nữ, ở trong hư không, hợp thân bay xuống. Trăm vạn Bồ Tát, cung kính gần gũi, thường thích nghe pháp.

Có trăm vạn Thiên tử, đều do cảnh tưởng trang nghiêm của vườn đó thu hút, họ đều rất vui mừng chiêm ngưỡng Hưu Xả ưu bà di, cung kính cúi đầu làm lễ. Lại có trăm vạn thể nữ, ở trong hư không của vườn đó, hợp thân bay xuống. Lại có trăm vạn Bồ Tát, cung kính gần gũi Hưu Xả ưu bà di, thường thích nghe Phật pháp. Đây là việc trang nghiêm thứ mười, tức phàm Thánh vui kính.
Hưu Xả, dịch là “ý lạc”, “hy vọng”, “mãn nguyện”, biểu thị tuỳ thuận ý thích và hy vọng của chúng sinh, khiến cho họ đắc được viên mãn, lại có thể viên mãn pháp tánh tướng. Ở trước là Hải Tràng thị hiện tướng Tỳ Kheo, vì Thiện Tài đồng tử diễn nói pháp Bát Nhã liễu chân, hiện tại là trụ thứ bảy – bất thối trụ, vị nầy dùng từ bi nhập thế, giáo hoá chúng sinh, nên thị hiện thân ưu bà di, vào lý không vô sinh cứu kính, tâm thường hành không vô tướng nguyện, chỉ quán cả hai, duyên không thể hoại, trong suốt rất sâu như biển cả.

Bấy giờ, Hưu Xả ưu bà di, ngồi toà vàng thật, đội mão lưới hải tạng trân châu. Đeo chiếc vòng báu vàng thật hơn hẳn chư Thiên. Rũ tóc xanh biếc. Lưới đại ma ni trang nghiêm trên đầu. Sư tử khẩu ma ni báu dùng làm bông tai. Như ý ma ni bảo vương dùng làm chuỗi. Tất cả lưới báu rũ trùm trên thân.

Lúc đó, Hưu Xả ưu bà di, ngồi trên toà bằng vàng thật, đầu đội mão làm bằng lưới hải tạng trân châu. Tay đeo chiếc vòng báu bằng vàng thật hơn hẳn vòng báu bằng vàng của chư Thiên, tóc màu xanh biếc rũ xuống, dùng lưới đại ma ni trang nghiêm trên đầu, dùng sư tử khẩu ma ni báu làm bông tai, dùng như ý ma ni bảo vương làm chuỗi, dùng tất cả lưới báu rũ xuống trùm trên thân.

Trăm vạn ức Na do tha chúng sinh khom mình cung kính. Phương đông có vô lượng chúng sinh đi đến chỗ Ngài. Đó là: Phạm Thiên, Phạm Chúng Thiên, Đại Phạm Thiên, Phạm Phụ Thiên, Tự Tại Thiên, cho đến tất cả người và chẳng phải người. Phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng đều như thế.

Có trăm vạn ức Na do tha chúng sinh, đều chắp tay khom mình cung kính. Ở phương đông có vô lượng chúng sinh đi đến vườn Phổ Trang Nghiêm. Đó là: Chúng sinh Phạm Thiên, chúng sinh Phạm Chúng Thiên, chúng sinh Đại Phạm Thiên, chúng sinh Phạm Phụ Thiên, chúng sinh Tự Tại Thiên, cho đến tất cả người và chẳng phải người. Ở phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng đều như thế.

Có ai thấy được vị ưu bà di nầy, thì tất cả bệnh khổ đều được trừ diệt, lìa phiền não dơ bẩn, nhổ trừ gai các kiến, phá tan núi chướng ngại, nhập vào cảnh giới thanh tịnh vô ngại, tăng trưởng sáng lạng tất cả hết thảy các căn, nuôi lớn các căn. Nhập vào môn nhất thiết trí huệ, nhập vào môn tất cả tổng trì, tất cả môn tam muội, tất cả môn đại nguyện, tất cả môn diệu hạnh, tất cả môn công đức, đều được hiện tiền. Tâm rộng lớn, đầy đủ thần thông, thân không chướng ngại, đến tất cả mọi nơi.

Có ai thấy được Hưu Xả ưu bà di nầy, thì tất cả bệnh tật thống khổ của họ, đều được trừ diệt, xa lìa tất cả phiền não cấu bẩn, nhổ trừ gai tất cả tà kiến, phá tan núi chướng ngại cống cao ngã mạn, nhập vào cảnh giới thanh tịnh vô ngại. Tăng trưởng sáng lạng tất cả hết thảy các căn, dưỡng lớn tất cả các căn. Nhập vào môn nhất thiết trí huệ, nhập vào môn tất cả tổng trì, tất cả môn tam muội, tất cả môn đại nguyện, tất cả môn diệu hạnh, tất cả môn công đức, đều được hiện tiền. Tâm của Hưu Xả ưu bà di rộng lớn vô lượng như hư không, đầy đủ tất cả thần thông, thân không chướng ngại, có thể phân thân đến tất cả mọi nơi trong mười phương thế giới.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đi vào vườn Phổ Trang Nghiêm, quán sát khắp nơi, thấy Hưu Xả ưu bà di, ngồi trên toà vi diệu. Bèn đi đến đảnh lễ Hưu Xả ưu bà di, đi nhiễu quanh vô số vòng, rồi bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh, khéo hay chỉ dạy, xin hãy vì con mà nói.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đi vào vườn Phổ Trang Nghiêm, quán sát khắp mọi nơi, thấy Hưu Xả ưu bà di, ngồi trên toà báu vi diệu, bèn đi đến đảnh lễ Hưu Xả ưu bà di, đi nhiễu quanh vô số vòng, rồi bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học tập Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu hành Bồ Tát đạo? Con nghe Tỳ Kheo Hải Tràng giới thiệu Ngài cho con đến đây gần gũi Ngài, nói Ngài là bậc Thánh, khéo hay chỉ dạy, xin hãy vì con mà nói pháp, khai thị cho con”.
Vị ưu ba di nầy là một vị đã chứng được pháp thân của Bồ Tát, thị hiện thành thân ưu ba di, để giáo hoá chúng sinh.

Hưu Xả bảo rằng: Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được một môn giải thoát của Bồ Tát. Nếu ai thấy nghe nghĩ nhớ về ta, cùng ở với ta, cung cấp cho ta, đều không luống qua.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh chẳng trồng căn lành, không được bạn bè nhiếp thọ, không được chư Phật hộ niệm, thì người đó trọn chẳng thấy được ta.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh nào được thấy ta, thì đều đắc được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Thiện nam tử! Chư Phật ở phương đông thường đến chỗ nầy, ngồi toà báu nầy, vì ta thuyết pháp. Phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, tất cả chư Phật, đều đến chỗ nầy, ngồi trên toà báu nầy, vì ta thuyết pháp.

Thiện nam tử! Ta thường chẳng lìa thấy Phật nghe pháp, ở chung với các Bồ Tát.

Thiện nam tử! Đại chúng của ta đây, có tám vạn bốn ngàn ức Na do tha, đều ở tại vườn nầy, đồng hành với ta, đều đắc được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Còn những chúng sinh khác ở trong vườn nầy, cũng đều nhập vào bậc bất thối chuyển.

Hưu Xả bảo rằng Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được một pháp môn giải thoát của Bồ Tát. Nhưng ngươi đừng cho rằng chỉ một pháp môn chẳng có giá trị gì, chỉ trong một pháp môn nầy, mà bao hàm vô lượng phương tiện và giải thoát. Nếu ai thấy nghe nghĩ nhớ về ta, hoặc cùng ở với ta, hoặc cúng dường cho ta, thì phước báo của họ đều không luống qua, tương lai họ chắc chắn sẽ đắc được phước báo không thể nghĩ bàn và dưỡng lớn các căn lành.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh chưa từng trồng căn lành, không được bạn bè nhiếp thọ, cũng không được chư Phật hộ niệm, thì người đó trọn chẳng thấy được ta, dù thấy được ta, cũng chẳng nhận thức được ta.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh nào được thấy ta, thì đều đắc được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác), vĩnh viễn không thối thất tâm bồ đề.

Thiện nam tử! Chư Phật ở phương đông thường đến vườn hoa nầy, ngồi trên toà báu nầy, vì ta thuyết pháp. Phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, tất cả chư Phật, cũng đều thường đến chỗ nầy, ngồi trên toà báu nầy, vì ta thuyết pháp.

Thiện nam tử! Ta thường chẳng lìa thấy Phật nghe pháp, ở chung với hết thảy các đại Bồ Tát, làm bạn lành với Bồ Tát bất thối. Vì thuở xưa ta đã tứng phát nguyện, hết tất cả kiếp đời vị lai, đều muốn được thấy Phật.

Thiện nam tử! Đại chúng của ta đây, có tám vạn bốn ngàn ức Na do tha, đều ở tại vườn Phổ Trang Nghiêm nầy, đồng hành với ta, họ đều đắc được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Còn những chúng sinh cư sĩ khác ở trong vườn nầy, cũng đều nhập vào bậc bất thối chuyển”. Đây là biểu thị phương tiện nhập thế, tức tám vạn trần lao, đều thành Ba La Mật, hết thảy quyến thuộc, đều cùng tu hành với với Hưu Xả ưu bà di.

Thiện Tài bạch rằng: Đức Thánh! Ngài đã phát tâm bồ đề được bao lâu? 

Thiện Tài đồng tử lại hỏi rằng: “Bạch đức Thánh! Ngài đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được bao lâu rồi”?

Đáp rằng: Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, tu hành phạm hạnh, cung kính cúng dường, nghe pháp thọ trì. Trước đó ở chỗ đức Phật Ly Cấu, xuất gia học đạo, thọ trì chánh pháp. Trước đó ở chỗ đức Phật Diệu Tràng. Trước đó ở chỗ đức Phật Thắng Tu Di. Trước đó ở chỗ đức Phật Liên Hoa Đức Tạng. Trước đó ở chỗ đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Trước đó ở chỗ đức Phật Phổ Nhãn. Trước đó ở chỗ đức Phật Phạm Thọ. Trước đó ở chỗ đức Phật Kim Cang Tề. Trước đó ở chỗ đức Phật Bà Lâu Na Thiên. 
Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ vô lượng kiếp, ở trong vô lượng đời, ở chỗ các đức Phật, nhiều như số cát ba mươi sáu sông Hằng như vậy, đều thờ phụng cung kính cúng dường, nghe pháp thọ trì, tịnh tu phạm hạnh. Quá đây về trước, chỗ biết trí huệ của Phật, chẳng phải ta có thể dò được.

Hưu Xả ưu bà di đáp rằng: “Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, tu hành phạm hạnh, cung kính cúng dường, nghe kinh nghe pháp, thọ trì nơi tâm. Trước đó ở chỗ đức Phật Ly Cấu, xuất gia học đạo, thọ trì chánh pháp. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Diệu Tràng, ta cũng xuất gia tu đạo. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Thắng Tu Di, ta cũng xuất gia tu đạo. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Liên Hoa Đức Tạng, ta cũng xuất gia tu đạo. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Tỳ Lô Giá Na, ta cũng xuất gia tu đạo. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Phổ Nhãn, ta cũng đã phát tâm bồ đề. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Phạm Thọ. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Kim Cang Tề, ta cũng đã phát tâm bồ đề. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Bà Lâu Na Thiên, ta cũng đã phát tâm bồ đề.
Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ vô lượng kiếp, ở trong vô lượng đời, ở chỗ các đức Phật nhiều như số cát ba mươi sáu sông Hằng như vậy, ta đều thờ phụng cung kính cúng dường, nghe pháp thọ trì, tịnh tu phạm hạnh. Quá đây về trước, chỗ biết cảnh giới và trí huệ của chư Phật, chẳng phải ta có thể dò lường được”.
Số ba mươi sáu là biểu thị quá khứ sáu vị, vị vị đều tu sáu độ, sáu lần sáu là ba mươi sáu, đều là đức tánh hằng sa.

Thiện nam tử! Bồ Tát ban đầu phát tâm không có số lượng, vì đầy khắp tất cả pháp giới. Môn đại bi của Bồ Tát không có số lượng, vì vào khắp tất cả thế gian. Môn đại nguyện của Bồ Tát không có số lượng, vì rốt ráo mười phương pháp giới. Môn đại từ của Bồ Tát không có số lượng, vì trùm khắp tất cả chúng sinh. Sự tu hành của Bồ Tát không có số lượng, vì tu tập trong tất cả cõi, tất cả kiếp. Sức tam muội của Bồ Tát không có số lượng, vì khiến Bồ Tát đạo bất thối. Sức tổng trì của Bồ Tát không có số lượng, vì hay trì tất cả thế gian. Sức trí quang của Bồ Tát không có số lượng, vì khắp chứng nhập vào ba đời. Sức thần thông của Bồ Tát không có số lượng, vì khắp hiện tất cả lưới cõi. Sức biện tài của Bồ Tát không có số lượng, vì một âm tất cả đều hiểu. Thân thanh tịnh của Bồ Tát không có số lượng, vì đều khắp tất cả cõi Phật.

Thiện nam tử! Bồ Tát ban đầu phát tâm không có số lượng, vì đầy khắp tất cả pháp giới và hư không. Vì lượng phát tâm, đồng pháp giới, cũng đồng chúng sinh, mà chúng sinh cũng không có bờ mé ban đầu, do si có ái. Mà Bồ Tát phát tâm, si ái không có ban đầu, nên cũng không có kết thúc. Môn đại bi của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì có thể vào khắp tất cả thế gian. Môn đại nguyện của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì rốt ráo mười phương pháp giới. Môn đại từ của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì bao trùm khắp tất cả chúng sinh. Sự tu hành của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì thường tu tập Phật pháp trong tất cả cõi, tất cả kiếp. Sức tam muội của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì Ngài khiến cho chúng sinh nơi Bồ Tát đạo đắc được bất thối chuyển. Sức tổng trì của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì hay chi trì tất cả thế gian. Sức trí huệ quang minh của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì khắp chứng nhập đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Sức thần thông của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì khắp hiện lưới cõi tất cả chư Phật. Sức biện tài của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì có thể dùng một âm diễn nói pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều hiểu được. Do đó có câu:

“Phật dùng một âm diễn nói pháp
Chúng sinh theo loài đều hiểu được”.

Thân thanh tịnh của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì đều đầy khắp tất cả cõi Phật.

Thiện Tài đồng tử nói: Đức Thánh! Bao lâu nữa Ngài sẽ chứng A nậu đa la tam miệu tam bồ đề?

Thiện Tài đồng tử nói: “Đức Thánh! Ngài tu hành đã lâu, bao lâu nữa Ngài sẽ chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác”?

Đáp rằng: Thiện nam tử! Bồ Tát chẳng phải vì giáo hoá điều phục một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì giáo hoá điều phục trăm chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì giáo hoá điều phục bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì giáo hoá chúng sinh một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì giáo hoá bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển thế giới chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề.

Chẳng phải vì cúng dường một Như Lai, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển Như Lai, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì cúng dường các Như Lai thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển các Như Lai thứ tự ra đời trong một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì cúng dường các Như Lai thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì cúng dường các Như Lai thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển cõi Phật, mà phát tâm bồ đề.

Chẳng phải vì nghiêm tịnh một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì nghiêm tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển thế giới, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì nghiêm tịnh thế giới nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì nghiêm tịnh thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề. 

Chẳng phải vì giữ gìn giáo pháp của một Như Lai, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì giữ gìn giáo pháp của bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển Như Lai, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì giữ gìn giáo pháp của các Như Lai nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì giữ gìn giáo pháp của các Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển cõi Phật, mà phát tâm bồ đề.

Hưu Xả ưu bà di đáp rằng: “Thiện nam tử! Vì Bồ Tát chẳng phải chỉ vì giáo hoá điều phục một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Bồ Tát cũng chẳng phải chỉ vì giáo hoá điều phục trăm chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì giáo hoá điều bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Chuyển nghĩa là lập lại, lập tới lập lui, không ngừng. Đây là biểu thị số mục lớn, không cùng tận, mà phát tâm bồ đề”.

Người ở tại Vạn Phật Thành, bất luận là ở xa đến, hoặc ở gần lại, đều là người của mình, tức nhiên là người của mình, thì đều phải giữ quy cụ, ai không giữ quy cụ, thì người đó không thể ở chung được. Quy cụ, tức là cử chỉ hành động, lời nói việc làm, đều phải hợp với thân phận và địa vị của mình, đừng có làm tổn hại chướng ngại người khác. Nếu bạn làm tổn hại chướng ngại đến người khác tu hành, thì cũng giống như bạn phá hoại đạo tràng. Giữ quy cụ, tức là giữ giới luật. Nếu bạn không phát bồ đề tâm, suốt ngày đến tối khởi vọng tưởng, chẳng dụng công tu hành, cứ nói chuyện thị phi với người khác, thì đó là bạn chướng ngại người khác tu hành, phá hoại Tăng đoàn. Cho nên bất luận người xuất gia, hoặc người tại gia, nếu không giữ quy cụ của đạo tràng, thì tuyệt đối không thể ở chung.

Trong Kinh văn lại nói: “Bồ Tát tu đạo phát tâm bồ đề, chẳng phải chỉ vì giáo hoá chúng sinh một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì giáo hoá bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển thế giới chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Cũng chẳng phải chỉ vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, mà phát tâm bồ đề. Cũng chẳng phải chỉ vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề”.

Ở trên đây là biểu thị chẳng phải chỉ vì hoá độ chúng sinh số mục nhất định, mới phát tâm bồ đề.

Hưu Xả ưu bà di lại nói : “Bồ Tát chẳng phải vì cúng dường một vị Phật, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển đức Phật, mà phát tâm bồ đề. Lại chẳng phải chỉ vì cúng dường chư Phật thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển chư Phật thứ tự ra đời trong một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải chỉ vì cúng dường chư Phật thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì cúng dường chư Phật thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển cõi Phật, mà phát tâm bồ đề.

Trên đây chẳng phải chỉ vì cúng dường chư Phật có số mục nhất định, mới phát tâm bồ đề.

Hưu Xả ưu bà di lại nói: “Bồ Tát chẳng phải chỉ vì nghiêm tịnh một thế giới, mới phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì nghiêm tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển thế giới, mới phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì nghiêm tịnh thế giới nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mới phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì nghiêm tịnh thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển ba ngàn đại thiên thế giới, mới phát tâm bồ đề.

Trên đây chẳng phải chỉ vì nghiêm tịnh cõi nước có số mục nhất định, mới phát tâm bồ đề.

Hưu Xả ưu bà di lại nói: “Bồ Tát chẳng phải chỉ vì giữ gìn giáo pháp của một đức Phật để lại, mới phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì giữ gìn giáo pháp của bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển chư Phật, mới phát tâm bồ đề. Chẳng phải chỉ vì giữ gìn giáo pháp của chư Phật nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, mới phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì giữ gìn giáo pháp của chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển cõi Phật, mới phát tâm bồ đề”.
Trên đây là chẳng phải chỉ vì giữ gìn giáo pháp có số mục nhất định, mới phát tâm bồ đề.

Lược nói như vậy, chẳng phải vì viên mãn thệ nguyện của một vị Phật. Chẳng phải vì đi đến cõi nước của một vị Phật. Chẳng phải vì vào chúng hội của một vị Phật. Chẳng phải vì giữ pháp nhãn của một vị Phật. Chẳng phải chuyển bánh xe pháp của một vị Phật. Chẳng phải vì biết các kiếp thứ tự trong một thế giới. Chẳng phải vì biết biển tâm của một chúng sinh. Chẳng phải vì biết biển căn của một chúng sinh. Chẳng phải vì biết biển nghiệp của một chúng sinh. Chẳng phải vì biết biển hạnh của một chúng sinh. Chẳng phải vì biết biển phiền não của một chúng sinh. Chẳng phải vì biết biển phiền não tập của một chúng sinh. Cho đến chẳng phải vì biết biển phiền não tập của chúng sinh nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển cõi Phật, mà phát tâm bồ đề.

Hưu Xả ưu bà di lại nói: “Lược nói như vậy, Bồ Tát chẳng phải vì viên mãn thệ nguyện của một vị Phật, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì đi đến cõi nước của một vị Phật, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì vào chúng hội của một vị Phật, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì giữ pháp nhãn của một vị Phật, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải chuyển bánh xe pháp của một vị Phật, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì biết các kiếp thứ tự trong một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì biết biển tâm của một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì biết biển căn của một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì biết biển nghiệp của một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Chẳng phải vì biết biển hạnh của một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Có những chúng sinh đời đời kiếp kiếp đều tu hành không ngừng, có những chúng sinh tu hành nửa đường rồi bỏ. Tóm lại, hạnh của chúng sinh tu vô lượng vô biên, nhiều như biển. Bồ Tát chẳng phải vì biết biển phiền não của một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Phiền não của chúng sinh vô cùng vô tận, cho nên một trong bốn hoằng thệ nguyện của Bồ Tát là: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Chẳng phải vì biết biển phiền não tập của một chúng sinh, cho đến chẳng phải vì biết biển phiền não tập của chúng sinh nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển cõi Phật, mà phát tâm bồ đề”.

Vì muốn giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn phụng thờ cúng dường tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn hộ trì chánh giáo của tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn thành tựu viên mãn thệ nguyện của tất cả Như Lai đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn đi đến cõi nước của tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn vào chúng hội của tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết các kiếp thứ lớp trong tất cả thế giới đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết biển tâm của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết biển căn của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết biển nghiệp của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết biển hạnh của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết biển phiền não của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn diệt trừ biển phiền não tập của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

Hưu Xả ưu bà di lại nói: “Bồ Tát vì muốn giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn phụng thờ cúng dường tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn hộ trì chánh giáo của tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn thành tựu viên mãn thệ nguyện của tất cả Như Lai đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn đi đến cõi nước của tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn vào chúng hội của tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết các kiếp thứ lớp trong tất cả thế giới đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết biển tâm của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết biển căn của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết biển nghiệp của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết biển hạnh của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết biển phiền não của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn diệt trừ biển phiền não tập của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề”.

Cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm là không thể nghĩ bàn, mà hạnh nguyện của Bồ Tát cũng vô cùng vô tận. Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có một đoạn rằng: “Lễ kính nầy của ta, vô cùng vô tận. Như vậy cho đến cõi chúng sinh hết, nghiệp chúng sinh hết, phiền não chúng sinh hết, thì lễ của ta mới hết, mà cõi chúng sinh, cho đến phiền não không cùng tận. Lễ kính của ta, cũng không cùng tận, niệm niệm liên tục, không gián đoạn, thân miệng ý nghiệp không mỏi nhàm”. Cho nên, biển nguyện của Bồ Tát trùng trùng vô tận, không thể nào nói hết được, chúng sinh vô tận, nguyện cũng vô biên.

Thiện nam tử! Nói tóm lại, Bồ Tát vì trăm vạn A tăng kỳ hạnh phương tiện như vậy, mà phát tâm bồ đề.
Thiện nam tử! Bồ Tát hạnh vào khắp tất cả pháp, vì đều chứng đắc. Vào khắp tất cả cõi, vì đều nghiêm tịnh. Bởi vậy thiện nam tử! Nghiêm tịnh hết tất cả thế giới, thì nguyện của ta mới hết. Diệt trừ hết phiền não tập khí của tất cả chúng sinh, thì nguyện của ta mới viên mãn.

Thiện nam tử! Nói tóm lại, Bồ Tát vì trăm vạn A tăng kỳ hạnh phương tiện như vậy, mà phát tâm đại bồ đề.

Thiện nam tử! Bồ Tát hạnh vào khắp tất cả pháp, vì đều chứng đắc thật tướng các pháp. Bồ Tát vào khắp tất cả cõi, vì đều nghiêm tịnh cõi nước chư Phật thanh tịnh. Bởi vậy thiện nam tử! Nghiêm tịnh hết tất cả thế giới, thì nguyện của ta mới hết, cho đến diệt trừ hết phiền não tập khí của tất cả chúng sinh, thì nguyện của ta mới viên mãn.

Thiện Tài đồng tử hỏi: Đức Thánh! Giải thoát nầy tên là gì? 
Đáp rằng: Thiện nam tử! Giải thoát nầy tên là Ly ưu an ổn tràng.

Thiện Tài đồng tử nói: “Đức Thánh! Giải thoát nầy tên là gì?

Hưu Xả ưu bà di đáp rằng: “Thiện nam tử! Giải thoát nầy tên là Ly ưu an ổn tràng”.

Giải thoát nầy dùng đại bi cao hiển, cho nên gọi là tràng. Phàm là chúng sinh thấy được tràng nầy, đều lìa khỏi nghiệp cảm thống khổ, mà chẳng thối tâm bồ đề, cho nên gọi là Ly ưu an ổn tràng.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết một môn giải thoát nầy. Như các đại Bồ Tát, tâm các Ngài như biển, đều dung thọ được tất cả Phật pháp. Như núi Tu Di, ý chí kiên cố, không thể lay động. Như thuốc Thiện kiến, hay trừ phiền não bệnh nặng của chúng sinh. Như mặt trời trong sáng, hay phá vô minh ám chướng của chúng sinh. Như đại địa, hay làm nơi nương tựa của tất cả chúng sinh. Như gió tốt, hay làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Như đèn sáng, hay vì chúng sinh, sinh ra trí huệ quang minh. Như mây lớn, hay vì chúng sinh mưa pháp tịch diệt. Như trăng sáng, hay vì chúng sinh phóng ánh sáng phước đức. Như Đế Thích, đều hay giữ gìn tất cả chúng sinh. Mà ta làm thế nào biết được, nói được, hạnh công đức đó ?

Thiện nam tử! Ta chỉ biết một môn giải thoát nầy. Như tất cả các đại Bồ Tát, tâm của các Ngài rộng lớn như biển cả, đều dung thọ được tất cả Phật pháp. Chí nguyện và ý lực của các Ngài rất kiên cố, như núi Tu Di, không thể lay động. Các Ngài giống như thuốc Thiện kiến, hay trừ phiền não bệnh nặng của chúng sinh. Các Ngài giống như mặt trời trong sáng, hay phá vô minh ám chướng của chúng sinh. Các Ngài giống như đại địa, hay làm nơi nương tựa của tất cả chúng sinh. Các Ngài giống như gió tốt, hay làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Các Ngài giống như đèn sáng, hay vì chúng sinh, sinh ra trí huệ quang minh. Các Ngài giống như mây lớn, hay vì chúng sinh mưa diệu pháp tịch diệt, khiến cho chúng sinh đắc được phước tịch tĩnh viên mãn. Các Ngài giống như trăng sáng, hay vì chúng sinh phóng ánh sáng phước đức, chiếu soi tất cả hữu tình. Các Ngài giống như Đế Thích thiên chủ, đều hay giữ gìn tất cả chúng sinh. Công đức của tất cả những đại Bồ Tát đó, ta làm thế nào hiểu được, biết được, nói được cảnh giới và công đức của các Ngài, cùng với hạnh tu của các vị đó.

Thiện nam tử! Ở hướng nam xứ Hải Triều nầy, có một cõi nước, tên là Na La Tố. Trong đó có vị Tiên nhân, tên là Tỳ Mục Cù Sa. Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Thiện nam tử! Ngươi hãy đi về hướng nam xứ Hải Triều nầy, có một cõi nước, tên là Na La Tố. Trong nước đó, có vị Tiên nhân, tên là Tỳ Mục Cù Sa. Ngươi hãy đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo”?

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử, đảnh lễ Hưu Xả ưu bà di, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, buồn rầu rơi lệ, suy gẫm như vầy: Đắc được bồ đề là khó. Gần gũi thiện tri thức là khó. Gặp được thiện tri thức là khó. Đắc được các căn Bồ Tát là khó. Tịnh các căn Bồ Tát là khó. Gặp được đồng hạnh thiện tri thức là khó. Như lý quán sát là khó. Y giáo tu hành là khó. Gặp được sinh ra thiện tâm phương tiện là khó. Gặp được pháp quang minh tăng trưởng nhất thiết trí là khó. Nghĩ như vậy rồi, từ tạ mà đi.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử, đảnh lễ dưới chân Hưu Xả ưu bà di, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, buồn rầu rơi lệ, suy gẫm như vầy: “Đắc được bồ đề là khó. Gần gũi thiện tri thức cũng rất là khó. Mà gặp được thiện tri thức cũng rất là khó. Cho nên muốn gặp được một vị thiện tri thức giúp đỡ bạn qua khỏi dòng sinh tử, cũng rất là khó. Muốn đắc được các căn của Bồ Tát rất là khó. Muốn thanh tịnh các căn của Bồ Tát cũng rất là khó. Gặp được thiện tri thức cùng tu với nhau cũng rất là khó. Như lý quán sát cũng rất là khó. Y giáo tu hành cũng rất là khó. Gặp được thiện tri thức khai thị, mà sinh ra thiện tâm phương tiện cũng rất là khó. Gặp được pháp quang minh tăng trưởng nhất thiết trí cũng rất là khó. Mà ta hiện tại đều gặp được, ta thật là quá may mắn”! Thiện Tài đồng tử nghĩ như vậy rồi, bèn hướng về Hưu Xả ưu bà di từ tạ mà đi về hướng nam tìm vị thiện tri thức khác.

 

8. TỲ MỤC CÙ SA TIÊN NHÂN PHÓ THÁC THỨ TÁM ĐỒNG CHÂN TRỤ

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử tuỳ thuận suy gẫm chánh giáo của Bồ Tát. Tuỳ thuận suy gẫm tịnh hạnh của Bồ Tát. Sinh tâm phước lực tăng trưởng của Bồ Tát. Sinh tâm thấy rõ tất cả chư Phật. Sinh tâm sinh ra tất cả chư Phật. Sinh tâm tăng trưởng tất cả đại nguyện. Sinh tâm thấy khắp các pháp mười phương. Sinh tâm chiếu sáng các pháp thật tánh. Sinh tâm phá tan tất cả chướng ngại. Sinh tâm quán sát pháp giới không đen tối. Sinh tâm thanh tịnh ý bảo trang nghiêm. Sinh tâm thôi phục tất cả chúng ma.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử tuỳ thuận suy gẫm chánh giáo của Bồ Tát. Tuỳ thuận suy gẫm diệu hạnh thanh tịnh của Bồ Tát. Sinh tâm phước lực tăng trưởng của Bồ Tát. Sinh tâm thấy rõ tất cả chư Phật, Ngài dùng mắt trí huệ, thấy được chư Phật nhiều vô lượng số. Lại sinh tâm sinh ra tất cả chư Phật. Lại sinh tâm tăng trưởng tất cả đại nguyện, để cứu độ chúng sinh. Lại sinh tâm thấy khắp các pháp mười phương. Lại sinh tâm chiếu sáng các pháp thật tánh. Lại sinh tâm phá tan tất cả chướng ngại, trong tâm của Ngài chẳng còn hoài nghi, sợ hãi, đủ thứ các thứ chướng ngại, mà dũng mãnh hướng về trước. Lại sinh tâm quán sát pháp giới không đen tối, trong tâm đã không còn sự đen tối, dùng trí huệ chiếu sáng các pháp thật tánh, để quán sát thể tánh chân như của pháp giới. Lại sinh tâm thanh tịnh ý niệm bảo trang nghiêm. Lại sinh tâm thôi phục tất cả chúng ma.

Từ từ đi du hành, đến nước Na La Tố. Đi khắp nơi tìm Tỳ Mục Cù Sa.

Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành về hướng nam, đi đến nước Na La Tố, bèn đi khắp nơi tìm Tỳ Mục Cù Sa tiên nhơn.

Na La Tố, dịch là “Không lười biếng”, vì vị thiện tri thức nầy hay động cõi trì cõi, quán cõi đến cõi, chẳng ngừng nghỉ. Tỳ Mục Cù Sa, dịch là “Thường xuất tăng thượng vô bố uý thanh”, vì Ngài hay vang ra âm thanh rộng lớn đầy khắp, để an ổn chúng sinh, đây là đồng chân trụ thứ tám, vì nhờ thanh tịnh vô lậu, nên phó thác cho Tiên nhân, tâm của Ngài chẳng sinh điên đảo, chẳng khởi tà ma, chẳng phá hoại bồ đề tâm.

Thiện Tài thấy một khu rừng lớn, có A tăng kỳ cây dùng để trang nghiêm. Đó là: Cây đủ thứ lá, sum sê che mát. Cây đủ thứ hoa, nở rộ xinh tươi. Cây đủ thứ quả, trái chín liên tục. Cây đủ thứ báu, mưa quả ma ni. Cây chiên đàn lớn, thẳng hàng khắp nơi. Cây các trầm thuỷ, thường toả hương thơm. Cây hương vừa ý, diệu hương trang nghiêm. Cây ba tra la, bao quanh bốn phía. Cây ni câu luật, thân cây cao vút. Cây diêm phù đàn, thường mưa quả ngọt. Hoa ưu bát la, hoa ba đầu ma, dùng trang nghiêm ao hồ.

Thiện Tài thấy một khu rừng lớn, có A tăng kỳ cây dùng để trang nghiêm khu rừng đó. Đó là: Cây đủ thứ lá khác nhau, cành lá sum sê, thòng xuống che mát. Lại có cây đủ thứ hoa khác nhau, hoa nở rộ xinh tươi rất đẹp. Lại có cây đủ thứ quả khác nhau, trái chín liên tục không ngừng. Lại có cây đủ thứ châu báu, mưa xuống quả ma ni. Lại có cây chiên đàn lớn, thẳng hàng khắp nơi. Lại có cây các trầm thuỷ, thường toả hương thơm ngào ngạt, khiến cho ai ngửi được cũng đều sinh tâm thanh tịnh. Lại có cây hương vừa ý, ai ngửi được mùi hương nầy, bèn sinh tâm hoan hỉ, cây đó dùng diệu hương của nó để trang nghiêm cây đó. Lại có cây ba tra la, tức là cây thu, nở hoa màu tím, hương thơm ngào ngạt, bao quanh bốn phía. Lại có cây ni câu luật, lá tựa như lá thị, trái tựa như trái tỳ bà, trái tựa như trái thị, giống loại nại lão, rất cao lớn trong các loài cây, thân cây cao vút. Lại có cây diêm phù đàn, tức là cây sinh diêm phù đàn kim, thường mưa xuống quả ngọt. Lại có hoa ưu bát la (hoa sen xanh), hoa ba đầu ma (hoa sen đỏ), dùng để trang nghiêm mặt nước ao hồ đó.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử thấy vị Tiên nhơn đó, trải cỏ ngồi ở dưới cây chiên đàn. Đồ chúng một vạn người, hoặc mặc da nai, hoặc mặc vỏ cây, hoặc dùng cỏ làm y phục, vấn tóc để râu, vây quanh trước sau.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhìn thấy vị Tiên nhơn đó, đang trải cỏ ngồi ở dưới cây chiên đàn. Đồ chúng của Ngài gồm một vạn người (một vạn là ý nghĩa biểu thị vạn hạnh), có những người mặc y phục da nai, hoặc mặc y phục vỏ cây, hoặc dùng cỏ làm y phục. Những đồ chúng đó cố ý hiện ra những bộ dạng y phục kỳ lạ, khiến cho người khác nhìn thấy cảm thấy rất đặc biệt, biết họ ở trong rừng dụng công tu đạo. Họ vấn đầu tóc, để râu dài rất là đặc biệt. Họ vây quanh trước sau vị Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa.

Thiện Tài thấy rồi, bèn đi đến chỗ vị Tiên nhơn, năm thể sát đất, bạch rằng: Con nay gặp được chân thiện tri thức. Bậc thiện tri thức là môn hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con được vào đạo chân thật. Bậc thiện tri thức là thừa hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con đến được bậc Như Lai. Bậc thiện tri thức là thuyền hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con đắc được trí bảo châu. Bậc thiện trí thức là đuốc hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con được sinh thập lực quang minh. Thiện tri thức là đạo hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con được vào thành Niết Bàn. Bậc thiện tri thức là đèn hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con thấy được con đường hẹp hiểm trở. Bậc thiện tri thức là cầu hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con qua được chỗ hiểm ác. Bậc thiện tri thức là lọng hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con được sinh đại từ mát mẻ. Bậc thiện tri thức là mắt hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con thấy được môn pháp tánh. Bậc thiện tri thức là hải triều hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con đầy đủ nước đại bi.

Thiện Tài nhìn thấy tình hình như vậy rồi, bèn đi đến chỗ vị Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa, đảnh lễ năm thể sát đất, biểu thị cung kính, sau đó bạch rằng: “Con hiện nay gặp được vị thiện tri thức chân chánh có trí huệ! Bậc thiện tri thức là môn hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con được vào đạo chân thật. Bậc thiện tri thức còn là thừa hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con đến được bậc Như Lai. Bậc thiện tri thức còn là con thuyền hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con đắc được trí bảo châu. Bậc thiện trí thức còn là đuốc sáng hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con đắc sinh thập lực quang minh. Thiện tri thức còn là đạo hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con được vào thành Niết Bàn. Bậc thiện tri thức còn là đèn sáng hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con thấy được con đường hẹp hiểm trở. Bậc thiện tri thức còn là cây cầu hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con qua được chỗ hiểm ác. Bậc thiện tri thức còn là lọng báu hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con được sinh lợi ích đại từ bi mát mẻ. Bậc thiện tri thức còn là con mắt hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con thấy được môn pháp tánh. Bậc thiện tri thức còn là hải triều hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con đầy đủ nước pháp đại bi.

Nói như vậy rồi, từ đất đứng dậy, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, chắp tay đứng ở trước, bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh khéo hay dạy dỗ, xin hãy vì con mà nói.

Thiện Tài tán thán thiện tri thức rồi, bèn từ đất đứng dậy, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, chắp tay đứng ở trước Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe Hưu Xả ưu bà di giới thiệu cho con, đức Thánh khéo hay giáo hoá dạy dỗ tất cả chúng sinh, xin Ngài hãy vì con mà diễn nói”.

Bấy giờ, Tỳ Mục Cù Sa quay nhìn đồ chúng mà nói rằng: Thiện nam tử! Đồng tử nầy đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Thiện nam tử! Đồng tử nầy bố thí không sợ hãi khắp tất cả chúng sinh. Đồng tử nầy ban khắp lợi ích cho tất cả chúng sinh. Đồng tử nầy thường quán biển trí của tất cả chư Phật. Đồng tử nầy muốn uống tất cả mưa pháp cam lồ. Đồng tử nầy muốn dò tất cả biển pháp rộng lớn. Đồng tử nầy muốn khiến chúng sinh ở trong biển trí. Đồng tử nầy muốn phát khởi khắp mây đại bi rộng lớn. Đồng tử nầy muốn mưa xuống khắp pháp vũ rộng lớn. Đồng tử nầy muốn dùng trí huệ mặt trăng chiếu khắp thế gian. Đồng tử nầy muốn diệt phiền não nóng độc của thế gian. Đồng tử nầy muốn tăng trưởng tất cả căn lành của chúng sinh.

Lúc đó, Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa quay nhìn một vạn đồ chúng mà nói rằng: “Thiện nam tử! Các vị có biết chăng? Vị đồng tử nầy đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Thiện nam tử! Vị đồng tử nầy đã bố thí không sợ hãi khắp tất cả chúng sinh. Vị đồng tử nầy ban khắp lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vị đồng tử nầy thường quán sát biển trí huệ của tất cả chư Phật, đã đắc được biển trí của chư Phật. Vị đồng tử nầy muốn uống hết tất cả mưa pháp cam lồ, muốn học hết tất cả Phật pháp. Vị đồng tử nầy muốn dò lường tất cả biển pháp rộng lớn. Vị đồng tử nầy muốn khiến tất cả chúng sinh ở trong biển trí huệ, khiến cho chúng sinh được giác ngộ. Vị đồng tử nầy lại muốn phát khởi khắp mây đại bi rộng lớn, để diệt trừ nhiệt não của tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui. Vị đồng tử nầy lại muốn mưa xuống khắp pháp vũ rộng lớn, khiến cho chúng sinh được thấm nhuần Phật pháp. Vị đồng tử nầy lại muốn dùng trí huệ mặt trăng sáng để chiếu khắp thế gian. Vị đồng tử nầy lại muốn diệt trừ phiền não nóng độc của thế gian, khiến cho chúng được được mát mẻ. Vị đồng tử nầy lại muốn tăng trưởng tất cả căn lành của chúng sinh.

Bấy giờ, các Tiên chúng nghe lời đó rồi, đều đem đủ thứ hương hoa tốt nhất, rải lên thân Thiện Tài, cuối đầu làm lễ, vây quanh cung kính, nói như vầy: Nay đồng tử nầy, tất sẽ cứu hộ tất cả chúng sinh. Tất sẽ trừ diệt các khổ địa ngục. Tất sẽ dứt hẳn các đường súc sinh. Tất sẽ chuyển bỏ cõi Diêm La Vương. Tất sẽ đóng bít cửa các xứ nạn. Tất sẽ làm khô cạn các biển ái dục. Tất sẽ khiến chúng sinh diệt hẳn khổ uẩn. Tất sẽ vĩnh viễn phá tan vô minh đen tối. Tất sẽ dứt hẳn tham ái ràng buộc. Tất sẽ dùng phước đức núi đại Luân Vi bao bọc thế gian. Tất sẽ dùng trí huệ báu lớn núi Tu Di hiển bày thế gian. Tất sẽ xuất hiện mặt trời trí huệ thanh tịnh. Tất sẽ khai thị căn lành pháp tạng. Tất sẽ khiến cho thế gian biết rõ hiểm nguy hay dễ dàng.

Lúc đó, tất cả các Tiên chúng nghe Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa tán thán chí nguyện phát tâm của Thiện Tài đồng tử rồi, ai nấy đều đem đủ thứ hương hoa tốt nhất, rải lên trên đầu Thiện Tài đồng tử để cúng dường. Sau đó hướng về Thiện Tài đồng tử cuối đầu đảnh lễ, vây quanh cung kính, nói như vầy: “Vị đồng tử nầy, tương lai tất sẽ cứu hộ tất cả chúng sinh. Tất sẽ trừ diệt thống khổ tất cả các địa ngục, độ thoát chúng sinh xa lìa các cõi ác. Tất sẽ dứt hẳn các đường ác súc sinh. Tất sẽ chuyển dời trừ khử cõi Diêm La Vương, khiến cho không còn nữa. Tất sẽ đóng bít cửa các xứ nạn. Tất sẽ làm khô cạn tất cả các biển ái dục, khiến cho chúng sinh không còn bị ái dục nuốt chửng, mà thoát khỏi biển khổ sinh tử. Tất sẽ khiến chúng sinh diệt hẳn khổ năm uẩn, không còn bị thiêu đốt. Tất sẽ vĩnh viễn phá tan vô minh đen tối. Tất sẽ dứt hẳn tham ái ràng buộc. Ai không được tự do, đều bị gông cùm tham ái khoá chặc, nếu từ bỏ được tham ái, thì tất cả đều được tự do. Vị đồng tử nầy tất sẽ dùng phước đức núi đại Luân Vi bao bọc chúng sinh thế gian. Thế giới chúng ta đây cũng được núi Thiết Vi bao bọc, ở giữa núi Thiết Vi có một biển nước mặn, trong biển nước mặn có bốn châu lớn, lại có bảy tầng núi vàng, bảy biển hương thuỷ, chính giữa là núi Tu Di. Trong núi đại Luân Vi, lại có biển thế giới nhiều bất khả thuyết. Vị đồng tử nầy tất sẽ dùng trí huệ báu lớn như núi Tu Di hiển bày cho chúng sinh thế gian. Tất sẽ xuất hiện mặt trời trí huệ thanh tịnh. Tất sẽ khai thị tất cả chúng sinh căn lành pháp tạng. Tất sẽ khiến cho tất cả chúng sinh thế gian biết rõ thế nào là hiểm nguy? Thế nào là dễ dàng, khiến cho họ minh bạch được chánh tà”.

Bấy giờ, Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa bảo các Tiên chúng rằng: Thiện nam tử! Nếu có người nào phát được tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, thì tất sẽ thành tựu đạo nhất thiết trí. Vị thiện nam tử nầy, đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, sẽ thanh tịnh tất cả công đức của Phật địa.

Lúc đó, Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa bảo các Tiên chúng rằng: “Thiện nam tử! Nếu có người nào phát được tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, thì tương lai họ nhất định sẽ thành tựu đạo nhất thiết trí. Vị Thiện Tài đồng tử nầy, đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tương lai chắc chắn sẽ thanh tịnh tất cả công đức của Phật địa, mà chứng được quả Phật”.

Bấy giờ, Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát Bồ Tát Vô thắng tràng.
Thiện Tài bạch rằng: Đức Thánh! Cảnh giới giải thoát Vô thắng tràng như thế nào?

Lúc đó, Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta đã đắc được pháp môn giải thoát Bồ Tát Vô thắng tràng”. Tràng nghĩa là biểu thị đồng chân tịnh trí, biến hoá tự tại, cao xuất công dụng và phá tan sự hoài nghi. Vô thắng là tướng, hoặc bất động.

Thiện Tài bạch rằng: “Đức Thánh! Cảnh giới pháp môn giải thoát Vô thắng tràng như thế nào”?

Bấy giờ, Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa liền giơ tay phải rờ đầu Thiện Tài, cầm tay Thiện Tài, thì lập tức Thiện Tài tự thấy thân mình, đi đến các thế giới trong mười phương, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật. Đến chỗ các đức Phật nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật. Thấy các đức Phật đó và chúng hội của các Ngài, chư Phật tướng tốt, đủ thứ sự trang nghiêm, cũng nghe các đức Phật đó tuỳ tâm ưa thích của các chúng sinh mà diễn nói pháp, từng câu từng chữ, thảy đều thông đạt, đều thọ trì khác nhau, không có tán loạn.

Lúc đó, Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa liền giơ tay phải rờ đầu Thiện Tài, lại dùng tay trái cầm tay Thiện Tài. Cầm tay là biểu thị truyền thọ cho, đồng thời cũng biểu thị từ bi. Đây là đạo lý lực nhiếp vô lực của Kinh Hoa Nghiêm. Tri thức có lực, lực nhiếp vô lực, khiến cho Thiện Tài thấy được đủ thứ cảnh giới thù diệu dưới đây. Nếu Thiện Tài có lực, thì Tiên nhơn vô lực, lực nhiếp vô lực, sở chứng của Tiên nhơn, Thiện Tài đều đắc được, cho nên hổ tương nhiếp trì. Lúc đó, lập tức Thiện Tài tự thấy thân mình phát sinh biến hoá kỳ diệu, đi đến các thế giới trong mười phương nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật. Thiện Tài đồng tử nhập định rồi, đến chỗ đạo tràng các đức Phật nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật. Nhìn thấy cõi nước các đức Phật đó và chúng hội của các Ngài, và ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của chư Phật, cùng với đủ thứ sự trang nghiêm. Đồng thời cũng nghe các đức Phật đó, tuỳ thuận tâm ưa thích của các chúng sinh mà diễn nói pháp, từng câu từng chữ, Thiện Tài thảy đều thông đạt, đều thọ trì nơi tâm, nghĩ nhớ không quên, chẳng có tạp loạn.

Cũng biết các đức Phật đó, dùng đủ thứ sự hiểu biết, tịnh trị các nguyện. Cũng biết các đức Phật đó, dùng nguyện thanh tịnh, thành tựu các lực. Cũng thấy các đức Phật đó, tuỳ tâm chúng sinh hiện ra sắc tướng. Cũng thấy lưới đại quang minh của các đức Phật đó, đủ thứ các màu sắc, thanh tịnh viên mãn. Cũng biết các đức Phật đó, trí huệ đại quang minh lực vô ngại. 
Lại nữa, con mắt thấy thân, ở chỗ các đức Phật, trải qua một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm. Hoặc trải qua ức năm, hoặc A du đa ức năm, hoặc Na do tha ức năm. Hoặc trải qua nửa kiếp, hoặc trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật.

Thiện Tài đồng tử lại biết các đức Phật đó dùng đủ thứ sự hiểu biết, để thanh tịnh trị lý tất cả các nguyện. Lại biết các đức Phật đó dùng nguyện thanh tịnh, để thành tựu mười lực. Lại nhìn thấy các đức Phật đó tuỳ thuận tâm chúng sinh, mà thị hiện ra sắc tướng, để giáo hoá chúng sinh. Lại nhìn thấy lưới đại quang minh của các đức Phật đó, đủ thứ các màu sắc khác nhau, đều thanh tịnh viên mãn. Lại biết trí huệ đại quang minh lực vô ngại của các đức Phật đó. Thiện Tài đồng tử lại tận mắt thấy thân của mình, ở trong đạo tràng của các đức Phật, trải qua một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, mười năm, trăm năm ngàn năm. Hoặc trải qua ức năm, hoặc A du đa ức năm, hoặc Na do tha ức năm. Hoặc trải qua nửa kiếp, hoặc trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật.

Trong Phẩm Hạnh Phổ Hiền thứ ba mươi sáu có nói : “Thấu đạt các thế gian, giả danh không có thật, chúng sinh và thế giới, như mộng như hình bóng. Đối với các pháp thế gian, chẳng sinh thấy phân biệt, khéo lìa chấp phân biệt, cũng chẳng thấy phân biệt. Vô lượng vô số kiếp, hiểu tức là một niệm, biết niệm cũng không niệm, như vậy thấy thế gian. Vô lượng các cõi nước, một niệm đều vượt qua, trải qua vô lượng kiếp, chẳng động nơi bổn xứ. Không thể nói các kiếp, tức khoảnh khắc tu du”. Đoạn kinh văn nầy miêu tả cảnh giới trải qua của Thiện Tài đồng tử.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử vì được trí quang minh giải thoát Bồ Tát Vô thắng tràng chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh tỳ lô giá na tạng. Vì được tam muội quang minh Vô tận trí giải thoát chiếu đến, nên đắc được Đà la ni quang minh Phổ nhiếp các phương. Vì được Đà la ni quang minh Kim cang luân chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh cực thanh tịnh trí huệ tâm. Vì được Bát Nhã Ba La Mật quang minh Phổ môn trang nghiêm tạng chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh Phật hư không tạng luân. Vì được tam muội quang minh Nhất thiết Phật Pháp luân chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh Ba đời vô tận trí.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử vì được trí huệ quang minh giải thoát Bồ Tát Vô thắng tràng của Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh tỳ lô giá na tạng (chiếu khắp tất cả mọi nơi). Lại vì được tam muội Quang minh vô tận trí giải thoát chiếu đến, nên đắc được Đà la ni quang minh Phổ nhiếp các phương. Lại vì được Đà la ni quang minh Kim cang luân chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh cực thanh tịnh trí huệ tâm. Vì được Bát Nhã Ba La Mật quang minh Phổ môn trang nghiêm tạng chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh Phật hư không tạng luân. Vì được tam muội Quang minh Nhất thiết Phật Pháp luân chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh Ba đời vô tận trí. Đây là do đắc được hư không tạng luân, tức tất cả Phật pháp viên mãn tịch chiếu. Dùng trí huệ chiếu tâm nầy, thì trí cùng khắp ba đời, vô tận nguồn pháp.

Bấy giờ, vị Tiên nhơn đó buông tay Thiện Tài, Thiện Tài đồng tử liền thấy thân mình vẫn ở chỗ cũ.

Lúc đó, vị Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa buông tay Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài đồng tử liền thấy thân mình vẫn ở chỗ cũ, chẳng đi đến mười phương thế giới. Đó là xa gần vô ngại, niệm kiếp viên dung, đều là sức lực pháp môn viên giáo thiện hữu. Do đó có câu:

“Một niệm làm vô lượng kiếp
Vô lượng kiếp làm một niệm”.

Chẳng dời chỗ của mình, mà đến khắp mười phương. Cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm huyền diệu như vậy đó, không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận!

Bấy giờ, vị Tiên nhơn đó bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử! Ngươi có ghi nhớ chăng?
Thiện Tài nói: Dạ nhớ! Đó là nhờ sức của đức Thánh thiện tri thức.

Lúc đó, vị Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa hỏi Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ngươi có ghi nhớ cảnh giới vừa mới trải qua chăng”?

Thiện Tài nói: “Dạ con nhớ! Đó là nhờ sức của đức Thánh thiện tri thức, cho nên mới khiến cho con nhìn thấy được cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế”.

Tiên nhơn nói: Thiện nam tử! Ta chỉ biết giải thoát Bồ Tát Vô thắng tràng nầy. Như các đại Bồ Tát thành tựu tất cả tam muội thù thắng. Tất cả mọi thời, đều được tự tại. Trong khoảng một niệm, sinh ra vô lượng trí huệ của chư Phật. Dùng đèn trí huệ của Phật, để trang nghiêm, chiếu khắp thế gian. Một niệm vào khắp cảnh giới ba đời. Phân thân đi đến cõi nước mười phương. Trí thân vào khắp tất cả pháp giới. Tuỳ tâm chúng sinh, khắp hiện ra ở trước họ. Quán sát căn hạnh của họ, mà làm lợi ích. Phóng quang minh thanh tịnh, rất đáng ưa thích. Mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó, nguyện thù thắng đó, cõi trang nghiêm đó, cảnh giới trí huệ đó, sở hành tam muội đó, thần thông biến hoá đó, giải thoát du hí đó, thân tướng khác biệt đó, âm thanh thanh tịnh đó, trí huệ quang minh đó.

Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa nói: “Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn giải thoát Bồ Tát vô thắng tràng nầy. Như tất cả các đại Bồ Tát đã thành tựu tất cả tam muội thù thắng. Tất cả mọi thời, đều được tự tại. Trong khoảng một niệm, sinh ra vô lượng trí huệ của chư Phật. Dùng đèn trí huệ của Phật, để trang nghiêm, để chiếu khắp tất cả thế gian. Dùng một niệm vào khắp cảnh giới ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Lại có thể phân thân đi đến cõi nước mười phương. Có thể dùng trí huệ thân vào khắp tất cả pháp giới. Tuỳ thuận tâm chúng sinh, khắp hiện ra ở trước họ. Lại quán sát căn hạnh của chúng sinh, mà làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lại phóng ra quang minh thanh tịnh, rất đáng ưa thích. Đủ thứ cảnh giới như vậy, mà ta làm sao biết được, diễn nói được, những hạnh công đức đó, nguyện thù thắng đó, cõi Phật trang nghiêm đó, cảnh giới trí huệ đó, sở hành tam muội đó, thần thông biến hoá đó, giải thoát du hí đó, thân tướng khác biệt đó, âm thanh thanh tịnh đó, trí huệ quang minh đó. Những cảnh giới không thể nghĩ bàn đó, ta làm sao nói hết được”!

Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một thôn xóm, tên là Y Sa Na. Có vị Bà La Môn tên là Thắng Nhiệt. Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa nói tiếp: “Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một thôn xóm, tên là Y Sa Na. Có vị Bà La Môn tên là Thắng Nhiệt. Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo”?

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử hoan hỉ vui mừng, đảnh lễ Tiên nhơn, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ đi về hướng nam.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử hoan hỉ vui mừng, vì nhờ Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa mà đắc được pháp ích thù thắng, cho nên hướng về vị Tiên nhơn đảnh lễ, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng thiện tri thức. Sau đó hướng về vị Tiên nhơn từ tạ đi về hướng nam, tìm vị thiện tri thức khác.

 

9. BÀ LA MÔN THẮNG NHIỆT  PHÓ THÁC THỨ CHÍN VƯƠNG TỬ TRỤ

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử, do nhờ giải thoát Bồ Tát Vô thắng tràng chiếu đến, nên trụ thần lực không thể nghĩ bàn của chư Phật. Chứng được giải thoát thần thông trí không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Đắc được tam muội trí huệ quang minh không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Đắc được tam muội trí huệ quang minh huân tu tất cả mọi thời. Đắc được biết rõ tất cả cảnh giới, đều nương theo tưởng trụ tam muội trí huệ quang minh. Đắc được trí huệ quang minh thù thắng tất cả thế gian. Nơi tất cả mọi nơi, đều hiện thân mình. Dùng trí huệ cứu kính, nói pháp bình đẳng không hai không phân biệt. Dùng trí sáng tịnh, chiếu khắp pháp giới. Phàm ai nghe pháp, đều nhẫn thọ được, tin hiểu thanh tịnh. Đối với tự tánh của pháp, quyết định thấu rõ. Tâm luôn chẳng bỏ diệu hạnh Bồ Tát.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử, do nhờ môn giải thoát Bồ Tát vô thắng tràng chiếu sáng, nên trụ sức thần thông biến hoá không thể nghĩ bàn của chư Phật. Chứng được giải thoát thần thông trí huệ không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Lại đắc được tam muội trí huệ quang minh không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Lại đắc được tam muội trí huệ quang minh huân tu tất cả mọi thời. Lại đắc được biết rõ tất cả cảnh giới, đều nương vọng tưởng mà trụ tam muội trí huệ quang minh, nếu không có vọng tưởng thì sẽ minh bạch tất cả cảnh giới đều không.

Thiện Tài đồng tử lại đắc được trí huệ quang minh thù thắng tất cả thế gian. Lại có thể đối với tất cả mọi nơi, đều hiện thân. Dùng trí huệ cứu kính, diễn nói pháp bình đẳng không hai không phân biệt. Ngài lại dùng trí huệ quang minh thanh tịnh, chiếu khắp hết thảy pháp giới. Bất cứ nghe được pháp, Ngài đều hoàn toàn nhẫn thọ được, mà chẳng sợ hãi. Ngài lại có niềm tin hiểu biết thanh tịnh. Đối với tự tánh của pháp, đủ sự quyết định thấu rõ, chẳng có chút nào hàm hồ hoài nghi, trong tâm luôn luôn chẳng bỏ diệu hạnh của Bồ Tát tu hành.

Cầu nhất thiết trí, vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Đắc được mười lực trí huệ quang minh. Siêng cầu diệu pháp, thường không nhàm đủ. Dùng chánh tu hành, vào cảnh giới của Phật. Sinh ra vô lượng trang nghiêm của Bồ Tát. Vô biên đại nguyện, đều đã thanh tịnh. Dùng trí huệ vô cùng tận, biết vô biên lưới thế giới. Dùng tâm không khiếp nhược, để độ vô lượng biển chúng sinh. Thấu rõ vô biên cảnh giới các hạnh của Bồ Tát. Thấy đủ thứ sự khác biệt của vô biên thế giới. Thấy đủ thứ sự trang nghiêm của vô biên thế giới. Vào vô biên thế giới cảnh giới vi tế. Biết đủ thứ danh hiệu của vô biên thế giới. Biết đủ thứ lời nói trong vô biên thế giới. Biết vô biên chúng sinh đủ thứ kiến giải. Thấy đủ thứ hạnh của vô biên chúng sinh. Thấy hạnh thành thục của vô biên chúng sinh. Thấy tư tưởng khác biệt của vô biên chúng sinh.

Thiện Tài đồng tử vì cầu nhất thiết trí huệ, mà tâm vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Ngài lại đắc được mười lực trí huệ quang minh của Phật, thời thời khắc khắc siêng cầu diệu pháp, tâm thường không khi nào nhàm đủ. Lại dùng chân chánh tu hành, để vào sâu cảnh giới của Phật, hay sinh ra vô lượng trang nghiêm của Bồ Tát, vô biên đại nguyện, đều đã hoàn toàn thanh tịnh viên mãn. Lại dùng trí huệ vô cùng tận, biết rõ vô biên lưới thế giới. Mỗi thế giới và những thế giới khác nhiếp trì với nhau, hình thành vô biên lưới thế giới. Lưới thế giới nầy tuy xen lẫn phức tạp, nhưng làm thành lưới thế giới. Lại nói: “Chúng sinh đủ thứ nghiệp, thế giới vô lượng thứ, chấp trước sinh trong đó, thọ khổ vui khác nhau”. Tất cả cõi nước, đều do tâm chúng sinh hiện ra. Chúng sinh có nghiệp khác nhau, nên thọ quả báo và cõi nước mình ở khác nhau. Mà Thiện Tài đồng tử đã minh bạch vô biên lưới thế giới nầy. Ngài lại dùng tâm không khiếp nhược, để độ vô lượng biển chúng sinh. Ngài thấu rõ vô biên cảnh giới các hạnh của Bồ Tát. Ngài thấy vô biên thế giới đủ thứ sự khác biệt, thấy vô biên thế giới đủ thứ sự trang nghiêm. Đó là: “Các cõi không nghĩ bàn, thế giới không bờ mé, đủ thứ trang nghiêm đẹp, đều do sức đại Tiên”. Lại nói: “Tạp nhiễm và thanh tịnh, vô lượng các thứ cõi, tuỳ tâm chúng sinh khởi, sức Bồ Tát gia trì”. Ngài lại vào những cảnh giới vi tế của vô biên thế giới. Lại biết đủ thứ danh hiệu của vô biên thế giới. Lại biết đủ thứ lời nói trong vô biên thế giới. Lại biết đủ thứ kiến giải của vô biên chúng sinh. Lại thấy đủ thứ hạnh của vô biên chúng sinh. Lại thấy hạnh tu hành thành thục của vô biên chúng sinh. Lại thấy tư tưởng khác biệt của vô biên chúng sinh.

Thiện Tài đồng tử nghĩ nhớ thiện tri thức, từ từ đi du hành, đến thôn xóm Y Sa Na. Thấy vị Thắng Nhiệt đó, tu các khổ hạnh, cầu nhất thiết trí. Bốn phía đều có đống lửa lớn, cao như núi lớn. Ở giữa có núi đao, cao vút vô cực. Vị Thắng Nhiệt đứng trên núi đó, nhảy vào trong đống lửa.

Thiện Tài đồng tử một lòng chuyên nghĩ nhớ lời dạy của thiện tri thức, từ từ đi du hành, đến thôn xóm Y Sa Na. Y Sa Na dịch là “trưởng trực”. “Trưởng” là biểu thị khéo biết tam tế. “Trực” là khéo biết thắng nghĩa. Thiện Tài đồng tử nhìn thấy vị Thắng Nhiệt Ba La Môn, đang ở đó tu các khổ hạnh, cầu nhất thiết trí huệ. Bốn phía đều có lửa lớn, cao như núi lớn. Ở giữa lại có núi đao, cao vút vô cực. Lúc đó, vị Thắng Nhiệt Bà La Môn đứng trên núi đó, nhảy vào trong đống lửa.

Vị Thắng Nhiệt Bà La Môn đó, thị hiện một thứ khổ hạnh của ngoại đạo Ấn Độ. Trong năm nhiệt, thành tựu hạnh thắng nhiệt. Ngài chẳng bị phiền não làm nhiệt não, nên thành thắng đức. Lại chẳng nhiễm phiền não, thành hạnh thanh tịnh.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Thắng Nhiệt, chắp tay đứng mà nói như vầy: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh khéo chỉ dạy, xin hãy vì con mà nói.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Thắng Nhiệt, chắp tay lại mà đứng, bèn nói như vầy: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe vị Tỳ Mục Cù Sa giới thiệu Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy, xin hãy vì con mà diễn nói diệu pháp”.

Thắng Nhiệt Bà La Môn nói: Thiện nam tử! Nay nếu ngươi có thể từ trên núi đao nầy, nhảy vào trong đống lửa, thì các hạnh Bồ Tát, đều được thanh tịnh.

Thắng Nhiệt Bà La Môn nói: “Thiện nam tử! Nay nếu ngươi có thể từ trên núi đao nầy, nhảy vào trong đống lửa lớn, thì tất cả các hạnh Bồ Tát, đều được thanh tịnh”. Đó là Bà La Môn khảo nghiệm Thiện Tài đồng tử. Vị Bà La Môn nầy tu khổ hạnh ngũ nhiệt đốt thân, tức đống lửa bốn phía, lại thêm trên đầu có mặt trời. Lửa nầy chẳng phải là lửa bình thường, mà là lửa Bát Nhã, nên hay thiêu đốt củi si hoặc. Giữa có núi đao, biểu thị trí không phân biệt, hợp với trung đạo, chặt đứt tất cả tà kiến và biên kiến, là một thứ đức giải thoát. Ngọn núi cao vút vô cực, biểu thị cao vô thượng, khó có thể leo lên. Lửa có bốn ý nghĩa:

1. Thiêu đốt củi phiền não.
2. Phá tối vô minh.
3. Thành thục căn lành.
4. Chiếu hiện chứng lý.

Và đao đại biểu đoạn đức, vì chẳng có gì mà không chặt đứt. Lửa là trí đức, vì chẳng có gì mà chẳng chiếu. Ý nghĩa nhảy vào trong đống lửa là vì chướng hết thì chứng lý, mà lý tức là pháp thân.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử bèn nghĩ như vầy: Được thân người là khó. Lìa các nạn là khó. Được không có nạn là khó. Được pháp thanh tịnh là khó. Được gặp Phật là khó. Đủ các căn là khó. Nghe Phật pháp là khó. Gặp người lành là khó. Gặp chân thiện tri thức là khó. Thọ như lý chánh giáo là khó. Được chánh mạng là khó. Theo pháp hành là khó. Phải chăng đây là ma? Bị ma sai xử chăng? Phải chăng là đồ đảng hiểm ác của ma, trá hiện tướng Bồ Tát thiện tri thức, muốn làm khó căn lành của tôi? Làm khó thọ mạng, chướng ngại sự tu hành đạo nhất thiết trí của tôi? Muốn kéo tôi vào trong các đường ác, muốn chướng ngại pháp môn của tôi, chướng ngại Phật pháp của tôi?

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bèn nghĩ như vầy: “Nếu mình ở trên núi đao nhảy vào trong đống lửa, thì chẳng phải ta sẽ mất đi thân nầy chăng? Tôi được thân người nầy chẳng dễ dàng. Lìa khỏi các tai nạn rất là khó, hà huống bị lửa thiêu đốt, thì đó chẳng phải là nạn lửa chăng? Tôi phải lìa bỏ nạn lửa nầy, sao ông ta lại kêu mình nhảy vào trong đống lửa? Đây là không đúng! Hơn nữa, nếu được không có nạn là rất khó. Muốn đắc được pháp thanh tịnh cũng rất là khó. Được gặp Phật cũng rất là khó. Đầy đủ các căn cũng rất là khó. Nghe được Phật pháp cũng rất là khó. Gặp được người lành cũng rất là khó. Gặp được chân chánh thiện tri thức cũng rất là khó. Đắc được sự giáo hoá chân chánh hợp lý cũng rất là khó. Muốn được chánh mạng cũng rất là khó. Tuỳ thuận theo pháp tu hành cũng rất là khó. Phải chăng vị Thắng Nhiệt Bà La Môn nầy là ma? Phải chăng ông ta là ma vương chăng? Có phải ma kêu ông ta đến thử nghiệm ta chăng? Hoặc ông ta chẳng phải ma? Có thể là đồ đảng hiểm ác của ma, trá hiện tướng Bồ Tát thiện tri thức, muốn làm khó căn lành của tôi? Hoặc làm khó thọ mạng, chướng ngại sự tu hành đạo nhất thiết trí của tôi? Muốn kéo tôi vào trong các đường ác, muốn chướng ngại pháp môn tu hành của tôi, chướng ngại học tập Phật pháp của tôi”?

Thiện Tài đồng tử khởi lên đủ thứ hoài nghi ở trên, chẳng phải vì Ngài chẳng thương tiếc thân mạng xả bỏ chẳng được, mà là sợ rằng mất đi đạo duyên. Đây cũng là biểu thị trí huệ chưa sâu, chưa viên mãn, nên khi thiện tri thức khảo nghiệm, bèn sinh ra đủ thứ hoài nghi.

Khi Thiện Tài đồng tử đang nghĩ như thế, thì có mười ngàn vị Phạm Thiên, ở trong hư không, nói như vầy: Thiện nam tử! Đừng có nghĩ như thế! Đừng có nghĩ như thế! Nay đức Thánh nầy, đắc được quang minh tam muội kim cang diệm, phát đại tinh tấn, độ các chúng sinh, tâm không thối chuyển. Muốn khô cạn tất cả biển tham ái. Muốn chặt đứt tất cả lưới tà kiến. Muốn thiêu đốt tất cả củi phiền não. Muốn chiếu sáng tất cả rừng mê hoặc. Muốn dứt tất cả sợ sinh tử. Muốn hoại tất cả chướng ba đời. Muốn phóng quang minh tất cả pháp.

Khi Thiện Tài đồng tử nghĩ như thế, thì có mười ngàn vị Phạm Thiên, ở trong hư không, đến để làm chứng họ nói như vầy: “Thiện nam tử! Ngươi đừng có nghĩ tưởng như thế! Đừng có nghĩ tưởng như thế! Hiện tại vị Thắng Nhiệt Bà La Môn đức Thánh nầy, Ngài đã đắc được quang minh tam muội kim cang diệm. Ngài phát tâm đại tinh tấn, để độ thoát tất cả chúng sinh, tâm không sinh khởi chút thối chuyển nào. Ngài muốn khô cạn tất cả biển tham ái. Ngài lại muốn chặt đứt tất cả lưới tà kiến của chúng sinh. Ngài muốn thiêu đốt tất cả củi phiền não của chúng sinh. Ngài muốn chiếu sáng tất cả rừng mê hoặc của chúng sinh. Ngài muốn dứt trừ tất cả sự sợ hãi sinh tử của chúng sinh. Ngài muốn hoại tất cả chướng ngại ba đời. Ngài muốn phóng quang minh tất cả pháp, để chiếu soi nơi đen tối của chúng sinh”.

Thiện nam tử! Các Phạm Thiên chúng tôi, phần nhiều chấp tà kiến, đều tự cho rằng là người tự tại. Là người sáng tạo. Ở trong thế gian, mình là tối thắng. Khi thấy được vị Ba La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì nơi cung điện của mình, tâm chẳng còn vui chấp trước. Nơi các thiền định, chẳng được từ vị, đều cùng nhau đi đến chỗ Bà La Môn. 
Bấy giờ, vị Bà La Môn dùng sức thần thông, thị hiện đại khổ hạnh, vì chúng tôi nói pháp. Khiến cho chúng tôi diệt được tất cả kiến, trừ được tất cả kiêu mạn. Trụ nơi đại từ, thực hành đại bi. Khởi tâm rộng lớn, phát tâm bồ đề, thường thấy chư Phật, luôn nghe diệu pháp. Tất cả mọi nơi, tâm không còn chướng ngại. 

Thiện nam tử! Các Phạm Thiên chúng tôi, phần nhiều đều có một thứ tà kiến, đều tự cho rằng là người tự tại. Là vị chủ tể sáng tạo vạn vật, cho rằng ở trong thế gian, chúng tôi là tối thù thắng. Nhưng khi thấy được cảnh giới của vị Ba La Môn dùng năm thứ lửa để đốt thân Ngài, thì ở cung điện của chúng tôi, trong tâm chẳng còn khoái lạc của thiền định, chẳng còn được từ vị. Cho nên chúng tôi đều cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn dùng sức thần thông, thị hiện đại khổ hạnh, vì chúng tôi nói pháp, khiến cho chúng tôi diệt trừ được tất cả tà tri tà kiến, trừ được tất cả ngã mạn, mà trụ nơi đại từ, thực hành pháp môn đại bi, khởi tâm rộng lớn, phát tâm bồ đề, thường thấy được chư Phật, luôn nghe được diệu pháp. Tất cả mọi nơi, trong tâm không còn chướng ngại.

Lại có mười ngàn các ma, ở trong hư không, dùng ma ni báu trời, rải ở trên vị Bà La Môn, bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì ánh sáng lửa đó, sáng rực che lấp hết thảy cung điện, các đồ trang nghiêm của chúng tôi đều như đống mực đen. Khiến cho chúng tôi ở trong đó, chẳng sinh ưa thích, chúng tôi và quyến thuộc đi đến chỗ Bà La Môn. Vị Bà La Môn đó vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho chúng tôi và vô lượng Thiên tử, các Thiên nữ khác, đều được chẳng thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Lúc đó, lại có mười ngàn các thiên ma, ở trong hư không, dùng ma ni báu trời, rải ở trên thân vị tu hành thanh tịnh Thắng Nhiệt Bà La Môn, sau đó nói với Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Khi vị Thắng Nhiệt Bà La Môn dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, sáng rực che lấp hết thảy cung điện các đồ trang nghiêm của chúng tôi đều như đống mực đen. Khiến cho lũ thiên ma chúng tôi ở trong đó, tâm đều chấp trước chẳng sinh hoan hỉ, cho nên chúng tôi và tất cả quyến thuộc đều đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn vì chúng tôi thuyết diệu pháp, khiến cho chúng tôi và vô lượng Thiên tử và các Thiên nữ khác, đều được chẳng thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

Hiện tại Phật giáo đồ ở châu á, đều có một quan niệm sai lầm, cho rằng đi tìm sư phụ học đạo càng nhiều thì càng tốt. Song, đi tìm học càng nhiều sư phụ, thì họ nổi giận vị sư phụ trước kia càng lớn. Vì trước kia vị sư phụ đó, chẳng muốn họ đi tìm một vị sư phụ khác. Mà vị đệ tử tự cảm thấy vị sư phụ của họ trước kia chẳng đủ tư cách, hoặc chẳng có thần thông, hoặc chẳng có đạo đức, hoặc chẳng có học vấn, cho nên họ muốn đi tìm một vị sư phụ khác, đây gọi là lạy một vị sư phụ. Những người đó còn cho rằng học tập theo Thiện Tài đồng tử đi tìm thầy học đạo, sẽ có rất nhiều công đức. Đây là lối nghĩ sai lầm! Mỗi lần Thiện Tài đồng tử tìm đến một vị thiện tri thức, đều được vị thiện tri thức trước đó giới thiệu, chứ chẳng phải tự ý Ngài đi tìm vị thiện tri thức khác, chỗ khác nhau là ở điểm nầy.

Lại có mười ngàn vị Tự Tại Thiên Vương, ở trong hư không, đều rải hoa trời, nói như vầy: Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy, dùng năm thứ lửa đốt thân, thì ánh sáng lửa đó, sáng rực che lấp hết thảy cung điện, các đồ trang nghiêm của chúng tôi đều như đống mực đen. Khiến cho chúng tôi ở trong đó, chẳng sinh tâm vui thích, bèn cùng với quyến thuộc, đi đến chỗ vị Bà La Môn. Vị Bà La Môn nầy vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho tâm chúng tôi đắc được tự tại. Ở trong phiền não mà đắc được tự tại. Ở trong thọ sinh mà đắc được tự tại. Nơi các nghiệp chướng mà đắc được tự tại. Nơi các tam muội mà đắc được tự tại. Nơi các đồ trang nghiêm mà đắc được tự tại. Ở trong thọ mạng mà đắc được tự tại, cho đến đối với tất cả Phật pháp đều đắc được tự tại.        

Lại có mười ngàn vị Tự Tại Thiên Vương, ở trong hư không, đều rải hoa trời, sau đó nói như vầy: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn tu hạnh thanh tịnh nầy, dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, sáng rực che lấp hết thảy cung điện các đồ trang nghiêm của chúng tôi, đều như đống mực đen. Khiến cho chúng tôi ở trong đó, chấp trước chẳng còn sinh tâm hoan hỉ, chẳng còn vui thích hưởng thọ. Cho nên chúng tôi lập tức cùng với quyến thuộc, đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Vị Bà La Môn nầy vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho tâm chúng tôi đắc được tự tại. Ở trong tất cả phiền não tập khí, cũng đắc được tự tại. Ở trong thọ sinh cũng đắc được tự tại. Nơi các nghiệp chướng cũng đắc được tự tại. Ở trong các tam muội cũng đắc được tự tại. Nơi các đồ trang nghiêm cũng đắc được tự tại. Ở trong thọ mạng cũng đắc được tự tại, cho đến đối với tất cả Phật pháp đều đắc được tự tại, pháp hỉ sung mãn.

Lại có mười ngàn Hoá Lạc Thiên Vương, ở trong hư không, tấu âm nhạc trời, cung kính cúng dường, nói như vầy: Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì ánh sáng lửa đó, chiếu đến cung điện các đồ trang nghiêm của chúng tôi, và các thể nữ, khiến cho chúng tôi chẳng thọ dục lạc, chẳng cầu dục lạc, thân tâm nhu nhuyến. Bèn với đại chúng tụ lại, đi đến chỗ vị Bà La Môn. 

Bấy giờ, vị Bà La Môn vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho chúng tôi tâm được thanh tịnh, tâm được sáng sạch, tâm được thuần thiện, tâm được nhu nhuyến, tâm sinh hoan hỉ, cho đến khiến cho đắc được mười lực thanh tịnh, thân thanh tịnh, sinh vô lượng thân, cho đến khiến cho đắc được thân Phật, lời Phật, tiếng Phật, tâm Phật, thành tựu đầy đủ trí nhất thiết trí.

Lại có mười ngàn vị Hoá Lạc Thiên Vương, ở trong hư không, tấu âm nhạc trời. Trời Hoá Lạc là tầng trời thứ năm của sáu tầng trời cõi dục. Ở trên cõi trời đó, nghĩ y phục thì có y phục, nghĩ thức ăn thì có thức ăn, tất cả đều do tâm ý mà hoá hiện. Người trời hưởng thọ phước báu vô tận, nhưng ở đây chẳng phải là nơi tu đạo rốt ráo. Vì khi hưởng hết phước trời thì sẽ đoạ lạc, thọ sinh tử luân hồi.

Mười ngàn vị Hoá Lạc Thiên Vương nầy, dùng âm nhạc cung kính cúng dường vị Bà La Môn rồi, bèn nói như vầy: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, chiếu đến cung điện tất cả các đồ trang nghiêm của chúng tôi, và các thể nữ, khiến cho chúng tôi chẳng thọ dục lạc, chẳng còn chấp trước vào khoái lạc dục niệm nữa, không còn truy cầu thứ dục lạc đó nữa, thân tâm đều rất thư thái nhu nhuyến. Cho nên chúng tôi lập tức cùng với đại chúng tụ lại, cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn. Lúc đó, vị Bà La Môn vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho chúng tôi tâm được thanh tịnh, tâm được sáng sạch, tâm được thuần thiện, khiến cho tâm được nhu nhuyến, khiến cho tâm sinh đại hoan hỉ, cho đến khiến cho tâm đắc được mười lực thanh tịnh, thân thanh tịnh, mà sinh vô lượng thân, cho đến khiến cho chúng tôi đắc được thân Phật, tức là quả vị Phật, và đắc được lời Phật, tiếng Phật, tâm Phật, mà thành tựu đầy đủ trí nhất thiết trí huệ”.

Lại có mười ngàn vị Đâu Suất Thiên Vương, Thiên tử, Thiên nữ, vô lượng quyến thuộc, ở trong hư không, mưa xuống các hương thơm vi diệu, cung kính đảnh lễ, nói như vầy: Thiện nam tử! Khi vị Bà La môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì khiến cho chư Thiên chúng tôi và quyến thuộc, ở tại cung điện của mình, chẳng còn vui thích, bèn cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Nghe vị Bà La Môn thuyết pháp, khiến cho chúng tôi chẳng còn tham cảnh giới, ít dục biết đủ, tâm sinh hoan hỉ, tâm được sung mãn, sinh các căn lành, phát tâm bồ đề, cho đến viên mãn tất cả Phật pháp.

Lại có mười ngàn vị Đâu Suất Thiên Vương (trời Tri Túc), Thiên tử, Thiên nữ và vô lượng các quyến thuộc, ở trong hư không, mưa xuống các hương thơm vi diệu, để cung kính đảnh lễ vị Bà La Môn đức Thánh đó. Sau đó nói như vầy: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, khiến cho chư Thiên chúng tôi và quyến thuộc, ở tại cung điện của mình, chẳng còn chấp trước sự vui thích. Cho nên chúng tôi đại chúng bèn cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy, để nghe vị Bà La Môn nầy thuyết pháp, khiến cho chúng tôi chẳng còn tham trước cảnh giới vui thích, dục niệm cũng giảm bớt, mà luôn luôn biết đủ an vui, tâm sinh hoan hỉ, tâm được sung mãn, sinh trưởng tất cả căn lành, phát tâm đại bồ đề, cho đến viên mãn tất cả Phật pháp”.

Lại có mười ngàn vị Tam Thập Tam Thiên cùng với quyến thuộc, Thiên tử, Thiên nữ, vây quanh trước sau. Ở trong hư không, mưa xuống hoa mạn đà la, cung kính cúng dường, nói như vầy: Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì khiến cho chư Thiên chúng tôi, đối với âm nhạc trời, chẳng còn sinh tâm ưa thích. Đều cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn. 

Bấy giờ, vị Bà La Môn vì chúng tôi nói tất cả các pháp, vô thường tán hoại, khiến cho chúng tôi xả lìa tất cả dục lạc, khiến cho chúng tôi dứt trừ kiêu mạn phóng dật, khiến cho chúng tôi ưa thích vô thượng bồ đề. 

Lại nữa, thiện nam tử! Khi chúng tôi thấy vị Bà La Môn nầy, thì đỉnh núi Tu Di có sáu thứ chấn động, chúng tôi sợ hãi, đều phát tâm bồ đề, kiên cố bất động.

Lại có mười ngàn vị Thiên chủ Tam Thập Tam Thiên (ở trên đỉnh núi Tu Di) cùng với quyến thuộc của họ, Thiên tử và Thiên nữ, vây quanh trước sau. Ở trong hư không, mưa xuống hoa mạn đà la để cung kính cúng dường vị Bà La Môn, sau đó nói như vầy: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn đức Thánh nầy, dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, khiến cho chư Thiên chúng tôi, đối với âm nhạc trời, chẳng còn chấp trước sinh tâm ưa thích. Cho nên chúng tôi đều cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn vì chúng tôi nói tất cả các pháp, đều là vô thường, vô ngã, tán hoại. Khiến cho chúng tôi xả lìa tất cả dục lạc, khiến cho chúng tôi dứt trừ kiêu mạn phóng dật, khiến cho chúng tôi ưa thích vô thượng bồ đề.

Lại nữa, thiện nam tử! Khi chúng tôi thấy vị Bà La Môn nầy, thì đỉnh núi Tu Di có sáu thứ chấn động, khiến cho chúng tôi sinh tâm sợ hãi, biết tất cả đều là vô thường, cho nên đều phát tâm đại bồ đề, trụ nơi bậc kiên cố bất động”. Nếu bạn có thể chịu đựng nóng lạnh đói khác được, thì đó là tâm bồ đề kiên cố bất động. Tại sao hiện tại chúng ta ở trong sự lạnh rét, vẫn muốn nghe Kinh, nghe pháp? Đó là tâm bồ đề kiên cố bất động, chúng ta chẳng sợ đói, chẳng sợ lạnh, cũng chẳng sợ không có tiền! Đây là căn bản của người tu đạo.

Lại có mười ngàn Long Vương, đó là: Y Na Bạt La Long Vương. Nan Đà Ưu Ba Nan Đà Long Vương .v.v… Ở trong hư không, mưa xuống hắc chiên đàn. Vô lượng Long nữ, tấu âm nhạc trời, mưa xuống hoa trời vi diệu, và nước thơm trời. Cung kính cúng dường, nói như vầy: Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì ánh sáng lửa đó, chiếu khắp tất cả các cung điện rồng. Khiến cho các chúng rồng lìa khỏi sợ hãi cát nóng, sợ hãi chim cánh vàng. Diệt trừ sân độc, thân được mát mẻ. Tâm không dơ trược, nghe pháp tin hiểu. Nhàm chán cõi rồng. Dùng tâm chí thành sám hối diệt trừ nghiệp chướng, cho đến phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, trụ nhất thiết trí.

Lại có mười ngàn Long Vương, đó là: Y Na Bạt La Long Vương. Nan Đà Ưu Ba Nan Đà Long Vương .v.v… Ở trong hư không, mưa xuống hắc chiên đàn, một loại hương thơm hiếm có. Có vô lượng Long nữ, diễn tấu âm nhạc trời, lại mưa xuống hoa trời vi diệu, và nước thơm trời, để cung kính cúng dường vị Bà La Môn nầy, sau đó nói như vầy: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa đó, chiếu khắp tất cả các cung điện rồng. Khiến cho tất cả các chúng rồng lìa khỏi sự sợ hãi cát nóng, khỏi bị nguy hiểm về cát nóng. Vì trong vảy rồng có vô số con trùng nhỏ, lúc nào cũng rúc rỉa ăn thân rồng, làm cho rồng rất đau đớn. Để giảm bớt sự thống khổ nầy, chúng đi đến bờ biển, dùng thân của mình chà lăn với các, nhưng cát lại dính trên vảy da rồng, khi mặt trời mọc lên thì những cát đó rất nóng, trực tiếp thiêu đốt thân rồng, càng làm cho rồng thống khổ hơn. Ánh sáng lửa đó lại khiến cho chúng rồng xa lìa sự sợ hãi về chim cánh vàng. Khi chim cánh vàng nhìn thấy rồng trong biển, chịu sự thống khổ bị cát nóng thiêu đốt, án binh bất động, thì chim cánh vàng bèn bay xuống bắt rồng ăn. Nhưng khi ánh sáng lửa kim cang diệm nầy chiếu sáng đến cung rồng, thì rồng chẳng còn sợ hãi nữa. Vì rồng trong quá khứ khi tu hành, thì thừa cấp giới hoãn, chẳng giữ giới luật, cho nên đoạ làm loài rồng. Rồng còn có một thứ tâm sân hận, hiện tại được quang minh tam muội lửa kim cang diệm chiếu đến, bèn diệt trừ tâm sân hận, thân được mát mẻ, tâm không còn ô nhiễm dơ trược. Chúng lắng nghe Phật pháp, cũng sinh tâm tin hiểu. Đều rất nhàm chán cõi rồng, chẳng còn thích thân rồng nữa. Thậm chí dùng tâm chí thành khẩn thiết, để sám hối diệt trừ nghiệp chướng, cho đến phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trụ nơi nhất thiết trí huệ”.

Lại có mười ngàn Dạ Xoa Vương, ở trong hư không, dùng đủ thứ đồ cúng, cung kính cúng dường vị Bà La Môn nầy và Thiện Tài đồng tử, nói như vầy: Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì chúng tôi và quyến thuộc đều phát tâm thương xót đối với tất cả chúng sinh. Tất cả La Sát Cưu Bàn Trà, cũng đều sinh tâm từ. Vì do tâm từ, nên đối với các chúng sinh, không có não hại, mà đến gặp tôi. Tôi và họ ở nơi cung điện của mình, chẳng còn sinh tâm ưa thích, liền cùng nhau đi đến chỗ Bà La Môn. 
Bấy giờ, Bà La Môn liền vì chúng tôi nói pháp. Tất cả đều được thân tâm an lạc, còn khiến cho vô lượng Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Lại có mười ngàn Dạ Xoa Vương (tức tốc tật quỷ), ở trong hư không, dùng đủ thứ đồ cúng, để cung kính cúng dường Bà La Môn nầy và Thiện Tài đồng tử, sau đó nói như vầy: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì chúng tôi và tất cả quyến thuộc vốn có tâm sân rất nặng, nhưng hiện tại đều phát tâm thương xót đối với tất cả chúng sinh. Tất cả La Sát (ác quỷ hại người), Cưu Bàn Trà, cũng đều sinh tâm từ. Vì do sinh ra tâm từ, nên họ đối với tất cả chúng sinh, cũng đều không có tâm não hại, cho nên đến gặp tôi. Tôi và họ ở nơi cung điện của mình, chẳng còn sinh tâm chấp trước ưa thích, lập tức liền cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn liền đối trị với căn cơ của chúng tôi mà nói pháp, khiến cho thân tâm chúng tôi đều được an lạc. Lại còn khiến cho vô lượng Dạ Xoa, La Sát và Cưu Bàn Trà, cũng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

Lại có mười ngàn Càn Thát Bà Vương, ở trong hư không, nói như vầy: Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì ánh sáng lửa đó, chiếu đến cung điện chúng tôi, đều khiến cho chúng tôi thọ vô lượng khoái lạc không thể nghĩ bàn. Cho nên chúng tôi đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Vị Bà La Môn nầy vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho chúng tôi được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Lại có mười ngàn Càn Thát Bà Vương (nhạc thần), ở trong hư không, nói như vầy: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, chiếu sáng đến cung điện chúng tôi, đều khiến cho chúng tôi thọ dụng vô lượng khoái lạc không thể nghĩ bàn. Cho nên chúng tôi cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn nầy vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho chúng tôi được bất thối chuyển nơi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

Lại có mười ngàn A Tu La Vương, từ trong biển hiện ra, trụ ở trong hư không, duỗi đầu gối phải, chắp tay làm lễ mà nói như vầy: Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì hết thảy cung điện của A Tu La chúng tôi, biển cả đại địa, thảy đều chấn động, khiến cho chúng tôi xả bỏ kiêu mạn phóng dật. Cho nên chúng tôi đi đến chỗ Bà La Môn nầy. Từ khi nghe pháp của vị Bà La Môn nầy, chúng tôi xả bỏ dối trá, an trụ bậc nhẫn nhục, kiến cố bất động, viên mãn mười lực. 

Lại có mười ngàn A Tu La Vương, từ trong biển hiện ra, trụ ở trong hư không, duỗi đầu gối phải, chắp tay làm lễ, sau đó nói như vầy: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì hết thảy cung điện của A Tu La chúng tôi, biển cả và đại địa, thảy đều chấn động, khiến cho chúng tôi xả bỏ tư tưởng cống cao ngã mạn phóng dật. Chúng tôi vốn rất kiêu mạn háo chiến, thường nghĩ tranh đệ nhứt. Nhưng từ khi quang minh oai nghiêm nầy quét trừ thái độ cống cao ngã mạn phóng dật cẩu thả của chúng tôi. Cho nên chúng tôi cùng nhau đi đến chỗ Bà La Môn nầy, theo Ngài lắng nghe Phật pháp, chúng tôi xả bỏ dối trá, cuồng vọng tự tại, nói dối, đủ thứ tập khí mao bệnh, mà an trụ nơi bậc nhẫn nhục, thân tâm kiến cố bất động, và viên mãn mười lực của Phật.

Lại có mười ngàn Ca Lâu La Vương, Mãnh Lực Trì Vương làm thượng thủ. Hoá làm thân hình ngoại đạo đồng tử. Ở trong hư không, xướng lên nói như vầy: Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì ánh sáng lửa đó, chiếu đến cung điện chúng tôi, tất cả đều chấn động, thảy đều sợ hãi. Cho nên chúng tôi đi đến chỗ Bà La Môn nầy. 
Bấy giờ, vị Bà La Môn nầy liền vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho chúng tôi tu tập đại từ, tán thán đại bi, qua được biển sinh tử. Ở trong bùn dục lạc, cứu giúp chúng sinh, khen ngợi bồ đề tâm, khởi trí phương tiện, tuỳ sự thích nghi của họ, mà điều phục chúng sinh.

Lại có mười ngàn Ca Lâu La Vương (chim đại bàng cánh vàng), khi xoè cánh ra thì dài khoảng ba trăm ba mươi do tuần (đại do tuần là tám mươi dặm). Khi quạt cánh có thể làm nước biển khô cạn, hiện ra loài rồng sắp chết, bèn bay đến bắt rồng ăn. Những chim đại bàng nầy, có vị lãnh tụ là Mãnh Lực Trì Vương làm thượng thủ. Nó hoá ra làm thân hình ngoại đạo đồng tử. Ở trong hư không, xướng lên nói như vầy: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, chiếu sáng đến cung điện chúng tôi ở, khiến cho tất cả đều chấn động, thảy đều sợ hãi. Cho nên chúng tôi cùng với tất cả quyến thuộc cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn nầy liền đối trị căn tánh của chúng tôi mà thuyết pháp, khiến cho chúng tôi tu tập pháp môn đại từ, khen ngợi đại bi, mà qua được biển sinh tử. Khiến cho chúng tôi ở trong bùn dục lạc, cứu giúp chúng sinh, khiến cho chúng tôi khen ngợi bồ đề tâm, mà sinh khởi trí huệ phương tiện, để tuỳ sự thích nghi của họ, mà điều phục chúng sinh căn tánh cang cường”.

Lại có mười ngàn Khẩn Na La Vương, ở trong hư không, xướng lên nói như vầy: Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì cung điện của chúng tôi ở, các cây đa la, các lưới linh báu, các dải lụa báu, các cây âm nhạc, các cây báu đẹp, cùng với các nhạc khí, tự nhiên vang lên tiếng Phật, tiếng pháp và tiếng Bồ Tát Tăng bất thối chuyển, tiếng nguyện cầu vô thượng bồ đề. Ở phương nào, nước nào, có vị Bồ Tát nào, phát tâm bồ đề. Ở phương nào, nước nào, có vị Bồ Tát nào, tu hành khổ hạnh, khó xả mà xả được, cho đến thanh tịnh hạnh nhất thiết trí. Ở phương nào, nước nào, có vị Bồ Tát nào, đi đến đạo tràng, cho đến phương nào, nước nào, có đức Như Lai nào, đã làm Phật sự rồi, mà vào Niết Bàn.

Thiện nam tử! Giả sử có người, dùng tất cả cỏ cây cõi Diêm Phù Đề, nghiền nát thành bụi. Những hạt bụi đó, có thể biết được bờ mé. Trong cung điện chúng tôi, cây bảo đa la, cho đến nhạc khí, tên Bồ Tát, danh hiệu Như Lai, sự phát đại nguyện, sự tu hành .v.v… vừa nói ở trên, không cách chi có thể biết được bờ mé.
Thiện nam tử! Chúng tôi nhờ nghe được tiếng Phật, tiếng pháp, tiếng Bồ Tát Tăng, mà sinh tâm hoan hỉ, đi đến chỗ Bà La Môn nầy. 
Bấy giờ, vị Bà La Môn nầy vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho chúng tôi và vô lượng chúng sinh khác, được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Lại có mười ngàn Khẩn Na La Vương (nhạc thần của Đế Thích), ở trong hư không, xướng lên nói như vầy: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì cung điện của chúng tôi ở, tất cả cây đa la, tất cả lưới linh báu, tất cả dải lụa báu, tất cả cây âm nhạc, tất cả cây báu đẹp, cùng với tất cả nhạc khí, đều tự nhiên vang lên tiếng Phật, tiếng pháp, và tiếng Bồ Tát Tăng bất thối chuyển. Lại vang lên tiếng nguyện cầu vô thượng bồ đề, mà nói: “Ở tại phương nào, trong nước nào, có vị Bồ Tát nào, phát tâm bồ đề. Lại ở phương nào, trong nước nào, có vị Bồ Tát nào, tu hành khổ hạnh, khó xả mà xả được, cho đến thanh tịnh hạnh nhất thiết trí. Lại ở phương nào, trong nước nào, có vị Bồ Tát nào, đi đến đạo tràng, làm đại Phật sự, chuyển bánh xe diệu pháp. Cho đến tại phương nào, trong nước nào, có đức Như Lai nào, đã làm Phật sự rồi, mà vào Niết Bàn”.

Thiện nam tử! Giả sử có người, dùng tất cả cỏ cây trong cõi Diêm Phù Đề, nghiền nát thành bụi. Những hạt bụi đó, có thể biết được bờ mé của nó có bao nhiêu. Mà trong cung điện chúng tôi, từ cây bảo đa la, cho đến nhạc khí, danh diệu của Bồ Tát, danh hiệu của Như Lai, sự phát đại nguyện, và hạnh môn tu hành .v.v… như vừa nói ở trên, tất cả hết thảy đó, không cách chi có thể biết được bờ mé của nó.
Thiện nam tử! Chúng tôi nhờ nghe được tiếng Phật, tiếng pháp, tiếng Bồ Tát Tăng, mà sinh tâm đại hoan hỉ, cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn nầy bèn quán sát căn cơ của chúng tôi mà thuyết pháp, khiến cho chúng tôi và vô lượng chúng sinh khác, được bất thối chuyển nơi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

Lại có vô lượng chư Thiên dục giới, ở trong hư không, dùng đồ cúng vi diệu, cung kính cúng dường, xướng lên nói như vầy: Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân, thì ánh sáng lửa đó, chiếu đến A Tỳ tất cả địa ngục. Những người thọ khổ, đều được ngừng nghỉ. Chúng tôi thấy ánh sáng lửa đó, tâm sinh niềm tin thanh tịnh. Nhờ tín tâm mà từ lúc mạng chung đó, được sinh lên cõi trời. Vì biết ơn, mà đến chỗ vị Bà La Môn nầy cung kính chiêm ngưỡng, không nhàm đủ. Bấy giờ, vị Bà La Môn nầy vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm bồ đề.

Lại có vô lượng chư Thiên dục giới, ở trong hư không, dùng đồ cúng vi diệu không thể nghĩ bàn, để cung kính cúng dường vị Bà La Môn nầy, sau đó xướng lên nói như vầy: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, chiếu đến A Tỳ tất cả địa ngục. A Tỳ dịch là “Vô gián”, tức là thọ khổ không gián đoạn. Địa ngục Vô Gián đó, một người cũng đầy, nhiều người cũng đầy, chẳng có không gian. Ánh sáng lửa đó, khiến cho tất cả những chúng sinh thọ đủ thứ khổ, đều được ngừng nghỉ. Vì chúng tôi thấy được ánh sáng lửa đó, nên trong tâm sinh ra niềm tin thanh tịnh. Nhờ tín tâm mà từ địa ngục Vô Gián mạng chung, được sinh lên cõi trời dục giới. Chúng tôi vì biết Ngài là ân nhân của chúng tôi, nên chúng tôi cùng nhau đi đến chỗ Bà La Môn nầy, để cung kính chiêm ngưỡng Ngài, không khi nào nhàm đủ. Lúc đó, vị Bà La Môn nầy vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm bồ đề”.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử nghe pháp như vậy, sinh tâm đại hoan hỉ. Ở chỗ vị Bà La Môn phát khởi tâm chân thật thiện tri thức, cúi đầu kính lễ, nói như vầy: Con ở chỗ đại Thánh thiện tri thức, sinh tâm bất thiện, xin đức Thánh cho con sám hối lỗi lầm.

Thiện Tài đồng tử vốn sinh tâm hoài nghi, cho rằng vị Bà La Môn nầy là đại ma vương trá hiện, muốn khiến cho Ngài lên núi đao nhảy vào đống lửa. Sau đó có rất nhiều thiên long bát bộ, chư Thiên Thánh chúng đến làm chứng cho Ngài, kêu Ngài đừng có nghĩ tưởng như thế. Lúc đó Thiện Tài đồng tử nghe những lời pháp như vậy, trong tâm sinh đại hoan hỉ. Ở chỗ Bà La Môn phát khởi tâm nhận thức chân thật thiện tri thức. Sau đó cúi đầu cung kính đảnh lễ vị Bà La Môn, mà nói như vầy: “Con ở chỗ đại Thánh thiện tri thức, sinh ra tâm bất thiện và hoài nghi, xin đức Thánh tha thứ cho con, cho con sám hối lỗi lầm của con”.

Bấy giờ, vị Bà La Môn liền vì Thiện Tài mà nói kệ rằng:

Nếu có các Bồ Tát
Thuận lời thiện tri thức
Tất cả không nghi sợ
An trụ tâm bất động.
Nên biết người như vậy
Sẽ được lợi ích lớn
Ngồi dưới cội bồ đề
Thành tựu Vô Thượng Giác.

Lúc đó, vị Bà La Môn liền vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

“Nếu có các Bồ Tát, tuỳ thuận lời dạy của thiện tri thức. Tất cả đều không có tâm hoài nghi sợ hãi, thì sẽ an trụ tâm mình, chẳng bị cảnh giới làm giao động. Nên biết người đó, tương lai chắc chắn sẽ đắc được lợi ích lớn. Sẽ đi đến đạo tràng, ngồi dưới cội bồ đề, thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử liền lên núi đao, nhảy vào trong đống lửa, khi rơi xuống giữa chừng, liền đắc được tam muội Bồ Tát thiện trụ, khi chạm ngọn lửa, lại đắc được tam muội Bồ Tát tịch tĩnh lạc thần thông. Thiện Tài bạch rằng: Kỳ lạ đức Thánh! Núi đao và đống lửa lớn như vậy, con vẫn an ổn khoái lạc.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử liền lên núi đao, nhảy vào trong đống lửa, khi rơi xuống giữa chừng, thì lập tức đắc được tam muội Bồ Tát thiện trụ nơi Bồ Tát đạo, vì trên chẳng nương núi, dưới chẳng nương lửa, chánh xứ nơi không, liền hiển Bát Nhã, lìa khỏi hai bên, vì không chỗ trụ. Khi vừa chạm ngọn lửa, Ngài lại đắc được tam muội Bồ Tát tịch tĩnh khoái lạc thần thông. Chạm ngọn lửa là biểu thị Thiện Tài đồng tử thân chứng được thật thể Bát Nhã, tức cũng là tánh tịnh Niết Bàn, cho nên đắc được vui tịch tĩnh. Còn là đại dụng không bờ, tức là thần thông. Chạm, nghĩa là thân chứng, do đó có câu: “Thọ các xúc như trí chứng”.

Sau đó, Thiện Tài đồng tử bạch với vị Bà La Môn rằng: “Thật là kỳ lạ! Đức Thánh! Núi đao và đống lửa lớn như vậy, tại sao khi thân thể của con khi xúc chạm, thì vẫn an ổn khoái lạc như vậy”?

Bấy giờ, vị Bà La Môn bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được giải thoát Bồ Tát vô tận luân nầy. Như các đại Bồ Tát, dùng ngọn lửa đại công đức, đốt cháy kiến hoặc của tất cả chúng sinh, khiến cho không còn dư thừa, sẽ được bất thối chuyển, tâm không cùng tận, tâm không giải đãi, tâm không nhu nhược. Phát tâm kiên cố như kim cang tạng, mau tu các hạnh không trì hoãn. Nguyện như phong luân, khắp giữ tất cả tinh tấn đại thệ nguyện, đều không thối chuyển. Mà ta làm sao biết được, nói được, hạnh công đức đó? 

Lúc đó, vị Bà La Môn bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được pháp môn giải thoát Bồ Tát vô tận luân nầy. Vô tận luân có hai ý nghĩa:

1. Trí luân thôi hoặc, chiếu soi nguồn gốc, không cùng tận.
2. Phản thường trí dụng, dụng khắp pháp giới, không cùng tận, viên chuyển không ngừng, cho nên gọi là luân.

Như tất cả các đại Bồ Tát, dùng ngọn lửa đại công đức, đốt cháy sạch kiến hoặc của tất cả chúng sinh, khiến cho tà kiến dư tập của họ tiêu diệt hết, không còn dư thừa, khiến cho chúng sinh chắc chắn sẽ đắc được quả vị bất thối chuyển, đắc được tâm trí huệ không cùng tận. Thời thời khắc khắc cũng không sinh tâm không giải đãi, cũng không có tâm nhu nhược, mà phát tâm kiên cố như kim cang tạng. Mau chóng tu các hạnh không trì hoãn. Đại nguyện phát ra như phong luân, khắp giữ gìn tất cả tinh tấn đại thệ nguyện, đều không có tâm thối chuyển. Đủ thứ những hạnh công đức đó, mà ta làm sao biết được nói được? Ngươi hãy đi học hỏi vị thiện tri thức khác”!

Thiện nam tử! Ở phương nam nầy, có thành tên là Sư Tử Phấn Tấn. Trong thành đó có một đồng nữ, tên là Từ Hạnh. Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo?

Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam nầy, có một thành thị tên là Sư tử phấn tấn. Trong thành đó, có một đồng nữ, tên là Từ Hạnh. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Bà La Môn, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, rồi từ tạ mà đi.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Bà La Môn, đi nhiễu quanh vị Bà la Môn vô lượng vòng, rồi từ tạ mà đi về hướng nam, tìm vị thiện tri thức khác.

 

Hết tập 21

KỆ HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Nguyện đem công đức nầy
Trang Nghiêm cõi Phật tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi bỏ báo thân nầy
Sinh về cõi Cực Lạc.

 

Pages: 1 2 3 4