Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

V. VIÊN MÃN THÀNH TỰU ĐỆ CỬU
(TT)

Thành Phật dĩ lai ư kim thập kiếp” (Thành Phật đến nay đã mười kiếp): câu này ngụ ý từ lúc ngài Pháp Tạng thành tựu viên mãn bốn mươi tám nguyện, thành Đẳng Chánh Giác hiệu là A Di Đà Phật cho đến khi đức Thích Ca Mâu Ni giảng kinh này là đã trải qua mười kiếp. Mười kiếp ở đây chỉ là cách nói phương tiện để ứng theo căn cơ, chứ thật ra A Di Đà Phật thành Phật đã rất lâu xa từ vô lượng vô biên số kiếp chẳng thể nghĩ bàn!

Hoàng Niệm Tổ trích lục những khai thị đặc sắc trong Mật Kinh khiến chúng ta đối với danh hiệu công đức của Phật A Di Đà nhận thức thêm được một bước. Công phu niệm Phật sở dĩ không đắc lực là vì đối với danh hiệu còn thiếu sự hiểu biết. Trước đây, Chương Gia Đại sư nói: “Phật pháp khó hiểu nhưng dễ hành”, trải qua nhiều năm như vậy đã chứng minh lời nói của Đại sư. Phàm phu thành Phật thật sự không khó, chỉ trong một niệm: Một niệm chánh sẽ thành Phật, một niệm tà sẽ đọa thành phàm phu. Trong phàm phu cũng có chánh tà. “Chánh” này nếu đem so sánh với Đại thừa vẫn xem là “tà”. Đại thừa phải ngộ nhập tự tánh mới gọi là “chánh” trong các điều “chánh”.

Cũng vì việc “khó hiểu dễ hành” này, nên đức Thế Tôn quyết định: Cần phải dùng phương pháp giáo dục mới giúp mọi người giác ngộ, thấu triệt được thật tướng các pháp.

Kinh Pháp Hoa nói: Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Thế gian này thật sự nếu có chúng sinh căn cơ thuần thục cần phải độ họ thành Phật thì Phật mới xuất hiện ở đời, cho dù chỉ có một người cũng cần phải độ. “Phật thị môn trung bất xả nhất nhơn”; những người khác chỉ là dự thính, nghe được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu, cũng xem như là người có duyên. Phương pháp đơn giản, ổn định, dễ dàng, nhanh chóng nhất để thành Phật, không gì hơn Niệm Phật, niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật” mà đức Thế Tôn đã giới thiệu cho chúng ta; chư Phật mười phương cũng đều tán đồng. Chúng ta có nghe lời chăng? Nếu thật sự tiếp nhận, nghe lời thì phải buông xả vạn duyên nhất tâm niệm Phật. Tự mình thành tựu sau mới độ chúng sinh. Tự mình chưa thành tựu không thể độ chúng sinh, cho dù có tận lực, chúng sinh cũng không tin!

Thời nay, thành tựu vô cùng khó khăn vì không có nơi tu hành, không có đạo tràng tu học chân chánh. Ấn Quang Đại sư hy vọng hậu thế thật sự làm được, ngài kiến nghị nên lập ra những đạo tràng nhỏ, đồng tu không quá hai mươi người, tâm mới có thể chuyên được, nhất định không phan duyên bên ngoài. Đạo tràng nhỏ hai mươi người tu, chỉ cần hai hoặc ba người hộ pháp là đủ. Hai mươi người này phải thật sự buông bỏ vạn duyên nhất tâm chuyên niệm. Nếu họ thật sự thành tựu, đều được vãng sinh, đều được thành Phật thì thật là quá tuyệt! Thành tựu của đạo tràng không phải là phú lệ, huy hoàng, mọi người đông đúc mà là đạo tràng thật sự tu tập, thật sự thanh tịnh, trang nghiêm, bước vào không thấy gì hết nhưng đích thật trong đó mọi người đều thành tựu.

Tối qua, có đồng tu trong nước điện thoại nói với tôi: Họ thấy có hai người dùng danh nghĩa tôi để quyên góp, nói tôi năm nay tổ chức một hoạt động tại Liên Hiệp Quốc nên cần tiền! Tôi ấn Tống Tứ Khố Hội Yếu, ấn tống Quốc Học Trị Yếu và Quần Thư Trị Yếu của Đường Thái Tông. Không sai! Thật có việc này! Nhưng tôi nói với mọi người: Tiền đã trả xong hết. Suốt đời tôi chưa từng đi quyên góp, chưa từng đưa tay lấy của ai một đồng tiền.

– Tiền của tôi từ đâu mà có?

– Tôi nói với những người có phước đức lớn rằng: Bây giờ có cơ hội cần mấy trăm vạn mỹ kim, họ có đồng ý thì làm. Tôi chỉ vận động một người, tôi không quyên góp nhiều nơi. Có người xuất tiền thì việc này thành công, không có thì thôi!

Ngày xưa, tôi có giấy chứng minh ở Trung Quốc nên có thể giảng kinh, dạy học nơi đây. Lúc đó, ở quê nhà Lô Giang, tôi cũng có hai, ba thẻ ngân hàng tôi không nhớ rõ! Bây giờ giấy chứng minh đã thu hồi, tôi thuộc người nước ngoài, chỉ được về nước tham quan du lịch, thăm thân thích bằng hữu nhưng không được giảng kinh dạy học! Thân mạng tôi cả đời là giảng kinh dạy học, nay không được phép giảng dạy tại quê nhà; trong nước nếu có bất cứ hoạt động nào dùng tên tôi, phải biết đó toàn là giả! Không liên quan gì đến Tịnh Không Pháp sư!

Tôi đã nhiều lần thanh minh, thẻ ngân hàng ngày trước của tôi ở Lô Giang, nay không biết ai đang giữ! Hy vọng chư vị đồng học hiểu: Tôi không phải là người đa sự, không phải là người thích náo nhiệt. Tôi chưa từng làm việc mà không có nắm chắc! Tôi muốn làm việc gì thì tiền và mọi thứ đều đã có đủ, chớ không phải quyên tiền để làm việc. Tôi không làm những việc này vì đó là phan duyên, hàng ngày vì những việc này mà lo lắng làm gì có được tâm thanh tịnh! Trở ngại sự thanh tịnh nhất định không làm, dù việc có tốt đến đâu cũng đều không được! Đây là điều chư Phật, Bồ Tát dạy, chúng ta y giáo phụng hành, nhất định không sai lầm.

Xưa kia, đức Thế Tôn không có đạo tràng, hiện đời tôi cũng không có đạo tràng. Mỗi đạo tràng đều có tổ chức hội đồng giám đốc, Tịnh Tông Học Hội ở Úc châu cũng để tên tôi. Đây là ý gì? Để cho họ dễ làm việc hơn, vì quan hệ của tôi với chính phủ địa phương sâu hơn một chút. Năm nay, tôi muốn sửa đổi, danh không cần nữa, hoàn toàn nghỉ hưu! Không bao lâu tôi sẽ sửa đổi, chính thức làm trường học, chính phủ cũng đã phê chuẩn, nên chỗ này tương lai chính thức là một Học Viện Tịnh Tông được chính phủ thừa nhận.

Học Viện Tịnh Tông thuộc văn hóa đa nguyên. Chúng tôi mời giáo thọ về dạy, và học tập tại đây. Chiếu theo qui định của nhà nước Úc châu thì phải thu học phí. Khi tốt nghiệp cũng có cấp văn bằng: Văn bằng Đại học, văn bằng Thạc sĩ đều có thể cấp phát. Hai, ba năm sau, khi Học Viện đã tổ chức tốt, có thể cấp văn bằng Tiến sĩ. Tôi về hưu rồi! Đã tám mươi lăm tuổi, thời gian không còn nhiều, đây là việc duy nhất trong đời tôi làm cho Phật Giáo. Việc này cũng do các bạn đồng học dòng chữ Ngộ, họ nhận được ân huệ của cư sĩ Hàn. Sau khi bà ấy vãng sinh, họ lưu lạc khắp nơi tâm không an định, tôi đến Úc châu mới kiến lập đạo tràng này, hy vọng mọi người định tâm ở nơi đây tu hành. Đã mười năm qua đi, nói thật, mười năm này tôi rất thất vọng! Vì sao? Vì không có người nào thành Phật!

Tịnh Tông có mấy người được công phu thành phiến? Có mấy người được nhất tâm bất loạn? Đó là thành tựu, quanh chúng ta không có! Đạo tràng không có nhưng bên ngoài có! Họ học tập từ internet có thành tựu; học tập từ truyền hình vệ tinh cũng có thành tựu, đây là an ủi lớn nhất của tôi! Họ thật sự thành tựu, thật sự nghe lời. Nếu không có vài người thành tựu này, chắc tôi đã đi từ lâu rồi! Ở thế gian này thì mất mặt! Tự mình cầu vãng sinh cũng được! Từ trước đến nay tôi thành tựu, bí quyết chỉ có sáu chữ: “thành thật, nghe lời, thực hành”. Chỉ cần đầy đủ ba điều kiện này không ai mà chẳng thành tựu.

Trong Tịnh Độ tông nói “nhất tâm bất loạn” chính là thành tựu, vĩnh viễn thoát luân hồi, vĩnh viễn bất thoái thành Phật. Người minh tâm kiến tánh đều chứng được vô lượng giác, đều có thể gọi họ là A Di Đà Phật, chắc chắn không sai! A Di Đà Phật là thông hiệu, là tổng hiệu của tất cả chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời, là đức hiệu của tự tánh chúng ta. Hiện tại, chúng ta mê thất tự tánh! Tự tánh vẫn còn đó không hề mất, tự tánh bất sinh bất diệt, tự tánh vốn tự thanh tịnh xưa nay chưa từng nhiễm ô! Nhiễm ô là vọng tâm! Vọng tâm là A-lại-da có mê, ngộ. Phật A Di Đà là chân tâm; chân tâm không bị nhiễm ô. A Di Đà Phật chính là Đại Nhật Như Lai; đọc danh hiệu này chính là đọc danh hiệu của tất cả chư Phật. Tất cả chư Phật đều có thể gọi là Phật A Di Đà.

-Phật A Di Đà là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, sao trên kinh chỉ nói có mười kiếp?

– Mười kiếp là thành lập thôn Di Đà này (tức thế giới Tây Phương Cực Lạc) là ý như vậy!

Phật A Di Đà cung cấp cho tất cả chúng sinh có duyên trong pháp giới, có một nơi tu hành. Chính Phật A Di Đà đích thân dạy học và ngài cũng cung thỉnh chư Phật đến đây không ngừng dạy học. Cho nên, bất luận tu học pháp môn nào, đến thế giới Cực Lạc đều có thể thành tựu. Rõ thật đây là trường Đại học Phật giáo. Bên dưới, Hoàng Niệm Tổ dẫn chứng ba điều, chứng minh Phật A Di Đà đã thành Phật từ vô lượng kiếp lâu xa về trước, như sau:

1. Kinh Pháp Hoa, phẩm “Hóa Thành Dụ” có chép: Nãi vãng quá khứ, vô lượng vô biên, bất khả tư nghị A-tăng-kỳ kiếp, nhĩ thời hữu Phật danh Đại Thông Trí Thắng Như Lai” (Trong đời quá khứ vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp, lúc bấy giờ có vị Phật hiệu Đại Thông Trí Thắng Như Lai) và “Kỳ Phật vị xuất gia thời, hữu thập lục tử” (Lúc Phật chưa xuất gia có mười sáu người con), “nhĩ thời, thập lục vương tử, giai dĩ đồng tử xuất gia, nhi vi Sa Di” (Khi ấy, mười sáu vương tử đều xuất gia từ bé làm Sa Di), “ngã kim ngữ nhữ, bỉ Phật đệ tử thập lục Sa Di, kim giai đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, ư thập phương quốc độ hiện tại thuyết pháp… Tây Phương nhị Phật, nhất danh A Di Đà… Đệ thập lục ngã Thích Ca Mâu Ni Phật, ư Sa Bà quốc độ, thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. (Ta nay bảo các ngươi: “Mười sáu vị Sa Di đệ tử của đức Phật ấy nay đều chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang thuyết pháp trong các cõi nước mười phương. Phương Tây có hai vị Phật, một tên là A Di Đà… Người thứ mười sáu là ta, Thích Ca Mâu Ni Phật, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong cõi nước Sa Bà).

Đoạn kinh trên chỉ rõ A Di Đà Phật là vị vương tử thứ chín; Thích Ca Mâu Ni Phật là vương tử thứ mười sáu. Chúng ta biết: Đức Thích Ca thành Phật đến nay đã là vô lượng kiếp như phẩm Thọ Lượng, Kinh Pháp Hoa nói: “Nhĩ thời, Phật cáo đại chúng Bồ Tát: – Chư thiện nam tử! Kim đương phân minh tuyên ngữ nhữ đẳng, thị chư thế giới, nhược trước vi trần, cập bất trước giả, tận dĩ vi trần, nhất trần nhất kiếp, ngã thành Phật dĩ lai, phục quá ư thử bách thiên vạn ức na-do-tha A-tăng-kỳ kiếp” (Lúc bấy giờ Phật bảo các vị đại Bồ Tát: – Thiện nam tử! Nay ta sẽ giảng rành mạch cho các ông: Các thế giới ấy, hoặc có đặt vi trần hoặc chẳng đặt (vi trần), đem hết cả số vi trần trong các thế giới ấy, xem mỗi vi trần là một kiếp thì ta thành Phật đến nay còn hơn số ấy trăm ngàn vạn ức na-do-tha A- tăng-kỳ kiếp): Đây là nói thời gian thành Phật của đức Thích Ca lâu xa về trước, chúng ta không có cách nào tưởng tượng được, đừng nói chi đến thời gian thành Phật của đức A Di Đà còn lâu xa hơn thế nữa. Và:

Như Lai kiến chư chúng sinh, nhạo ư tiểu pháp, đức bạc cấu trọng giả, vị thị nhân thuyết, ngã thiểu xuất gia, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nhiên ngã thành Phật dĩ lai, cửu viễn nhược tư, đản dĩ phương tiện, giáo hóa chúng sinh linh nhập Phật đạo, tác như thị thuyết” (Như Lai thấy các chúng sinh ưa pháp nhỏ, đức mỏng, cấu nặng, nên vì những kẻ như vậy nói: ‘Ta xuất gia không lâu liền đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác’, nhưng thật ra từ khi ta thành Phật đến nay còn lâu xa hơn số đấy nữa. Chỉ vì phương tiện giáo hóa chúng sinh khiến cho họ nhập Phật đạo nên mới nói như vậy). Đây là phương tiện thiện xảo của Phật để giáo hóa chúng sinh. Chúng sinh có cảm thì Phật liền có ứng, chỉ là “hằng thuận chúng sinh, tùy hỉ công đức”.

2. Ngài Linh Chi viết trong Sách Di Đà Kinh Sớ như sau: Chương Thế Chí, Kinh Lăng Nghiêm có nói: ‘Ngã ức vãng tích Hằng hà sa kiếp, hữu Phật xuất thế, danh Vô Lượng Quang. Thập nhị Như Lai tương kế nhất kiếp’ (Con nhớ trong hằng sa kiếp xưa kia, có Phật xuất thế tên là Vô Lượng Quang. Mười hai vị Như Lai nối tiếp xuất hiện trong một kiếp). Nếu dựa theo Kinh Đại Bổn (chỉ Kinh Vô Lượng Thọ) thì đấy chính là A Di Đà. Nay kinh này (chỉ Kinh A Di Đà) và Đại Bổn cùng nói là mười kiếp, đó chỉ là lời nói nhằm thích ứng căn cơ trong một lúc thôi, chẳng nên nệ vào đó rồi nghi ngờ”.

Như vậy, Linh Chi Đại Sư dùng ngay câu hằng sa kiếp trong quá khứ Phật, có Phật tên Vô Lượng Quang để chứng minh A Di Đà Phật thành Phật đã từ rất lâu xưa, mười kiếp chỉ là quyền biến mà nói.

3. Sách Tiên Chú bảo: Theo giáo nghĩa của Chân Tông (chỉ Mật Tông) thì đức A Di Đà ở phương Tây trong Thai Tạng Giới, Ngài chủ chứng Bồ Đề đức; trong Kim Cang Giới, Ngài chủ chứng Đại Trí Tuệ môn. Ngài từ Diệu Quán Sát Trí hóa hiện thành. Nhưng, niên kiếp đức Đại Nhật Như Lai thành đạo đã chẳng thể nói nổi, chẳng thể nghĩ bàn nổi thì A Di Đà Phật thành đạo cũng chẳng thể nói nổi, chẳng thể nghĩ bàn nổi”. Ấy là vì Đại Nhật chính là Di Đà vậy.

Hòa Thượng Tịnh Không nói: Kinh văn này đã nhắc nhỡ chúng ta: Một vị Phật có thể hóa thành vô lượng vô biên chư Phật, phân thân đến các thế giới khác nhau, khu vực khác nhau, hiện thân không giống nhau để giáo hóa chúng sinh.

Ở một ngôi chùa Miến Điện, tôi vào lễ Phật, trong đại điện thờ hơn ba mươi tượng đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Điêu khắc bằng ngọc của Miến Điện rất trang nghiêm, tạc tượng rất tốt. Quan sát tỉ mỉ sẽ thấy khuôn mặt mỗi tượng đều không giống nhau: Có tượng giống người Miến Điện, có tượng giống người Trung Quốc, có tượng giống người Hàn Quốc, có tượng giống người Nhật Bản v.v… nói lên đức Thế Tôn ở mỗi khu vực là hiện thân đồng loại với khu vực đó, rất có ý nghĩa biểu pháp.

Tôi thường nghĩ đến Thiên Thủ Quán Âm, trên đỉnh đầu ngài có ba mươi hai khuôn mặt tượng trưng cho ba mươi hai ứng hóa, nhưng tướng đều giống nhau, điều này khó nhận ra được. – Bây giờ thì sao? – Tướng của các dân tộc khác nhau; tướng của các tôn giáo khác nhau, toàn là Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện. Tôn giáo thế giới là một nhà. Chẳng những tôn giáo thế giới là một nhà mà dân tộc thế giới, nhân loại thế giới, vạn vật thế giới cũng là một nhà, là “Nhất Thể” là một “thanh tịnh viên minh thể”. Nếu thấu triệt được điều này, chắc chắn tâm từ bi tự nhiên sinh khởi. Dùng tâm từ bi, tâm cảm ân, tâm hiếu thảo, tâm hoan hỉ, tâm cung kính chấp trì câu danh hiệu Phật, đó chính là “một niệm tương ưng một niệm Phật; niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”.

Kim hiện tại thuyết pháp” (Nay hiện đang thuyết pháp). Theo chú giải Hoàng Niệm Tổ: “Kim hiện tại” là ngụ ý chẳng phải quá khứ hay vị lai mà chính ngay lúc này, để chỉ rõ A Di Đà Phật là vị Phật hiện tại, ngài đang vì chúng sinh thuyết pháp. Cư sĩ Bành Tế Thanh lại bảo: “Chẳng phải ngay lúc ấy (lúc đức Thích Ca thuyết pháp) mới gọi là hiện tại, mà mãi đến nay và vô tận đời sau vẫn luôn gọi là hiện tại vì Phật thọ vô lượng vậy”. Cũng theo Hoàng Niệm lão: Chữ “hiện tại” ở đây không phải là cái hiện tại do tam thế lưu chuyển, mà là vô tận về sau này vẫn luôn thường trụ nên vĩnh viễn được gọi là “hiện tại”. Dẫu bao nhiêu thời kiếp lâu xa về sau này, hễ ai đọc đến câu “kim hiện tại thuyết pháp” (Nay hiện đang thuyết pháp) thì chính ngay thời khắc đó Phật A Di Đà đang thuyết pháp, vì đức Phật ấy thuyết pháp không gián đoạn vậy.

Hòa Thượng Tịnh Không khen ngợi Bành Tế Thanh nói rất hay. Thực tế mà nói, Bành Tế Thanh cũng là người tái sinh. Ông sinh trưởng trong gia đình quí tộc, thông minh tuyệt đỉnh, hiếu học vô song. Cha ông là Binh Bộ Thượng Thư của vua Càn Long, tương đương với Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng hiện nay. Trong truyện ký ghi chép: Ông thi đỗ Tiến sĩ (đây là học vị cao nhất của quốc gia) lúc chưa đầy hai mươi tuổi. Ông không làm quan mà chỉ học Phật, học Đạo. Là người thông Tông, thông Giáo, Hiển, Mật viên dung, ông có rất nhiều trước tác lưu truyền, trong đó có “Hoa Nghiêm Niệm Phật Luận”. Cách nói trên của ông rất hay: “hiện tại” này chính là “tức thì”, “ngay tại đây” và bây giờ, không phải hiện tại của hai ngàn năm trước lúc Thế Tôn giảng kinh. Ngay bây giờ, Phật A Di Đà vẫn như xưa, đang giảng kinh thuyết pháp, chứng minh Phật thuyết pháp không hề gián đoạn.

– Đức Thế Tôn thuyết pháp có gián đoạn chăng?

– Cũng không gián đoạn! Trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm, Báo Thân Đức Thích Ca Mâu Ni ngay bây giờ vẫn đang thuyết pháp.

– Trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, đức Thế Tôn hiện tại có thuyết pháp chăng?

– Có! Chỉ là con người không chịu nghe, nên không thể nghe thấy, nhìn thấy.

– Đức Phật Thích Ca hiện ở đâu?

– Đức Phật nói: Chỗ nào có kinh điển là nơi đó có Phật!

Bây giờ kỹ thuật in ấn phát triễn ngày càng cao, việc này người bây giờ có phước hơn so với người xưa. Thật sự, muốn thỉnh Phật trụ thế, trong nhà thỉnh một bộ Đại Tạng Kinh chính là có Phật trụ thế. Chỗ nào có kinh điển thì nơi đó có chư Phật hộ niệm. Long thiên thiện thần gia hộ, hiện nay rất phương tiện tại sao không làm?! Ngày xưa rất khó khăn! Tôi ấn tống Đại Tạng Kinh số lượng một vạn bộ, bây giờ đã tặng hết khoảng hơn tám ngàn bộ, còn hơn một ngàn bộ nữa là nguyện vọng chúng tôi sẽ thành tựu, chắc chắn trong vòng một, hai năm nữa sẽ đủ, không vấn đề gì. Nên nhớ: Tiền in ấn kinh là có sẵn, không phải đi quyên góp, không cần bất cứ ai đem tiền đến.

– Thân nào đang thuyết pháp?

– Về mặt lý luận mà nói thì ba thân đều thuyết pháp. Đây là tiếp tục nói rõ về “kim hiện tại thuyết pháp”, Phật A Di Đà thuyết pháp ở thế giới Cực Lạc xưa nay chưa hề dừng nghỉ.

Nếu muốn hỏi: Phật dùng thân nào để thuyết pháp? Mọi người đều biết, Phật có ba thân: Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân. Pháp Thân không có tướng nhưng nó có thể hiện tướng, có thể hiện tất cả tướng như Hoàn Nguyên Quán nói “Xuất sanh vô tận”. Trong Pháp Bảo Đàn kinh nói “Năng sinh vạn pháp”, đó là Pháp Thân. Pháp Thân là Pháp Tánh; Pháp Tánh hiện tướng gọi là Pháp Tướng. Pháp Tánh và Pháp Tướng là một, không phải hai, giống như lấy vàng làm đồ trang sức thì mọi thứ đều là vàng. Như vậy có thể nói tất cả hiện tượng đều là Pháp Thân Như Lai.

Phải đặc biệt chú ý hai chữ “Như Lai” này. Trong Kinh Đại thừa, xưng “chư Phật” là từ Tướng mà nói; xưng “Như Lai” tức là từ Tánh mà nói. Pháp Tánh biến khắp mọi nơi, Pháp Tướng cũng không ngoại lệ. Pháp Tướng chính là Pháp Tánh, nên có thể nói tất cả Pháp Tướng đều là Pháp Thân của Như Lai. Ở đây dẫn chứng một câu trong Sớ Sao “các tùy cơ kiến”. Câu nói này rất hay, có nghĩa là căn tánh mỗi người một khác, nên mỗi người thấy hình tướng chư Phật Bồ Tát không giống nhau. Từ đó cho thấy tất cả đều là “Cảnh tùy tâm chuyển”.

Tâm Bồ Tát thấy Pháp Thân là tướng Bồ Tát; tâm thanh tịnh nhất định thấy Ứng Thân, Báo Thân của Như Lai; tâm tham sẽ thấy tướng ngạ quỉ; tâm sân hận nhất định thấy tướng địa ngục; không có tướng nhất định. Đây là “sở kiến bất đồng” (cái thấy mỗi người không giống nhau), tùy theo ý niệm mà chuyển, đều là Pháp Thân Như Lai, đều là tự tánh biến hiện. Thế giới Cực Lạc có Tứ Độ, có Tam Bối, Cửu Phẩm, mỗi cấp bực không giống nhau nên nhìn thấy tướng Phật cũng không giống nhau.

Thông thường nói: Cõi Phàm Thánh Đồng Cư nhất định thấy Ứng, Hóa Thân; Cõi Phương Tiện Hữu Dư cũng thấy Ứng, Hóa Thân nhưng trong đó sự thắng, liệt của Ứng, Hóa Thân không tương đồng. Bồ Tát trong cõi Phương Tiện thấy Phật A Di Đà chắc chắn tướng thù thắng hơn cõi Đồng Cư nhìn thấy Phật. Đây là đạo lý nhất định. Cõi Thật Báo nhất định thấy là Pháp Thân Như Lai. Trong Quán Kinh nói: “Phật hiện cao đại nhân, thập lục vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần chi thân” (Phật hiện thân mười sáu vạn ức na-do-tha hằng sa do-tuần) thân tướng này quá cao lớn, chúng ta không cách nào tưởng tượng được, đây chắc chắn là Bồ Tát cõi thật Báo thấy. Vì sao? Vì trong cõi Thật Báo, tất cả Bồ Tát đều chứng được Báo Thân. Thân Phật A Di Đà cao lớn bao nhiêu thì thân họ cũng cao lớn như vậy.

Sách Sớ Sao của Đại Sư Liên Trì lại bảo: “Hữu vị thuyết pháp thị Ứng Thân, Báo Thân; hữu vị tam thân tề thuyết, các tùy cơ kiến” (Có thuyết bảo thân thuyết pháp là Ứng Thân, Báo Thân; có thuyết bảo cả ba thân cùng thuyết pháp; đấy đều là thuận theo cơ nghi). Cách nói này rất hợp lý, tất cả đều nói thông suốt. Trong mười pháp giới là Ứng Thân, cũng chính là cõi Đồng Cư và cõi Phương Tiện. Trong cõi Thật Báo khẳng định là Báo Thân.

Hữu vị tam thân tề thuyết” (Có thuyết bảo cả ba thân cùng thuyết pháp), điều này có thể nói được. Cổ nhân thường nói: Sơn hà cho đến đại địa đều hiện thân thuyết pháp, đó chính là Pháp Thân. “Ba Thân cùng thuyết” nghĩa là tuy Báo Thân, Ứng Thân thuyết pháp nhưng kiêm cả Pháp Thân. Thực tế mà nói: Rời Pháp Thân làm gì có Ứng Thân và Báo Thân.

Hữu vô lượng vô số Bồ Tát, Thanh Văn chi chúng cung kính vi nhiễu” (Có vô lượng vô số Bồ Tát, Thanh Văn chúng cung kính vây quanh): Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật có vô lượng, vô biên, vô số, vô tận Thánh chúng; lại có Thánh chúng từ mười phương cõi nước chư Phật đến thế giới Cực Lạc để lễ bái, cầu học; số ấy cũng vô lượng. Tất cả đều cung kính vây quanh dưới tòa của Phật, nhất tâm cung kính nghe Phật thuyết pháp.

Mấy năm trước tôi nghe được thông tin về Sơn Tây tiểu viện ở Trung Quốc: Hơn bốn mươi người bị ung thư, bác sĩ tuyên bố ngưng trị liệu. Theo dự kỳ thì số người này nhiều nhất chỉ có thể sống được ba tháng, đồng nghĩa với tuyên bố tử hình họ! Rất may, số người này đều niệm Phật, họ dốc hết tâm lực chí thành niệm Phật cầu nguyện vãng sinh. Ba tháng sau, tương phản với tiên đoán của bác sĩ, họ đến bệnh viện kiểm tra lại mới hay họ đã hoàn toàn lành mạnh. Bác sĩ rất kinh ngạc, hỏi họ dùng phương pháp gì? Chỉ là nhất tâm niệm Phật, vạn duyên buông xả, một lòng chỉ muốn vãng sinh thế giới Cực Lạc. Nào ngờ, thọ mạng họ vẫn còn, nên Phật không đến tiếp dẫn. Đây không phải một người mà hơn bốn mươi người; từ đó cho thấy ý niệm là quyết định tất cả.


 

VI. GIAI NGUYỆN TÁC PHẬT ĐỆ THẬP

Theo sách chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: Phẩm này chỉ thấy trong hai bản dịch cổ: Hán dịch và Ngô dịch. Trong phẩm này có hai nghĩa trọng yếu:

Một là: Những người như Vương tử A Xà Thế nghe kinh liền hoan hỉ phát nguyện được thành Phật như A Di Đà Phật: Đức Thích Ca liền chứng minh cho họ. Điều này cho thấy, chúng ta ngày nay được nghe kinh này cũng sẽ phát khởi được đại nguyện như Vương tử A Xà Thế.

Hai là: Tất cả các pháp chẳng lìa nhân duyên (nhất thiết chư pháp bất ly nhân duyên). Phật bảo những vị vương tử ấy trong vô lượng kiếp đã tu Bồ Tát đạo, trong kiếp quá khứ đã từng làm đệ tử của Phật nên nay được gặp lại. Chúng ta ngày nay nghe kinh này, được nghe diệu pháp Tịnh Tông ắt cũng là nhân duyên trong nhiều kiếp đã từng được hai bậc đạo sư ở hai cõi giáo hóa tế độ nên mới gặp được nhân duyên thù thắng này.

KINH VĂN:

Phật thuyết A Di Đà Phật vi Bồ Tát cầu đắc thị nguyện thời, A Xà vương tử, dữ ngũ bách đại trưởng giả, văn chi giai đại hoan hỉ, các trì nhất kim hoa cái, câu đáo Phật tiền tác lễ, dĩ hoa cái thượng Phật dĩ, khước tọa nhất diện thính kinh, tâm trung nguyện ngôn: “Linh ngã đẳng tác Phật thời, giai như A Di Đà Phật”.

VIỆT DỊCH:

Lúc đức Phật nói A Di Đà Phật khi làm Bồ Tát cầu được thỏa nguyện như thế thì vương tử A Xà Thế và năm trăm đại trưởng giả nghe như vậy đều đại hoan hỉ. Mỗi người cầm một cái lọng kim hoa cùng đến trước Phật làm lễ, đem lọng hoa dâng lên Phật xong, ngồi qua một bên nghe kinh, trong tâm nguyện rằng: “Nguyện lúc chúng con thành Phật đều được như A Di Đà Phật”

GIẢNG:

A Xà Vương tử và năm trăm vị đại trưởng giả nghe Phật nói A Di Đà Phật khi làm Bồ Tát cầu được thỏa nguyện như vậy đều sinh tâm đại hoan hỉ. Người xưa thường nói: “Thế vị không đậm bằng Pháp vị”. Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Thật sự nếu khế nhập vào kinh giáo Đại thừa, niềm vui này trong thế gian tuyệt đối không thể nào sánh bằng, đây là chân lạc. Ngạn ngữ có câu: “Nhân tùng hỉ sự, tinh thần sảng” niềm vui lớn nhất trong thế, xuất thế gian không gì bằng học Phật. Đây là hoan hỉ thật sự. Phương pháp của Phật A Di Đà thật quá tuyệt diệu! Tuyệt vời không sao nói được! Chính là dùng một câu Phật hiệu, nếu thật sự hiểu được, tôi tin rằng bạn sẽ từng giây, từng phút ở đây niệm Phật, không để thời gian uổng phí.

Vì niệm Phật có được niềm vui lớn; nếu nói những thứ khác là sinh phiền não, rơi vào tam ác đạo. trôi lăn trong lục đạo luân hồi! Thử nghĩ lại xem, từ sáng đến tối trong tâm ta nghĩ gì? Là ý niệm tự tư tự lợi nhiều, ý niệm danh văn lợi dưỡng nhiều, ý niệm được mất nhiều, hay là ý niệm Phật A Di Đà nhiều? So sánh một chút là biết ngay ta có đến được thế giới Cực Lạc hay không? Không cần phải hỏi người khác. Hỏi người khác họ sẽ nói lời khách sáo để không tổn thương ta. Ta được vãng sinh hay không làm sao họ biết được?! Hỏi Phật A Di Đà; Phật A Di Đà cũng không biết! Chỉ có chính mình mới biết, đây là sự thật! Trong tâm phải có Phật A Di Đà; ngoài Phật A Di Đà ra điều gì cũng không có, cái gì cũng không nghĩ, cái gì cũng không cần, người này nhất định vãng sinh.

Xã hội ngày nay động loạn! Cả thế giới lòng người bất an! Chính trị, quân sự, kinh tế, kỹ thuật khoa học đều không thể giải quyết! Bốn loại giáo dục: Giáo dục gia đình, giáo dục học đường, giáo dục xã hội và giáo dục tôn giáo không còn nữa!

Ngày nay, cha mẹ đã mất quyền dạy con! Giáo dục học đường chỉ là truyền thụ một ít kiến thức khoa học, kỹ thuật, đó không phải là giáo dục! Giáo dục là dạy bạn làm người, dạy bạn biết quan hệ giữa người và người: Quan hệ giữa cha con, chồng vợ, vua tôi, bè bạn. Hiện nay nhà trường không còn dạy những thứ này, cho nên con người không còn có đạo nghĩa, không còn có nhân luân. Thật là đáng tiếc! Hành vi của họ đều bị chi phối bởi lợi và hại: Có lợi cho họ thì là bạn; không có lợi cho họ là kẻ thù!

Kinh Lăng Nghiêm nói: Hiện tại xã hội này là ma vương nắm quyền! Yêu ma quỉ quái tràn ngập cả xã hội! – Yêu ma quỉ quái là gì?

–  Là truyền hình, điện ảnh, mạng internet v.v…! Thật đáng sợ! Những sự việc này đã tác động mãnh liệt vào tâm lý của thanh thiếu niên hiện tại, đây là giáo dục xã hội đã sai lầm! Giáo dục tôn giáo thì càng bộc lộ sự mê tín! Trong kinh điển có bao nhiêu là thứ tốt, không đem ra nghiên cứu thảo luận, bản thân lại không thể tu học cho tốt, nên không thể khuyên bảo người khác! Bốn loại giáo dục không còn nữa, thiên hạ làm sao không động loạn!

Chúng tôi nhìn thấy, tâm thật thương xót! Dùng toàn tâm, toàn lực để giúp xã hội này. Biết rõ không thể làm mà vẫn làm! Chỉ cần còn sống một ngày, tôi vẫn còn làm một ngày. Tại Singapore, bốn năm qua nhờ có sự giúp đỡ của cư sĩ Lý Mộc Nguyên mà chúng tôi có thể giảng kinh mỗi ngày tại Singapore, lại có thể mở lớp bồi huấn nhân tài giảng kinh hoằng pháp. Các học viên trong lớp bồi huấn này đã giảng kinh lưu động ở rất nhiều Tịnh Không Học Hội  tại Malaysia, được đánh giá cao. Đây chính là nói lên thành tích đã được đại chúng xã hội công nhận.

Tôi có liên lạc với Pháp sư Ngộ Đạo ở Đài Loan, hy vọng Đài Loan sẽ mời các bạn qua đó giảng kinh. Tiếp đến, tôi sẽ sắp xếp mọi người đến Úc, Mỹ, Canada và Nam Mỹ. Hy vọng sau khi được bồi huấn xong, các bạn sẽ là những pháp sư quốc tế, phải hoằng dương Phật pháp, hoằng dương Tịnh Tông trên toàn thế giới. Chúng ta đến đâu cũng khuyên người làm thiện, khuyên người hồi đầu, khuyên người giác ngộ. Đời người ở thế gian nhất định phải có mục tiêu thật rõ ràng. Đã chọn ngành nghề này chính là giáo dục xã hội, chúng ta không mong cầu báo đáp, phải tận hết trách nhiệm này: Đem giáo huấn của Phật Đà, những đạo lý về vũ trụ nhân sinh mà Phật đã dạy, tuyên dương cùng khắp thế giới, giúp thế giới được hòa bình, xã hội an định, nhân dân hạnh phúc.

Hiện nay, ở Mỹ có bảy đài truyền hình đang phát chiếu kinh giảng của chúng ta, bình quân chiếu khoảng một giờ đồng hồ. Ở Hawai, hình như mỗi tuần phát hai ngày. Ở Macao, một tuần có đến bốn ngày, Đài Loan nhiều nhất, mỗi ngày có bốn giờ đồng hồ, không gián đoạn. Hiện tại, chúng ta phải cung cấp cho họ những băng ghi hình này. Ngoài ra, chúng ta còn làm đĩa VCD lưu hành, đây là chiều hướng hoạt động hoằng dương Chánh pháp về sau của bản thân tôi. Có thể bạn sẽ thắc mắc:

– Vì sao phải làm vậy?

– Tôi xin nói: Phật, Bồ Tát đã an bày!

Cả đời tôi đều do Phật, Bồ Tát thay tôi an bày, như: Vi-sa của Úc Châu là một việc ngoài sức tưởng tượng. Tôi không nghĩ là lấy được vi-sa Úc Châu. Thành lập Tịnh Tông Học Viện cũng là việc tôi không dám tưởng tượng, đều đã thành tựu rất tự nhiên. Cho nên tôi biết được, đây là Phật, Bồ Tát đã âm thầm sắp đặt cả, tuyệt đối không phải người thông thường có thể làm được. Bạn bè tôi quen biết ở Úc Châu rất nhiều, thậm chí quen biết các vị quan chức cũng rất nhiều.

Tôi vô cùng cảm tạ chính phủ Úc Châu. Có thể nói: Ở Úc Châu thiên thời, địa lợi, nhân hòa thảy đều đầy đủ. Ba điều này, quan trọng nhất là nhân hòa, mối quan hệ nhân sự cùng với chính quyền Liên bang, chính quyền địa phương thật sự đã vô cùng tốt đẹp, cho nên Tịnh Tông Học Viện ở Úc Châu đã thành công. Nhất định chúng ta phải làm tốt ngôi Học Viện này; nhất định phải phát tâm, phải chân thật giác ngộ, phải chân thật thức tĩnh.

Đời người ở thế gian này vô cùng ngắn tạm, không nên so đo tính toán quá đáng. Phật dạy, phải tùy duyên sống qua ngày, phải “hằng thuận chúng sinh, tùy hỉ công đức”, quan trọng nhất là phải nâng cao cảnh giới của chính mình: “Đoạn ác tu thiện, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành Thánh”, đây mới là thành tựu vĩnh hằng, là mục tiêu chân thật của chúng ta. Ý nghĩa của cuộc đời chính là giúp tất cả chúng sinh khổ nạn. Trong sự giúp đỡ này, quan trọng nhất là giúp họ giác ngộ. Cứu giúp chúng sinh không gì hơn là con đường giáo dục xã hội đa nguyên văn hóa. Tinh thần cao cả, dấn thân vì đời của đức Thích Ca đáng để chúng ta noi theo.

Nhận thức của chúng ta đối với Phật A Di Đà quả thật là quá ít! Bây giờ chúng ta niệm Phật mà tâm không ở nơi Phật, tâm để đâu đâu nên niệm Phật, nghe pháp cả đời vẫn không khai ngộ! Không phải là chân tâm niệm Phật! Nhìn bề ngoài thì ta đang tin Phật, nhưng thật tế không phải vậy! Không như A Xà vương tử và năm trăm vị đại trưởng giả “văn chi giai đại hoan hỉ” (nghe như vậy đều đại hoan hỉ).

Theo chú giải của Hoàng Niệm lão: Ấy là do vui với đại nguyện siêu thế, hy hữu, viên mãn rốt ráo của Phật A Di Đà; vui  vì Phật A Di Đà đã viên chứng Bồ Đề đại nguyện thành tựu; vui vì Phật A Di Đà chứng được phương tiện rốt ráo, dùng diệu pháp Trì Danh phổ độ hết thảy chúng sinh; lại cũng vui vì nhân duyên của chính mình và hết thảy hàm linh trong tương lai đều do pháp này mà thoát được sinh tử; vui vì chúng ta có thể lần lượt khuyến bảo chúng sinh khiến họ được giải thoát. Đây là nói, chúng ta có thể tùy duyên giúp đỡ người khác. Ở đâu có duyên thì đến chỗ đó, vui vẻ, hoan hỉ đem pháp môn này giới thiệu cho mọi người. Thời gian dài hay ngắn tùy theo nhân duyên, không có bất cứ câu thúc nào. Niềm vui này chưa từng có trong đời nên bảo là “đại hoan hỉ”.

Ngày nay, chúng ta gặp được kinh này, gặp được chú giải tường tận của Hoàng Niệm lão, lại được nghe thêm thuyết giảng rất tường tận, cặn kẻ, chính xác của Hòa Thượng Tịnh Không; nhờ vậy mà nhận thức của chúng ta đối với Phật A Di Đà, đối với thế giới Cực Lạc lại càng nâng cao một bậc, vẫn phải không ngừng nâng cao. Vì sao? Vì chúng ta vẫn chưa làm được từng giờ, từng phút trong hai mươi bốn tiếng không rời Phật A Di Đà! Đây là mục tiêu của chúng ta.

– Trên thế giới chỗ nào tốt?

– Chỗ nào có người Niệm Phật là chỗ đó tốt!

Không cần lựa chọn! Trong tâm có Phật thì Phật A Di Đà đang ở chỗ này; long thiên thiện thần sẽ ủng hộ gia trì chúng ta. Đây là sức mạnh bên ngoài gia trì. Nên nhớ: Nếu nội tâm không có thì bên ngoài cũng không có! Phật pháp có nhiều pháp môn dễ, khó khác nhau; sự thành tựu của các pháp môn khác thì vô cùng khó! Duy chỉ độc nhất pháp môn Tịnh Độ thì “vạn người tu, vạn người đi”, lời này của Đại Sư Thiện Đạo không sai chút nào! Tu mà không thể đi là do tu học không được như pháp, chưa thật sự buông bỏ! Thật sự buông bỏ, y giáo phụng hành thì không ai mà không thành tựu.

Cái” là lọng báu để cúng Phật. Theo Hòa Thượng Tịnh Không “bảo cái” giống như cây dù; ý nghĩa biểu pháp của nó là phòng chỉ ô nhiễm của ngũ dục, thất tình trong lục đạo. Phàm phu, lục căn tiếp xúc với lục trần đều bị ô nhiễm. Cho nên, nhìn thấy “bảo cái”, lập tức nhắc chúng ta nhớ đến phải bảo vệ tâm “thanh tịnh, bình đẳng, giác” của chính mình.

Lễ kính, cúng dường nhằm thể hiện sự dốc lòng tin kính, “chí tâm tín nhạo” (chí tâm tin ưa), việc này rất quan trọng! Tuy nó có tính cách biểu trưng, nhưng cốt để mọi người xem thấy đồng sinh khởi tín tâm, cung kính học tập.

Đại Sư Ấn Quang nói: “Một phần thành kính được một phần lợi ích… mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Người bây giờ học Phật quá khó vì tâm ý bao chao! Đừng nói chi một phần cung kính họ không có, mà đến một trên một trăm phần trăm cung kính cũng không có! Như vậy làm sao thể hội được Phật pháp! Lợi ích, công đức thù thắng trong Phật pháp họ không thể nào đạt được!

Theo Hoàng Niệm lão: Từ “khước tọa nhất diện thính kinh” (ngồi qua một bên nghe kinh) trở đi, diễn tả lòng mong cầu Phật trí, nghe pháp không nhàm đủ, lại còn phát nguyện thành Phật “giai như A Di Đà Phật” (đều được như A Di Đà Phật). Thấy bậc hiền đức, mong mình được bằng; mong đại nguyện, đại hạnh, đại từ, đại bi, đại trí, đại lực của mình thảy đều được như A Di Đà Phật, trụ Chân Thật Tuệ, giữ lấy cõi Phật thanh tịnh, lợi khắp hữu tình. Đây chính là thật sự phát tâm Bồ Đề. Người nghe kinh chúng ta cũng đều phải nên như vậy: Tin ưa, cung kính, y giáo phụng hành, phát tâm vô thượng như A Xà vương tử.