Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VIII. PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA ĐỆ TỨ
(TT)

KINH VĂN:

Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm
Nhất thiết thế gian vô hữu đẳng
Quang minh vô lượng chiếu thập phương
Nhật nguyệt hỏa châu giai nặc diệu
Thế Tôn năng diễn nhất âm thanh
Hữu tình các các tùy loại giải.
Hựu năng hiện nhất diệu sắc thân
Phổ sử chúng sinh tùy loại kiến.

VIỆT DỊCH:

Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm
Hết thảy thế gian không ai sánh
Quang minh vô lượng chiếu thập phương
Nhật, nguyệt, hỏa, châu đều ẩn sáng
Thế Tôn hay diễn một âm thanh
Hữu tình tùy loại đều hiểu được
Lại hiện ra một diệu sắc thân
Khiến khắp chúng sinh tùy loại thấy.

GIẢNG:

Bài tụng trên gồm hai bài kệ: Kệ thứ nhất, bốn câu đầu, là tán thán Phật đức, khen ngợi quang minh, tướng hảo của Phật, mà thế gian này không ai có thể sánh được. Chúng ta thường đọc “Kệ tán Phật”: “Tướng hảo quang minh vô đẳng luân” chính là bốn câu này.

Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm
Nhất thiết thế gian vô hữu đẳng

Chỗ này dùng chữ “Như Lai”, không dùng chữ “Thế Tôn ” hay “Phật Đà” là ý nghĩa rất sâu.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Nếu nói “chư Phật” hay “Thế Tôn ” thì phàm phu chúng ta không có phần! Nói “Như Lai”, mọi người đều có phần. Kinh Kim Cang có lúc nói “chư Phật”, có lúc nói “Như Lai”. Phàm gọi “chư Phật” là từ trên sự tướng mà nói, gọi “Như Lai” là từ trên tánh mà nói. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh nên gọi là “Như Lai”. Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Xuất Hiện, Phật nói: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu trí tuệ, đức tướng Như Lai”, cũng là từ trên tự tánh mà nói.

Vi” là tinh vi, nhỏ nhiệm, tinh diệu; “diệu” là tốt đẹp, tinh túy. “Sắc” là sắc thân, tướng hảo, vẻ đẹp của thân Phật chẳng thể nghĩ nổi, nên khen là “diệu sắc”. “Vi diệu” là tinh diệu đến cùng cực. “Sắc đoan nghiêm” là sắc tướng đoan chánh, trang nghiêm, thuần thiện, thuần tịnh, không có một mảy mai ác niệm nào. “Vô hữu đẳng” là không vật nào có thể sánh nổi sắc tướng của Như Lai, đây là Đại viên mãn.

Kinh Pháp Hoa, phẩm “Tự” có câu: “Thân sắc như kim sơn, đoan nghiêm thậm vi diệu” (Sắc thân như hòn núi vàng, đoan nghiêm thật vi diệu). Dùng hình ảnh núi vàng để hình dung thân Phật, bởi vàng là một trong các kim loại quí hiếm, không bị ô-xy hóa, không bị thay đổi, tượng trưng cho sự vĩnh hằng, viên mãn, bất biến không thể nghĩ bàn. Hai câu trên cũng đồng ý nghĩa với câu “Như Lai vi diệu nan tư chi sắc tướng, đoan chánh trang nghiêm. Nhất thiết thế gian sở hữu chư vật, vô hữu năng dữ đẳng bỉ giả” (Như Lai vi diệu đoan chánh trang nghiêm khó thể nghĩ tưởng nổi. Hết thảy các vật trong thế gian, không vật nào sánh nổi sắc tướng của Như Lai).

Trong thập pháp giới thật sự là vô thường: Thân này, thế giới này thay đổi trong từng sát-na. Cõi “Nhất Chân Pháp giới”, cõi “Thật Báo Trang Nghiêm” của chư Phật Như Lai; thân và cõi đều không thay đổi, vĩnh hằng bất biến. Nhưng, vĩnh hằng bất biến ở đây là phương tiện nói, không phải chân thật nói. Bởi thời gian của nó rất dài, thật sự gọi là “vô lượng thọ”. Trong kinh giáo Đại Thừa nói ba đại “A-tăng-kỳ kiếp”, thời gian dài như vậy mà nó vẫn vĩnh hằng bất biến. Thế tục cho rằng: “Bồ Tát! Bồ Tát! Niên niên thập bát”, họ không già ngay cả núi sông, đất đai ở đó vẫn vĩnh viễn là tốt đẹp, không thay đổi, không có bất cứ tai nạn nào, thế giới Cực Lạc là như vậy. Cho nên, bạn sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, cho dù ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng giống như cõi Thật Báo Trang Nghiêm, điều này thật không thể nghĩ bàn.!

Chúng ta ở cõi này là cõi Phàm Thánh Đồng Cư của Phật Thích Ca Mâu Ni, trong đây có thay đổi. Nhưng, cõi Phàm Thánh Đồng Cư của Phật Di Đà không có thay đổi. Vì sao? Trong kinh nói: Phàm người sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, cho dù là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, Hạ Hạ phẩm vãng sinh, đều thành A Duy Việt Trí Bồ Tát. Phật không có vọng ngữ! A Duy Việt Trí Bồ Tát là Địa Thượng Bồ Tát của Biệt giáo; là Sơ Trụ Bồ Tát trở lên của Viên

giáo. Thế giới Tây Phương Cực Lạc có bốn cõi đều là cõi Thật Báo, đây là chân chánh đoan nghiêm rất vi diệu.

Quang minh vô lượng chiếu thập phương
Nhật nguyệt hỏa châu giai nặc diệu

Quang minh” này là ánh sáng của thân, không phải nói phóng quang. Thân quang của Phật vô lượng vô biên, biến chiếu khắp mười phương pháp giới. Ánh sáng này là Trí tuệ Bát Nhã vốn đủ trong tự tánh, không phải từ bên ngoài đến. “Hỏa” ở đây chỉ chung tất cả đèn đuốc và các thứ ánh lửa sáng. “Châu” là “ma-ni”, còn phiên dịch là “mạt-ni”, nói đầy đủ là “Chấn-đá-mạt-ni”, dịch nghĩa là “Như ý Bảo Châu”. “Ma-ni” tỏa sáng hơn hẳn các thứ trong đời. Những thứ này cũng do tâm hiện thức biến, cõi người chúng ta không có loại trân bảo này vì phước đức chưa đủ! Nếu mọi người đều buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, trân bảo này sẽ hiện tiền.

Cõi trời có hai mươi tám tầng, càng hướng lên trên, trân bảo càng quí hiếm. Cũng chính là càng hướng lên trên, tâm địa họ càng thanh tịnh, càng thiện lương, tất cả đều không tách rời khỏi ý niệm; khoa học gọi là tâm thái; tâm thái là chủ tể của tất cả pháp.

Nặc” là dấu kín, ẩn đi, mất đi; “diệu” là sáng, là chiếu sáng; “nặc diệu” là ẩn sáng. Ý nói quang huy của Phật chiếu diệu rạng khắp, vượt hẳn mọi thứ ánh sáng, giống như dưới ánh mặt trời rất sáng lạn, chúng ta có thắp hàng ngàn ánh sáng đèn điện cũng không thấy được ánh đèn, đây là ý nghĩa của “nặc diệu”. Sách Hội Sớ nói: “Vật sáng nhất trong thiên hạ không gì hơn mặt trời, mặt trăng. Vật sáng nhất trong muôn vật không gì hơn nổi Ma-ni. Nhưng Phật quang vừa tỏa, ánh sáng của chúng đều bị che lấp hết”. Chúng ta biết rằng mặt trời là vật phóng quang, mặt trăng chỉ là ánh sáng từ mặt trời chiếu vào và nó phản chiếu đến trái đất, như tấm gương phản chiếu.

– Ánh sáng mặt trời là gì?

– Đó là vật chất phóng quang! Hiện nay con người biết được là “hạt tử phát lổ” mà phát ra ánh sáng. Toàn thể mặt trời là “hạt tử phát lổ”. Từ đó có thể biết, nguồn năng lượng trên mặt trời rất lớn, nhưng nó sẽ thiêu đốt hết đến mức độ không còn nữa. Cho nên, mặt trời cũng có thọ mạng. Khi năng lượng mặt trời mất thì những hành tinh quay quanh mặt trời sẽ xảy ra phiền phức! Đây chính là “Thành, Trụ, Hoại, Không” của thế giới mà trong kinh Phật đã nói. Thông thường, nó cũng có tính chu kỳ, nhưng bất luận dù thay đổi như thế nào, tất cả đều gốc tại ý niệm.

Ý nghĩa của hai câu kệ trên cũng giống như lời “Kệ tán Phật”: “Thập phương sở hữu ngã tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả” (Con đã thấy hết tất cả mọi vật trong mười phương. Trong hết thảy các vật, không có vật nào sánh bằng được Phật).

Bốn câu tụng kế tiếp là bài kệ thứ hai, đều trích nguyên văn từ bản Đường dịch. Bốn câu này xưng tán Thế Gian Tự Tại Vương Phật “viên minh cụ đức”, “sự sự vô ngại”, diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn.

“Thế Tôn năng diễn nhất âm thanh
Hữu tình các các tùy loại giải.”

Đức Thế Tôn vô cùng diệu dụng! Ngài diễn thuyết diệu pháp, chỉ dùng một âm thanh mà có thể khiến các loài chúng sinh trong cửu pháp giới, lục đạo, tứ sanh đều nghe được, hiểu được lời Phật dạy. Đây là âm thanh ngoài lời phát xuất từ tự tánh bổn giác, từ trí tuệ chân thật lưu xuất ra. Trái lại, ngôn ngữ trong thế gian thường bị trở ngại vì phương ngôn khác biệt, cũng do người nghe, kẻ nói không cùng một trình độ, nên không hiểu được nhau.

Phẩm “Phổ Hiền Hạnh Nguyện” của Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Nhất Thiết Như Lai ngữ thanh tịnh, nhất ngôn cụ chúng âm thanh hải, tùy chư chúng sinh ý nhạo âm, nhất thiết lưu Phật biện tài hải” (Lời nói của hết thảy Như Lai thanh tịnh, mỗi lời có đủ các biển âm thanh. Theo ý thích của từng chúng sinh, mỗi một tiếng phát xuất biển biện tài của Phật). Quả thật bài kệ của Kinh Hoa Nghiêm có cùng một ý chỉ với hai câu kệ trên của kinh này. Mỗi một âm thanh có vô lượng âm thanh; mỗi âm thanh trong vô lượng âm thanh ấy lại có vô biên diệu dụng, tùy theo ý thích của từng chúng sinh mà xuất hiện vô biên biện tài khiến mỗi chúng sinh đều được nghe hiểu, được độ thoát.

Chúng sinh được nghe là “Văn Tuệ”, được hiểu là “Giải Tuệ”, được độ là “Tuệ” có thể phá mê; mê phá rồi thì tự nhiên liền buông bỏ. Đây chính là “chủ bạn viên minh cụ đức” trong “mười huyền môn” mà trước đây đã học qua.

Trong Phật pháp, “chủ bạn” không phải là “độc nhất” mà là “bất kỳ”. Bất kỳ ai cũng có thể làm “chủ”, cũng có thể là “bạn”. Ví như trong tổ chức một cuộc hội thảo: Người lên bục giảng là “chủ”, thính chúng bên dưới là “bạn”. Giảng xong tiết mục này, tiết sau đổi người khác lên giảng. Cứ thế mà người nào cũng có thể làm “chủ”, cũng có thể làm “bạn”.

Một pháp viên mãn công đức của hết thảy pháp, nên bảo là “viên minh cụ đức”. Một pháp là “trí tuệ”, tất cả pháp là “tri thức”. Trong “trí tuệ” có “tri thức”; trong “tri thức” không tìm thấy “trí tuệ”. Trong một âm, vang ra vô lượng âm, nói trọn vẹn hết thảy pháp, phổ độ vô biên chúng sinh, đây chính là đại viên mãn, là “viên minh cụ đức”.

Hai câu kệ trên đây nói đến “cứu cánh xứ” đã hiển thị cảnh giới “sự sự vô ngại”, “siêu tình ly kiến” của Kinh Hoa Nghiêm.

“Tình” ở đây là tình thức, là phiền phức của người thế gian, chung qui họ tạo tội nghiệp cũng vì tình thức quá nặng. Phải chuyển hóa “tình thức” trở thành “trí tuệ”, chuyển “kiến giải” thành “giác ngộ” như trong tâm kinh nói: “Quán Thế Âm Bồ Tát chiếu kiến…”, chữ “chiếu kiến” là “giác ngộ”.

– Chiếu kiến những gì?

– Chiếu kiến vạn pháp giai không! “Ngũ uẩn” đều không, là vạn pháp đều không. Phạm vi của “Ngũ uẩn” rất lớn, bao gồm tất cả những hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần.

Các nhà Lượng tử học nói: Một tiểu quang tử, (rất có thể là “cực vi chi vi”; “vi” của “cực vi” mà trong Phật pháp đã nói) có đầy đủ “Ngũ uẩn”: “Sắc-thọ-tưởng-hành-thức”, hoàn toàn tương đồng với Bồ Tát Di Lặc đã nói: “niệm niệm thành hình, hình giai hữu thức”. “Niệm niệm” chính là tích lũy ý niệm của chúng ta. “Niệm niệm” vừa thành hình chính là hiện tượng vật chất. Trong hiện tượng vật chất đã có “thọ, tưởng, hành, thức”. Cho nên, các nhà Lượng tử học đã nhìn thấy A-lại-da. Điều này chứng minh Phật nói về khởi nguyên của vũ trụ không sai tí nào.

– Ý niệm từ đâu mà có?

– Các nhà Lượng tử học chưa nói được rõ ràng. Nhưng, Phật pháp đã nói rất rõ; ấy là do một niệm bất giác mà có.

Một niệm bất giác này ý nghĩa rất sâu! Hiện nay, khoa học cũng nói vũ trụ là một định luật về dây đàn, giống như khảy đàn, là hiện tượng dao động. Một niệm bất giác chính là hiện tượng dao động, thì vũ trụ đã phát sinh rồi; ta từ đâu đến cũng xuất hiện rồi, xuất hiện đồng thời với vũ trụ. Hơn nữa, là “nhất thời đốn hiện”, không có trước sau, không thể giống như phát nổ lớn từ từ bành trướng, điều này nói không thông! Các nhà khoa học nghiên cứu vũ trụ hồng quang đã nhìn thấy sự bành trướng của vũ trụ, sự bành trướng này từ đâu mà có? Chúng ta từ trong Phật pháp Đại Thừa huân tập thời gian dài, dần dần hiểu được một số ý nghĩa:

– Phát nổ lớn là gì?

– Có thể dùng danh từ Phật pháp để nói là “tham-sân-si-mạn- nghi” đều đang bành trướng. Nếu “thức tâm đạt bổn”, đem những vọng niệm này buông bỏ hết, vũ trụ chân thật sẽ hiện bày, bạn mới có thể thật sự nhìn thấy thật tướng của các pháp.

Tóm lại, hai câu kệ trên đã diễn tả “Ngữ Mật” của Như Lai.

Hai câu kệ kế tiếp:

Hựu năng hiện nhất diệu sắc thân
Phổ sử chúng sinh tùy loại kiến

Diễn tả “Thân Mật” của đức “Như Lai” vô cùng thù thắng: Chỉ hiện duy nhất một sắc thân vi diệu đủ khiến cho tất cả các loại chúng sinh đều có thể thấy được Phật. Chữ “Mật” ở đây là thâm mật, không phải bí mật. Phật không có bí mật, chỉ vì tâm chúng sinh quá thô, vọng tưởng phân biệt, chấp trước quá nhiều đã che lấp bản năng tự tánh vốn có của chính mình mà không thể nhận biết.

Xét ra, có đến năm loại Phật thân: Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân, Hóa Thân, và Đẳng Lưu Thân.

1. Pháp Thân

Pháp Thân tức là Tự Tánh Thân, mang tên Tỳ-Lô-Giá-Na (Vairocana), dịch là Biến Nhất Thiết Xứ. Thân này là lý thể của Trung Đạo, lìa khỏi hết thảy các tướng và các hí luận, đầy đủ vô lượng vô biên công đức thanh tịnh chân thật. Đây là cảnh giới chỉ có Phật với Phật mới có thể chứng nhập được. Chữ Biến Nhất Thiết Xứ, ý nói thân và Độ nhất như không hai, dung hòa thành một khối không thể nào phân chia. Chúng ta có thể lãnh hội được từ trong năm câu nói của Đại Sư Huệ Năng khi ngài mới khai ngộ, đó chính là nói Thường Tịch Quang, cũng là nói Tỳ Lô Giá Na trong Kinh Hoa Nghiêm.

Quốc sư Hiền Thủ trong “Hoàn Nguyên Quán” nói:

Tự tánh thanh tịnh viên minh thể”, ý nghĩa vô cùng rõ ràng, tự tánh thanh tịnh mãy trần không nhiễm, vĩnh viễn không bị ô nhiễm. Vì sao nó không có nhiễm ô? Bởi nó không phải vật chất, cũng không phải tinh thần thì lấy đâu mà nhiễm ô. Tuy không phải vật chất nhưng nó có thể hiện ra vật chất; không phải thân, nó có thể hiện thân. Nó là năng hiện, năng sinh; “mạt-na” và “ý thức” là năng biến, cho nên gọi là “duy thức sở biến”.

Tất cả hình hình, sắc sắc trong thế gian này, vô lượng vô biên, thiên biến vạn hóa đều do ý niệm phân biệt, chấp trước mà biến hiện ra. Không có phân biệt, chấp trước, sự biến hóa này hoàn toàn không còn nữa, nên nói “tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”; xa rời tâm tưởng liền trở về với tự tánh. Tự tánh “viên minh cụ đức”; “viên” là viên mãn, không có mãy mai khiếm khuyết; “minh” là trí tuệ, vô lượng trí tuệ. Khi mê “minh” liền mất nên gọi là “vô minh”. “Vô minh” là mê, “giác ngộ” liền sáng. Chữ “minh” cũng là quang minh của tự tánh. Tự tánh quang minh không giống như mặt trời. Ánh sáng mặt trời rất chói mắt, quang minh của tự tánh là nhu nhuyến như ánh sáng mặt trăng. Quang minh tuy rất lớn nhưng không chói mắt, không có độ nóng, khiến người vô cùng dễ chịu.

– Quang minh tự tánh có thể hiện thân không?

– Có thể! Chúng sinh có cảm, Phật liền có ứng, cảm ứng đạo giao bất tư nghị! Cho nên, so với cõi Thật Báo Trang Nghiêm, cõi Pháp Thân càng thù thắng hơn một bậc. Cõi Thật Báo có thân; cõi Thường Tịch Quang không có thân mà năng hiện thân, khi sự   việc xong lại trở về với Thường Tịch Quang, như biển cả có bọt nước, nổi bọt nước chính là hiện thân, công việc xong, bọt nước vỡ tan lại trở về với biển lớn, đây mới là rốt ráo viên mãn.

– Cõi Thật Báo như thế nào?

– Cõi Thật Báo có bọt nước, nhưng bọt nước đó chưa tan vỡ. Nó cũng ứng hóa, nhưng ứng hóa xong rồi nó vẫn trở về với trạng thái bọt nước. Dùng thí dụ này hy vọng bạn có thể hiểu được phần nào.

– Tự tánh biến hóa vô cùng là đạo lý gì?

– Rất khó lý giải! Như kính vạn hoa, bạn cứ quay nó, bên trong liền có hoa văn. Quay mãi như vậy suốt năm cũng không có đồ án nào tương đồng. Đây chẳng phải là biến hóa vô cùng hay sao? Tự tánh khởi tác dụng cũng là đạo lý như vậy. Chúng ta liền hiểu tất cả các pháp đều không phải thật, chỉ có Thường Tịch Quang là “thuần chân”. Cõi Thật Báo Trang Nghiêm là “tương tợ chân”, không phải “thuần chân”. Vì sao? – Phàm có hình tướng đều là hư vọng! Chẳng qua thời gian của cõi Thật Báo lưu trú dài, bất biến mãi cho đến khi “tập khí vô thỉ vô minh” đoạn tận thì cõi Thật Báo sẽ không còn! Điều này chứng minh cõi Thật Báo cũng không phải thật! So với Thập pháp giới, cõi Thật Báo Trang Nghiêm là thật. Nhưng so với Thường Tịch Quang nó vẫn là giả!

Chúng ta tu hành có thể đạt đến buông bỏ hết khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước sẽ sinh đến cõi Thật Báo Trang Nghiêm, nhưng buông bỏ tập khí khởi tâm động niệm là điều không thể nào! Chỉ có để vậy một thời gian, dần dần tập khí tự nhiên tiêu mòn hết. Trong kinh Phật nói: Thời gian tiêu mòn hết những tập khí này là ba A-tăng-kỳ kiếp, lâu xa như vậy.

Điều này chúng ta có thể lý giải được: Khởi tâm động niệm là sóng động vô cùng vi tế! Sóng động tuy dừng, nhưng tập khí nhỏ nhiệm vẫn còn sót lại. Tập khí không còn nữa mới thật sự là bất động. Như chúng ta khảy đàn, khảy đàn là chấn động của dây đàn. Không khảy nữa, đó chính là buông bỏ, nhưng dây đàn vẫn còn tiếp tục rung động, đây gọi là tập khí. Đến khi nào dây đàn hoàn toàn bất động, đó chính là đạt đến quả vị Diệu Giác, thành Phật.

– Có cách gì rút ngắn thời gian này không?

– Dường như có, nhưng việc này chúng ta không thể xác định!

Chúng ta nghĩ đến thế giới Hoa Tạng: Bốn mươi mốt địa vị

Pháp Thân Đại Sĩ cùng với Văn Thù, Phổ Hiền đều vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, đây là lý do gì? Trong đây có một tin tức, một tín hiệu: Rất có thể sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc được bổn nguyện của đức Phật A Di Đà gia trì nên đoạn trừ tập khí, vô minh phiền não sẽ nhanh hơn.

Trong Quán Kinh nói: Người vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, cho dù ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư, Hạ Hạ phẩm, tu hành đến Viên giáo Sơ Trụ Bồ Tát, tức là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, thật sự thoát ly Thập pháp giới đến cõi Thật Báo Trang Nghiêm chỉ cần mười hai đại kiếp. Mười hai đại kiếp này so với tuổi thọ của người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc là vô lượng thọ thì có là bao! Cũng ví như người sống một trăm tuổi, trong khoảng mười hai tiếng đồng hồ thì đã chứng đắc. Điểm này cho thấy vãng sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì thành tựu rất nhanh.

Tỳ kheo Pháp Tạng, dưới đây phát bốn mươi tám đại nguyện, đã trải qua năm kiếp tu hành, nguyện nguyện đều thành tựu, ngài mới thành Phật, thế giới Cực Lạc mới bắt đầu chiêu sinh. Trên Kinh Di Đà nói: Ngài thành Phật đến nay chỉ mới mười kiếp. Cho nên, thế giới Cực Lạc là thế giới rất mới mẻ, là một đạo tràng mới hưng khởi. Chúng ta vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, tương lai dường như đều là “nguyên lão khai sơn”, mới mười kiếp chúng ta đã đến rồi. Nhất định phải tranh thủ không nên chờ đợi, ngay đời này nhất định vãng sinh. Kinh này là giấy đảm bảo cho chúng ta, không ai không thành tựu. Trong mười phương quốc độ không có sự việc này.

Cho nên, Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn khó tin! Không phải chúng ta không tin mà Bồ Tát khó tin! Bồ Tát còn phải tu pháp môn của họ, tu đến thế giới Hoa Tạng gặp Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, lại dẫn họ đến thế giới Cực Lạc, vậy là họ đã đi rất nhiều đường vòng! Pháp môn Tịnh Độ là con đường tắt, một đời thành tựu, hi hữu khó gặp. Đến thế giới Cực Lạc, bạn liền chứng đắc A Duy Việt Trí đồng với Pháp Thân Đại Sĩ.

– Làm thế nào chứng được Pháp Thân?

– Buông bỏ chướng ngại là chứng được!

Pháp Thân vốn có, xưa nay chưa từng mất. Thân chúng ta là sắc tướng giả tạm, có biến hóa, có sinh lão bệnh tử. Sau khi chết lại thay một tướng khác. Tướng thay nhưng Tánh không thay. Hiểu rõ chân tướng sự thật này, người biết tu hành, càng thay càng tốt, càng thay càng sạch, càng thay càng đẹp. Không hiểu chân tướng này, càng thay càng kém, càng thay càng bẩn! Nếu đổi thân súc sinh đó là càng thay càng tệ! Thật là đáng tiếc!

2. Báo Thân

Thân này của đức Như Lai mang tên Lô Xá Na (Rocana), dịch là Quang Minh Biến Chiếu, phải là bậc Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên mới thấy nổi.

3. Ứng Thân

Như đức Thích Ca Văn (Sākyamuni). Ứng Thân (nói chung) chỉ thân Phật dùng để hiện tám tướng thành đạo. Địa Tiền Bồ Tát, Nhị Thừa, phàm phu đều thấy được thân này.

4. Hóa Thân

Thân Phật hóa hiện trong một giai đoạn nào đó thì gọi là Hóa Thân.

5. Đẳng Lưu Thân

Đẳng Lưu Thân là một trong bốn thân do Mật giáo lập ra. “Đẳng Lưu Thân” là thân do Phật thị hiện có cùng hình dạng như các loài trời, người, quỷ, súc sinh v.v… cho các dị loại đều được thấy.

Tóm lại, phần kệ tụng trên đây là lời tán dương Phật: Từ một thân, Phật hiện ra vô lượng các thân, khiến mọi loài chúng sinh đều được trông thấy. Đây cũng là hiển thị cảnh giới viên minh cụ đức chẳng thể nghĩ bàn! Phần tiếp theo là phát nguyện. Tỳ kheo Pháp Tạng, sau khi tán thán công đức của Phật xong, liền phát khởi thệ nguyện rộng lớn: Nguyện tự làm Phật, nguyện nhiếp trì Phật độ, lợi khắp chúng sinh chóng thành Chánh Giác. Việc trọng yếu nhất đó là phải phát nguyện.

Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: “Như Lai công đức, giả sử thập phương nhất thiết chư Phật, kinh bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần sát kiếp, tương tục diễn thuyết, bất khả cùng tận. Nhược dục thành tựu thử công đức môn, ưng tu thập chủng quảng đại hạnh nguyện” (Giả sử mười phương hết thảy chư Phật liên tục diễn nói công đức của Như Lai trong số kiếp nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật cũng chẳng thể nói hết nổi. Nếu muốn thành tựu môn công đức ấy phải tu mười thứ hạnh nguyện rộng lớn). Vì vậy, Tịnh Tông dùng ba thứ: Tín, Hạnh, Nguyện làm tư lương.

Linh Phong Đại sư (tức Ngẫu Ích Đại sư) dạy: “Không có Tín thì chẳng đủ để phát khởi Nguyện, không có Nguyện sẽ chẳng đủ dẫn dắt Hạnh”.

Pháp sư Tĩnh Am đời Thanh cũng nói: “Tu hành thì việc cần kíp trước tiên là lập Nguyện. Nguyện đã lập thì mới độ nổi chúng sinh, tâm đã phát mới kham thành được Phật đạo”. Ngài còn dạy: “Vì vậy, cần biết là nếu muốn học Như Lai thừa thì trước hết phải phát đủ Bồ Tát nguyện, chẳng được chần chừ”. Đoạn kệ tụng tiếp sau đây là lời Pháp Tạng nguyện cầu đức tự giác, giác tha. Muốn giác tha trước tiên chính mình phải tự giác. Cầu tự giác chính là để giác tha.