Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VIII. PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA ĐỆ TỨ
(TT)

KINH VĂN:

Hữu đại quốc chủ danh Thế Nhiêu Vương, văn Phật thuyết pháp, hoan hỉ khai giải, tầm phát vô thượng chân chánh đạo ý, khí quốc quyên vương, hành tác sa-môn, hiệu viết Pháp Tạng.

VIỆT DỊCH:

Có đại quốc chủ tên là Thế Nhiêu Vương, nghe Phật thuyết pháp hoan hỉ, khai giải, liền phát vô thượng chánh chân đạo ý, bỏ nước, bỏ ngôi vua, trở thành sa môn, hiệu là Pháp Tạng.

GIẢNG:

Đoạn kinh văn trên đây là đức Thế Tôn giới thiệu lịch sử của Phật A Di Đà, trong Phật pháp gọi là “nhân địa”.

Hữu đại quốc chủ danh Thế Nhiêu Vương, văn Phật thuyết pháp, hoan hỉ khai giải(Có đại quốc chủ tên là Thế Nhiêu Vương, nghe Phật thuyết pháp hoan hỉ, khai giải). “Thế” là thế gian, “nhiêu” là phong nhiêu. Theo Hòa Thượng Tịnh Không, chữ “Thế Nhiêu Vương” nhất định là tôn xưng của nhân dân xã hội thời đó tán thán mỹ từ này đối với quốc vương, vì vua này thống trị giỏi, có trí tuệ, rất từ bi, chăm sóc rất chu đáo đối với quốc gia. Thế gian này phong nhiêu, là quốc gia có nền văn hóa tài nguyên vô cùng phong phú, phát đạt; người xưa gọi là thái bình thạnh thế, đặc biệt là phương diện văn hóa, lại có Phật xuất thế, điều này rất khó được.

Nhân dân phước báo lớn, quốc vương phước báo lớn mới chiêu cảm được Phật Bồ Tát đến xuất hiện. Không những chỉ xuất hiện mà còn trụ thế rất lâu đến bốn mươi hai kiếp. Vị đại quốc vương này tên là Thế Nhiêu Vương, nghe đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương thuyết pháp, tâm chợt khai ngộ, hiểu suốt thật nghĩa những lời Phật dạy nên gọi là “khai giải”. Do “khai giải” nên tự nhiên “hoan hỉ”. Điểm này giống như cuối các bản kinh thường chép: “Văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỉ” (Nghe lời Phật dạy đều đại hoan hỉ).

Tầm phát vô thượng chân chánh đạo ý (Liền phát vô thượng chánh chân đạo ý): “Tầm” là ngay lập tức, “phát” là phát tâm. “Vô thượng chân chánh đạo ý”, tiếng Phạn là “A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”, chính là phát vô thượng đại Bồ Đề tâm, phát đại tâm thành Phật.Trong Phật pháp, giác ngộ có ba bậc:

– “Tam Bồ Đề” là Chánh Giác, quả vị của A-la-hán.

– “Tam Miệu Tam Bồ Đề” là Chánh Đẳng Chánh Giác, quả vị của Bồ Tát.

– “A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là quả vị Phật.

Khí quốc quyên vương hành tác sa môn”: Khí quốc” là xả bỏ phú quí, tiền của; “quyên vương” là xả bỏ vương vị. Người xưa nói “Quí vi Thiên tử, phú hữu tứ hải”. Quốc vương vào thời xưa, lãnh thổ là tài sản tư hữu của họ. Nhân dân trồng trọt trên đất phải nộp thuế cho họ. Thế Nhiêu Vương có được phú quí, hơn nữa là đại phú quí. Ông là đại quốc vương, sau khi nghe pháp khai giải, lập tức phát vô thượng đại Bồ Đề tâm, từ bỏ đất nước, ngôi vua, xuất gia trở thành “sa-môn”.

“Sa-môn” (Sramana) nguyên là tiếng để gọi chung những người xuất gia, kể cả ngoại đạo, sau này mới trở thành danh từ dành riêng cho tăng lữ Phật giáo. “Sa-môn” nghĩa là “Cần Tức”, thông thường giải thích là “Cần tu Giới-Định-Tuệ tức diệt “tham-sân-si”, đó gọi là “Sa-môn”. Nói cách khác, ý nghĩa của “Sa-môn” là đoạn ác tu thiện. Người nào có thể siêng tu “Giới Định Tuệ”, dập tắt “tham- sân-si” thì gọi là “sa-môn”. Do đây có thể biết, tại gia hay xuất gia, chỉ cần chân thật đoạn ác, tu thiện đều có thể gọi là “sa-môn”. “Hành tác sa-môn” là nói ngài đã xuất gia rồi.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương chép: “Từ thân xuất gia, thức tâm, đạt bổn, giải vô vi pháp, danh vi sa-môn” (Từ biệt thân thuộc xuất gia, hiểu thấu cội rễ của tâm tánh, hiểu pháp vô vi, gọi là sa- môn). Đây chính là ý nghĩa sâu xa của chữ “sa-môn”.

Thức” là nhận thức, “thức tâm” là nhận thức tâm, tâm này là chân tâm, là bản thể của vũ trụ vạn hữu, “thức tâm” cũng là “minh tâm kiến tánh”, “đạt bổn”: “bổn” là chỉ cho tự tánh. “giải vô vi pháp” câu này không dễ hiểu.

– “Pháp vô vi” ở đâu?

– Ngay trước mắt chúng ta!

Trên thực tế, tất cả pháp đều là “pháp vô vi”, chúng ta ở trong hết thảy các pháp này khởi tâm động niệm phân biệt, chấp trước khiến nó thành “hữu vi”. “Pháp hữu vi” là giả không thật, “Pháp vô vi” mới là thật. “Vô vi” nhưng “vô sở bất vi”, nó có thể hiện ra vạn pháp. Tuy hiện vạn pháp, nhưng vạn pháp là huyễn hóa.

Kinh Kim Cang nói: “Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh”, nó không phải thật, cho nó là thật sẽ mê muội ở trong đó! Trong giáo lý Đại thừa nói “Bất nhị pháp môn”: “Hữu vi”, “vô vi” đều không hai, đây thật sự là hiểu “pháp vô vi”. Ta biết “vô vi” nhưng “vô sở bất vi”; “vô sở bất vi” nhưng thật là “vô vi”. Cách nói này là cách nói khi chứng quả, đạt đến cảnh giới của Như Lai. Bồ Tát vẫn chưa đạt đến trình độ này. Phía trước nói “cần tu Giới- Định-Tuệ, diệt trừ tham sân si”, đó là lúc sơ học, sa-môn mới học Phật phải đi theo con đường này. Nhưng, Phật là bậc “Đại sa-môn”, sa-môn chứng được cứu cánh viên mãn nên đã siêu việt chặng đường này.

Hiệu viết Pháp Tạng (Hiệu là Pháp Tạng): “Pháp Tạng” chính là Pháp hiệu của Thế Nhiêu Vương sau khi trở thành tỳ kheo. “Pháp” là tất cả Phật pháp, “Tạng” là hàm tàng. Tất cả Phật pháp đều hàm tàng trong đó, nên gọi là “Pháp Tạng”. Do đây có thể biết: Pháp Tạng chính là tên gọi của tự tánh chúng ta; chỉ có “Chân Như tự tánh” mới hàm chứa tất cả các pháp thế và xuất thế gian.

Theo Thám Huyền Ký, chữ “Pháp” có đến bốn nghĩa:

Hàm nhiếp (chứa đựng, bao gồm).

Uân tích (tích chứa sâu sắc).

Xuất sanh (sinh ra).

Vô tận.

Do cất giữ tất cả pháp nên gọi là Pháp Tạng, đây là nói về hàm ý trong danh hiệu.

Theo Gia Tường Sớ (đây là chú giải của Pháp sư Huệ Viễn thời nhà Tùy): “Do có thể tích lũy Phật pháp một cách sâu xa nên gọi là Pháp Tạng”, giải thích ý này là nói tự tánh, đây là tánh đức. Đại sư Huệ Năng nói: “Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ”, là ý nghĩa này.

Tự tánh không thiếu bất cứ một pháp nào. Tự tánh có vô lượng trí tuệ, có vô lượng đức năng, có vô lượng tướng hảo, cũng có nghĩa là hàm nhiếp, uân tích, xuất sanh, vô tận. Gặp duyên: Duyên của chư Phật Như Lai là chúng sinh có cảm, Phật liền có ứng. Cảm ứng đạo giao giống như thủy triều, thủy triều lên hay xuống đều có thời gian nhất định. Cho nên, trong kinh điển Cổ Đức cũng thường ví Như Lai thuyết pháp như tiếng hải triều, đúng thời gian nó tự nhiên đến, hết thời gian nó tự rút xuống.

Quả đúng là “đến không có đến, đi cũng không có đi, đến không có chỗ đến, đi không có chỗ đi”, chính là “đương xứ xuất sanh, đương xứ diệt tận”, đây là chân tướng sự thật. Chúng ta thấy có đến, có đi vì chúng ta có quan niệm về thời gian lẫn không gian. Trên thực tế, trong thiền định thời gian và không gian đều không có.

Rất nhiều năm trước, các nhà khoa học đã chứng minh, biết được thời gian và không gian không thật, là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta sinh ra. Nếu buông bỏ được phân biệt, chấp trước thì thời gian và không gian sẽ không còn. Thời gian không còn sẽ không có trước sau, không có xưa nay, đều ngay tại đây. Nếu không có không gian thì khoảng cách sẽ không có, do đó nó là giả không thật.

– Thế giới Cực Lạc ở đâu?

– Ngay tại đây! Không có khoảng cách! Như hiện nay chúng ta xem truyền hình.

– Trong truyền hình có khoảng cách không?

– Không có! Bậc nút kênh đài, nó liền hiện ra. Đổi kênh đài khác, kênh này lập tức biến mất, kênh mới xuất hiện đều ngay tại đây. Đổi kênh, giống như các nhà khoa học phát hiện “khác tầng không gian”. “Tầng không gian”, theo lý mà nói là vô tận vô lượng.

Về sự, ngài Hoàng Niệm Tổ là người học khoa học, ông dạy về thiết bị truyền tin vô tuyến ở trường, ông nói: Khoa học có chứng cứ, ít nhất có mười một loại không gian khác nhau tồn tại. Trên lý mà nói, không phải chỉ có chừng đó, đều là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà biến hiện ra. Nếu buông bỏ hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thì thời gian và không gian không còn nữa, toàn thể vũ trụ từ xưa đến nay sẽ liền hiện ra trước mắt. Như mạng lưới trên quả cầu rất dày đặc, ta sẽ hoàn toàn nhìn thấy, tất cả đều thông đạt, đây là cảnh giới của Phật. Lại nữa, : Có thể khai mở Pháp tạng của Phật cũng là khai mở được tự tánh của chính mình nên gọi là “Pháp Tạng”.

KINH VĂN:

Tu Bồ Tát đạo, cao tài dũng triết, dữ thế siêu dị, tín giải minh ký, tất giai đệ nhất. Hựu hữu thù thắng hạnh nguyện, cập niệm tuệ lực, tăng thượng kỳ tâm, kiên cố bất động. Tu hành tinh tấn, vô năng du giả.

VIỆT DỊCH:

Tu Bồ Tát đạo, cao tài dũng triết, trỗi lạ hơn người, tín giải, nhớ rõ, đều là bậc nhất. Lại có hạnh nguyện và niệm tuệ lực thù thắng để tăng thượng tâm mình kiên cố chẳng động, tu hành tinh tấn, chẳng ai hơn nổi 

GIẢNG:

Đoạn kinh này khen ngợi nồng nhiệt đức hạnh tu hành của tỳ kheo Pháp Tạng sau khi xuất gia. Vừa nhập môn, ngài không tu theo đạo Thanh Văn, không tu theo đạo nhân thiên mà tu theo đạo Bồ Tát, hướng thẳng đến Nhất Thừa. Bản Tống dịch ghi là “Đại thừa đệ nhất”. Như vậy, theo cụ Hoàng Niệm Tổ, pháp của Bồ Tát tu là đại pháp “Nhất Thừa Chân Như” viên mãn. Câu này rất quan trọng!

– Pháp này là gì?

– Theo Hòa Thượng Tịnh Không là: “Chí tâm tín nhạo”, chỉ có một niệm duy nhất, tất cả những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều buông bỏ. Một niệm này là nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sinh Tịnh Độ. Đây là “đại đạo Chân Như viên mãn” của Nhất Thừa.

– Tiêu chuẩn của “Tu Bồ Tát đạo” là gì?

– Tịnh tông chúng ta đề ra năm khóa mục làm tiêu chuẩn:

  1. Tu “Tịnh nghiệp tam phước”.
  2. Tu “Lục Hòa Kính”.
  3. Tu “Giới-Định-Tuệ” tam học.
  4. Tu “Lục Độ”.
  5. Tu “Thập Nguyện Phổ Hiền Bồ Tát”.

Trong cuộc sống thường ngày đối nhân xử thế tiếp vật, khởi tâm động niệm, lời nói, việc làm đều phải tương ưng với tiêu chuẩn này thì gọi là tu Bồ Tát đạo. Trái với tiêu chuẩn này là tu ba đường ác!

Cao tài dũng triết: “Cao” là tán thán đức cao của ngài, “tài” là tán thán trí của ngài, ngài có trí tuệ tài hoa, “dũng” là có ý chí mạnh mẽ, “triết” là hiểu biết, sáng suốt. “Dũng triết” là tán thán chí hướng mạnh mẽ của ngài. Ngài lập đại chí đích thật là khác với mọi người. Người thế gian mong cầu là phú quí, hưởng thụ lợi dưỡng năm dục sáu trần. Ngài giác ngộ biết tất cả đều là hư vọng, là căn bản của sinh tử luân hồi, nên đem nó xả được sạch trơn, biết được “vô thượng đạo” mới là “chánh pháp”, là “chư Phật Như Lai sở chứng”, là tất cả người giác ngộ mong cầu học tập.

Gia Tường Sớ giảng: “Khen ngợi tài năng siêu quần nên bảo là Cao Tài. Tự thắng được mình, thắng được người nên khen là Dũng. Sáng suốt phá tan tà kiến nên bảo là Triết”. Câu này quan trọng nhất là “thắng được mình”. “Thắng được mình” là công phu, khắc phục được tập khí phiền não, sự biếng nhác, kiêu ngạo, phóng dật v.v… của chính mình, từ đó mới có thể tập trung, tinh tấn tu hành.

Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Tài là tài khéo, tài đức hơn người nên bảo là Cao Tài. Ý chí mạnh mẽ là Dũng. Tâm sáng suốt là Triết”. Như vậy, “Cao tài dũng triết” hàm ý Bồ Tát Pháp Tạng tài cao hơn người, dũng mãnh tinh tấn, tâm rạng trí sáng.

“Dữ thế siêu dị” (Trỗi lạ hơn người), siêu việt khác thế gian. Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Riêng mình ngài đức hạnh vượt trỗi, nên bảo là ‘thế siêu dị’ (trỗi là hơn đời)”.

Sách Hội Sớ bảo: “Thường nhân chẳng thể bằng nổi nên bảo là dữ thế siêu dị”.

Với vấn nạn: “Khi phát tâm Bồ Tát, Pháp Tạng đã ở địa vị nào?” Các nhà chú giải kinh nêu ra nhiều thuyết khác nhau:

Ngài Tịnh Ảnh bảo: “Ở đây, Ngài vừa mới phát tâm vô thượng nên còn thuộc Địa Tiền thế gian hạnh, đến đoạn sau có câu: ‘Ta phát tâm Vô Thượng Chánh Giác’, (lúc ấy) ngài mới thuộc Địa Thượng xuất thế gian hạnh”. Các vị Nghĩa Tịch, Vọng Tây v.v… cũng nghĩ tương tự (nên biết: Những người chưa đạt đến “Sơ Địa” được gọi bằng danh xưng “Địa Tiền” hay “thế gian”. Chỉ bậc chứng “Sơ Địa” trở lên mới được gọi là “xuất thế gian”).

Các ngài Đàm Loan, Gia Tường, Thiện Đạo và tác giả sách Bình Giải đều bác thuyết ấy. Sách Bình Giải bác thuyết của ngài Tịnh Ảnh như sau: “Dẫu có nói phát tâm trước (đoạn kinh này), sau (phẩm thứ năm) nhưng chẳng có hai lượt phát tâm. Chỉ là một lần phát tâm mà thôi!

Cụ Hoàng Niệm Tổ nêu ra nhận xét như sau: Đoạn kinh văn này là đức Thích Ca thuyết pháp, thuật lại sự phát tâm của Bồ Tát Pháp Tạng. Trong phẩm thứ năm ở phần sau, chính tỳ kheo Pháp Tạng tự thuật việc phát tâm của mình. Cho nên phát tâm thuật trong phần sau chỉ là nhắc lại việc phát tâm lần này. Ý của sách Bình Giải (do Đại sư Đạo Ẩn người Nhật viết) rất xác đáng. Sách còn viết: “Đại sĩ Long Thọ phán định là thuộc Sơ Địa hoặc là Bát Địa, cũng là từ quả hướng nhân, thật khác với ý các sư lắm!”. Câu này chứng minh trong Đại Luận, Đại sĩ Long Thọ, phán định Bồ Tát Pháp Tạng khi vừa mới phát tâm ngài đã ở bậc Sơ Địa hay Bát Địa, tức là ở bậc Địa Thượng, do đó, ý Đại Luận hoàn toàn tương phản với ý của các sư.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Chúng ta chưa minh tâm kiến tánh nên luôn luôn có nghi vấn trước quan điểm sai biệt của các Tổ sư, đại đức. Việc này chúng ta không cần phải nghiên cứu, mà chỉ nên dùng nó làm tài liệu tham khảo, bởi nó không liên quan đến việc niệm Phật vãng sinh Tịnh Độ của chúng ta. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thấy được A Di Đà Phật, chân tướng liền sẽ rõ ràng, hà tất ở đây cứ đoán già, đoán non tự tìm rắc rối! Tìm hiểu ngôn ngữ văn tự là sai!

Cụ Hoàng Niệm Tổ tiếp tục nêu ra:

Phẩm “Thọ Lượng” của Kinh Pháp Hoa chép: “Ngã thực thành Phật dĩ lai, vô lượng vô biên bách thiên vạn ức na-do-tha kiếp” (Từ khi ta (tức Phật Thích Ca) thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp). Kinh Pháp Hoa còn chép: Đức Thích Ca cùng Phật A Di Đà trong vô lượng A-tăng- kỳ kiếp trước đều là vương tử của Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Như vậy, Phật A Di Đà cũng đã thành Phật từ rất lâu xa rồi, quả đúng là tỳ kheo Pháp Tạng chỉ là từ quả hướng nhân mà thôi.

Tín giải minh ký, tất giai đệ nhất (Tín giải nhớ rõ đều là bậc nhất): “Tín” là tin nhận (tín thọ). Kinh Hoa Nghiêm bảo: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu”, lòng tin là mẹ của công đức, là nguồn gốc của học đạo. Chúng ta tu học Tịnh Độ cần có ba điều kiện, gọi là ba tư lương: Tín, Nguyện, Hạnh. Chữ “Tín” đặt ở đầu tiên.

– Thế nào là “Tín”?

–  Quyển hai, sách Đại Thừa Nghĩa Chương viết: “Đối với Tam Bảo tâm tịnh chẳng ngờ gọi là Tín”. Hòa Thượng Tịnh Không khen câu nói này rất hay: Tâm phải thanh tịnh, không có nghi hoặc mới gọi là Tín. “Tín” trong Phật pháp không giống niềm tin của các tôn giáo khác. Họ cũng đặt niềm tin ở hàng đầu, nhưng niềm tin của họ là tin thần, tin Thượng Đế. Trong Phật pháp không phải vậy, tin đầu tiên là tin chính mình, hoàn toàn khác nhau.

Trong “Di Đà Yếu Giải”, Đại sư Ngẫu Ích nói về sáu loại “Tín”: Tín tự, tín tha, tín nhân, tín quả, tín sự và tín lý. Thứ nhất là “tín tự”, tin chính mình vốn là Phật. Nếu không tin điều này thì học Phật làm sao thành Phật! Trong Tịnh Tông lại càng đặc biệt: Tin tự tâm chính là Phật A Di Đà; Phật A Di Đà chính là tự tâm, Tịnh Độ tức ở đây, ở đây tức Tịnh Độ.

– Bạn có tín tâm này chăng?

– Không có niềm tin này thì công phu niệm Phật của bạn không có cảm ứng, không được tam-muội!

Niềm tin kế tiếp mới là “tín tha”, tức là tin đức Phật Thích Ca giới thiệu về thế giới Tây Phương Cực Lạc, từ nhân vật cho đến cảnh giới đều có thật, tin bốn mươi tám Đại Nguyện của đức Phật A Di Đà hoàn toàn không hư dối v.v…

Đại Trí Độ Luận nói: “Tin là có thể vào, Trí là có thể chứng”, nếu bạn không tin thì làm sao có thể vào! Chúng ta đọc đến đoạn kinh văn này phải nên có sự lĩnh ngộ, chỉ cần xây dựng tín tâm thanh tịnh, chúng ta cũng có thể giống như Pháp Tạng.

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Kinh Hoa Nghiêm lấy “Tín-giải- hạnh-chứng” làm cương yếu, bởi có “tín, giải” chân thật mới có thể sinh khởi “hạnh chứng” chân thật, “minh ký” là ghi nhớ một cách phân minh, chẳng hề quên mất pháp đã nghe.

Cũng theo cụ Hoàng: “Tất giai đệ nhất” (Đều là đệ nhất) có hai nghĩa:

Một là chí cao vô thượng không ai có thể vượt qua.

Hai là những gì ngài tin hiểu, lãnh hội đều khế hợp “Đệ nhất Nghĩa Đế”.

Hòa Thượng Tịnh Không cho rằng: Ý này rất sâu sắc, các đại đức xưa nay thường nói “tiêu qui tự tánh”, những gì ngài tin hiểu, nghe được đều tương ưng với Chân Như tự tánh. Đó không phải là sự tiếp thu bình thường. Kinh văn ở trước và khai thị của Tổ sư đại đức khiến chúng ta có lý do tin rằng: Tỳ kheo Pháp Tạng không phải người bình thường, là Pháp Thân Bồ Tát tái sinh, đương nhiên ngài có năng lực này.

Hựu hữu thù thắng hạnh nguyện, cập niệm tuệ lực, tăng thượng kỳ tâm, kiên cố bất động (Lại có hạnh nguyện và niệm tuệ lực thù thắng để tăng thượng tâm mình kiên cố chẳng động): “Thù thắng” là thuật ngữ riêng của Phật giáo. “Thù” là đặc biệt, đặc thù, “thắng” là vượt qua, siêu việt, siêu thắng. “Hạnh nguyện” là thân hạnh và tâm nguyện hỗ trợ nhau, hoàn toàn tương đồng, không phải “khẩu thị tâm phi”, miệng nói một đàng, tâm nghĩ một nẽo.

– Tỳ kheo Pháp Tạng dùng phương pháp gì có thể dẫn dạy những chúng sinh này sớm thành tựu?

– Thực tế mà nói, vấn đề này tất cả chư Phật đều luôn để tâm đến, nhưng không nghĩ ra phương pháp. Trong kinh thường nói: “Tâm, Phật cập chúng sinh thị tam vô sai biệt”, ba sức mạnh của: Tâm, Phật và chúng sinh ngang nhau. Thử xem, chúng ta kết hợp với sức mạnh nào? Nếu tâm kết hợp với tập khí phiền não của tất cả chúng sinh thì đó quả thật là vô lượng kiếp không có ngày ra khỏi luân hồi! Những gì trong kinh Phật nói không phải là để khiếp sợ người khác, mà mỗi câu Phật nói đều là thật. Luân hồi khổ! Luân hồi quá khổ! Sinh đến cõi trời giống như được thở một hơi, chưa thở hết một hơi, lại bị đọa lạc! Lần này đọa lạc đến khi nào mới ra được?! Quả thật không đơn giản!

Sách Bồ Đề Tâm Luận giảng: “Cầu Bồ Đề là phát Bồ Đề tâm, tu Bồ Đề tâm”. “Phát” là “tín, nguyện”, “tu” là “hạnh”. Ba thứ tư lương “Tín, Nguyện, Hạnh” như ba chân của cái đỉnh, chẳng thể thiếu một. Phật Di Đà hiệu là Đại Nguyện Vương, pháp môn Tịnh Độ hoàn toàn nương vào biển nguyện Nhất Thừa của Phật A Di Đà, lấy “Tín, Nguyện, Trì Danh” làm Tông.

Cập niệm tuệ lực, tăng thượng kỳ tâm” (Và niệm tuệ lực để tăng thượng tâm mình): Đại nguyện sinh ra đại lực, nên đại nguyện và sức niệm tuệ cùng làm tăng thuợng duyên.

Tịnh Ảnh Sớ nói: “Nguyện để khởi hạnh thì gọi là nguyện lực”. “Nguyện” ở phía trước dẫn đường cho “Hạnh”. Dùng  “Hạnh” để thực tiễn “Nguyện”, nguyện vọng mới đạt đến viên mãn thành tựu. Chúng ta ngay trong đời sống nhất định phải phát nguyện. Phải có thể xả mình vì người. Bồ Tát Pháp Tạng có thể mãn nguyện cũng chính nhờ cái nguyên tắc này mà làm. Pháp Tạng xây dựng đạo tràng thế giới Tây Phương Cực Lạc, không phải cho chính mình hưởng phước mà cung ứng cho tất cả chúng sinh mười phương thế giới đến đây thành Phật.

Ngày nay, chúng ta học Phật, tu học Tịnh Độ chính là học Phật A Di Đà, chúng ta có giống A Di Đà Phật không?

– Mỗi ngày chí ít phải hỏi vài lần: Ta có giống A Di Đà Phật không? Không giống Phật A Di Đà thì không được! Vậy thì phát nguyện của bạn chỉ là giả, không thật! Nhất định phải giống như A Di Đà Phật.

– Làm thế nào để giống?

– Lúc trước tôi đã từng nói qua rất nhiều lần: phải đem bộ kinh này, từng câu, từng chữ làm cho được thì bạn liền giống Phật A Di Đà. Bộ kinh này chính là Phật A Di Đà. Chúng ta phải thật tin, thật có thể lý giải, thật y giáo phụng hành, thật thành tâm phát nguyện. Nguyện phải giống như nguyện ngài; tu phải giống như các hạnh của ngài, vậy mới giống Phật A Di Đà. Nếu có được hai, ba phần giống thì bạn quyết định được vãng sinh. Nếu có thể tu được tám, chín phần giống thì được thượng thượng phẩm vãng sinh.

Sách Hội Sớ nói: “Nguyện lực là Tứ Hoằng Thệ Nguyện để thanh tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh vậy”. Tất cả chư Phật Như Lai thường phát đại nguyện khi còn ở nhân địa. Tập họp tất cả những đại nguyện này, lại đưa ra một cương lĩnh chính là “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”. Bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà cũng không ngoài cương lĩnh của “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”.

Cập niệm tuệ lực”: Chữ “niệm tuệ lực” còn chỉ cho “Niệm Lực” và “Tuệ Lực”. Tuy tĩnh lược có hai nhưng thực tế bao gồm cả “Ngũ Căn, Ngũ Lực”. “Ngũ Lực” là: Tín Lực, Tinh Tấn Lực, Niệm Lực, Định Lực và Tuệ Lực. Chúng ta phải thực hành năm chữ này, biến năm “Căn” thành năm “Lực”. Trong pháp môn Niệm Phật rất dễ thực hành, hầu như người chân chánh niệm Phật đều có thể làm được. Rất nhiều người niệm Phật đều đầy đủ “Ngũ Lực”. Tu các pháp môn khác không dễ biến “Ngũ Căn” thành “Ngũ Lực”.

Trí Độ Luận nói: “Tăng trưởng Ngũ Căn khiến cho chúng chẳng bị phiền não phá hoại nên gọi là Lực”: “Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ” là “Ngũ Căn”; không bị phiền não phá hoại đây là “Lực”. Câu này nói đến cơ bản hành môn của chúng ta. “Luận” còn nói: “Thiên ma ngoại đạo chẳng thể ngăn trở, phá hoại nên gọi là Lực”.

Nếu “Ngũ Căn” khởi sức mạnh, thiên ma ngoại đạo gặp cũng không dám chướng ngại bạn, họ còn cung kính lễ bái bạn, làm hộ pháp cho bạn. Nếu không có công phu thật sự, họ sẽ xem thường, đến gây rối, bỡn cợt bạn. Cho nên, biết dùng “Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ”, ma gặp bạn liền biến thành Bồ Tát. Hơn nữa, “Niệm Lực” tăng trưởng “Niệm Căn”, phá được các tà niệm; “Tuệ Lực” tăng trưởng “Tuệ Căn”, phá các “Hoặc” trong tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới).

Đại sư Linh Phong (Tổ Ngẫu Ích) còn bảo: “Niệm căn tăng trưởng thành tựu hết thảy chánh niệm xuất thế công đức nên gọi là Niệm Lực. Tuệ căn tăng trưởng ngăn che hết thảy các Hoặc Chướng dù thông hay biệt, phát sinh chân vô lậu nên gọi là Tuệ Lực”. Các “Hoặc Chướng” chính là ngu si, khi tiếp xúc rất dễ bị động tâm. Tam giới là phước báo của trời, người, người thế gian ưa thích hưởng thụ cảnh giới thần tiên tốt đẹp, nên rất dễ bị mê hoặc.

Do vậy mà Tuệ quang dứt được “Hoặc Chướng”, hiển phát chân trí vô lậu nên gọi là “Tuệ Lực”, đây là trí tuệ tăng trưởng giúp ta có năng lực nhìn thấu, buông bỏ những cám dỗ, mê hoặc. “Kiến Tư Hoặc” là “Thông Hoặc” (phiền não chung), vì cả ba “Thừa” đều cùng phải đoạn trừ. “Trần Sa Hoặc” và “Vô Minh Hoặc” là “Biệt Hoặc”, chỉ riêng hàng Bồ Tát mới phải đoạn.

Nói đến Ngũ Căn, Ngũ Lực, chúng ta liền nghĩ ngay đến “Ba mươi bảy phẩm trợ đạo”. Đứng đầu của “ba mươi bảy phẩm trợ đạo” là Tứ Niệm Xứ. “Niệm Xứ” là trí tuệ, cũng chính là nhìn thấu. Tứ Niệm Xứ dạy chúng ta bốn loại quan niệm chính xác. Ngày nay, chúng ta tu hành, công phu không có lực, do nền tảng tu học của chúng ta chưa chắc chắn.

– “Không có lực” là gì?

– Là không buông bỏ được!

– Vì sao không buông bỏ được?

– Vì không nhìn thấu!

Đức Phật dạy chúng ta phải bắt đầu học từ Tứ Niệm Xứ:

1. Quán Thân Bất Tịnh

Thân này không phải là thứ trong sạch, chớ nên tham đắm nó, đây là bước đầu vào cửa. Pháp quán này giúp chúng ta, tuy chưa thể đoạn dứt được “Thân Kiến”, cũng giảm nhẹ đi phần chấp trước về “ngã chấp”. Thân tuy giả không thật nhưng chúng ta không thể thiếu nó. Nhà Phật thường nói: “Mượn giả tu thật”. Chúng ta phải mượn cái thân giả này tu cái chân tánh; không có thân giả này cũng không được; cho nên, nó hữu dụng. Bạn sử dụng nó không chướng ngại, nhưng không được chấp trước.

Việc này tôi cũng thường nói qua: Tất cả vạn vật chúng ta có quyền sử dụng nhưng không nên có quyền sở hữu; quyền sở hữu là chấp trước. Không nhất thiết phải là sở hữu của ta, cũng dùng được, vậy thì tốt rồi! Giảng đường này chúng ta ngồi đây nghe giảng kinh là chúng ta có quyền sử dụng, nhưng quyền sở hữu thuộc Cư Sĩ Lâm, không phải của chúng ta. Thân này cũng vậy, chớ nên chấp trước thân này là ta, không nên chăm sóc, thương yêu nó quá đáng, vậy thì sai rồi! Phải lợi dụng nó, phải sử dụng nó, quyết không chấp trước nó. Sau này có xả thân, thọ thân bạn mới được tự tại.

2. Quán Thọ Thị Khổ

Thọ” là hưởng thọ. Người ở Singapore có phước, đây là đất phước. Trên thế giới có rất nhiều nơi con người đang chịu khổ nạn, người ở đây cơm áo đầy đủ. Tỉ mỉ mà tư duy:

– Ngày ngày bạn hưởng thọ vui hay khổ?

– Không tệ! Cũng rất an vui!

– Bạn không biết được thật khổ!

– Vì sao?

– Vì ba bữa cơm bạn dùng đủ cơm rau vừa miệng thì rất vui! Nếu một ngày không có cơm ăn, đói đến khổ sở, cái khổ liền đến! Do đây có thể biết: Thọ dụng ba bữa cơm là thọ thuốc cứu khổ, mới biết hưởng thọ của bạn là khổ chớ không thật vui!

– Vì sao bạn không cảm giác được khổ?

– Vì khổ đó bị che mất, chỉ tạm dừng. Một lần cơm đến trễ thì khổ liền đến ngay. Bạn vẫn không giác ngộ! Cho nên nói: “Khổ là thật, vui là giả”!

– Vì sao?

– Vui sẽ biến thành khổ, vui chính là giả! Khổ không thể biến thành vui, cho nên khổ là thật!

Ví như mỗi bữa ăn bạn dùng cơm rau vừa phải, bạn cảm thấy thú vị và ngon miệng. Nếu liên tục ép bạn ăn thật nhiều mười chén, hai mươi chén… thì bạn khổ rồi! Cái vui đó lập tức biến thành khổ, cho nên vui đó là không thật! Bụng đói một ngày thì rất khổ, đói hai ngày, liên tiếp đến nhiều ngày, sự khổ càng kéo dài, càng chồng chất trĩu nặng hơn; tuyệt đối không thể nói cái khổ chồng chất đến một lúc nào đó cái khổ liền biến thành vui, không hề có sự việc này! Cho nên, khổ là thật! Phải thường xuyên quán chiếu sự “vui là giả, khổ là thật”, lời Phật dạy không sai chút nào.

3. Quán Tâm Vô Thường

Tâm là ý niệm. Người thế gian qua lại là hư tình giả ý, không có gì là chân thật. Họ đối tốt với ta thế nào, thương yêu ta thế ấy, chỉ sau vài ngày tâm họ liền có biến đổi! Nếu nhìn thấu được sự thật này, vâng lời Phật dạy: Nhìn thấu, buông bỏ thì ta đã giác ngộ rồi. Do vậy mà họ dù có tốt với ta cũng chớ vội mừng, biết đó là giả không thật! Họ không tốt với ta cũng đừng buồn, vì biết đó cũng vô thường không thật! Tâm phàm phu là thế đấy, mê hoặc điên đảo, thiên biến vạn hóa, vô thường đổi thay, có gì là bảo đảm đâu! Thật chẳng đáng tin!

4. Quán Pháp Vô Ngã

“Ngã” là chủ thể. Kinh Hoa Nghiêm đưa ra tám loại “Ngã”, chủ yếu trong tám loại này chính là “chủ tể”. “Vô ngã” là không có “chủ tể”. Tất cả vạn vật đều không thể tự mình làm chủ được, đều đang bị luật vô thường biến hóa. Người, động vật có “sinh, lão, bệnh, tử”; thực vật có “sinh, trụ, dị, diệt”; khoáng vật có “thành, trụ, hoại, không”, đó là “vô ngã”.