GIỚI ĐÀN TĂNG
Soạn dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Hòa
doahong

 

PHÉP SÁM HỐI
NGÀY 14 LỄ CẦU SÁM HỐI

Sớm mai ngày 14, sau khi tiểu thực xong vị Duy Na đứng dậy bạch:

Nam mô A Di Đà Phật. Bạch trên Thượng tọa, chư Đại đức Tăng, theo lệ thường, trước ngày tự tứ có lễ cầu sám hối cho thanh tịnh. Vậy buổi sớm mai các vị hương đăng trải tòa trước điện, coi hương đèn cho đủ.

Đến buổi chiều, khoảng 2 giờ rưỡi đánh kiền chùy họp Tăng tại trai đường, cùng lên chánh điện tác pháp sám hối. Xin trên Thượng tọa, chư Tăng liễu tri cho.

Khi Tăng họp trai đường đủ rồi, hai vị chấp sự (Chánh na và Phó na). Vị Chánh na đánh khánh đi trước, vị Phó na bưng thủ lư hương đi sau, đến liêu thỉnh rước một vị Đại đức thượng tọa kham năng vì chúng làm sâm ma. Duy na lễ một lễ, quỳ bạch:

Nam mô… Bạch trên Sư Cụ Thượng tọa, giờ đã đến, chúng con xin đầu thành đảnh lễ khiến thỉnh Sư Cụ Thượng tọa đăng điện đường tác pháp sám hối cho chúng con được trượng thừa công đức.

Sư Cụ Thượng tọa hoan hỷ rồi… lễ một lễ đứng dậy, Chánh na tiếp đánh khánh đi trước, kế Phó na… dẫn vào điện đường, xướng lễ Phật như thường lệ, thỉnh Sư Cụ Thượng tọa thăng tòa.

(Tòa đặt căn giữa một bên, để cho chư Tăng lễ sám ngay giữa Phật).

Chúng chia ban mà ngồi. Vị thứ nhứt trong chúng, ra ban lễ một lễ, quỳ dài phát lồ, (xưng tội), nếu mình không phạm nên bạch:

Bạch Đại đức, con ở trong các tội nặng đều không phạm, còn tất cả oai nghi vi tế, sợ có chỗ lỗi lầm mà không tự hay biết, cầu xin Đại đức từ bi chỉ thị cho, để cho chúng con tiện sám hối.

(Đợi Sư Cụ Thượng tọa, tùy theo có lỗi, chỉ dạy rồi, lễ ba lễ đứng một bên. Như thế đợi mỗi vị lần lượt tác pháp rồi, lễ tạ ba lễ, về phòng).

Ngày 15 tự tứ. – Sáng mai tiểu thực xong, 4 vị chức sự (Thượng tọa) đại diện lễ cầu Sư Cụ Thượng tọa làm phép tự tứ xong.

Thầy Duy na bạch: Bạch Thượng tọa, chư Tăng, đúng 8 giờ con xin kích hiệu, thỉnh Thượng tọa, chư Tăng tề tựu trai đường để lên chùa tác pháp tự tứ.

Khi đã lên chùa lễ tụng như thường, lễ Phật ba lễ, ngồi hai bên (Ngồi ngang nhau, tuổi hạ nhiều hơn thì ngồi trên). Thầy Duy na kiểm kỹ số chúng, bao nhiêu Tỳ Kheo, bao nhiêu Sa Di, bạch:

Bạch trên Thượng tọa, chư Tăng, con thông kiểm số chúng, Tỳ Kheo có… vị, Sa Di có… vị, xin Thượng tọa, chư Tăng chứng minh cho.

Cụ Thượng tọa bảo: Lẽ theo phép thì phải hành trù (chia thẻ) nhưng bạch như thế là thay cho phép hành trù rồi.

(Cho Sa Di ra, khi nào Yết ma sai nhơn rồi kêu vào).

Nên bạch nhị Yết ma sai người có năm đức:

  1. Không yêu riêng ai.
  2. Không giận.
  3. Không sợ (giữa chúng).
  4. Không si mê.
  5. Biết người tự tứ rồi, người chưa tự tứ, thọ tự tứ.

Họp Tăng vấn hòa:

Hỏi: Tăng họp chưa?

Đáp: Tăng đã họp.

Hỏi: Hòa hợp không?

Đáp: Hòa hợp.

Hỏi: Người chưa thọ giới Cụ Túc ra chưa?

Đáp: Người chưa thọ giớ Cụ Túc đã ra.

(Nếu không có, liền nên đáp rằng):

– Trong đây không có người chưa thọ Đại giới.

Hỏi: Có các Tỳ Kheo khiếm diện, có thuyết dục và thanh tịnh không?

(Nếu có người thuyết dục, nên đáp rằng):

– Có người đến thuyết dục và thanh tịnh.

Vị thọ dục đứng dậy ra giữa lễ một lễ quỳ bạch:

Bạch Đại đức Tăng, con thọ dục và thanh tịnh Tỳ Kheo (A). Việc Tăng như pháp, con xin gởi dục và thanh tịnh.                                                                                                                  (1 lần).

Đại đức đáp: “Thiện”. Tự nói: “Nhĩ”. Môt lạy, đứng dậy trở lại tòa trước mà ngồi.

Giữ dục – thọ dục – thuyết dục có giải ở sau.

(Nếu không có người thuyết dục, nên đáp rằng):

– Trong đây không có người thuyết dục và thanh tịnh.

 Hỏi: Có ai sai Tỳ Kheo Ni đến thỉnh giáo giới tự tứ không?

Nếu có, thì Duy na đáp rằng:

– Trong đây có Tỳ Kheo Ni đến thỉnh giáo giới tự tứ.

Duy na ra mời vào. (Pháp Ni bạch cầu tự tứ ở sau). Nếu không thì đáp rằng:

– Trong đây không có Tỳ Kheo Ni đến thỉnh giáo giới và sai người tự tứ.

Hỏi: Tăng nay hòa hợp để làm gì?

Đáp: Tự tứ yết ma.

(Tiền phương tiện xong).

Tiếp: – Đại đức Tăng nghe, ngày nay Tăng tự tứ, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, hòa hợp tự tứ, bạch như thế, tác bạch có thành không?

– Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Hòa hợp Tăng rồi, chúng sai người tự tứ. Nếu chúng chỉ có năm người, thì sai một người, chúng đông thì sai hai ba vị, không được sai bốn, vì đủ số chúng vậy.

Thượng tọa sai:

Xin thỉnh Thượng tọa A thụ tự tứ.

A từ nói:

Ngã bất kham năng. Xin thỉnh Thượng tọa B, Thượng tọa C, hai vị có thể vì Tăng làm người thụ tự tứ không? Đáp:  Dạ được. (Vị nào từ thì thỉnh vị khác).

Phép sai nên bạch như thế này:

Đại đức Tăng nghe, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, Tăng sai Tỳ Kheo (tên là thế hai vị… ) làm người thọ tự tứ, bạch như thế.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

– Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Đại đức Tăng nghe, Tăng sai Tỳ Kheo (tên là thế hai vị… ) làm người thọ tự tứ, các Trưởng lão nào bằng lòng Tăng sai  Tỳ Kheo (tên là thế hai vị… ) làm người thọ tự tứ, thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói.

Liền nên hỏi rằng: Yết ma có thành không?

– Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng: Tăng đã bằng lòng sai Tỳ Kheo (tên là thế hai vị… ) làm người thọ tự tứ xong, Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.

Thượng tọa chịu sai, đã vâng mệnh tăng sai, ra quỳ giữa chấp tay bạch:

Đại đức Tăng nghe, ngày nay chúng Tăng tự tứ, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, Tăng hòa hợp tự tứ, bạch như thế, tác bạch có thành không?

– Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

(Bạch xong, đứng dậy lễ một lễ, trở về chỗ cũ, cho Sa Di vào. Tiếp theo pháp chính tự tứ).

Khi bạch tự tứ, cầu Thượng tọa ở trong ba tháng an cư, goặc có chỗ phạm mà không biết, đối với tội thấy, nghe, nghi, tha hồ để cho tăng bày chỉ lỗi mình, như pháp mà sám hối.

Đoạn này hôm qua cả chúng đã xưng tội sám hối rồi, nên hôm nay văn bạch tự tứ cầu chỉ lỗi, mà Thượng tọa chỉ đáp là: “Thiện” mà không còn chỉ lỗi nữa.