Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

IV. TÍCH CÔNG LŨY ĐỨC ĐỆ BÁT
(TT)

Quán pháp như hóa, tam-muội thường tịch”: Đây là cảnh giới của Pháp Thân Bồ Tát. “Tam-muội” là Chánh Định. “Thường” là tướng chẳng sinh diệt của chân thể nên gọi là “Thường”; dứt hết tướng phiền não gọi là “Tịch”. Sách Duy Thức Thuật Ký viết: “Chẳng sinh, chẳng diệt, tuyệt danh tướng, trụ thường tịch”. Vì vậy, Tịnh Ảnh Sớ bảo: “Tam-muội thường tịch là Chỉ hạnh sâu” (“Chỉ hạnh” là tu pháp Chỉ”, ngưng tâm lại một chỗ là “Chỉ”. “Chỉ” là tên khác của Thiền Định). Tuyệt danh tướng, lìa phiền não, chẳng sinh chẳng diệt, trụ trong thường tịch, tam-muội đến mức như vậy nên bảo là “sâu”. Theo Hoàng Niệm lão: “Do thường hành Trung Đạo, trụ trong diệu quán “hết thảy như hóa” tự nhiên nhập được Chánh Định bất sinh bất diệt, thường tịch rất sâu”.

Kinh Di Giáo cũng nói: “Thí như tích thủy chi gia, thiện trị đề đường. Hành giả diệc nhĩ, vị trí tuệ thủy cố, thiện tu Thiền Định, linh bất lậu thất” (Ví như người tiếc nước phải khéo be bờ, đắp đê; hành giả cũng thế, vì nước trí tuệ nên khéo tu thiền định, chẳng để nó rỉ mất). Câu kinh này đã diễn tả nhân hạnh của Đẳng Trì (tên khác của tam-muội). Trong phẩm Đại Giáo Duyên Khởi của Kinh Vô Lượng Thọ đây cũng có câu: “Như Lai Định Tuệ cứu sướng vô cực” (Định Tuệ của Như Lai đã thấu suốt đến vô cực), đấy là Quả Đức.

Theo giải thích của Hòa Thượng Tịnh Không: “Tam-muội” là tiếng Phạn, dịch thành ý nghĩa Trung văn là “Chánh thọ”. “Chánh thọ” là hưởng thụ bình thường. Hưởng thụ của phàm phu là không bình thường! Vì sao? Phật đem hưởng thụ của chúng sinh phàm phu trong sáu cõi qui nạp thành năm loại lớn là: “Khổ, lạc, ưu, hỉ, xả”. Thân có khổ, lạc; Tâm có ưu, hỉ. Ngoài ra còn có một loại là không khổ, lạc cũng không ưu, hỉ; đây là “xả thọ”. “Xả thọ” rất tốt nhưng không dài lâu; gặp cảnh duyên bên ngoài, “khổ, lạc, ưu, hỉ” lập tức liền đến!

Phàm phu sáu cõi không có tam-muội. Phàm phu cao cấp nhất là ở “Vô Sắc giới thiên”, đến “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên”, sức Định của họ rất sâu, nhưng cũng thuộc về “xả thọ”, không thể xem là “tam-muội”. Vì sao? Vì Định lực của họ chỉ có thể duy trì trong tám vạn đại kiếp. Sau tám vạn đại kiếp, phiền não “khổ- lạc-ưu-hỉ” của họ sẽ khởi hiện hành. Họ không thể vĩnh viễn gìn giữ! Vĩnh viễn gìn giữ mới được xem là tam-muội.

Tam-muội có cạn, sâu thứ lớp khác nhau. Tầng thấp nhất là A-la-hán. Thế Tôn trên Hội Lăng Nghiêm nói với chúng ta sức Định của A-la-hán là “Đệ cửu Định” (Định thứ chín). Thiền định thế gian chỉ có tám bậc. “Tứ thiền- Bát Định” là thiền định trong sáu cõi, cao hơn một tầng đến Định thứ chín mới siêu việt sáu cõi luân hồi. Do vậy mà từ A-la-hán trở lên mới có thể được gọi là tam-muội. Nhưng, tam-muội của A-la-hán vẫn chưa đến “thường tịch”.

Tam-muội thường tịch” là tam-muội rất sâu. Chúng ta biết A-la-hán chỉ mới đoạn “Kiến Tư phiền não”, còn “Trần Sa phiền não” và “Vô Minh phiền não” vẫn chưa đoạn, cho nên họ chưa đạt đến “thường tịch”. “Tam-muội thường tịch” là cảnh giới của Pháp Thân Bồ Tát bởi “Kiến Tư phiền não”, “Trần sa phiền não”, họ đã đoạn rồi, “Vô Minh” chí ít họ đã phá được một phẩm nên họ vĩnh viễn lìa sinh diệt, lìa phiền não, đây là “thường tịch”. Khi Huệ Năng gặp Ngũ Tổ, ngài nói: “Trong tâm đệ tử thường sinh trí tuệ”.

– Vì sao thường sinh trí tuệ?

– Vì ngài “quán pháp như hóa, tam-muội thường tịch”.

– Vì sao biết ngài “quán pháp như hóa”?

– Trên Đàn Kinh, ngài nói “Vốn dĩ không một vật, làm gì dính bụi trần?!” Đây là “quán pháp như hóa” thường sinh trí tuệ.

Chúng ta so sánh với ngài một chút:

– Trong tâm chúng ta vì sao thường sinh phiền não, không sinh trí tuệ?

– Vì một chút sức Định chúng ta cũng không có! Nếu không tin, có thể thử xem! Mắng bạn vài câu, lập tức liền nổi sân! Sức Định hoàn toàn không có! Người có sức Định nhỏ thì ra khỏi tam giới. Sức Định thấp nhất thêm vào thập thiện nghiệp đạo, có thể được sinh về trời Dạ Ma, cao hơn một chút so với trời Đao Lợi.

– Phải biểu hiện như thế nào?

– Phải “tám gió thổi không động”! Việc này cũng không có gì cừ khôi!

Cái gọi là “Tám gió thổi không động” là tán thán bạn: Trước lời khen không sinh tâm hoan hỉ; đối với lời hủy báng cũng không khởi tâm oán hận; trong bất kỳ cảnh giới thuận hay nghịch đều rất thản nhiên, luôn gìn giữ tâm thanh tịnh, bình đẳng, không bị cảnh giới bên ngoài làm dao động, đây là Định thấp nhất. Nếu như công phu nhỏ này cũng không có, nhất là khi xem thấy người khác có chỗ tốt, chính mình khởi tâm đố kỵ! Khi có chút cao hơn người khác liền khởi tâm ngạo mạn, đây là chút Định cũng không có!

Phải thường tự kiểm điểm lấy chính mình xem sáu căn tiếp xúc với sáu trần, sức Định của mình ra sao? Nếu sức Định có tiến bộ chính là sự tu hành của ta có tiến bộ. Nếu không có chút sức Định, đó chính là dậm chân tại chỗ, không tiến được bước nào! Trong Phật pháp trọng thực chất hơn trọng hình thức. Ngày nay, chúng ta học Phật cần phải có hai thời khóa sớm tối.

Lúc Thế Tôn ở đời không nghe nói có thời khóa sớm tối hay bất cứ nghi qui nào. Đức Phật chỉ lên lớp dạy học, giải đáp nghi vấn của mọi người, việc tu hành là ở cá nhân. Cách tu như thế nào? Cũng không ngoài kiểm điểm lỗi lầm của chính mình, cải sửa lỗi lầm của chính mình. Biết được lỗi lầm của chính mình, con người này giác ngộ. Không biết được lỗi lầm của chính mình là mê hoặc! Tu hành là tu sửa tư tưởng, hành vi sai lầm của chính mình. Nếu không nhận biết sai lầm của mình, vậy từ chỗ nào mà tu sửa?!

Cho nên, vạn nhất không nên hiểu lầm: Mỗi ngày phải đọc mấy quyển kinh, niệm bao nhiêu câu Phật hiệu hay ngồi kiết già tham thiền là tu hành. Đây toàn là hình thức không có thực chất! Những sự việc này đều do Tổ sư trước đây đề xướng. Bởi xem thấy bốn chúng đồng tu học Phật chỉ chạy theo hình thức, lý thuyết kinh điển, không chịu chăm chỉ thực hành nên các Tổ sư mới chế định ra rất nhiều nghi qui để hướng mọi người cộng tu. Đây gọi là “y chúng nương chúng”, xem thấy người khác tinh tấn, chính mình liền không dám giải đãi.

Thế nhưng, việc này truyền đến nay đã hơn một ngàn năm, xem chừng như không linh! Sự việc dù có ngay trước mắt: Tôi giải đải là việc của tôi, bạn tinh tấn đó là việc của bạn! Vẫn trơ trơ như người gỗ! Có khuyên thế nào, thậm chí nhìn, họ cũng không thèm nhìn! Người như vậy trong kinh gọi là người “căn tánh xiển đề”. Loại người này rất nhiều, đến đâu cũng thấy!

– Sau khi xem thấy thì như thế nào?

– Vạn nhất không nên sân si!

Vừa sân si thì chính mình thiệt thòi! Chính mình rơi vào “tâm ý thức” rồi! Phải thấy như không thấy, không để vào tâm. Phải học như chư Phật, Bồ Tát: chỉ thấy tánh đức của chúng sinh, không nên thấy tạo tác của chúng sinh, như vậy mà gìn giữ được tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm Chánh Giác của chính mình. Nên nhớ: Không độ được người, nhất định phải độ chính mình. Độ chính mình cùng độ người khác là đồng thời. Đây là Đại thừa không phải tiểu Thừa. Tiểu thừa là trước độ mình sau mới giúp người khác. Đại thừa là tự, tha đồng thời.

Quán pháp như hóa” là nhìn thấu; “Tam-muội thường tịch” là buông bỏ. Cái buông bỏ này chính là không chấp trước, không để vào tâm. Chữ “tịch” là “tịch tịnh”, ý nói tâm thanh tịnh không có chút nhiễm trước nào.

Quán pháp như hóa”, lời nói này vẫn khó hiểu! Chúng ta nêu ra một ví dụ: Khi xem phim, hình ảnh trên màn hình không phải thật, sao có thể lôi kéo tình cảm của ta? Vì ta đã bị nó xoay chuyển! Nó không có lỗi mà lỗi ở chính ta!

– “Mộng huyễn bào ảnh”, giả thôi! Sao ta còn khởi tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước?!

– Vì ta đã dính tướng! Quên mất đi nó là giả!

Trong ảnh tượng này chắc chắn không có phải, quấy, thiện, ác, tốt, xấu, đó mới là chân tướng sự thật. Người tường tận hiểu được, họ không khởi tâm động niệm, không phân biệt, không chấp trước, tâm họ là “Quán pháp như hóa, tam-muội thường tịch”. Vào được cảnh giới này chắc chắn họ không còn tạo nghiệp, tâm họ thanh tịnh, đối với tất cả sự việc thế gian dù thiện hay ác vẫn xem đó như là thị hiện của bậc thầy để giáo hóa họ, là thiện hữu giúp họ thành tựu đạo nghiệp. Rõ ràng tâm hạnh của Bồ Tát, đích thật là khác hẳn với phàm phu chúng ta.

Theo Hoàng Niệm lão: Từ “thiện hộ khẩu nghiệp” (Khéo giữ khẩu nghiệp) trở đi, ý nói Bồ Tát thân, khẩu, ý tam nghiệp thanh tịnh. Trong tam nghiệp, “thiện hộ ý nghiệp” (khéo giữ ý nghiệp) là quan trọng nhất, đó chính là chánh hạnh của Bồ Tát.

Thiện hộ ý nghiệp thanh tịnh vô nhiễm” (Khéo giữ ý nghiệp thanh tịnh không nhiễm): “Ý” là căn bản, là chủ tể của thân này. “Ý nghiệp thanh tịnh” là tâm lý khoẻ mạnh. Tâm lý nếu không khoẻ, thân thể ắt sẽ mang nhiều bệnh. Trên kinh Phật thường nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Thế nên, phải gìn giữ tâm thanh tịnh. Theo Hòa Thượng Tịnh Không muốn tâm thanh tịnh nhất định phải rõ lý: Trước nhất phải loại bỏ tự tư tự lợi, loại bỏ bốn tướng như Kinh Kim Cang nói: “Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng”. Tiến thêm một bước nữa, phải làm đến được “Vô ngã kiến, vô nhân kiến, vô chúng sinh kiến, vô thọ giả kiến”, suốt đời không thủ, không xả. Không thủ là quyết không chấp trước mới chân thật là lìa được vọng tưởng, phân biệt: duyên đến không cự tuyệt, duyên đi cũng không hề khẩn trương, phải giữ lấy cái nguyên tắc này. Trong đời nhất định không phan duyên, không hóa duyên, tuyệt đối cũng không hỏi người cần đến một xu tiền!

– Tiền từ đâu mà có?

– Họ tự nguyện mang đến! Đưa đến nhiều thì làm nhiều; đưa đến ít thì làm ít; không đưa thì không việc! Tốt nhất rồi! Chỉ “độc thiện kỳ thân” chuyên niệm A Di Đà Phật.

Cho nên, có duyên không nên tham thố hưởng thụ, phải toàn tâm toàn lực vì mọi người phục vụ; không có duyên, an an ổn ổn chính mình lo tu hành. Phải hiểu được nguyên tắc này và thực tiễn được ngay trong đời sống đối nhân xử thế tiếp vật mới có thể đạt đến “thiện hộ ý nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm”.

Sự việc có thành công thì chúng sinh hưởng phước, riêng ta thì không nên tính kể. Sự việc không thành công, ta cũng không có lỗi lầm. Nhất định phải hiểu: Trong tất cả pháp không thủ, không xả, mới chân thật giữ được tâm thanh tịnh. Trong tất cả pháp cũng không có ưa, ghét. Nếu có ý niệm ưa, ghét, tâm liền không thanh tịnh; tu hành chính ngay chỗ này. Ý nghiệp có thanh tịnh thì thân nghiệp cũng theo đó mà thanh tịnh.

Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá” (Khéo giữ khẩu nghiệp, chẳng chê lỗi người khác). “Cơ” là chê trách, nói xấu, chỉ trích lỗi lầm của người khác. “Tha” là người khác, chỉ hết thảy hữu tình; nói rộng hơn là hữu tình, phi tình, vạn sự, vạn vật, hết thảy các pháp.

Thiện hộ thân nghiệp, bất thất luật nghi” (Khéo giữ thân nghiệp, chẳng mất luật nghi). “Luật” là giới luật, “nghi” là nghi tắc.

Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển mười giảng: “Nói về luật nghi thì pháp ngăn cấm điều ác là Luật, thực hành theo đúng giới luật nên gọi là Luật Nghi”.

Sách Hành Trì Sao Tư Trì Ký bảo: “Ngăn cấm, phòng ngừa chung thì gọi là Luật, tạo tác ra hình tướng là Nghi”. Dưới đây là phần giải thích và dẫn chứng của Hoàng Niệm lão:

Tổng hợp hai thuyết trên thì: Y chỉ giới luật, thể hiện ra hành vi thì gọi là Luật Nghi. Ngoài ra, Luật Nghi Giới cũng là một trong Tam Tụ Tịnh Giới. Tam Tụ Tịnh Giới là:

Nhiếp Luật Nghi Giới là thọ trì năm, tám, mười, cụ túc giới v.v… cho đến hết thảy giới luật.

Nhiếp Thiện Pháp Giới là tu hết thảy thiện pháp.

Nhiếp Chúng Sinh Giới còn gọi là Nhiêu Ích Hữu Tình Giới, lấy việc lợi lạc hết thảy hữu tình làm giới.

Trên đây là giới tổng quát mà bậc Đại thừa Bồ Tát phải thọ. Trong Nhiếp Luật Nghi Giới: Tại gia Bồ Tát phải thọ năm giới và tám giới; xuất gia Bồ Tát thọ mười giới và cụ túc giới.

Kinh Niết Bàn, quyển ba mươi mốt nói: “Giới diệc nhất thiết thiện pháp thê đăng” (Giới cũng là cây thang đưa đến hết thảy thiện pháp).

Kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp, quyển hạ bảo: “Nhất thiết chúng sinh, sơ nhập Tam Bảo hải, dĩ tín vi bổn. Trụ tại Phật gia, dĩ Giới vi bổn” (Hết thảy chúng sinh lúc mới vào biển Tam Bảo thì lấy Tín làm gốc, trụ trong nhà Phật lấy Giới làm gốc).

Kinh Phổ Siêu Tam-Muội, quyển một dạy:

“Bị giới đức khải, hóa độ chúng sinh” (Mặc giáp giới đức, hóa độ chúng sinh), đây chính là ý nghĩa chân thật của câu “Thiện hộ thân nghiệp, bất thất luật nghi” (Khéo giữ gìn thân nghiệp, chẳng mất luật nghi). Theo chú giải của Hoàng Niệm lão, chữ “giới khải” (áo giáp giới luật) có hai nghĩa:

1. Hộ trì là lấy giới đức làm giáp trụ như lính cứu hỏa mặc áo giáp bằng chất thạch miên (amiant) xông vào nhà lửa tam giới, xông vào ngọn lửa tam độc hừng hực để cứu vớt chúng sinh chẳng hề sợ hãi.

2. Trang nghiêm là dùng đức trì giới để tự trang nghiêm, chẳng mất luật nghi, làm khuôn phép cho trời, người khiến cho chúng sinh khâm ngưỡng, qui hướng, chấp nhận sự giáo hóa của mình, cung kính giới đức của mình, học theo giới hạnh của mình, tấn tu Định Tuệ đạt đến bờ kia.

Cũng theo cụ Hoàng, đem câu trong Kinh Viên Giác: “Chư Giới, Định, Tuệ cập dâm, nộ, si câu thị phạm hạnh” (Các Giới, Định, Tuệ và dâm, nộ, si đều là phạm hạnh) để đối chiếu câu “bất thất luật nghi” (chẳng mất luật nghi) trong đoạn này, ta thấy được diệu hạnh tu chứng trọn vẹn, giải ngộ trọn vẹn Trung Đạo, Lý Sự vô ngại. Biết rõ “Giới- Định-Tuệ” và “Dâm-Nộ-Si” là bình đẳng nên tuy nghiêm trì tịnh giới, chẳng đánh mất luật nghi, đầy đủ quỹ phạm, nhưng tự tâm thường tịch, hết thảy bình đẳng, chẳng lấy-bỏ cái gì, cũng chẳng yêu-ghét, chẳng thấy mình phải, chẳng bảo người sai. Trì giới như vậy là trì giới một cách chân thật; tu hành như thế là hạnh Phổ Hiền. Tri kiến như thế mới khế hợp Trung Đạo. Kẻ nào mới nghe lõm bõm cái ý bình đẳng đã vội chê bai trì giới là chấp tướng, phỉ báng giới luật hoặc mới trì giới được một chút đã vội kiêu căng, tự khen mình, chê người, bàn soạn lỗi lầm kẻ khác thì đều là hạng lầm thuốc thành bệnh cả!

Cả ba đoạn trên đều tường thuật Pháp Tạng Đại Sĩ trang nghiêm đức hạnh nơi tự tâm. Đoạn tiếp sau đây sẽ nói về hạnh đức thành tựu chúng sinh của ngài.

KINH VĂN:

Sở hữu quốc thành, tụ lạc, quyến thuộc, trân bảo, đô vô sở trước. Hằng dĩ Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ, Lục Độ chi hạnh, giáo hóa an lập chúng sinh, trụ ư vô thượng chân chánh chi đạo.

VIỆT DỊCH:

Với tất cả quốc thành, tụ lạc, quyến thuộc, trân bảo, ngài đều không dính mắc, luôn dùng Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ, hành Lục Độ để giáo hóa an lập chúng sinh trụ nơi đạo vô thượng chánh chân.

GIẢNG:

Sở hữu quốc thành, tụ lạc, quyến thuộc, trân bảo, đô vô sở trước”. “Tụ lạc” là thôn xóm, nay chính là chỗ làng mạc, nơi có người sinh sống. “Trước” là chấp trước; có chấp trước thì khó lìa bỏ được. Không chấp trước nên đều bố thí được hết. “Hằng dĩ Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ,Lục Độ chi hạnh”. Các Độ đều lấy không chấp trước làm gốc. Đây chính là Tông chỉ của kinh Kim Cang; xa lìa bốn tướng, tu hết thảy pháp lành nên chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lục Độ chính là đại hạnh lợi ích cả mình lẫn người, đạt đến bờ kia Niết Bàn một cách rốt ráo. Bồ Tát tự hành pháp này và cũng dùng giáo pháp này chỉ dạy lợi lạc chúng sinh, nên kinh nói: “Giáo hóa an lập chúng sinh”.

Sách Hội Sớ giảng:

Đem đạo này dạy cho người khác là Giáo, chuyển ác thành thiện là Hóa. Dẫn dắt chúng sinh an trụ chánh đạo, kiến lập đại tâm nên bảo là An Lập”.

Trụ ư vô thượng chân chánh chi đạo” (Trụ nơi đạo vô thượng chánh chân): Chữ “vô thượng” là không có gì hơn được nổi nên gọi là “vô thượng”. “Chân” là chân thật, chẳng mê, chẳng vọng. “Chánh” là chẳng sai lầm nơi lý, còn có nghĩa là chẳng tà, chẳng cong. “Đạo” có hai nghĩa:

1. Đạo là con đường dẫn đến Niết Bàn: Như Câu Xá Luận, quyển hai mươi lăm giảng: “Đạo là con đường Niết Bàn, đi theo con đường ấy thì đến được thành Niết Bàn”. Sách Hoa Nghiêm Đại Sớ, quyển mười tám cũng giảng: “Thông đến Phật quả nên gọi là Đạo”.

2. Đạo chính là Niết Bàn: Như sách Niết Bàn Vô Danh Luận giảng: “Niết Bàn gọi là Đạo, lặng lẽ, rỗng rang, rộng lớn chẳng thể hình dung nổi, vi diệu vô tướng, chẳng thể dùng hữu tâm để biết nổi”.

Vô Thượng chân chánh chi đạo”, câu nói này, danh xưng trong Phạn văn gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, phiên dịch ra Trung văn là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chữ “Giác” ở đây chính là tường tận đối với chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Đến trình độ “Chánh Giác” tự nhiên liền siêu việt sáu cõi luân hồi, trụ trong “Pháp Giới Bốn Thánh”, đó là tiểu quả, là quả vị thứ nhất của A-la-hán. Hướng lên trên một bậc là quả vị “Chánh Đẳng Chánh Giác” của hàng Bồ Tát. Bồ Tát không những chỉ siêu việt sáu cõi luân hồi mà còn siêu việt mười pháp giới. “Vô Thượng” là đến đỉnh điểm, không còn có gì cao hơn nên gọi là “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”, cũng chính là quả vị Phật cứu cánh.

Nên biết: Phật, Bồ Tát, A-la-hán v.v… là những tên gọi học vị trong giáo dục Phật Giáo. Chúng ta học Phật, mục đích phải lấy được các học vị này. Nói cách khác, chúng ta phải đạt đến Chánh Giác, Chánh Đẳng Chánh Giác, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đây gọi là “trụ ư vô thượng chân chánh chi đạo”.

Đoạn kinh văn này là khai thị tốt nhất, Đại sĩ dạy chúng sinh chứng được bờ kia giải thoát, an trụ nơi đạo quả Niết Bàn. Trong đoạn kinh kế tiếp sau đây sẽ nói: Do tu diệu đức thù thắng như vậy, Bồ Tát cảm được diệu quả thắng thượng.

KINH VĂN:

Do thành như thị chư thiện căn cố, sở sanh chi xứ, vô lượng bảo tạng tự nhiên phát ứng, hoặc vi trưởng giả, cư sĩ, hào tánh tôn quí; hoặc vi sát-lợi quốc vương, Chuyển Luân thánh đế, hoặc vi Lục Dục thiên chủ, nãi chí Phạm Vương. Ư chư Phật sở, tôn trọng cúng dường, vị tằng gián đoạn. Như thị công đức, thuyết bất năng tận.

VIỆT DỊCH:

Do thành tựu các thiện căn như thế nên ngài sinh ở chỗ nào thì vô lượng kho báu tự nhiên ứng hiện, hoặc làm trưởng giả, hoặc cư sĩ dòng họ danh giá, tôn quí, hoặc làm sát-lợi, quốc vương, Chuyển Luân thánh đế, hoặc làm Lục Dục thiên chủ, cho đến Phạm Vương. Ở chỗ chư Phật, ngài tôn trọng cúng dường chưa từng gián đoạn. Những công đức như thế chẳng thể thuật hết nổi.

GIẢNG:

Như thị chư thiện căn” (Các thiện căn như thế) chỉ các thiện căn đã nói trong phẩm “Tích công lũy đức”. Nên biết: Thiện căn là năng cảm, có cảm ắt có ứng. Đây là cảm ứng đạo giao, “quả” liền tương ứng với “nhân”. Cho nên, Pháp Tạng Bồ Tát đời đời, kiếp kiếp “sở sanh chi xứ” (sinh ở đâu) cũng cảm được diệu quả. Người  xưa thường dạy: “chịu thiệt là phước, chịu thiệt không phải là quả”. Lời nói này rất thú vị! Người chịu thiệt thòi, chịu dùng chân tâm thành ý đối người tiếp vật, phước của họ là “vô lượng bảo tạng tự nhiên phát ứng” (vô lượng kho báu tự nhiên ứng hiện). “Phát ứng” là theo cảm ứng mà tự nhiên xuất hiện.

Nghe thấy kinh văn này, cách nói này có thể bạn sẽ lắc đầu, thật chẳng đáng tin! Đây là nghi hoặc của bạn chưa đoạn đứt, chỉ lo thiệt thòi, nên mong cầu của bạn không thể hiện thực! “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”, bạn cầu không được, nguyên nhân ở chỗ nào?! Vừa rồi mới nói “cảm ứng đạo giao”. “Cảm” là phải dùng tâm chân thành mới có ứng, mới có thể được hồi đáp. Tâm bạn không thanh tịnh, không bình đẳng, bạn cũng có “cảm”, cái “cảm” đó là tai họa, không phải phước!

Ngày nay, tin tức trên mạng, chúng ta nghe được hầu hết đều là thiên tai, mà thiên tai còn rất nghiêm trọng!

– Thiên tai từ đâu mà có?

– Cũng từ cảm ứng mà có! Nhân hành của chúng ta bất thiện dẫn đến quả cũng bất thiện. Nếu thực hành theo Đệ tử qui, Cảm ứng thiên, Thập thiện nghiệp, Bồ Tát lục độ Ba-la-mật, chúng ta sẽ cảm được quả báo như trong kinh nói.

– Hiện tại chúng ta đang tạo nhân gì?

– Là tự tư tự lợi, danh văn lợi dưỡng, tham sân si mạn, tổn người lợi mình, làm những việc ngũ nghịch thập ác!

– Như vậy cảm được quả báo gì?

– Toàn thế giới hỗn loạn! Tất cả thiên tai đều xuất hiện!

Thí nghiệm của Tiến sĩ Giang Bổn Thắng, người Nhật (Masaru Emoto) đã chứng minh khoáng vật cũng tiếp thu được ngôn ngữ, tư tưởng của nhân loại, mà có cảm ứng. Chúng ta tâm thiện, hành thiện thì khoáng vật cũng trở thành rất thiện, như ở đây nói: “sở sanh chi xứ, vô lượng bảo tạng tự nhiên phát ứng” (sanh ở chỗ nào thì vô lượng kho báu tự nhiên ứng hiện). Tâm hành của chúng ta bất thiện thì vô lượng bảo tạng này đều biến thành đất đá! Đại địa này ở dưới cũng lõng lẽo, trống không rời rạc, rất dễ xảy ra chuyện chìm xuống đáy biển! Nếu tâm địa chúng ta thiện lành, hành thập thiện nghiệp, hiếu thân tôn sư v.v…, chắc chắn quả đất này sẽ biến thành bảo tạng, kết thành vật chất vô cùng kiên cố, vĩnh viễn sẽ rất an toàn không dao động, mới biết chuyển đổi ý niệm, thay đổi tâm thái, vấn đề liền được giải quyết.

Tóm lại, “cảnh tùy tâm chuyển”, hoàn cảnh vật chất, địa cầu, hệ thái dương, hệ ngân hà, tất cả đều chuyển biến theo ý niệm của chúng ta. Ý niệm chúng ta thiện thì nó tốt đẹp; thiện đến cực điểm thì thế giới này trở thành thế giới Cực Lạc. Nếu ý niệm bất thiện đến cực điểm thì thế giới này sẽ bị hủy diệt! Tinh cầu này sẽ nổ tung! “Tham-sân-si-mạn-nghi”, năm chữ này là tâm lý sai lầm, là năm trạng thái bất bình thường đã mang đến cho trái đất chúng ta lắm nhiều thiên tai đến như vậy!

Tâm tham cảm ứng thủy tai, nước biển dâng cao! Hỏa tai do sân nhuế, ngạo mạn, tật đố cảm thành! Núi lửa phun trào, nhiệt độ trái đất tăng cao, núi tuyết tan dần! Ngu si là phong tai! Ngạo mạn là địa chấn! Hoài nghi thì đất sụp, núi lỡ, đại địa sẽ chìm xuống đáy biển! Tai hại vô cùng! Đây là tín tâm không có, thật là đáng sợ! Trước đây mọi người cho rằng những sự việc này là do tôn giáo bịa đặt mê tín nói vậy. Nhưng bây giờ giới khoa học đã khẳng định việc này là thật không phải giả! Chúng ta không nên xem nhẹ, không thể không đoạn ác tu thiện, không thể không tích lũy công đức!

Pháp Tạng Bồ Tát cảm đắc thắng quả là thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc do tâm hành thuần tịnh, thuần thiện của Phật A Di Đà cảm nên. Đây là một thế giới mới, thời gian chưa dài; trên Kinh Di Đà, đức Thế Tôn nói: Phật A Di Đà từ lúc tu hành thành Phật đến nay mới có mười kiếp. Mười kiếp, chúng ta thấy rất dài, nhưng so với toàn thể vũ trụ thì nó vô cùng ngắn ngủi. Nói cách khác, đó là một đạo tràng mới hưng khởi, cung cấp để mọi người đến đó làm Phật. Nếu không có tâm làm Phật sẽ không đến đó được. Điều kiện ở đó rất đơn giản, như trên kinh, đức Thế Tôn nói: Không thể thiếu thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sinh về cõi đó.

Ba điều kiện để được vãng sinh là: Phải có thiện căn, phải có phước đức, phải có nhân duyên. Vấn đề chính là chúng ta có thiện căn, có phước đức hay không? Nhân duyên thì chúng ta đã có được. Thiện căn là có thể tin, có thể lý giải. Phước đức là thật sự hành trì, có thể tu chứng. “Tín, giải, hành, chứng”, “Hành, Chứng” là phước đức, là thực hành triệt để ba tư lương “Tín, Nguyện, Hạnh” của Tịnh Độ tông. “Tín” là thiện căn; “Nguyện, Hạnh” là phước đức. Đồng ý đi và thật sự muốn đi, thật sự niệm Phật và y giáo phụng hành, người này rất có phước, làm gì có chuyện không thành tựu!

Mấy năm trước, tôi xem báo cáo của Tiểu viện Sơn Tây. Trong bộ đĩa này kể lại có hơn bốn mươi người mắc bệnh ung thư, bệnh viện tuyên bố hết cách chữa trị! Thọ mạng của họ chỉ còn khoảng ba tháng! Như vậy là đồng nghĩa với việc nghe tin tuyên bố tử hình, không còn tia hy vọng nào! Cũng may, họ gặp được Phật pháp, rốt ráo tu tập, tu suốt ba tháng thì bệnh lành, đến bệnh viện kiểm tra thì đã hết bệnh khiến bệnh viện cũng cảm thấy vô cùng kinh ngạc! Thông tin này được truyền đi khắp nơi trên toàn quốc.

Tôi nhận được bộ đĩa này cũng xem nhiều lần và rất cảm động. Những người này, nếu nhìn ở khía cạnh Phật pháp: Họ đang vì chúng ta mà thể hiện “chứng chuyển” trong “Tam chuyển Pháp Luân”, chứng minh cho mọi người thấy những điều trong Kinh Di Giáo, Phật nói “chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện” là thật không phải giả! Suốt ba tháng họ đã “chế tâm” vào đức Phật của mình, đức Phật của họ đã đến chữa lành bệnh cho họ, chính họ cũng không hay biết. Trong bộ kinh này, Hoàng Niệm lão cũng đã dẫn chứng một câu trong Tịnh Ảnh Sớ: “Chỉ tâm nhất xứ”, cùng với “chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện” trong Kinh Di giáo là cùng một ý nghĩa.

– Đây là sức mạnh gì?

– Sức mạnh của công đức không thể nghĩ bàn trong tự tánh chúng ta, không phải từ bên ngoài vào.

Sách Hội Sớ nói: “Bồ Tát trong nhiều kiếp tích chứa công hạnh bố thí, trì giới nên tự cảm được kho tàng báu tự nhiên hiện lên để ứng với đức của Ngài”.

Vô lượng bảo tạng tự nhiên phát ứng” cũng có nghĩa là sự sự như ý. Mỗi niệm vì chúng sinh, đây là đại hỉ, đại xả mà trong kệ tụng chúng ta thường đọc: “Đại hỉ đại xả tế hàm thức”. Chữ “hàm thức” là chỉ cho tất cả chúng sinh hữu tình, chúng ta phải nhiệt tâm mà giúp họ. Người thế gian cầu tiền tài, chúng ta xả tài; xả tài mới có thể được tiền tài. Tuy vậy cũng không nên chấp trước tướng “xả tài”, cũng không mong cầu bất cứ thứ gì thì quả báo sẽ vô cùng thù thắng.

Sách Tiên Chú giảng chữ “bảo tạng” như sau: “Kho tàng chứa đầy của cải quí giá, diệu pháp có khả năng cứu vớt chúng sinh khổ ách nên ví diệu pháp như bảo tạng”.

Hoặc vi trưởng giả, cư sĩ, hào tánh tôn quí, hoặc vi sát- lợi quốc vương, Chuyển Luân thánh đế, hoặc vi Lục Dục thiên chủ, nãi chí Phạm Vương” (Hoặc làm trưởng giả, hoặc cư sĩ, dòng họ danh giá tôn quí, hoặc làm sát-lợi, quốc vương, Chuyển Luân thánh đế, hoặc làm Lục-Dục thiên chủ, cho đến Phạm Vương). Đây là nói cảm quả, phía trước nói tu nhân; tu nhân liền được quả báo. Những hào môn quí tộc này trong đời quá khứ họ đã có tu tích nhân thiện nên mới được quả báo ngày nay. Khi hưởng thụ quả báo, nếu không tiếp tục tu nhân, quả báo hưởng hết rồi vẫn phải đọa lạc!

Cho nên, Thánh hiền của thế, xuất thế gian đều xem trọng giáo dục; giáo dục có thể bù đắp chỗ khiếm khuyết của đời trước, cũng có thể phòng ngừa đời sau đọa lạc. Nói đến giáo dục, bao gồm: Giáo dục gia đình, giáo dục học đường, giáo dục xã hội, giáo dục tôn giáo. Ba loại giáo dục phía trước là phước báo nhân gian. Giáo dục tôn giáo giúp ta không ngừng nâng cao cảnh giới từ cõi người đến cõi trời. Nhà Phật nói có hai mươi tám tầng trời, bao gồm: Trời Dục giới, trời Sắc giới và trời Vô Sắc giới. Riêng giáo dục Phật Giáo càng không thể nghĩ bàn! Nó đích thật có thể giúp ta đạt đến cứu cánh viên mãn.

Hoặc vi trưởng giả” (Hoặc làm trưởng giả): “Trưởng giả”, thời xưa ở Ấn Độ, người có tuổi tác lớn, có đức hạnh, có học vấn, có địa vị, có tiền tài, có danh xưng được đại chúng xã hội tán thán thì gọi là trưởng giả. Sách Pháp Hoa Huyền Tán nói: “Tâm bình đẳng, tánh ngay thẳng, lời nói chân thật, hạnh đoan chánh, tuổi tác cao, giàu có thì gọi là Trưởng Giả”.

Cư sĩ” là tiếng gọi chung hàng tại gia tu Phật. Sách Pháp Hoa Huyền Tán, quyển mười giảng: “Giữ đạo, điềm tĩnh, ít ham muốn, đức dày thì gọi là cư sĩ”.

Sách Hội Sớ bảo: “Dòng họ cao quí, địa vị cao, giàu có lớn, tuổi tác cao thì gọi là Trưởng Giả. Chất chứa nhiều của cải, qui ngưỡng Phật thừa một cách sâu xa, nhà cửa giàu có thì gọi là Cư ”. “Hào tánh” là nói quí tộc. “Tôn quí”: chỉ người có địa vị rất cao trong xã hội.

Sát-lợi quốc vương”: “sát-lợi” (Ksatriya) là tiếng Phạn, là chủng tánh thứ hai (sau chủng tánh thứ nhất là Bà-la-môn) trong bốn loại chủng tánh ở Ấn Độ. Nói đủ là “Sát-đế-lợi”. “Sát-lợi” là dòng dõi vua, quan đại thần. “Quốc Vương” là quân vương của một nước. “Chuyển Luân thánh đế” còn gọi là Chuyển Luân Vương, Chuyển Luân Thánh Vương hoặc Luân Vương; đây là nhân đạo không phải thiên đạo. Chuyển Luân Vương thân đủ ba mươi hai tướng, khi lên ngôi liền cảm được “luân bảo” từ trời hiện xuống, không phải do họ tạo ra. Luân bảo này hình tròn nên gọi là “luân”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không, “luân bảo” là một công cụ phi hành. Trong nhiều năm gần đây, chúng ta thường nghe đến đĩa bay, không biết vật phi hành này từ đâu đến. Hình dáng của nó giống như cái đĩa nên gọi là đĩa bay. Phàm có sử dụng công cụ giao thông đều thuộc về nhân đạo. Thiên đạo hay quỉ đạo đều có thần thông đâu cần đến dụng cụ giao thông, họ đến hay đi đều tự do tự tại. Nếu đĩa bay này thật sự là của người ngoài vũ trụ đến địa cầu để thám hiểm, chứng tỏ khoa học kỹ thuật của họ vượt xa hơn chúng ta; chúng ta chưa làm được, họ đã làm rồi. Họ đã có năng lực đến, đi tự do trên địa cầu thì về phương diện khoa học chúng ta sẽ không sánh kịp. “Luân bảo” là công cụ giao thông, đồng thời cũng là vũ trang của họ. “Luân” có bốn loại; Đức Phật dùng vàng, bạc, đồng, thiếc để ví dụ; theo thứ tự trên đây, vua Chuyển Luân sẽ thống trị bốn, ba, hai, hoặc một đại châu như:

Kim Luân Vương thống lĩnh bốn đại châu.

Ngân Luân Vương thống lĩnh ba đại châu.

Đồng Luân Vương thống lĩnh hai đại châu.

Thiết Luân Vương thống lĩnh một đại châu.

Ta tin rằng tốc độ của “luân bảo” không giống nhau; oai lực của nó cũng không tương đồng. Nơi mà tốc độ và năng lực của nó có thể đạt đến. chính là toàn bộ lãnh thổ mà Luân Vương đó quản lý. Kim Luân Vương thống lãnh bốn châu thiên hạ. “Một thiên hạ” là một đơn vị thế giới. Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói với tôi: “Nhất thiên hạ” trong kinh Phật nói là một đơn vị thế giới tức một hệ Ngân Hà. Như vậy nhất định họ phải có công cụ này mới có thể thống trị toàn bộ hệ Ngân Hà. Nói cách khác, nhờ công cụ này, chỉ trong thời gian ngắn hoặc một ngày, hoặc hai, ba ngày họ có thể tuần du cả hệ Ngân Hà, phạm vi mà họ quản hạt.

Trong kinh nói đến bốn Đại Châu: Đông, Tây, Nam. Bắc. Luân Vương nhất định có chỗ cư trú, cũng chính là nói thủ đô của Luân Vương. Đức Phật nói địa cầu chúng ta thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, ở Châu này có một Luân Vương là Thiết Luân Vương cai quản một châu. Đồng Luân Vương cai quản hai châu; Ngân Luân Vương cai quản ba châu. Kim Luân Vương cai quản bốn châu, tức là quản toàn bộ hệ Ngân Hà. Nam Thiệm Bộ Châu, tôi tin rằng trong đây có rất nhiều tinh hệ, Luân Vương chắc chắn sẽ không ở trên địa cầu chúng ta.

Đĩa bay là có thật! Tôi đã thấy nó ở Đài Bắc vào lúc khoảng bốn, năm giờ chiều, cách nay sáu mươi năm về trước. Lúc ấy, nhìn lên không trung có ánh sáng màu xanh, nó đứng yên một chỗ khoảng sáu, bảy phút thì bắt đầu di động. Vừa bắt đầu di động thì nó rất chậm, sau đó tốc độ nhanh dần và đột nhiên không còn thấy nữa. Tốc độ của nó quá nhanh, sức chú ý của ta không cách nào tập trung được nên không thấy nữa. Qua ngày hôm sau, báo chí đã đăng tin vật phi hành không rõ lai lịch!

Công cụ giao thông này, khoa học hiện đại của chúng ta vẫn chưa làm được, chỉ có thể phi hành đến nguyệt cầu, còn những hành tinh khác vẫn chưa thể phi hành đến. Nếu đĩa bay là thật, chúng ta tin tưởng đây là “luân bảo” của Luân Vương đến đây để thị sát, việc này rất có thể. Ngày nay chúng ta gọi là người ngoài hành tinh, dùng công cụ phi hành đến tham quan địa cầu. Đây đều thuộc cõi người, không phải cõi trời.

Sách Hội Sớ nói: “Chuyển Luân Vương là vua cả bốn châu, do luân xoay chuyển nên oai thế nhiếp phục khắp hết thảy”. Chư Phật, Bồ Tát đều rõ ràng thấu triệt, nhưng cái biết của khoa học thì vẫn còn rất giới hạn. Tuy hiện nay khoa học có tiến bộ hơn ngày trước rất nhiều, nhờ vào vệ tinh để đo lường, dùng điện vô tuyến để truyền bá tin tức, trong không trung dùng máy móc chụp lại những hình ảnh truyền đi, không phải tự thân họ đến xem. Do bởi năng lực sáu căn con người có hạn, trí tuệ và tri thức con người cũng rất có hạn, họ có thể lý giải về vũ trụ được bao nhiêu?!

“Lục Dục Thiên Chủ” chính là vua tầng trời thứ sáu trong Dục giới. Sáu tầng trời Dục giới là: Trời Tứ Thiên Vương, trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc và trời Tha Hóa Tự Tại. Trên kinh Phật nói: Trời Tứ Thiên Vương và trời Đao Lợi gọi là trời Địa Cư vì nó vẫn còn nương đại địa mà cư trụ. Đại địa này chính là núi Tu Di.

–  Vậy núi Tu Di này ở đâu?

– Núi Tu Di tuyệt đối không phải trên địa cầu này. Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói rất hay: Địa cầu cùng Thái Dương hệ là xoay quanh núi Tu Di. Ngày nay, chúng ta biết địa cầu là xoay quanh hệ Ngân Hà. Vậy núi Tu Di phải là trung tâm của hệ Ngân Hà. Việc này khoa học hiện nay vẫn chưa thể dò tìm đến cảnh giới này!

Phạm Vương” là danh xưng khác của Đại Phạm Thiên Vương. Chữ Phạm Thiên chỉ chung chư thiên trong cõi Sắc giới.

Ư chư Phật sở, tôn trọng cúng dường, vị tằng gián đoạn. Như thị công đức, thuyết bất năng tận” (Ở chỗ chư Phật, ngài tôn trọng cúng dường, chưa từng gián đoạn. Những công đức như thế chẳng thể thuật hết nổi). Đây là “Đa sanh thành tựu”.

– Chư Phật là ai?

– Là quá khứ chư Phật, hiện tại chư Phật và vị lai chư Phật.

– Ai là Phật vị lai?

– Tất cả chúng sinh đều là Phật vị lai!

Chúng ta có dùng tâm cung kính đối đãi với tất cả chúng sinh như cung kính đối với chư Phật chăng? Có dùng tâm tôn trọng cúng dường đối với chúng sinh hữu tình, vô tình hay chăng? Đây là chỗ chúng ta phải học tập. Trên kinh đức Phật nói: Tất cả chúng sinh đều là vị lai chư Phật, là cha mẹ quá khứ của ta. Không tôn trọng đối với tất cả chúng sinh, là không tôn trọng đối với Phật! Bỏn xẻn đối với tất cả chúng sinh là không cúng dường đối với Phật!

Muốn tu phước, nhất định phải biết “tôn trọng cúng dường, vị tằng gián đoạn” (tôn trọng cúng dường, chưa từng gián đoạn), vĩnh viễn không thể gián đoạn! Chúng ta xem thấy trên Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham vấn năm mươi ba vị thiện tri thức, đây là “ư chư Phật sở” (ở chỗ chư Phật). Chúng ta từ sớm đến tối tiếp xúc với tất cả người và sự việc, đó chính là “ư chư Phật sở”, là chỗ chư Phật. Nếu chúng ta mỗi ngày xem thấy người này không vừa mắt, thấy người kia không vui là ngày ngày bất bình với chư Phật, gây rối với chư Phật, vậy làm sao được! Đến khi nào chúng ta mới có thể học thành công?!

Vị tằng gián đoạn” (chưa từng gián đoạn): Trên sự có gián đoạn, nhưng trên tâm không có gián đoạn. Đối với tất cả người, sự vật luôn dùng tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi. Cái tâm này vĩnh viễn không gián đoạn, ngay đời này chắc chắn chúng ta sẽ viên thành Phật đạo.

Như thị công đức thuyết bất năng tận” (Những công đức như thế chẳng thể thuật hết nổi). Công đức của Pháp Tạng Bồ Tát như vậy, thật vô lượng vô biên, chẳng thể thuật hết nổi.