Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

IV. TÍCH CÔNG LŨY ĐỨC ĐỆ BÁT
(TT)

KINH VĂN:

Trang nghiêm chúng hạnh, quỹ phạm cụ túc, quán pháp như hóa, tam-muội thường tịch, thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá, thiện hộ thân nghiệp, bất thất luật nghi, thiện hộ ý nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm.

VIỆT DỊCH:

Trang nghiêm các hạnh, quỹ phạm đầy đủ, quán pháp như huyễn hóa, tam-muội thường tịch, khéo giữ gìn khẩu nghiệp, chẳng chê bai lỗi người khác, khéo giữ gìn thân nghiệp chẳng mất luật nghi, khéo giữ gìn ý nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm.

GIẢNG:

Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ “Trang Nghiêm chúng hạnh” (Trang nghiêm các hạnh) như sau: “Ý nói thành tựu các hạnh”. Chữ “trang nghiêm” giải thích trong nhà Phật gọi là “phước, trí nhị nghiêm”, người thời nay gọi là “chân, thiện, mỹ, tuệ”. “Chúng hạnh” là hết thảy các hạnh, bao gồm tư tưởng, kiến giải, ngôn ngữ tạo tác trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tư tưởng kiến giải là hành vi của tâm; ngôn ngữ tạo tác là hành vi của thân. Bồ Tát dùng phước và trí để trang nghiêm Lục Độ, trang nghiêm Tứ Vô Lượng Tâm, trang nghiêm Tứ Nhiếp Pháp, trang nghiêm Ba mươi bảy phẩm trợ đạo v.v…

Từ trong giải thích này, chúng ta có thể thể hội được: Phật, Bồ Tát dạy chúng ta trải qua đời sống phước tuệ cứu cánh viên mãn. Không luận ở đâu, nghề nghiệp nào, cách đối nhân xử thế tiếp vật đều tràn đầy trí tuệ, phước đức cao độ; từng ti từng tí dùng mười nghiệp thiện thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày. Phật dạy chúng ta: “Ngày đêm phải thường niệm thiện pháp, tư duy thiện pháp và quán sát thiện pháp”.

Thường niệm thiện pháp”: Thiện pháp này chính là “Thập thiện nghiệp đạo”. Chữ “ngày đêm” là nói không gián đoạn. Không phải đem “Thập thiện nghiệp đạo” treo nơi cửa miệng! Ngày đêm khởi tâm động niệm đều tương ưng với “thiện pháp”, đây gọi là “thường niệm”.

“Tư duy thiện pháp”: Là ngay trong cuộc sống thường ngày, đối nhân xử thế tiếp vật phải tư duy bằng cách nào để giúp người khác đoạn ác tu thiện.

“Quán sát thiện pháp”: Ngay trong đời sống thường ngày chỉ thấy cái tốt của người, không thấy lỗi xấu của người, đây là “Bồ Tát hạnh” chúng ta phải học.

– Vì sao phải học?

– Đạo lý rất đơn giản! Thấy cái ác của người, ghi nhớ cái ác của người, tâm thiện của chúng ta liền bị phá hỏng, bị xen tạp cái bất thiện của người, không phải là bất thiện của ta, việc này có oan uổng không?!

Cho nên, chúng ta ngay chỗ này mà sâu sắc thể hội: Tất cả thiện ác, nhân quả hoàn toàn do chính mình gánh lấy trách nhiệm, không liên quan gì đến người khác. Lời nói của họ, hành vi của họ dù có bất thiện không liên quan gì với ta, sao phải kéo nó về phá hoại tâm thiện, hành thiện của chính mình?! Trong Phật pháp thường nói: Thấy như không thấy; nghe như không nghe, quyết không để nó vào tâm. Phàm phu không hiểu đạo lý, chân tướng sự thật này, luôn luôn là oán trời, trách người, dường như đều do người khác hại họ, cách nghĩ này sai lầm! Người khác không thể hại họ, có chăng là chính họ tự hại mình! Đây là lời chân thật cũng chính là chân tướng sự thật.

Trang nghiêm chúng hạnh”: “Chúng hạnh” ở đây, đơn giản mà nói, chính là từng li từng tí trong sinh hoạt thường ngày thuần thiện vô ác, đây là “trang nghiêm”. Trong thuần thiện đầy đủ phước đức, trí tuệ.

Sách Niết Bàn Ký, quyển hai mươi bảy nói: “Hai thứ trang nghiêm: Một là trí tuệ, hai là phước đức. Nếu Bồ Tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm ấy thì biết được Phật tánh”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích: “Biết được Phật tánh” tức là “minh tâm kiến tánh”. Đầy đủ hai loại trang nghiêm như vậy là đầy đủ sáu Ba-la-mật. Quan trọng nhất là trí tuệ, tức là buông bỏ, nhìn thấu. Buông bỏ là tự lợi, muốn lợi sanh thì phải nhấc lên, đây là đại từ đại bi của Bồ Tát. Buông bỏ tất cả nhưng không lợi sanh, đây là Tiểu Thừa A-la-hán.

Thám Huyền Ký, quyển ba bảo: “Trang nghiêm có hai nghĩa: Một là đầy đủ đức, hai là trang hoàng”. Nên biết “Trang nghiêm chúng hạnh” có nghĩa là trong mỗi hạnh đều từ tánh khởi tu, hoàn toàn tu nơi tự tánh nên Tịnh Ảnh Sớ cho rằng “Trang nghiêm chúng hạnhlà hiển bày “sở hành thành tựu” (thành tựu các hạnh).

Hòa Thượng Tịnh Không tán thán câu nói này rất hay. Ý nói khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều từ tự tánh tự nhiên hiển lộ, không hề có chút miễn cưỡng nào, nó vốn tự nhiên như vậy. Nên nhớ: Không làm được “lấy khổ làm thầy, lấy giới làm thầy” thì không làm được “trang nghiêm chúng hạnh. Chúng ta ngày nay tu hành khó khăn nhất chính là điều này!

– Vì sao tại gia không thể thành Thánh, xuất gia không thể thành Phật?!

– Nguyên nhân chính là không nhẫn chịu được khổ, không thể trì giới! Ngũ giới, thập thiện đều không làm được! Đây là căn bản của đại giới.

Trong Hoa Nghiêm Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Quốc Sư Hiền Thủ đưa ra bốn đức, trong đó cái thứ nhất là “Tùy duyên diệu dụng”. Chúng ta chỉ có thể làm được “Tùy duyên” nhưng “diệu dụng” thì không làm được! Chúng ta là “Tùy duyên tạo nghiệp”: Tùy thiện duyên, tạo thiện nghiệp; tùy ác duyên tạo ác nghiệp. Kế đến là “oai nghi hữu tắc”, đây là “Trang nghiêm chúng hạnh”, là đầy đủ “Quỹ phạm”, chúng ta không đủ để làm gương cho người khác!

Khi thầy Lý còn ở đời thường nói: Các ông bà cụ thật đáng nể! Từ sáng đến tối chỉ một câu A Di Đà Phật. Ngoài A Di Đà Phật ra, không có gì cả. Bất luận gặp ai họ đều cung kính: “A Di Đà Phật”, tâm khẩu nhất như không hề có tạp niệm, hỏi gì họ cũng không biết, đúng là đầu óc đơn giản, cuộc sống đơn giản. Suốt đời thầy muốn học ông bà cụ mà học không giống được! Học không dễ! Vì sao? Vì chưa thật sự nhìn thấu, buông bỏ triệt để! Dứt hẳn trần duyên của thế gian, thâm tâm thanh tịnh chỉ thuần một câu “A Di Đà Phật”, người này thật đáng khâm phục! Thật khó được!

Cư sĩ Hoàng Trung Sướng làm mô phạm cho chúng ta. Đây là một thanh niên chỉ ngoài ba mươi tuổi, niệm Phật hai năm, mười tháng, biết trước giờ đi, không có bệnh khổ, thật sự vãng sinh. Ai có thể sánh bằng anh? Đây là đại Thánh, đại Hiền không phải người bình thường!

Quỹ phạm cụ túc” (Quỹ phạm đầy đủ): “Quỹ” là qui củ, phép tắc, khuôn phép.

Phạm” là mô phạm, là tấm gương tốt. Do sở hạnh đầy đủ phước trí nên nói ra điều gì cũng trở thành qui tắc; làm gì cũng trở thành mẫu mực cho đại chúng, nên bảo là “Quỹ phạm”, cũng chính là “Thường pháp”, đều thành pháp chuẩn mực chẳng thể biến cải được, cái pháp này siêu việt cả thời gian lẫn không gian, không có khiếm khuyết. Tư tưởng, ngôn hành của Bồ Tát tuyệt đối không vượt quá giới hạn, như xe lửa chạy trên đường rầy, không ra khỏi đường rầy. Hai đường quỹ đạo của Bồ Tát là phước đức và trí tuệ. Phước đức là lợi ích chúng sinh; trí tuệ là không nhiễm chút bụi trần.

Người thế gian bất luận làm gì, họ đều có ý đồ, có mục đích, tất cả cũng không ngoài danh văn lợi dưỡng! Là đệ tử Phật, người tu hành chân chánh, cho dù có được quốc vương ban tặng phong hiệu, họ cũng không xem đó là vinh dự. Tôi theo học với Đại Sư Chương Gia ba năm. Thời nhà Thanh phong cho ông là Quốc Sư. Đến năm Dân Quốc, chính phủ cũng ban phong hiệu cho ông. Ông nói với tôi: Đây là bất đắc dĩ, nhận một cách miễn cưỡng. Người ngoài thấy ông địa vị rất cao không dám đến gặp. Thật là oan uổng! Thật ra, Đại Sư rất bình dị, dễ gần.

Chúng ta nên nhớ: Suốt đời đức Phật Thích Ca không có phong hiệu. Trên kinh nói: Trong các đệ tử tại gia của Phật có mười sáu vị đại quốc vương đều đã qui y với Phật. Phật là Quốc sư thật sự nhưng không cần có phong hiệu này. Vì sao? Vì Phật không muốn trở thành tấm gương này để tránh cho đệ tử sau này không tranh danh đoạt lợi. Đây là trí tuệ chân thật, lợi ích chân thật, là tấm gương tốt nhất đầy đủ “Quỹ phạm”.

Mười năm trước, tôi ở Úc châu (năm nay là năm 2011), trường Đại học muốn trao tặng tôi học vị, mời tôi làm giáo thọ. Lúc đó, tôi cự tuyệt: Quí vị mời tôi đến diễn giảng, dạy học, tôi sẽ đến, nhưng tôi không cần danh hiệu này!

Hiệu trưởng nói với tôi: Hy vọng tôi có thể đại diện trường, tham gia Hội nghị Hòa Bình của Liên Hiệp Quốc, làm nên một chút cống hiến. Những người được mời phải cần có bằng cấp, có học vị, có thân phận giáo sư. Tôi bất đắc dĩ phải nhận lời họ là như vậy, không cảm thấy chút vinh quang nào! Nên nhớ: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, ngay cả thế giới này cũng là giả, hư danh này có ý nghĩa gì đâu! Đôi khi cũng có chút lợi ích là đem đến một ít phương tiện cho việc hoằng pháp lợi sinh. Có nhân duyên này nhất định phải làm, không làm là không có tâm từ bi.

Con người phải có thật đức, phải có thật học, tự nhiên được mọi người tôn kính. Không có thật đức, thật học, cho dù có nhiều bằng cấp tiến sĩ, vẫn không được mọi người xem trọng! Tôi đã từng gặp qua trong đời ba, bốn mươi người có bằng Tiến sĩ nhưng không được xã hội tôn trọng! Cũng rất có thể họ là Bồ Tát hiện thân để nói lên rằng: “Bằng cấp không quan trọng mà quan trọng là đức hạnh”. Họ thậm chí không bằng một cụ bà lão thật niệm Phật được mọi người tôn kính vì biết rằng bà nhất định sẽ được vãng sinh thành Phật. Riêng họ, cho dù lấy được nhiều học vị Tiến sĩ nhưng vẫn trôi lăn trong luân hồi lục đạo, vậy thì có ý nghĩa gì?!

Quỹ phạm cụ túc”, người xưa Trung Quốc hiểu được, người hiện tại xem thường!

Chúng ta quan sát tỉ mỉ giáo huấn của cổ Thánh tiên hiền: Hán Võ Đế chế định “Quỹ phạm giáo dục” hơn hai ngàn năm mãi đến triều nhà Thanh. Suốt thời gian đó thay triều, đổi ngôi nhiều lần; điển chương, văn vật, chế độ v.v… đều có cải cách. Người Mông Cổ vào làm chủ Trung Quốc đến người Mãn Thanh vào làm chủ, chế độ thay đổi tương đối lớn. Thế nhưng, “Quỹ phạm giáo dục” của cổ Thánh tiên hiền trước sau không hề thay đổi. Thử nghĩ đây là đạo lý gì?

– Vì sao Hán Võ Đế chế định chính sách giáo dục có thể kéo dài hơn hai ngàn năm, mỗi triều đại đều tuân thủ không dám thay đổi?

– Việc này đáng để chúng ta suy xét và phản tỉnh! Mãi đến khoảng năm Dân Quốc mới hoàn toàn đem nó phế bỏ, cho rằng thứ này quá xưa cổ, mục nát rồi! Đó là công cụ thời chuyên chế Đế vương thống trị nhân dân không phù hợp với chế độ dân chủ tự do mở rộng hiện tại.

–   Từ Dân Quốc đến hiện nay (năm 2011) cũng khoảng tám, chín mươi năm. Tám, chín mươi năm này người Trung Quốc trải qua đời sống như thế nào?

–   Nếu đem điển tích cổ xưa, tỉ mỉ mà đọc qua, chúng ta sẽ thấy ngày nay trải qua đời sống không bằng người xưa!

Mọi người bây giờ đều cho rằng người thời xưa sai, nghĩ sai, nói sai và làm cũng sai! Thế nhưng, vào thập niên bảy mươi, năm 1970, người Trung Quốc ngưỡng mộ người nước ngoài thì tiến sĩ Thang Ân Tỷ người nước Anh đã nói: “Muốn giải quyết vấn đề xã hội của thế kỷ hai mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng, Mạnh của Trung Quốc và Phật Giáo Đại thừa”. Đây là người Trung Quốc chúng ta không cần, nhưng hiện tại người nước Anh nhặt được xem thành bảo bối! Ba năm trước: Đại học, Trung học, Tiểu học của nước Anh đều lấy học thuyết Khổng, Mạnh cùng Phật pháp Đại thừa để vào trong sách của nhà trường. Họ chăm chỉ học tập. Kế đến là Úc châu sẽ tiếp bước. Hai năm trước, ở Úc châu, sách giáo khoa trong trường cũng chọn dùng kinh Phật.

Chúng ta hiện tại chính mình cũng chưa giác ngộ! Tuy nhiên, tôi cũng nhìn thấy có số ít người ở Trung Quốc, ở Đài Loan, ở Mã Lai còn đề xướng trẻ nhỏ đọc kinh. Số ít người này là người giác ngộ, họ biết được muốn xã hội an định, thế giới hòa bình, nhân dân hạnh phúc, không có gì hơn là tìm lại quỹ phạm của cổ Thánh tiên hiền.

Giáo huấn của cổ Thánh tiên hiền, không luận là thế gian hay xuất thế gian đều phát xuất từ tự tánh, không phải tư tưởng của một người nào. Bởi tánh đức là vĩnh hằng, bất biến, viên mãn, nếu trái ngược lại thì tai nạn sẽ liền đến, như: Hiếu thân tôn sư, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp v.v… đều là tánh đức vốn dĩ đầy đủ, vốn dĩ như vậy. Cho nên, trong Phật pháp gọi thành Phật tức là hồi phục lại tánh đức vốn có mà thôi. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Viên mãn Bồ Đề, qui vô sở đắc” là như vậy.

Quỹ phạm cụ túc”, đức Phật đầu tiên biểu diễn cho chúng ta thấy, mỗi ngày Phật chỉ có ba việc: Giảng kinh, nhập định và khất thực. Cuộc sống chỉ đơn giản như vậy.

– Cuộc sống này có ý nghĩa gì?

– Có niềm vui lớn! Người bình thường không thể hội được!

Thời xưa không có thuật in ấn. Lúc Phật còn tại thế, căn bản không có sách. Kinh điển là sau khi Phật nhập diệt, do hàng đệ tử kiết tập. Sự việc này khiến ta có thể nghĩ đến: Khi Thế Tôn còn tại thế, việc học tập của các đệ tử là nghe kinh, nghiên cứu thảo luận, chia sẻ tâm đắc ngoài ra không có tài liệu tham khảo. Do vậy, càng đơn giản lại càng có hiệu quả.

Hiện nay, tài liệu cả chồng sách vở, lại càng khiến đầu óc chúng ta rối tung chẳng học được gì! Khi tôi học giảng kinh ở Đài Trung, thầy qui định chỉ được chọn một loại chú giải để tham khảo. Vì sao? Như vậy tâm không bị loạn, tư tưởng sẽ mạch lạc. Nếu tìm sách tham khảo của hai tác giả, tư tưởng và cách nói của họ không giống nhau khiến ta phân vân không biết phải bắt đầu từ đâu?! Ba loại sách tham khảo, chính là ngã ba đường, bốn loại sách tham khảo chính là ngã tư đường, ta không học được gì!

Ngày nay, tư liệu phong phú gấp trăm lần thời xưa, nhưng thành tựu của chúng ta không đạt được, cho dù chỉ bằng một phần trăm của họ!

– Đó là vì sao? Phải chăng trí tuệ ta không bằng họ?!

– Chưa chắc!

– Đức năng chúng ta không bằng họ chăng?

– Cũng chưa chắc!

– Vì sao có sai biệt lớn đến như vậy?!

– Phương pháp sai! Dùng tâm không giống nhau!

Tâm cổ nhân là tâm chân thành, không có tư lợi. Tâm người thời nay là tâm tư lợi quá nặng, thiếu sự chân thành, cung kính nên không thể thành tựu!

Nói thật với bạn: Cuộc đời tôi đọc sách không nhiều, sưu tập sách thì rất nhiều. Đây là cung cấp cho mọi người dùng. Tôi không cần những thứ này! Hôm nay, tôi chỉ giảng một loại nên chỉ cần loại này. Lần này, cùng các bạn học Kinh Vô Lượng Thọ; chú giải của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Tài liệu tham khảo của tôi chỉ có bốn loại:

  • Một là Đại Tự Điển Trung Văn.
  • Hai là Tự Điển Phật Học.
  • Ba là Tam Tạng Pháp Số.
  • Bốn là Giáo Thừa Pháp Số.

Chỉ có bốn loại này. Tôi không tìm nguyên bản để tra, như vậy rất phiền. Trong Tam Tạng Pháp Số, trong Đại Tự Điển Phật Học đều có nhưng không nhiều. Rất đơn giản khi gặp chướng ngại khó khăn không hiểu, buông bỏ tất cả đi lạy Phật A Di Đà. Lạy khoảng ba trăm lạy, hình như đã biết, đã hiểu rõ. Đây là thầy Lý dạy tôi cầu cảm ứng, thành tâm thành ý cầu Tam Bảo gia trì. Điều này cần phải có phước, có tuệ. Hai chữ này quá quan trọng: “Phước” là lợi tha, “Tuệ” là không tư lợi, là thật sự buông bỏ được. Trong tư lợi, tổn hại nghiêm trọng nhất đến bản thân là danh văn lợi dưỡng. Danh văn lợi dưỡng của mình phải đem tặng cho người khác. Tuổi tác tôi đã lớn không biết ra đi lúc nào. Tôi không thể để tài khoản còn trong ngân hàng, tương lai người ta sẽ mắng tôi!

– Số tiền này do mười phương cúng dường nên tiêu nó như thế nào?

– Tôi có cách tiêu!

Năm trước nhà sách Thương Vụ tái bản Tứ Khố Toàn Thư, tôi đặt một trăm bộ, mỗi bộ năm mươi ngàn đô la Mỹ, họ cho tôi giá tiền ưu đãi nhất. Một trăm bộ bằng năm triệu đô la Mỹ. Năm ngoái, tôi đặt tại nhà sách Thế Giới, hai trăm bộ Tứ Khố Hội Yếu, mười ngàn bộ Quần Thư Trị Yếu, mười ngàn bộ Quốc Học Trị Yếu, họp lại tất cả cũng khoảng năm triệu đô la Mỹ. Vậy là tiêu hết mười triệu đô la Mỹ. Tiền không còn! Số sách này là một chút cống hiến cho nền truyền thống văn hóa xưa.

Tôi không đọc những quyển sách này. Bây giờ tôi niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh. Đây là cung cấp cho những người trẻ tuổi có lòng, vì vạn thế khai tuyệt học, vì vạn thế khai thái bình. Những học thuật truyền thống như Nho giáo, Đạo giáo là cơ sở của Phật pháp. Tôi từng nói rất nhiều lần: Thời đại Tùy, Đường, chư vị Tổ sư đại đức bỏ Tiểu Thừa, dùng Nho và Đạo để thay thế. Cho nên Nho, Đạo là cơ sở, là gốc rễ của Đại Thừa. Không có gốc rễ của Nho và Đạo tức không có Đại Thừa, điều này không thể không biết. “Toàn Thư” và “Hội Yếu” là quốc bảo của quốc gia, là văn hóa tùng thư quan trọng nhất suốt năm ngàn năm qua. Hai bộ tùng thư này sau khi in ấn xong, mục tiêu là tặng cho thư viện và trường Đại học các nước, cung cấp cho họ để làm tham khảo.

– Phân lượng quá lớn phải bắt đầu học từ đâu?

– Cổ nhân đã nghĩ đến điều này! Theo tôi, họ không phải là người bình thường mà là Phật, Bồ Tát tái sinh. Trong tâm ta nghĩ đến, họ đều đã làm xong.

Quốc Học Trị Yếu là nhập môn của Tứ Khố. Họ trích lục từ trong Tứ Khố hay nhất, chọn ra một cuốn trong bộ “Kinh”, cũng chọn một cuốn trong bộ “sử”. Trong bộ “sử” có hai cuốn, trong bộ “tập” có ba cuốn. Phân lượng của “Tập” là lớn nhất thuộc về văn học: có Văn, có Thi, có Từ; ba cuốn này tôi gọi là “Tiểu Tứ Khố”. Từ trong bộ sách này tôi hiểu biết về Tứ Khố Toàn Thư. Nếu cảm tình với nó thì nghiên cứu nó sẽ biết được đường đi; muốn nghiên cứu phương diện nào thì tập trung vào phương diện đó. Bộ sách này rất có giá trị. Cách làm này của tôi hoàn toàn để lại cho hậu nhân, bản thân tôi không dính dáng đến.

Trong “Hội Yếu” có năm mươi quyển thiếu ba quyển. “Tả Truyện” có ba quyển, thiếu quyển Thượng. “Án Thư” có tám quyển, thiếu đầu và cuối. Đầu là “Bổn Ký”, cuối là “Liệt truyện”. Tôi muốn tìm thời gian để bổ sung phần thiếu sót này. Phần bổ sung không cần đưa vào chỉ cần, làm một cuốn sách phụ, cung cấp cho mọi người tham khảo, không làm những việc khác. Bây giờ tôi đọc sách mỗi ngày khoảng bốn tiếng; ở đây cùng chia sẻ với mọi người cũng bốn tiếng. Thời gian còn lại là niệm Phật, lạy Phật. Cuộc sống của tôi rất đơn giản. Các hoạt động bên ngoài tôi đều không tham dự nữa, hoạt động trong nhà, tôi cũng không tham dự. Cuộc sống càng đơn giản càng tốt. Thời đại hiện nay học Phật cần phải như vậy, đây đều là “Thường pháp” không thể thay đổi, không có gì khiếm khuyết gọi là “Quỹ phạm cụ túc” (đầy đủ quỹ phạm).

Quán pháp như hóa” là thấy hết thảy các pháp đều như huyễn hóa. “Quán” là tên khác của “Trí”. Đây là nói về “Chân Đế”, cái nhìn của chư Phật, Bồ Tát đối với thế gian này. Thế gian này không có chi là thật. Trong Phật pháp, đối với “Chân” và “vọng” định nghĩa rất đơn giản: Phàm những gì vĩnh hằng, bất biến thì gọi là “Chân”; nếu có biến hóa, đó là “giả” không thật. Động vật như con người có “sinh-lão-bệnh-tử”; thực vật có “sinh-trụ-dị-diệt”, khoáng vật có “thành-trụ-hoại-không”, cho nên nó không phải thật!

Các nhà vật lý học lượng tử hiện đại nói: Tất cả vạn pháp trong vũ trụ đều không tồn tại, đều từ ba thứ: năng lượng, tin tức và vật chất mà biến hiện ra. Cách nói này có thể xem như là tương đồng với Phật pháp. Tuy nhiên, trong Phật pháp nói càng triệt để, rõ ràng hơn. Thật ra, nhận thức của họ đến giai đoạn này cũng không phải là tầm thường. Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Đây là cảnh giới của Bồ Tát Đại thừa; A-la-hán vẫn chưa đạt đến. A-la-hán chỉ đạt đến Đệ lục ý thức, chưa đạt đến Đệ bát thức. Đối với trình độ thông thường, đức Phật dùng cách nói này. Nhưng cảnh giới cao hơn một bậc, cách nói của Phật sẽ khác.

Thực tế, năng lượng, tin tức, vật chất cũng không tồn tại; đều là giả! Đây là “Tam Tế Tướng” của A-lại-da: năng lượng là “nghiệp tướng” của A-lại-da; tin tức là “chuyển tướng” của A-lại-da; vật chất là “cảnh giới tướng” của A-lại-da. Bồ Tát từ Bát Địa trở lên nhìn thấy ba thứ này cũng không tồn tại, chỉ có chân tánh, tự tánh là thật. Đại Sư Huệ Năng sau khi kiến tánh, ngài nói: “Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ”. Tự tánh không phải hiện tượng vật chất, cũng không phải hiện tượng tinh thần, cũng không phải hiện tượng tự nhiên. Hiện tượng tự nhiên là “Nghiệp tướng” của A-lại-da, do một niệm bất giác mà có vô minh. Hiện tượng tinh thần là “chuyển tướng” của A-lại- da, cũng chính là Mạt-na-thức, Đệ lục ý thức. Hiện tượng vật chất là “cảnh giới tướng” của A-lại-da. Nếu từ Tam Phần mà nói:

1. Kiến Phần là tự thể, là hiện tượng tinh thần, là tự tánh Chân Như, là chân vọng hòa hợp.

2. Tướng Phần là hiện tượng vật chất.

3. Tự Chứng Phần, chứng Tự Chứng Phần: Giới khoa học không nói đến điều này.

Tự Chứng Phần” tức là tâm thanh tịnh của tự tánh. Chứng Tự Chứng Phần chính là Phật Tánh. Chúng ta dùng Phật tánh và Pháp tánh để nói, mọi người càng dễ hiểu: Tự Chứng Phần là Pháp tánh, Chứng Tự Chứng Phần là Phật tánh, là Trí tuệ Bát Nhã trong tự tánh.

Khoa học ngày nay càng tiếp cận với Phật pháp hơn, đây là điều tốt. Đạo lý này rất sâu sắc, rất huyền diệu, nói ra đều không dễ, nghe hiểu đương nhiên lại càng khó! Khoa học giúp Phật pháp chứng minh những lời Phật dạy là chân thật bất hư. Các pháp như huyễn hóa, trong kinh Phật thường ví như mộng, huyễn, bào, ảnh; tuyệt đối chẳng phải chân thật.

Quốc Sư HiềnThủ nói: “Tự Tánh thanh tịnh viên minh thể”, nó là “năng hiện, năng sanh”; A-lại-da là “năng biến”, Thập pháp giới y chánh trang nghiêm là “sở biến”. “Năng sanh, năng hiện” là chân tâm “năng biến, sở biến” là vọng tâm. Mục tiêu tu học rốt ráo của Phật pháp, ngay pháp môn Niệm Phật cũng không ngoại lệ, mục tiêu sau cùng là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”; nghĩa là trở về tự tánh. Đây là mục tiêu cao nhất của học Phật.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, trở về tự tánh là Diệu Giác vị (cao hơn Đẳng Giác ), là cứu cánh Phật quả; “cứu cánh Phật quả” là bổn tánh của ta, ta vốn là Phật.

Ngày nay, mê thất tự tánh, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều đang tạo nghiệp luân hồi: Ý niệm thiện tương ưng với ba đường lành trong lục đạo; ý niệm bất thiện tương ưng với ba đường ác. Từ sáng đến tối chúng ta khởi tâm động niệm đều như vậy, do không hiểu nên không biết sự lợi hại rất đáng sợ của nó. Nếu hiểu biết ít nhiều về kinh giáo Đại thừa, sẽ có thể khế nhập. Khế nhập này không phải dễ, nếu chẳng “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng” thì không thể làm được, không thể nghe hiểu. Nếu xem hiểu được thì trong này rất thú vị, muốn bỏ cũng không được. Mở kinh ra, đầu hôm xem, xem đến sáng cũng không hay trời sáng! Vì sao? Vì nó rất thú vị, càng xem càng hoan hỉ.

Ngày nay, chúng ta mở kinh ra xem, khoảng một, hai tiếng thì đã thấy mệt, không muốn xem tiếp, đó là chưa nếm được Pháp vị. Thật sự, nếm được Pháp vị thì nghe mãi cũng không chán, nghe xong còn muốn nghe lần nữa, nghe trăm vạn lần đều không chán. Càng nghe càng hoan hỉ vì đã khế nhập tự tánh.

Tánh đức không có biên tế, không có cùng tận nên hương vị của nó cũng không cùng tận. Càng khế nhập, hương vị càng nồng nàn. Đạo lý là như vậy. Những tạp chí thế gian, thông thường chúng ta xem qua một lần thì không muốn xem nữa. Tác phẩm văn học có hay thế mấy, theo tôi sức thu hút của nó cũng không quá mười lần. Xem xong mười lần thì không còn muốn xem tiếp lần thứ mười một. Duy nhất chỉ có kinh điển của Thánh nhân, sức thu nhiếp thật vô cùng; kinh điển của Phật thì không cần phải nói.

Kinh Phật là đại triệt, đại ngộ nên hương vị chẳng có lúc cùng tận. Nếu hương vị có lúc cùng tận, là họ tuyệt đối chưa kiến tánh. Thế nên, từng câu từng chữ đều từ tự tánh hiển lộ ra. Nói cách khác, từng câu từng chữ đều kiến tánh, đúng là tìm được niềm vui không cùng tận, thường sinh tâm hoan hỉ, pháp hỉ sung mãn.

Tôi đối với kinh điển Đại thừa, có thể nói là rất kiên trì suốt sáu mươi năm. Đến khi nào mới hiểu rõ ràng? Cũng chỉ là mấy năm gần đây!  Khi còn  ở Singapore, tôi chưa hiểu rõ     ràng!  Cách đây khoảng bảy, tám năm, khi tôi xem “Pháp Uyển Châu Lâm” trích dẫn đối thoại của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ Tát Di Lặc trong “Bồ Tát Xứ Thai Kinh”, mới biết Bồ Tát Di Lặc nói: Trong một khảy móng tay có ba mươi hai ức, một trăm ngàn niệm; có nghĩa là trong một khảy móng tay có ba mươi hai ức, một trăm ngàn sự biến hóa. Trong một giây, nếu khảy nhanh có thể được năm lần. Vậy thì trong một giây có đến một ngàn sáu trăm triệu lần biến hóa; không phải biến hóa mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày…! Đến lúc đó tôi mới hiểu được ý nghĩa thâm sâu trong kinh Phật nói về “Sát-na sinh diệt”. Hai, ba năm gần đây thấy được báo cáo của khoa học hiện đại, đem đối chiếu với kinh Phật thì hoàn toàn tương ưng, không còn hoài nghi. Đạt được điều này thật không phải dễ! Không thật sự hiểu thì làm sao buông bỏ được!

Trong Kinh Bát Nhã nói “Nhất thiết pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc”. Câu nói này là tôi tổng kết sau khi xem xong bộ Kinh Bát Nhã vào ba mươi năm trước. Lúc đó ý nghĩa thậm thâm trong đây tôi vẫn còn chưa hiểu. Tôi chỉ biết có hiện tượng này nhưng không biết trong một giây có đến một ngàn sáu trăm triệu lần sinh diệt. Các nhà khoa học nói: Trong một điện tử có một trăm ức vi trung tử tập họp lại mới thành một điện tử. Trong kinh Phật nói: “vi của cực vi”, phải chăng là nói đến điều này? Thành tựu của khoa học, chúng ta không thể không khâm phục. Những gì đức Phật nói trong ba ngàn năm trước, nay các nhà khoa học dùng phương pháp khoa học đã chứng minh, nhưng họ nói không được tường tận, rõ ràng như Phật pháp.

Năm đó thầy Phương giới thiệu Phật Giáo cho tôi, thầy nói: Phật Giáo là nền triết học cao nhất. Bây giờ, chúng ta phát hiện: Phật Giáo chẳng những là triết học cao nhất mà còn là khoa học cao nhất.

Hiểu rõ, nhìn thấu, buông bỏ quả thật không dễ! Sau khi nhìn thấu, buông bỏ phải giữ vững không được thoái chuyển. Nói cách khác, thập pháp giới y chánh trang nghiêm ta không còn bị nó cám dỗ, không còn bị nó đánh lừa. Ba đường lành tuy không tệ! Nhưng đối với nó ta không hề có chút ngưỡng mộ, yêu thích nào, vì nó chỉ là giả tướng! Ta có thể thưởng thức nhưng tuyệt đối không khởi tâm tham luyến. Phải nhìn nó bằng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác ngộ. Đối với nghịch cảnh ác duyên, nhìn thấy tam đồ địa ngục cũng không oán hận, không trách cứ, không bị nó làm ảnh hưởng. Trở về với tự tánh, “quán pháp như hóa”, đây là quán “tuệ”.

Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển hai nói: “Tư duy thô thiển (ý niệm ở mức độ thô) gọi là Giác (giác ở đây là cảm giác, tư tưởng vi tế cũng không cảm nhận được), tư duy tường tận (ý niệm ở mức vi tế) gọi là Quán”.

Sách Du Tâm Pháp Giới Ký cũng bảo: “Quán tức Quán Trí, thị pháp ly chư tình kế” (Quán là Quán Trí, Pháp này lìa các ý thức chấp trước, so đo nên gọi là Quán). Hòa Thượng Tịnh Không giải thích như sau: Chữ Quán ở đây là nói về “Chỉ Quán”. “Chỉ Quán” có sâu, cạn khác nhau. Chữ “pháp” chỗ này chính là “Quán pháp”. “Chư tình kế”: “tình” là chấp trước; “Kế” là phân biệt, so đo, tính toán; trong kinh Phật thường gọi là “kế độ” (độ trong chữ “độ chúng sinh”). “Ly chư tình kế” là lìa các ý thức chấp trước, so đo. “Tình” là thức thứ bảy (Mạt-na-thức). Bốn đại phiền não thường tùy của Mạt- na-thức là: Ngã kiến, ngã ái, ngã mạn và ngã si. “Tham, sân, si” tam độc phiền não khi sinh ra đã có, cùng xuất hiện với A-lại-da. “Ly chư tình kế” ở đây là dạy ta lìa chấp trước, phân biệt, viễn ly thức thứ sáu và thức thứ bảy (ý thức và Mạt-na-thức).

Trong Pháp Tướng Tông gọi đây là “Chuyển thức thành Trí”, tức là thành Phật. Ý thức chuyển thành Diệu Quan Sát Trí; Mạt-na-thức chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí. Chuyển thức thứ sáu và thức thứ bảy là chuyển về nhân; chuyển năm thức trước và thức thứ tám là chuyển về quả. Khi hai thức thứ sáu và thứ bảy đã chuyển được rồi thì năm thức trước và A-lại-da đều chuyển theo. Đây là lý luận của Tướng Tông.

– Chuyển như thế nào?

– Sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần không dùng tâm phân biệt, tức là không dùng “nhãn thức”, chỉ dùng “tánh thấy”, chính là dùng “căn tánh” của “Nhãn căn”. “Căn tánh” tức là “tự tánh”; khi giác nó xuất hiện; khi mê nó liền biến thành “Nhãn thức”. Vấn đề là ở giác và mê.

Người giác ngộ không dùng “Nhãn thức” để thấy sắc trần. Dùng “Nhãn thức” thấy sắc, sắc liền biến thành “trần”; “trần” là nhiễm ô, tức là nhiễm ô tự tánh! Hợp ý với mình liền khởi tâm tham ái; không hợp ý mình liền khởi tâm sân, đây là “tâm tùy cảnh chuyển”. Dùng tánh thấy để thấy sắc tánh đây là “cảnh tùy tâm chuyển”.

“Căn tánh” giống như chủ nhân, “thức” giống như người giúp việc, nó đến để hầu hạ chủ nhân. Chúng sinh nhầm lẫn xem chủ nhân là người hầu, người giúp việc lại xem là chủ nhân, điên đảo là ở điểm này! Nguồn gốc của mê chính là “Ngã kiến” của Mạt-na. Tướng của “Ngã kiến” là tự tư tự lợi. Có “Ngã kiến” tức là có cái tôi; cái tôi này luôn mạnh hơn người khác nên “Ngã mạn” hiện tiền; sân nhuế cũng từ đây mà sinh khởi. Tham, sân đều là tướng của ngu si không có trí tuệ. Ngu si là căn nguyên của tất cả pháp nhiễm ô. Trí tuệ là căn bản của tất cả pháp thanh tịnh. Trong hội Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy ta “xả thức dùng căn”. Thật sự có thể “xả thức dùng căn”, người đó thì quá tuyệt!

– Người đó là ai?

– Là hàng “Thượng Thượng căn” mới có thể làm được! Họ đã tìm ra chủ nhân, người hầu đứng bên cạnh. Chủ nhân làm chủ tức là thành Phật.

Sách Hội Sớ lại bảo: “Chữ Quán ở đây là Tam Quán. Do vì Tam Đế (Giả Đế, Không Đế, Chân Đế) nên có Tam Quán. Đấy là cốt lõi của vạn hạnh, là gan mật của Bồ Tát” và “một chữ Pháp chỉ chung hết thảy hữu tình, phi tình, các pháp sinh tử, Niết Bàn”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích: “Đế” là chân tướng sự thật, “Quán” là dùng thái độ như thế nào đối với chân tướng sự thật. Tam Quán, Tam Đế là nguyên tắc chỉ đạo tu hành cao nhất của Thiên Thai tông. Tam Chỉ, Tam Quán của Thiên Thai vẫn còn dùng tâm ý thức để tu. Ở đây nói Tam Đế, Tam Quán là then chốt của “Lục Độ Vạn Hạnh”, là gan mật của Bồ Tát, nói lên sự việc này là quan trọng biết bao! Chúng ta dùng Pháp Hoa Huyền Nghĩa trong Tam Tạng Pháp Số giải thích về Tam Đế. Đây là Phật học thường thức của Đại thừa: “Đế” tức là “Đế thẩm”. “Đế” có thể nói tường tận là để thẩm tra; hiện nay chúng ta gọi là nghiên cứu tường tận. Nghiên cứu đích thật là dùng thức thứ sáu và thức thứ bảy. Phân biệt của thức thứ sáu, quyết định của thức thứ bảy, đây là phương pháp của Thiên Thai tông đối với tất cả pháp: Tất cả pháp tức Không, tức Giả, tức Trung:

  • “Tức Không” là Chân Đế nói về chân tướng của nó là “vạn pháp giai không, liễu bất khả đắc”.
  • “Tức Giả” là Tục Đế.
  • “Tức Trung” là Trung Đế.

“Giả” là huyễn tướng, người thế gian cho là thật nên gọi nó là “Giả Đế”. “Trung” là sau khi giác ngộ, dùng “Trung” không nghiêng về “Không Tánh”, cũng không nghiêng về “Giả”, mọi việc “hòa quang đồng trần” với chúng sinh, tâm địa tuyệt đối không nhiễm trước, đây chính là Trung Đạo.

Đức Thế Tôn lúc còn tại thế, ngài thị hiện cho chúng ta thấy ngài cũng có thân thể, cũng có công việc, ngài làm rất siêng năng, đây là Tục Đế! Tuy ngày ngày biểu diễn, ngày ngày hoạt động, trong tâm ngài không nhiễm chút bụi trần, hoàn toàn tương ưng với tánh thể, đây gọi là Trung Đạo, cũng chính là Trung Đế. Cho nên, dùng “Trung” là không chấp Nhị biên, cũng không lìa Nhị biên, “bất tức bất ly”, đây là Trung Đạo.

Trong lợi ích tất cả chúng sinh, đối với bản thân không hề có chút chướng ngại nào. Bồ Tát ứng hóa tại thế gian “làm mà không làm, không làm mà làm”, tâm địa thanh tịnh, quang minh không có chút tiêm nhiễm nào. Chữ “Chân” trong “Chân Đế” tức là “Chân Không”, tất cả pháp đích thật đều là Không. Chư pháp vốn Không, chúng sinh không hiểu chấp đó là thật mà sinh vọng kiến. Họ thấy sai, nghĩ sai, nói sai, làm sai, đây là tạo nghiệp. Nghiệp có thiện, ác. Thiện được sinh vào ba đường lành, tiêu thiện nghiệp của họ. Tạo ác đọa vào ba đường ác, tiêu ác nghiệp của họ.

Nên biết: Trong tâm thanh tịnh không có thiện ác. Cho nên, tạo nghiệp thiện hay nghiệp ác đều phải tiêu trừ nó. Ý nghĩa này rất thâm sâu! Bởi thiện hay ác đều là nhiễm ô, không phải thanh tịnh! Thiện cũng là nghiệp chướng; ác cũng là nghiệp chướng đều chướng ngại tự tánh của chúng ta.

Bồ Tát dạy chúng sinh đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện mà không chấp trước, đó là Trung Đạo. Nếu đoạn ác, chấp trước đoạn ác; tu thiện chấp trước tu thiện, vẫn không thể thoát ly được! Vì sao? Vì chấp tướng sẽ có báo: Thiện có thiện báo; ác có ác báo. Không có chấp trước sẽ không có báo: Tu thiện không có quả báo của ba đường lành; tạo ác không có quả báo của ba đường ác. Vì sao? Vì tất cả pháp từ tâm tưởng sinh! Lục đạo, mười pháp giới đều là mộng huyễn bào ảnh, chỉ cần giác ngộ nó sẽ không tồn tại. Phải hiểu đạo lý này.

Sách Hội Sớ giảng chữ “như hóa” như sau: “Chẳng phải là Không, chẳng phải là Giả, nhưng dùng Không và Giả để sánh ví”. Nó chính là Trung Đế”.

Hoàng Niệm lão giải thích như sau: “Tuy nói là “như hóa” nhưng nó chẳng phải tuyệt đối không có, nên bảo “chẳng phải là không”. Nếu cho rằng có thì nó lại chỉ như huyễn hóa mà thôi, nên chẳng thật có. Gọi “như hóa” vì nó giả có, đã huyễn hóa thì toàn thể cái biến hiện của nó cũng chỉ là không”. Đây là hiển thị Trung Đạo. “Quán pháp như hóa” là quán hết thảy pháp đều là Trung Đạo.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: “Quán pháp như hóa” là dùng trí tuệ chân thật quán sát tất cả pháp thế và xuất thế gian đều như huyễn hóa. Thông thường chúng ta đem “pháp” qui nạp thành: Tất cả người, tất cả việc, tất cả vật, tất cả hiện tượng. Phàm phu chúng ta dùng tâm sinh diệt, dùng vọng tâm chẳng phải là chân tâm. Trong tâm sinh diệt không có trí tuệ, có chăng chỉ là hư tình giả ý! Cho nên, họ có nghĩ gì cũng đều là giả, chớ cho là thật. Cho là thật thì bạn thiệt thòi ngay! Họ nói rất yêu thích bạn, bạn nghe rồi gật đầu: Giả thôi, không phải thật! Một lát, tâm họ thay đổi, nói chán ghét bạn, cũng đừng tức giận, cũng là giả thôi! Lát sau họ liền quên hết! Biến chuyển vô thường, tâm này chẳng đáng tin! Chỉ có tánh đức là vĩnh hằng không thay đổi. Phật, Bồ Tát chứng được tánh đức nên ngôn ngữ, tạo tác của các ngài đều từ trong tự tánh tự nhiên lưu lộ ra, mới có thể gọi là “quỹ phạm” (khuôn phép gương mẫu).

Quán pháp như hóa”: “hóa” là huyễn hóa, như trên Kinh Kim Cang nói: “Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn, bào ảnh…” nó không phải thật!

– Cái gì là pháp hữu vi?

– Bồ Tát Thiên Thân trong Bách Pháp Minh Môn Luận đem tất cả pháp thế và xuất thế gian qui nạp thành một trăm pháp gọi là Bách pháp. Trong một trăm pháp này lại phân thành năm loại:

1. Tâm Pháp

Đây là tâm của phàm phu sáu cõi, gồm có tám cái. Trong Phật pháp gọi là “Bát thức tâm vương” (tám thức tâm vương).

2. Tâm Sở Pháp (nói đủ là Tâm sở hữu pháp)

Gồm có năm mươi mốt cái. “Tâm sở” là tác dụng của tâm, chính là tám thức khởi tác dụng. Cũng có thể nói “tâm sở” là các tâm phụ, thuộc sở hữu của “tâm vương”, tâm này ví như các cận thần của vua nên có ảnh hưởng tác dụng không ít!

3. Bất Tương Ưng Hành Pháp

Gồm có hai mươi bốn cái, đây thuộc về tâm lý; hiện tại chúng ta gọi là khái niệm trừu tượng, khái niệm tư duy. “Bất tương ưng hành pháp” không phải là “tâm pháp”, cũng không phải là “Tâm sở pháp”, cũng không phải là “sắc pháp” nhưng nó từ trong Tâm pháp, Tâm sở, sắc pháp biến hiện ra; nó không thuộc về ba loại này nhưng không rời khỏi quan hệ với ba loại này, gọi là “Bất tương ưng hành pháp”.

4. Sắc Pháp

Có mười một cái, ngày nay chúng ta gọi là phần vật chất. Ba loại phía trước nói về tinh thần, phần này nói về vật chất. Bốn loại này tổng cộng có chín mươi bốn pháp, đều gọi là pháp hữu vi. Pháp hữu vi có sinh, có diệt, không phải chân thật nên thuộc về “mộng huyễn, bào, ảnh”.

5. Pháp Vô Vi

Chân thật không sinh, không diệt, cũng chính là chân tâm thường trụ, là tự tánh của chúng ta, gồm có sáu cái.

Phàm phu chúng ta dùng là “tâm ý thức”: “Tâm” là A-lại-da; “ý” là Mạt-na; “thức” là đệ lục ý thức. “Tâm ý thức” là tâm sinh diệt; đệ lục ý thức là phân biệt; đệ thất thức Mạt-na là chấp trước; đệ bát thức là vọng tưởng. Dùng “tâm ý thức” chính là dùng tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; phiền phức ngay ở chỗ này! Cho nên, tu hành thế nào vẫn không có biện pháp thoát khỏi sáu cõi luân hồi. Muốn siêu việt sáu cõi luân hồi phải dùng chân tâm, không thể dùng vọng tâm.

Trên Kinh Lăng Nghiêm nói: Chân tâm chính là “căn tánh” của sáu căn chúng ta: Nơi mắt gọi là tánh thấy; nơi tai gọi là tánh nghe; nơi mũi gọi là tánh ngửi; nơi lưỡi gọi là tánh nếm v.v… đây là chân tâm thường trụ. “Tánh” là chân thật, “Tướng” là hư giả. Tám thức, năm mươi mốt tâm sở, hai mươi bốn cái bất tương ưng đều do “Tướng Phần” biến hiện ra. Chỗ này, Phật dạy chúng ta “Quán pháp như hóa”, tỉ mỉ mà quan sát những thứ này đều là mộng huyễn bào ảnh, chắc chắn không phải thật, đều phát xuất từ tâm tưởng; tâm tưởng chính là thức.

Trong tâm tưởng có “Biệt nghiệp vọng kiến” và “Đồng phân vọng kiến”. “Kiến” là kiến giải, tư tưởng của ta; “vọng” là hư vọng. Từ trong kiến giải, tư tưởng của ta biến hiện ra cảnh giới hư vọng cá biệt mà người khác không thấy, đây gọi là “Biệt nghiệp vọng kiến”. “Đồng phân vọng kiến” là kiến giải của số người có cùng loại vọng tưởng phân biệt, chấp trước như nhau, nên xem thấy cảnh giới này cũng giống nhau.

Ngày trước, tôi ở Đài Bắc, cư sĩ Giảng Phong Văn học Thiền. Khi ngồi thiền thì thấy Thập Điện Diêm Vương, thấy Diêm Vương, thấy quỉ nhỏ, thấy rất rõ ràng. Ông nói dáng dấp của họ không cao. Người bên cạnh ông đều không xem thấy. Đây là “Biệt nghiệp vọng kiến”. Nếu mọi người đều đồng thời xem thấy, đó là “Đồng phân vọng kiến”. “Biệt nghiệp” hay “Đồng phân vọng kiến” đều là hư vọng không phải chân thật. Cho nên, Phật nói “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Nếu hiểu rõ chân tướng sự thật này sẽ không còn ở trên vọng tướng mà khởi tâm phân biệt, chấp trước.

“Quán” là cách nhìn, cách nghĩ của ta về vũ trụ quan, về nhân sinh quan. Cảnh giới trước mắt chúng ta tuyệt đối không phải thật có. Cái có đó là giả có không phải thật có. Ta không thể nói nó có, cũng không thể nói nó không có. Nói nó không có nhưng nó có tướng; nói nó có, cái tướng đó là giả không thật! “Đương thể tức không, liễu bất khả đắc”! Cần phải nhận biết rõ ràng, sau đó mới chân thật buông bỏ vạn duyên. “Vạn duyên buông xả” là buông xả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chớ không phải buông xả sinh hoạt, việc làm.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”; có thể thấy được “sự” không có chướng ngại. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta phải tùy duyên mà không phan duyên. Phan duyên là đa sự, đa sự thì phiền não! Tùy duyên thì thanh tịnh.