Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

IV. TÍCH CÔNG LŨY ĐỨC ĐỆ BÁT
(TT)

Sau khi Tịnh Tông Học Hội thành lập, chúng ta chú trọng tu hành, tu sửa tất cả tư tưởng, hành vi sai lầm của bản thân. Từ trên kinh luận, chúng ta tiết lục ra năm khóa mục, không thể quá nhiều, quá nhiều thì không thể nhớ; không thể nhớ cũng bằng không được lợi ích gì! Khóa mục càng đơn giản thì càng tốt. Năm khóa mục này, điều thứ nhất là “tịnh nghiệp tam phước”, đây là nền tảng. Trong đây nói ba điều cần thiết phải làm:

Thứ nhất là “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”. Đem bốn câu này làm cho được, “phước báo trời người” bạn liền đạt được.

Thứ hai là “Thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”. Đây là phước báo của hàng Nhị thừa, là phước báo của A- la-hán và Bích Chi Phật.

Thứ ba là “Phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng Đại thừa, khuyến tấn hành giả”, đây là phước báo của hàng Bồ Tát.

Nếu có người hỏi: Phật pháp tu học cái gì, bạn đem ba câu nói này giải đáp cho họ thì đúng. Cho nên, Đại thừa Bồ Tát: cả ba điều, mười một câu này đều đã viên mãn. Tôi giảng kinh cũng thường nói: Nếu bạn đầy đủ điều thứ nhất, niệm Phật vãng sinh thế giới Cực Lạc sẽ sinh đến cõi “Phàm Thánh Đồng Cư”. Nếu đầy đủ hai điều, tổng cộng có bảy câu, bạn vãng sinh Tây Phương Cực Lạc, sinh về cõi “Phương Tiện Hữu Dư”. Nếu cả ba điều tổng cộng mười một câu, bạn đều làm được, sẽ vãng sinh đến cõi “Thật Báo Trang Nghiêm”. Đây là cơ bản giáo nghĩa của Phật pháp.

Chúng ta học Phật không tốt chính là đã lơ là đi những sự việc này! Trong gia đình bạn có cư xử tốt với cha mẹ không? Có tâm hiếu thuận với cha mẹ không? Nếu như hiềm ghét tư tưởng người già cổ hủ không theo kịp trào lưu, vậy thì không được rồi! Đây là đại bất hiếu! Nói cách khác, cửa Phật vĩnh viễn bạn không thể bước vào! Bạn niệm Phật có tốt đến đâu, mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, lúc lâm chung Phật A Di Đà cũng không đến tiếp dẫn bạn! Vì sao? Vì bất hiếu cha mẹ! Người vãng sinh thế giới Cực Lạc đều là người hiếu thuận với cha mẹ. Cho nên, bất hiếu cha mẹ, bất kính sư trưởng, niệm Phật không thể vãng sinh!

– Lần này chúng ta học chú giải Kinh Vô Lượng Thọ; thầy chúng ta là ai?

-Là Hoàng Niệm Tổ, lão cư sĩ! Tôi hoàn toàn y theo chú giải của ông, bản thân tôi đang học tập. Trên bục giảng cùng với các đồng tu nơi đây chia sẻ, ông là thầy của chúng ta.

Đừng hiểu lầm! Tôi không phải thầy giáo, tôi là trợ giáo. Lúc tôi giảng Kinh Hoa Nghiêm, tôi y theo Chú Sớ, Sớ Sao của Đại Sư Thanh Lương; thầy giáo là Đại Sư Thanh Lương. Tôi giảng Kinh Di Đà, y theo Sớ Sao của Đại Sư Liên Trì; thầy giáo là Đại Sư Liên Trì. Nếu y theo chú giải của Đại Sư Ngẫu Ích; thầy giáo là Đại Sư Ngẫu  Ích. Trước giờ tôi không dám lấy thân phận thầy giáo ngồi trên bục giảng. Từ lâu tôi vẫn thường nói:

– Thầy giáo ở đâu?

– Thầy giáo ở phía dưới bục giảng! Bạn ngồi ở phía trước đều là thầy của tôi, tôi là học sinh đang ở nơi này làm báo cáo học tập, mời thầy giáo chỉ giáo, mời thầy giáo dạy dỗ.

Đời này tôi học được: Trên bục giảng là học sinh, dưới bục giảng là giám học của tôi, là thầy của tôi. Các bạn đốc thúc tôi chăm chỉ, bạn không đốc thúc tôi sẽ giải đãi, buông thả, vĩnh viễn là tâm thái như vậy! Tám mươi lăm tuổi, tôi mỗi ngày đều học chú giải của Niệm lão, mỗi ngày tôi dành bốn giờ đồng hồ, rất chăm chỉ tra tự điển, tra tài liệu tham khảo. Tám mươi lăm tuổi còn làm học sinh không có nghỉ ngơi. Vì ai vậy? Vì chính mình, cũng vì mọi người. Chú giải này quá hay có thể cứu vớt chúng sinh khổ nạn trong chín ngàn năm còn lại của thời mạt pháp.

Cung kính Tam Bảo”: – Vì sao gọi là “Bảo”? Theo Bảo Tánh Luận có sáu nguyên nhân: Thế gian hy hữu (trong đời ít có), ly cấu, thế lực, trang nghiêm thế gian, tối thượng và bất biến. Phật còn có nghĩa là giác tri, Pháp là khuôn phép, Tăng là hòa hợp. “Cung kính Tam Bảo” là khâm ngưỡng đức hạnh của Tam Bảo.

1. Thế gian hi hữu (trong đời ít có): Đây là thật không phải giả! Kinh Phật là hy hữu trong thế gian. Bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư là hy hữu trong hy hữu. Trước kia hội tập chưa thành công, viết về Kinh Vô Lượng Thọ không có sách hay, phải đọc hết năm loại bản dịch, rất phiền phức, cũng rất phân tâm! Năm quyển sách phiên dịch không giống nhau, còn có rất nhiều vấn đề, khiến chúng ta phân vân không biết nên y theo cuốn nào?! Cho nên, kinh này có nhu cầu tất yếu cần phải hội tập.

Sớm nhất là thời Tống, Vương Long Thư hội tập lần thứ nhất. Lấy thân phận địa vị cho đến tu dưỡng Nho học, Phật học của ông mà nói: Năm loại sách nguyên dịch, ông chỉ xem có bốn loại, còn thiếu một loại, đó là bản Đường dịch “Bảo Tích Kinh Vô Lượng Thọ Hội”, sách này ông chưa xem, cho nên cuốn hội tập của ông chưa hoàn chỉnh. Trong Kinh Bảo Tích Vô Lượng Thọ Hội có những kinh văn mà trong bốn bản dịch kia không có. Sau khi sách của Vương Long Thư ra đời, ở Trung Quốc có rất nhiều người học Kinh Vô Lượng Thọ đều sử dụng sách của ông. Cuốn sách này thu thập được từ Long Tạng. Hoàng Đế Càn Long đối với văn hóa rất xem trọng: Đạo giáo đều tập trung vào trong Tứ Khố Toàn Thư; đặc biệt, riêng đối với Phật Giáo, ông để vào trong Tạng Kinh, thật là thế gian hy hữu!

Chúng ta sinh ra trong thời đại này là hợp lúc, điều hy hữu chúng ta đã có được rồi! Chú giải này lại càng hy hữu! Niệm lão là học trò của Hạ Liên Cư, ông chính mình nghe giảng, tiếp nhận chỉ dạy của thầy, bảo ông nên viết một bộ chú giải cho bộ kinh này. Để hoàn tất chú giải này, ông phải vận dụng tham khảo đến một trăm chín mươi ba loại tài liệu. Thật là hiếm có! Thật dụng tâm! Khẳng định được Tam Bảo gia trì. Những tài liệu này không phải dễ dàng tìm thấy, vậy mà tất cả ông đều có được.

Tôi đến Bắc Kinh thăm ông, xem thư phòng rất nhỏ của ông xếp từng chồng lớn những thư tịch. Nếu không phải Phật lực gia trì thì không thể có được! Cho nên, chúng ta cần sinh tâm hy hữu thọ trì bộ Pháp Bảo này.

2. Ly cấu (lìa nhiễm ô): Ý nói bên trong Phật, Pháp, Tăng là thanh tịnh, thanh bạch không có chút nhiễm ô nào.

3. Thế lực: Hiện nay khoa học gọi là năng lượng, chúng ta gọi là từ trường, nơi nào có lưu giữ Kinh Tạng, bạn bước vào sẽ cảm  thấy nơi đó rất ấm áp, rất an toàn, những phiền não vướng mắc trong tâm đều tự nhiên tan biến. Vì sao vậy? Vì những kinh điển này là kết tinh trí tuệ của Phật, Bồ Tát phát ra năng lực này. Có không ít người thỉnh một bộ Đại Tạng Kinh để ở trong nhà cúng dường là có đạo lý! Tuy họ không xem nhưng khi đặt Kinh Tạng trong nhà, từ trường sẽ không giống nhau. Đối với kinh điển này càng cung kính thì năng lượng từ trường sẽ càng lớn. Nếu thường mở ra xem, đọc tụng thì lực gia trì sẽ càng lớn hơn. Nó thật sự có thể che chở cho cả nhà bạn bình an, hòa hợp, hạnh phúc. Đây không phải là mê tín mà có căn cứ của khoa học.

4. Năng trang nghiêm thế giới: Ý nói thù thắng nhất chính là trang nghiêm từ trường, người xưa gọi là bầu không khí.

5. Tối thượng: Ý nói trong tất cả pháp thế gian, Tam Bảo là bậc nhất, là Chánh Giác không có mảy mai tà tri, tà kiến, tà niệm nào. Người xưa có câu: “Thế gian hảo ngữ, Phật thuyết tận”, những lời tốt đẹp ở thế gian, trong kinh Phật đều nói hết rồi.

6. Bất biến: Là vĩnh hằng không thay đổi, vì tư duy, ngôn hành của nó đều tương ưng với tánh đức, đều từ tánh đức tự nhiên phát lộ ra. Đầy đủ sáu ý nghĩa trên được xưng là “Bảo”. Phật và Pháp có đầy đủ sáu ý nghĩa này. “Tăng” là người chịu thực hành “Tùy kỳ giáo pháp nhi tu nghiệp giả”, câu này chính là những gì hiện tại chúng ta đang nói: Thật thà, nghe lời, chịu thực hành. Bất luận là tại gia hay xuất gia, nam nữ, già trẻ v.v… chỉ cần phù hợp sáu điều kiện này, họ thật sự chính là “Bảo”.

Phụng sự sư trưởng”: “Phụng” là tôn sùng, phụng dưỡng; “sự” là phục dịch, hầu hạ. “Phụng sự” là tôn kính, hầu hạ. Điều này vào thời xưa thì có thể làm được.

Trong sách cổ Trung Quốc nói: thời “Tam Hoàng” lấy “Đạo” trị quốc, thời “Ngũ Đế” lấy Đức để trị quốc. Đến thời Tam Vương (là Hạ, Thương, Chu) lấy “nhân” trị quốc. Đời “Xuân Thu chiến quốc” lấy “nghĩa” trị quốc. Đến nhà Tần thống nhất Trung Quốc, mười lăm năm sau mất nước, nhà Hán dành được thiên hạ. Từ nhà Hán đến thời nhà Thanh là lấy “Lễ” để trị quốc. Đây là những gì người xưa nói về “Đạo, Đức, Nhân, Nghĩa, Lễ”. “Lễ” nếu như không có thì thiên hạ sẽ đại loạn. Ngày nay chúng ta nhìn thấy rồi! “Lễ” không còn, bất kể dùng phương pháp gì cũng không trị được quốc gia, xã hội vĩnh viễn không thể hồi phục hòa bình, an định.

Xã hội ngày nay hoàn toàn trái ngược! Giáo dục đặt ở sau cùng! Đồng thời nội dung giáo dục hoàn toàn bị biến chất, đem kinh tế đặt lên hàng đầu. Vấn đề này Mạnh Tử rất phản đối. Mạnh Tử nói với Lương Huệ Vương: “Lợi thị nhân chi tất tranh”. Nếu như con người tranh đấu qua lại, xã hội này chắc chắn có nguy cơ động loạn, nên ông nói: “Thượng hạ giao chi lợi, kỳ quốc nguy hỉ”. Ngày nay, toàn bộ thế giới có quốc gia nào không đặt kinh tế lên hàng đầu? Có người nào không tranh lợi?! Hiện nay là cổ vũ mọi người tranh lợi. Cái này không cần phải cổ vũ cũng đã toàn tâm toàn lực tranh giành rồi, cổ vũ nữa thì chịu sao thấu! Giáo dục ở học đường từ trường mầm non đã dạy cạnh tranh, xã hội làm sao không động loạn! Tai nạn làm sao không có!

Người ngày nay không đọc sách Thánh Hiền! Những gì người xưa nói như: “Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ”, người ngày nay đều không cần nữa! Cho rằng giáo dục của Thánh Hiền là những thứ cặn bã, nhảm nhí, quá cũ kỹ, cần nên vứt bỏ!

Khoa học nước ngoài nói: Khi khoa học phát triễn đến cực điểm thì nhân loại sẽ bị hủy diệt! Hiện tượng này ngày nay chúng ta đã nhìn thấy cũng không khác gì nhiều! Khoa học cũng cho chúng ta biết, địa cầu này khoảng năm, sáu mươi ngàn năm về trước, công nghiệp khoa học rất phát triễn, Atlantic bị chìm xuống Đại Tây Dương, đây là đại tai nạn! Cũng trình tự này, họ tiên đoán tương lai Atlantic sẽ nổi lên lại và Âu châu sẽ chìm xuống đáy biển! Chúng ta vừa thích thú chờ xem Atlantic có nổi lên chăng? Cũng vừa lo sợ Âu châu chìm xuống! Con người không tin vào luân lý đạo đức, chỉ biết mưu tính danh lợi, hưởng lạc hết mình! Ngày tận thế của Atlantic đang dần dà diễn biến lại trước mắt chúng ta, nhân tố căn bản cũng chính là xao lãng giáo dục! Chúng ta xem đoạn kinh văn này cảm xúc rất sâu sắc!

Phụng sự sư trưởng”: chữ “sư” ở đây là người dạy đạo cho ta (“đạo” là đạo lý), “trưởng” là người có đức hạnh, hoặc vai vế cao hay lớn tuổi hơn ta, chúng ta đều phải biết tôn kính.

Trong Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn, ngài Tĩnh Am viết: “Nếu chẳng có thế gian sư trưởng làm sao biết được lễ nghĩa. Nếu không có bậc xuất thế sư trưởng, chẳng hiểu nổi Phật pháp. Chẳng biết lễ nghĩa thì khác gì cầm thú, chẳng hiểu Phật pháp, có khác gì tục nhân?”. Ân sư trưởng sâu nặng nên phải phụng sự. Mật Tông còn xem cung kính Thượng Sư là căn bản giới. Trong Hiển giáo là “Tam Qui”, trong Mật giáo là “Tứ Qui”. Điều đầu tiên của họ là “Qui y Thượng Sư”, “thượng sư” đặt ở số một. Nếu không có Thượng Sư làm sao biết được Tam Bảo “Phật, Pháp, Tăng”. Nếu bạn đến Nhật Bản tham học có thể nhìn thấy Phật Giáo Nhật Bản tôn trọng Tổ sư hơn cả tôn trọng Phật. Điện thờ Tổ sư rất trang nghiêm; điện thờ Phật, Bồ Tát là hàng thứ hai. Điều này cũng có lý!

– Ta nhờ đâu mà biết Phật?

– Nhờ thầy giáo giới thiệu!

Thậm chí, “Nhất thiết cúng dường công đức trung, cúng dường Thượng Sư tối vi thắng” (Trong hết thảy công đức cúng dường, cúng dường Thượng Sư là tối thắng). Cho thấy “Phụng sự sư trưởng” thật sự là một nhiệm vụ rất quan trọng trong việc tu hành.

Ấn Quang Đại Sư trong “Văn Sao” nói rất nhiều về “Hiếu thân tôn sư”. Đây là căn bản lớn của học vấn thế, xuất thế gian. Nếu không có hiếu thân, không có tôn sư; Phật, Bồ Tát có đến cứu bạn cũng không được! Ấn Tổ thường nói: “Một phần thành kính được một phần lợi ích. Mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Chữ “lợi ích” ở đây có nghĩa là bạn có thể lãnh hội được. Nếu không có chân thành, cung kính thì cái gì bạn cũng không thể tiếp thu được. Có tâm chân thành, cung kính mới có thể nghe được âm thanh ngoài ngôn ngữ, đây chính là bạn có chỗ ngộ. Ân đức của sư trưởng vĩnh viễn không quên. Tổ đình của Phật Giáo Nhật Bản, bên trong thờ cúng những đại đức thời Tùy, Đường của Trung Quốc. Đặc biệt có rất nhiều tượng của Thiện Đạo Đại Sư và tượng của Trí giả Đại Sư. Đây là hai vị thầy mà người Nhật Bản tôn kính nhất.

Sách Hội Sớ nói: “Thử phụng sự sư trưởng trung, hàm nhiếp hiếu dưỡng phụ mẫu chi cú” (Trong phụng sự sư trưởng này còn bao hàm cả ý hiếu dưỡng cha mẹ). “Sư giả xuất thế đại bổn, phụ mẫu thế gian phước điền. Bồ Tát tất tu cung kính, phụng trì” (Sư là căn bản xuất thế, cha mẹ là ruộng phước trong thế gian, Bồ Tát ắt phải cung kính phụng trì). Thuyết này thật rất có căn cứ, vì như Quán Kinh nói: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”.

Phụ nữ ngày xưa nhận được sự tôn trọng và có địa vị rất cao, không như lầm tưởng của một số người, nhất là thành phần tri thức, họ cho rằng thời xưa phụ nữ bị ngược đãi, bị xem thường! Sai rồi! Bạn đọc Cổ Lễ của Trung Quốc sẽ hiểu rõ. Trong lịch sử nói đến thời đại nhà Chu. Triều đại nhà Chu tám trăm năm, dài nhất trong lịch sử Trung Quốc.

– Nền tảng tám trăm năm này là do ai tạo nên?

– Do ba người phụ nữ: Thái Khương, Thái Nhậm, và  Thái Tự.

Ba phụ nữ này đã làm hết trách nhiệm mà họ nên làm. Họ dạy con trai là: Văn Vương, Võ Vương, Chu Công. Trong mắt của Khổng Tử: Văn Vương, Võ Vương, Chu Công đều là đại Thánh nhân. Ba bà mẹ nhà Chu đều có chữ Thái, nên về sau chồng gọi vợ mình là “Thái Thái” hàm nghĩa là rất tôn quí, đó chính là nói bạn đối xử với vợ nên đối xử như triều đại của nhà Chu. Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự là mẹ của Thánh nhân. Đứa trẻ mà họ sinh ra và dạy dỗ đều là bậc đại Thánh hiền: Biết luân lý, biết lễ nghĩa, biết tôn sư trọng đạo; đây là do cha mẹ dạy, đặc biệt là người mẹ.

Người xưa bảy tuổi đi học. Trẻ con nếu thông minh, lanh lợi, sáu tuổi có thể đi học. Khi đi học thì thầy giáo dạy. Cho nên, thầy giáo là tiếp nối từ sự giáo dục của gia đình. Thời xưa, năm thế hệ cùng ở một nhà, không có phân chia. Cho nên, con em trong gia đình rất đông, mời thầy giáo đến nhà mở lớp học. Thầy giáo sẽ đón lấy trách nhiệm của người mẹ, “Thân hành, ngôn giáo”, bản thân thầy cần làm tấm gương cho học trò xem. Học trò và thầy giáo sinh hoạt ở cùng một nơi. Bảy tuổi đã không sống cùng cha mẹ mà ở cùng thầy. Thầy giáo dạy dỗ, quan trọng nhất là dạy giáo dục, luân lý, đạo đức; không phải dạy bạn đọc sách; đọc sách là phần phụ. Đọc sách là nền tảng trong học thuật, chỉ dạy đọc không giảng nghĩa, bảo bạn học thuộc.

– Một ngày cần thuộc bao nhiêu chữ?

– Người thượng căn thông minh, trí nhớ tốt, tiêu chuẩn là bảy trăm chữ. Một ngày phải học thuộc bảy trăm chữ.

– Làm sao có thể đo lường được trình độ của học sinh?

Thầy giáo chọn trước bài văn bảy trăm chữ bảo chúng đọc. Nếu đọc mười lần có thể thuộc tức là chúng có năng lực này. Nếu đọc mười lần không thuộc; giảm bớt còn năm trăm chữ, đây là tiêu chuẩn trình độ bậc trung. Năm trăm chữ cũng đọc mười lần; nếu đọc mười lần vẫn không thuộc thì giảm xuống còn ba trăm chữ. Ba trăm chữ vẫn không thuộc thì kém hơn một chút, vẫn tạm được, học thuộc một trăm chữ, hai trăm chữ. Sau khi học thuộc, thầy giáo sẽ đốc thúc chúng học thuộc làu một trăm lần, chúng sẽ không quên. Mỗi ngày ôn lại một lần. Hôm nay đi học, đem những gì học hôm qua đọc thuộc lòng một lần cho thầy nghe, rồi học tiếp cái mới. Căn tánh của học sinh là đánh giá từ chỗ này.

Cho nên, trình độ mỗi em không giống nhau, chương trình học của mỗi em cũng khác, tiến bộ không như nhau. Rất thiết thực! Sau khi học thuộc lòng, suốt đời chúng cũng không quên. Đến tám, chín mươi tuổi viết văn chương, hay trò chuyện không cần phải tra cứu tài liệu, cứ một mạch văn chương thuận miệng mà nói ra. Huấn luyện học sinh là như vậy.

Tóm lại, trong tiểu học từ bảy đến mười hai tuổi, chỉ chú trọng học thuộc lòng. Phần giảng giải là ở Đại học gọi là Thái Học (trước kia không có Trung học). Đứa học giỏi thì mười ba tuổi lên Thái Học. Lên Thái Học là tuổi từ mười ba đến mười lăm. Lên Thái Học, thầy giáo sẽ giảng giải rõ ràng những bài văn mà trẻ đã thuộc lòng trước đây ở Tiểu học. Lúc giảng giải không cần dùng sách vì chúng đều đã thuộc. Cho nên, lên Thái Học không cần phải mang cặp sách quá nặng như bây giờ.

–  Văn hóa truyền thống Trung Quốc suy yếu là do đâu?

– Do Từ Hi Thái Hậu đối với bậc Thánh Hiền không tôn trọng! Trên làm, dưới theo! Từ Hi Thái Hậu cách chúng ta ngày nay hơn hai trăm năm. Sau khi nhà Thanh mất nước, không còn nói đến truyền thống văn hóa. Văn hóa xưa không thể phục hưng thì xã hội này vĩnh viễn không có hòa bình, đồng thời sẽ có nỗi lo diệt chủng, mất nước!

Câu “nhược vô thế gian sư trưởng, tắc bất tri lễ nghi” (Nếu chẳng có thế gian sư trưởng làm sao biết được lễ nghĩa), đây là sự thật!

Tôi đến Đài Loan, năm hai mươi sáu tuổi tôi theo thầy Phương Đông Mỹ học triết học. Thầy đem triết học trong kinh Phật giới thiệu cho tôi. Cách khoảng nửa năm sau, tôi quen biết Đại Sư Chương Gia, đây là vị thầy xuất thế. Tôi ở Đài Loan một mình, bạn bè thân thuộc đều không có, không ràng buộc vướng mắc. Đại Sư khuyên tôi xuất gia. Cho nên, xuất gia là Đại Sư lựa chọn con đường này cho tôi, dạy tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Căn bản Phật pháp tôi có được là tiếp nhận từ Chương Gia Đại Sư; Nho giáo tôi có được là tiếp nhận từ thầy Lý. Giống như thi chạy tiếp sức, đoạn đường của tôi đã chạy xong rồi, nay đến lúc tôi nên giao lại cho thế hệ tiếp theo.

– Có người tiếp nhận hay không?

– Có! Không ít người tôi vẫn chưa gặp mặt, họ học từ đĩa CD, học từ mạng internet, học từ vệ tinh. Thật sự họ có thành tựu. tôi nhận được tin này hoan hỉ vô cùng.

Dùng vệ tinh dạy học là do thầy Phương Đông Mỹ nói cho tôi biết. Năm đó, ông nói với tôi, tôi không dám tưởng tượng, việc này tiêu tốn rất nhiều tiền, làm gì có được phước báo đó! Không ngờ trong thính chúng có những vị, họ đến để đầu tư: Phần mềm do chúng tôi cung cấp, tất cả thiết bị đều do họ đầu tư, chúng tôi không phải lo lắng. Dùng mạng internet, tính đến năm nay 2011, chúng tôi đã dùng gần hai mươi năm; dùng vệ tinh bắt đầu từ nguyên đán năm 2003, đến nay là chín năm rồi. Thật sự rất nhiều người từ trên vệ tinh, mạng internet, mỗi ngày chúng ta cùng ở một nơi cộng tu. Pháp hỉ sung mãn!

Trước mắt chúng ta gần như có thể xây một trường học không trung. Tôi tin nhiều nhất là hai năm sau, chúng ta dùng vệ tinh và mạng internet; người có thể dạy học, tôi ước đoán có khoảng mười người, trong đó người tại gia nhiều. Những người này họ thật sự học, thật sự làm. Không những rất chắc chắn với những gì đã học, họ còn có kinh nghiệm áp dụng trong đời sống. Tôi đã nói rất nhiều năm rồi, xã hội ngày nay tuy động loạn, tai nạn dồn dập, nếu có được mười hoặc hai mươi người giáo viên giỏi, mỗi ngày dùng truyền hình, dùng mạng internet để dạy học, với nội dung lành mạnh này, người trên toàn thế giới đều có thể xem được. Trong tiết mục truyền hình là chánh pháp dạy về Thánh hiền truyền thống, dạy về giáo dục tôn giáo, mỗi ngày phát sóng hai mươi bốn tiếng đồng hồ không ngừng nghỉ. Chúng ta tin tưởng tà không thắng chánh. Tánh người vốn thiện, do không có ai dạy dỗ; nếu thật sự có người dạy, dần dà tâm họ sẽ chuyển biến quay đầu, thế giới hồi phục an định không phải là việc khó.

Năm xưa, chúng tôi ở trấn nhỏ Thang Trì làm ba năm thí nghiệm, chứng minh việc này có thể làm được. Không có ba năm thí nghiệm này, bản thân tôi cũng không dám có niềm tin. Người khác hoài nghi, bản thân tôi cũng hoài nghi. Qua thí nghiệm này thành công, nghi ngờ của chúng tôi đều không còn nữa. Trước đây, Đại Sư Chương Gia nói với tôi: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”, mấy tháng trước, thật sự là mỗi ngày đều cầu xin. Quần Thư Trị Yếu của Đường Thái Tông; Quốc Học Trị Yếu của đầu năm Dân Quốc, hai thứ này tuyệt bản rồi! Trải qua hơn tám mươi năm động loạn, cái này còn có thể tìm được sao?! Không ngờ có một đồng tu tốt bụng, trên mạng internet, nghe tôi nói hai bộ sách này họ thật sự đã tìm lại được. Quần Thư Trị Yếu tôi gửi cho nhà sách Thế Giới, nhờ họ in mười ngàn bộ. Sách đã in xong rồi; tiếp tục in Quốc Học Trị Yếu. Tôi  tin là bản in Quốc Học Trị Yếu sẽ tốt hơn bản in Quần Thư Trị Yếu, vì họ đã có kinh nghiệm rồi.

– Tài liệu có rồi, ai đi học? Ai phát đại Bồ Đề tâm?

– Đại Bồ Đề này không phải là tâm đại Bồ Đề trong Phật Giáo nói. Tôi chỉ mượn dùng danh từ này. Người nào thật sự phát tâm kế thừa tuyệt học của Thánh hiền, phát tâm gánh vác đem truyền thống văn hóa vực dậy, đây là sự nghiệp của Thánh hiền, phát tâm như vậy chính là Thánh nhân, là Hiền nhân.

Phát Bồ Đề tâm trong Phật Giáo là đem sự nghiệp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni tiếp tục truyền thừa cho mãi đến đời sau. Hạ Liên Cư lão cư sĩ gánh vác sứ mệnh hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, đem sự nghiệp này làm thành công rồi. Đây là “Tục Phật Tuệ mạng, chánh pháp cửu trụ”. Trước đó có ba người đã hội tập Kinh Vô Lượng Thọ nhưng không được viên mãn, đó là cư sĩ Vương Long Thư đời Tống; cư sĩ Ngụy Mặc Thâm năm Hàm Phong đời nhà Thanh; cư sĩ Bành Tế Thanh thời đại Càn Long. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ hoàn thành bộ chú giải này cũng là sự nghiệp bất hủ.

Hôm nay, chúng ta ở nơi đây đem chú giải này ra tham khảo, đào sâu tường tận, cùng nhau học tập, công việc này là “Tục Phật tuệ mạng”. Chúng ta lưu hành đĩa CD hoàn chỉnh phát trên vệ tinh; chuyển giao lên mạng internet, bạn hữu đồng chí hướng trên toàn cầu đều cùng nhau học tập. Tôi hy vọng một, hai năm sau, phòng học này của chúng ta cần phải mở rộng. Không phải mở rộng thiết bị phần cứng mà là chương trình học của chúng ta. Hy vọng thấp nhất mỗi ngày, chương trình học của chúng ta có được tám tiếng đồng hồ, bao gồm: Phật học, Nho học, Đạo học, còn có Tôn Giáo học. Đây là chúng ta toàn tâm, toàn lực hướng về mục tiêu này mà làm ra một chút cống hiến thật sự đối với xã hội động loạn, thiên tai dồn dập này.

Học Viện thật sự mở trường học, chúng ta ra nước ngoài mời giáo viên giỏi đến đây dạy học, dạy học từ xa. Phòng học của chúng ta sẽ là phòng thu hình, đồng bộ phát ra toàn cầu. Đĩa CD lưu lại có thể giúp cho tất cả các nơi, họ muốn chọn theo phương thức của chúng ta khu vực nhỏ, hoặc dùng mạng internet, hoặc dùng vệ tinh đều tốt, đĩa CD chúng ta sẽ đáp ứng. Chúng ta đem văn hóa truyền thống, Phật học Đại Thừa, giáo dục tôn giáo đẩy rộng ra khắp thế giới, là việc tốt chúng ta nên làm.

Ngoài giảng kinh dạy học ra, tất cả những hoạt động khác chúng ta đều không tham gia, chỉ chuyên tâm đọc sách. Mỗi ngày đọc sách bốn tiếng đồng hồ, đến lớp bốn tiếng đồng hồ. Đây là điều thầy Phương nói “hưởng thụ lớn nhất của đời người”. Cho nên, ân đức đối với thầy vĩnh viễn không quên; đối với công đức của hộ pháp vĩnh viễn không quên. Không có thầy, chúng ta sẽ không biết phương hướng; không có hộ pháp, con đường này của chúng ta sẽ rất gian nan, khó có thể vượt qua. Thật sự cần có người bên cạnh, giúp đỡ.

Bất tri lễ nghi tắc đồng ư dị loại”: Đây là người xưa nói, người không hiểu đạo đức, nhân nghĩa, lễ thì cùng với súc sinh đâu có gì khác nhau?!

Bất giải Phật pháp, tắc hà dị tục nhân” (Chẳng hiểu Phật pháp có khác gì kẻ phàm phu). Hiểu được Phật pháp có thể giúp chúng ta vượt thoát luân hồi, mở rộng không gian sống của chính mình. Không hiểu Phật pháp, chúng ta đời đời, kiếp kiếp vẫn sống trong luân hồi lục đạo. Sau khi học Phật mới biết được sinh mạng là vĩnh hằng, là bất diệt, tâm lượng chúng ta sẽ ngày càng mở rộng, như trên kinh Phật nói: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”. Tự tại biết bao! Vui sướng biết bao! Cho nên, đối với ân thầy nhất định không được quên. “Sư trưởng ân trọng cố ân phụng sự”, ân sư trưởng sâu nặng nên phải phụng sự.

Thời xưa, lúc thầy tuổi già không ai chăm sóc, học trò có bổn phận phục dịch, chăm lo đời sống cho thầy (Hữu sự đệ tử phục kỳ lao) chúng ta đọc trong Luận ngữ thấy có ghi chép: Học trò của Khổng Phu Tử đều ở bên cạnh chăm sóc thầy. Xã hội ngày nay chẳng được như vậy, đến cha mẹ họ còn không chăm sóc huống chi là thầy!

Vô hữu hư ngụy, siểm khúc chi tâm” (Chẳng có tâm hư ngụy, siểm khúc): “Hư” là hư vọng chẳng thật, “ngụy” là hiện tướng dối trá, “siểm” là siểm mị, a dua, nịnh hót, nói theo chiều gió, đón ý người để nói vuốt theo; ta thường nói là “a-dua bợ đỡ”. “Khúc” là quanh co, không ngay thẳng, dối trá, tà vạy, hoàn toàn đi ngược lại tánh đức. Chẳng hư ngụy, siểm khúc nên tâm đoan chánh, chất trực, không lầm lỗi.

Tịnh Ảnh Sớ viết: “Chẳng có tâm hư ngụy, siểm khúc, nghĩa là lìa được các lỗi nơi tâm”.

Xã hội ngày nay rất nhiều nguy cơ, chỉ cần có một chút xúc tác thì lập tức phát khởi như: Nguy cơ tiền tệ, nguy cơ lương thực, nguy cơ năng lượng, nguy cơ nguồn nước!

– Từ đâu mà có?

– Từ tư tưởng, ngôn hành sai lầm của con người mà tạo ra, không phải có sẵn trên địa cầu này! Sợ nhất là nguy cơ lương thực và nguy cơ nguồn nước.

Giới khoa học không ngừng nhắc nhỡ chúng ta: Mặt đất này đã bị ô nhiễm rồi! Ngoài những thứ mọi người biết rõ như: Thuốc trừ sâu, phân bón, còn có một số phế liệu do ngành công nghiệp thải ra, bên trong có rất nhiều chất tổn hại nghiêm trọng đến sức khoẻ con người! Những thứ này phân tán khắp mặt đất, lương thực mọc lên bên trong cũng hàm chứa rất nhiều chất độc hại. Nếu ăn vào, lâu ngày sẽ sinh ra rất nhiều thứ bệnh kỳ quái. Những bệnh này hiện tại chưa có thuốc chữa trị!

Tôi nhìn thấy một bản tin gọi là “Thống thống bệnh”, xương cốt toàn thân đều đau nhức, tối đến không ngủ được. Kiểm tra không tìm thấy nguyên nhân, sau cùng kiểm tra ăn uống, đem gạo đi xét nghiệm mới phát hiện ra trong gạo có thuốc trừ sâu. Cho nên, đất bị nhiễm độc, ngũ cốc nông sản mọc lên đều mang mầm độc. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Uống đắng ăn độc”. Đức Phật nói không hề sai! Chúng ta đang “uống đắng ăn độc”!

Thật may mắn cho chúng ta ngay trong đời này gặp được Phật pháp, gặp được Đại thừa, gặp được Kinh Vô Lượng Thọ, gặp được Phật A Di Đà. Nếu thật sự giác ngộ, thật sự rõ ràng rồi thì ngay trong đời này chúng ta nên buông bỏ tất cả, chỉ nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, đại tai nạn có hiện trước mắt, chúng ta cũng có chỗ tốt hơn để đi, di dân về thế giới Cực Lạc. Đây không phải là chết, công phu niệm Phật của ta thành tựu rồi, nói đi là đi, gửi tin cho Phật A Di Đà, ngài liền đến tiếp dẫn. Chúng ta ở thế giới này nhất định bỏ ác tu thiện, nhất định tích lũy công đức.

Một câu danh hiệu này đầy đủ tất cả công đức. Bộ Kinh Vô Lượng Thọ này nói rất thấu triệt. Đời này chúng ta nương tựa bộ kinh này, nương tựa danh hiệu này, mọi vấn đề đều được giải quyết, không nên tiếp tục làm những việc ngu xuẩn. Chúng ta chỉ có một phương hướng, một mục tiêu, kiên trì không từ bỏ, ngay đời này quyết định sẽ thành tựu. Kinh Duy Ma, phẩm Phật Quốc có nói: “Trực tâm thị Bồ Tát Tịnh Độ” (Trực tâm là Tịnh Độ của Bồ Tát). Ngài Tăng Triệu giảng: “Trực tâm là chất trực, chẳng dua dối, tâm này là gốc của muôn hạnh”. Lời này thật thiết yếu chớ nên xem thường.