MẤY ĐIỆU SEN THANH
Sưu tập: Cư sĩ Bành Tế Thanh & Hy Tốc 
Việt dịch: Hòa thượng Thích thượng Thiền hạ Tâm
PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG

 

TẬP I
PHẦN BA
TỨ CHÚNG VÃNG SANH
(Tiếp theo)

CHÂU LỘ

Cư sĩ Châu Lộ, tự Bạch Dân, vốn hàng Chư sanh ở Ngô Giang. Ông là bậc danh tài, không may cha mẹ mất sớm, liền bỏ khoa cử theo học thuật Trường sanh. Sau có duyên tham phỏng với Liên Trì đại sư, hiểu được Phật pháp, lại chuyển sang niệm Phật cầu về Tịnh độ. Khi đại sư viên tịch, cư sĩ nhân đến chùa Vân Thê lễ tháp của ngài, liền làm bài kệ rằng:

Thuở trước viếng đại sư
Hỏi tham thiền, niệm Phật
Phải chăng dung thông được?
Ngài liền ứng khẩu đáp:
Nếu Thiền, Tịnh là hai
Làm sao nói dung thông?
Lành thay một lời ấy
Khiến người lòng vui đẹp!
Thường đem thuật với người
Các nơi đều truyền thuyết
Người niệm Phật không cùng
Ý nầy cũng không tận
Hội Linh Sơn chưa tan
Lưỡi Liên Trì thường sống
Cung kính là kệ nầy
Dâng cúng Vô phùng tháp.

Kế đó cư sĩ cùng bậc quyền danh là Vương Tại đi du ngoạn ở Kinh Sơn. Nơi đây ông dựng một tiểu hiên tạm cư ngụ để duyệt kinh Đại Bát Nhã. Sau về ở dưới ngọn Liên Hoa Phong tại Tô Châu, cùng vài vị sơn tăng tu môn Niệm Phật tam muội, tư hiệu là Tây Không cư sĩ. Lúc tám mươi tuổi, ông dự biết trước ngày vãng sanh, viết kệ từ thế, rồi tắm gội thay y phục mà qua đời.


NGÔ MINH HỒNG

Cư sĩ Ngô Minh Hồng, tự Thúc Bảo, người đời Minh, quê ở Thái Thương. Ông gia thế dư dả, ưa thí, nhưng không thông hiểu Phật pháp.

Đến hơn sáu mươi tuổi, một hôm ông bỗng tắm gội, đi từ biệt mọi người, rồi thỉnh Ấn Sơ pháp sư ở chùa Long Phước đến truyền thọ Tam quy Ngũ giới cho mình. Sau khi thọ quy giới xong, ông ngồi xuống chăp tay hô lớn ba lần: “Mau thoát ly!” Rồi nhắm mắt mà qua đời. Khi người nhà còn đang vây quanh, cùng hàng xóm hay tin chạy tới thăm, cư sĩ bỗng mở mắt ra bảo: “Tôi vừa phát nguyện thoát ly trần thế, dõng mãnh thầm niệm A Di Đà Phật, thì cảnh Liên Hoa thế giới đã hiện ra trước măt. Tự xét mình bình sanh không có tu hành chi, nay chỉ niệm Phật mấy câu, tại sao lại được quả báo thắng diệu như thế? Vậy nên xin các vị cố gắng tu hành!” Nói xong, bảo người nhà đem một chậu nước lại, soi mặt nhìn chăm chú vào trong.

Giây phút, bỗng như tỉnh ngộ, bảo: “Đời nay là Ngô Thúc Bảo, kiếp trước là Từ Hòa thượng! Lành thay! Vui thay!” Rồi chắp tay niệm Phật mà mãn phần. Lúc ấy mùi hương lạ phát ra đầy nhà.


HOÀNG PHỦ SĨ PHƯƠNG

Hoàng Phủ Sĩ Phương, tự Tử Nghi, người ở Tiền Đường, gia thế chuyên nghề y sĩ. Lúc trẻ tuổi Sĩ Phương đọc quyển Long Thơ Tịnh Độ Văn, giật mình tỉnh ngộ, quy hướng về Phật pháp. Từ đó ông cùng Tư Tề đại sư làm bạn phương ngoại, đồng tu tịnh nghiệp. Bình thời cư sĩ viết về Tịnh độ rất nhiều, nay xin lược trích vài đoạn thiết yếu như sau:

“…Môn Tịnh độ rất cao siêu mầu nhiệm, cũng rất giản dị dễ thật hành. Nếu kẻ nào phát tâm trì danh, cầu sanh về Cực Lạc, thì không luận sang hèn, trí ngu, nam nữ, trẻ già, đều được toại nguyện. Nhưng tiếc vì hàng phàm phu phần đông mê tối, căn trí thấp kém, nên sanh nhiều niệm do dự nghi nan. Đại khái như nghi: mình từ kiếp trước đến đời nầy, tạo nhiều nghiệp bất thiện, công phu niệm Phật chẳng bao nhiêu, mà cảnh Tịnh độ lại quá mầu đẹp, e không đủ phước để vãng sanh. Họ không biết tánh của tội chướng từ vô thỉ kiếp đến nay vốn hư giả. Nếu chuyên trì danh hiệu Phật, tất sẽ mau tiêu trừ những tội nặng trong nhiều kiếp sống chết. Ví như mây đen dù dầy đặc, sóng gió lớn thổi liền tan. Và như gian nhà tuy tối, nhưng đèn đốt lên liền sáng. Mây đen với cảnh tối tăm vốn hư giả, nếu biết dùng gió mát và ánh sáng của tâm thanh tịnh mà niệm Phật, tất cảnh mây đen cùng tối tăm ấy sẽ tiêu trừ. Lại ví như tàng đá dù to, được thuyền chở có thể sang đến bờ bên kia. Và tội lỗi dù nặng, quyền lực của hoàng ân có thể tha bổng. Sức tu hành của mình và sức nguyện của Phật đều rộng lớn khó nghĩ bàn, đại để cũng như thế.

…Kẻ học Phật nông cạn, thường đọa lạc vào cái “không’ thiên lệch, chấp theo lý mà bỏ sự. Học cho rằng cõi Tịnh độ là quyền thuyết, tâm thanh tịnh tức là Tịnh độ. Họ chưa hiểu các kinh Đại thừa đều nói ở mười phương có hằng sa vô biên cõi Phật. Tâm cùng các cõi chẳng phải một, chẳng phải khác, các cõi do tâm sanh, một tâm đủ các cõi. Cảnh diệu hữu mười phương tức là chân không, chân không là diệu hữu. Cõi Cực Lạc do công đức của tịnh tâm tạo thành, cõi Ta Bà do nghiệp trược ác của uế tâm hiển lộ. Cảnh Cực Lạc phương Tây cũng hiện hữu như cảnh Ta Bà phương đông, đều ở trong thể rộng lớn của chân tâm, và cũng đều là hư danh, giả huyễn. Nghiệp ái luyến nặng thì đọa ở Ta Bà, tâm niệm Phật chuyên tất sanh về Cực Lạc. Tâm có nhơ sạch, thì tùy theo chỗ ứng hợp của nó mà sanh về. Như vầng trăng soi khắp các dòng nước, nước trong thì trăng tỏ, nước đục tất trăng mờ. Trăng ví như tâm bản lai, nước ví như các thế giới. Một tâm bao hàm muôn cõi, đừng nghĩ là có hay không, hư hoặc thật, bởi vì sự cùng lý xưa nay vốn viên dung không ngại…

Cư sĩ có làm mười hai bài theo điệu khúc để khuyến tấn người niệm Phật, gọi là Thập nhị thời tụng. Các bài ấy như sau:

Sáng sớm giờ Dần
Thường thời khóa tụng phải chuyên cần
Một khắc công phu môn Thập niệm
Hay siêu sanh tử thoát trầm luân.
Pháp ít có
Diệu khôn phân!
Vãng sanh toàn bởi Tin làm nhân
Nếu như tin nhận không nghi hoặc
Là kẻ duyên sen đã có phần!

Nhựt hiện giờ Mào
Sương sớm dễ tan, người dễ lão.
Thử đem tính lại bạn quen thân
Mồ xanh nhiều kẻ chôn phương thảo
Sớm tu hành
Mong đảm bảo!
Tất bóng trân châu giờ quí báu!
Khi nhàn chẳng chịu niệm Di Đà
Sao khỏi lâm chung nhiều áo não!

Nhựt lên giờ Thìn
Ở đời lựa xóm tựa người lành.
Chớ hướng Trời, Người cầu phước báo
Phước tan sáu nẻo lạc loài thân!
Sanh Đao Lợi
Làm Chuyển Luân
Tạm thời khoái lạc phải đâu chân?
Khắp khuyên niệm Phật về Tây cảnh
Vĩnh viễn tiêu đao thoát tục trần!

Bóng cao giờ Tỵ
Nấu cơm khói khắp nhà quyền quý.
Mình ăn khỏi đói chính mình no
Mình tự tu trì khỏi sanh tử.
Đạo cảm thông
Mâu vô tỷ!
Con mẹ nhớ nhau rồi toại chí
Đem hết thăn tâm thấy Nguyện vương.
Mười vạn tấc gang trong ý nghĩ

Đứng bóng giờ Ngọ
Phật nhựt khắp nơi đều sáng tỏ,
Đường ngay bằng thẳng ít người đi
Cứ lối quanh co tìm chịu khổ!
Không nói Thiển
Chẳng sánh Tổ,
Niệm Phật mỗi câu hằng tự chủ
Thân hình tuy chửa thoát Ta Bà
Thức thần đã ở Liên hoa độ,

Chênh bóng giờ Mùi
Thân nhơ, cảnh ác có chi vui?
Nổi chìm lên xuống đà bao kiếp
Trong đục khôn phân chịu lấp vùi!
Phải mạnh tiến
Chớ nhác lui!
Vỡ thường chợt đến cũng tay xuôi
Lông mày chữ “Chết” treo ngang mãi
Niệm Phật chừng ni mới biết mùi?

Xế bóng giờ Thân
Thương nỗi kiếp sinh mãi chuyển vần!
Thân nầy chẳng tính đời nay độ
Còn đợi khi nào mới độ thân?
Tu kịp lúc
Chớ hẹn lần
Lâu dài ác đạo dễ trầm luân!
Ngàn Phật tuy thương khôn cứu vớt
Trần sa kiếp đọa khổ muôn phần,

Nhựt lặn giờ Dậu
Tàn dương sắp tắt màn đêm rủ
Tử sanh việc lớn biết chăng ai?
Kẻ ngu tầm mắt nhìn gần gũi,
Luyến tiền tài
Thích trà rượu
Dong ruổi đông tây đâu biết đủ?
Bôn ba chẳng rảnh niệm Di Đà
Già chết kề bên đành thúc thủ!

Hoàng hôn giờ Tuất
Dĩa đèn le lói soi u thất
Lên giường từ biệt dép cùng giày
Hồn mộng mê mờ tối như mực
Gẫm thân người
Thương dễ mất!
Muốn thoát luân hồi mau niệm Phật
Vô biên tội chướng một thời tiêu
Phật huệ sáng như ngàn mật nhựt

Cảnh yên giờ Hợi
Danh lợi sang giàu đâu vẫn mãi?
Giấc đẹp hoàng lương chửa tỉnh mơ
Ngàn năm ước tính dường si dại?
Chút dần dà
Thành trễ nải!
Hơi thở chẳng vào nhiều kiếp hối!
Luống phụ Tây phương đấng Nguyện vương
Tay vàng chờ đón ân sơn hải!

Nửa đem giờ Tý
Đôi cõi sạch dơ còn mộng mị
Lò khổ Ta Bà chẳng luyện nung
Đâu tắt lừa lòng chán sanh tử?
Biết chán lìa
Phải dừng nghỉ
Cảnh đẹp Liên bang vui khó ví!
Não phiền trước mắt bởi từ đâu?
Nẻo sáng trời Tãy mau liệu lý.

Gà gáy giờ Sửu
Đã quyết về Tây nên khéo hiểu.
Cảnh khổ là duyên giúp tiến tu
Miệng niệm tâm nghe rành Phật hiệu
Gác dở hay
Quên đủ thiếu!
An lòng biết đủ tùy duyên liệu
Hoa sen đâu mọc ở gò cao
Trong bùn sắc ngọc hương thanh nhiễu!

Cư sĩ niệm Phật rất tinh tấn. Về sau ẩn tu, không biết sự lâm chung như thế nào?


TRẦM BÍNH

Cư sĩ Trầm Bính, tự Kinh Phù, người đời Thanh, quê ở Trường Châu. Năm mười năm tuổi, ông mang bịnh suyễn. Qua ba mươi tuổi bịnh thêm nặng, nhân phát tâm xuất trần, niệm Phật tha thiết. Đến tuổi năm mươi, bịnh càng tăng, từ tháng giêng đến tháng năm, chỉ còn một hơi thở thoi thóp. Thấy mình nghiệp nặng cái chết kề bên, ông bèn phát thệ trường trai.

Đồng bạn là Dương Quảng Văn đến thăm, dìu đỡ dậy, đọc kinh Kim Cang cho ông tụng theo. Quảng Văn ở lại ba ngày, Trầm Bính tăng lên mỗi bữa tụng được ba quyển. Như thế được nửa tháng, bịnh an lành. Từ đó về sau, mỗi ngày ông tụng ba quyển Kim Cang, kế tiếp niệm Phật. Lần lần thâm nhập, mỗi đêm ông thường ngồi tụng niệm đến sáng Do đó bịnh suyễn dứt trừ, nhưng lưng còn hơi khom. Tu hành như thế được năm độ nắng mưa, đêm nọ trong khi đang ngồi, ông tự phát thệ: “Nếu chẳng thành chánh giác, nguyện không dừng nghỉ trên bước đường tu!” Phát thệ vừa xong, nơi xương sống bỗng phát lên một tiếng cụp, thân hình ngay thẳng như người thường. Kế đó, Trầm Bính đến thọ Ngũ giới nơi ngài Lữ Đình Tế Hội. Cư sĩ thường nói: “Muôn pháp ở thế gian sanh diệt không dừng, duy có một câu A Di Đà Phật là chỗ nghỉ ngơi rất yên ổn. Công phu niệm Phật của tôi, trong khi bịnh lại càng đắc lực. Mặc cho cơn đau đớn vày vò, tôi cố găng quên tất cả, chỉ còn giữ một câu niệm rành rẽ rõ ràng, không từng lạc mất!

Vào đầu tháng mười một năm Càn Long thứ 46, cư sĩ cảm bịnh nhẹ vài hôm. Đến ngày rằm, sớm mai ông thức dậy súc miệng rửa mặt xong, bịnh suyễn lại tái phát. Cư sĩ mặc áo tràng, ngồi kiết già day mặt về Tây, lâm râm niệm Phật. Bà vợ thấy đau bịnh, tỏ vẻ lo lắng đứng một bên, ông khoát tay ra dấu bảo đi. Niệm được một lúc rồi lặng yên, người nhà coi lại thì cư sĩ đã mãn phần. Trong tờ di chúc để lại, ông dặn nên tẩn liệm vào bảo khám và làm lễ trà tỳ như chư tăng. Vợ ông cũng trường trai niệm Phật, sau việc hậu sự của chồng, liền xuất gia làm ni.


VIÊN LIỆT TINH

Viên Liệt Tinh, người ở Côn Sơn, thường ngụ nơi vùng Tây Khê tại Hàng Châu, nhân tự hiệu là Tây Khê cư sĩ. Thuở thành đồng, ông học tập về nghiệp khoa cử, một hôm nghe bà ngoại tụng kinh Kim Cang đến đoạn “vô tứ tướng”, liền có chỗ khế nhập.

Sau cư sĩ gặp Duyệt Sơn thiền sư, mỗi ngày tham cứu về đường lối hướng thượng. Vừa đâu Bạch Tung lão nhơn từ Tuyết Phong đến Côn Sơn, Liệt Tinh đôi ba phen tham khấu, ngộ suốt tánh bản lai, liền được truyền tâm ấn. Từ đó đạo phong của cư sĩ mỗi ngày một thạnh, tùy cơ tiếp dẫn, huệ biện không ngại, vừa đề xướng Nhứt thừa, lại kiêm hoàng Tịnh độ. Bấy giờ ông thấy các đồng bọn, thích mến khô thiền, ưa tu tiên thuật, phần nhiều không tin Tịnh độ, nên viết lời hiểu dụ rằng:

“Pháp môn Tịnh độ tròn thông rộng lớn, từ trước đến nay tôi đã thầm tu mật chứng, nhưng không dám vội đem nói với người. Đó là vì thời tiết chưa đến, nói ra e vô ích, chớ không phải cố ý dấu kín chỗ tu.

Bởi môn Niệm Phật là pháp tạng rất sâu của chư Phật, hàng Thanh văn, Bích Chi Phật thuộc Nhị thừa còn có những kẻ không tin. Đó là do các vị ấy đã trụ cảnh Niết Bàn thanh tịnh, đã chứng thần thông diệu dụng, nhưng chỉ thấy biết trong phạm vi một cõi đại thiên, nên không rõ biển đại trang nghiêm của Tịnh độ hiện thành ở khắp mười phương. Cho nên chư Phật đã quở các vị cố chấp theo cảnh giới Nhị thừa là tà, là đọa vào hầm hố vô vi, là say men rượu tam muội! Rất đáng than thở cho người tu thiền đời nay, còn chưa đến được cảnh giới Niết Bàn thanh tịnh của Nhị thừa, mà vội bụng trổng lòng cao, chưa đắc cho rằng đắc, chưa chứng cho là chứng. Trong lúc họ ngồi yên tĩnh đến chỗ sáu căn chưa động, lộ bày một chút quang cảnh, liền vội cho rằng mình đã tỏ ngộ. Rồi từ đó nghênh nghênh ngang ngang, chê bai Tịnh độ, thật đáng thương xót!

Giả sử các vị ấy quả thật đại triệt đại ngộ, đã rờ được chót mũi của bà mẹ bản lai, thử hỏi có đứng ngoài được bốn cảnh Tịnh độ từ cõi Phàm thánh đồng cư đến cõi Thường tịch quang tịnh độ chăng? Nếu họ lập luận: “Dù biết được bốn cõi ấy, cũng gác bỏ qua một bên!” Nói như thế, chư vị ấy há không nhớ lời của bậc tôn túc là Mật Vân thiền sư đã bảo: “ Các ông muốn gác bỏ qua một bên, quả thật là điều: đối trước người si lại càng không thể tỏ ra việc mộng!’’ cổ đức nói: “Kẻ tham thiền đời nay lấy sự thấu suốt pháp thân làm điều tất yếu, mà không biết thấu suốt rồi lại phải làm thế nào? Giả sử sau khi thấu suốt, còn thấy có một bóng dáng chi, cũng là cái bịnh!” Đại khái người tham thiền đời nay đều không thoát khỏi cảnh ma chướng sở tri nhỏ nhiệm, trở lại bác các hành giả Tịnh độ là ngu dốt, chẳng cũng lầm lạc lắm ư!

Vả chăng khắp cõi hư không có mười pháp giới, mà Tịnh độ của chư Phật là pháp giới bậc nhứt, nên chín giới kia đều nương về. Tu Tịnh độ ở cõi người rất dễ, còn các cõi Địa ngục, Ngạ quỉ do nỗi khồ bức bách, hoặc không biết danh hiệu Phật, nên khó thật hành. Chư Phật thương xót hằng dùng sức oai thần phóng ánh sáng thanh tịnh đến cứu độ, nhưng các chúng sanh ấy bị sức nghiệp che lấp, nên không nhìn thấy. Phải chờ đến khi nghiệp hết tâm khai, nghe biết và niệm được một câu Phật, thì cảnh Địa ngục, Ngạ quỉ mới biến thành cảnh thanh lương được. Còn loài Bàng sanh thì si mê tăm tối, hàng Tu la lại sân hận lẫy lừng, cũng khó trông thấy từ quang. Riêng hàng chư thiên do thọ hưởng sự dục lạc rất thắng diệu, nên cũng khó tu môn Niệm Phật.

Nhưng xét kỹ lại, chẳng chịu tu môn Tịnh độ, không chi hơn hàng thiên tiên. Các vị ấy chẳng phải không biết Tịnh độ là đẹp mầu, nhưng họ đã được thần thông diệu dụng, biến hóa bay đi, cùng tự tại ẩn hiện ra vào cảnh có hoặc không. Họ có thể phóng ra các thứ ánh sáng, huyễn hiện các hiện tượng chư Phật, Bồ Tát cùng các cảnh vật trang nghiêm. Do đó hàng thiên tiên cho rằng sự vui ở Tịnh độ chẳng qua cũng chỉ như thế nên không chịu hướng về. Họ đâu biết rằng mình bị đọa vào huyễn thức các cảnh giới giả hiện đều do tinh khí thần hòa hợp biên thành? Đức Phật đã bảo: hàng thiên tiên không tu theo chánh giác, chưa phải là vô vi, khi quả báo hết phải tùy nghiệp đọa vào các nẻo? Cảnh thiên châu vốn tự hiện thành, chẳng phải luyện mà được. Nếu tu luyện mà thành tức là có sanh, tất sẽ không tránh khỏi sự biến diệt. Nguyên tinh, nguyên khí chẳng ngoài nguyên thần, mà nguyên thần chính là tên riêng của nghiệp thức. Bậc đại trượng phu phải trở về tánh bản lai, dứt trừ thân thức, chém dứt mạng căn, tại sao lại tu luyện thành một thứ nguyên thần không ngoài vòng nghiệp thức? Có kẻ tuy luyện thành, đến nửa chừng năng lực suy kém, có khi chưa tới kiếp hỏa mà đã hoại trước. Dù có thể củng cố nguyên thần được bền lâu, nhưng lúc đại tai của kiếp lửa đến cũng bị tiêu tán. Bởi kiếp hỏa chẳng những phá thể hữu hình, mà cũng đốt cháy luôn thể vô hình. Đừng tự an ủi rằng: đạo ta như hư không, chẳng thể tiêu hoại! Phải biết hư không cũng là nghiệp thức huyễn hiện, bậc chứng được đạo nhãn vô thượng mới soi thấu. Chư thiên tiên dù có thể hóa hiện các thứ thắng cảnh, nhưng kết cuộc chẳng được mười phần sáng suốt, và mười phần chánh đại. Đâu bằng chư Phật, Bồ Tát và tất cả chánh báo y báo ở Tịnh độ đồng ở trong cảnh quang minh rực rỡ thấu suốt còn hơn trăm ngàn mặt trời? Những bậc tu theo Phật giáo khi đắc quả, thấy thời gian không gian đều như huyễn, nên có thể hiện cõi bảo vương nơi một đầu lông, ngồi chuyển pháp luân ở trong điểm bụi. Cảnh giới ấy chẳng phải hàng thiên tiên có thể sánh được trong muôn một. Cho nên người tin sâu môn Tịnh độ mà chuyên tu, tức đã vượt hơn hàng thiên tiên trăm ngàn ức lần. Nếu chưa thể dứt trừ quan niệm học tiên, chính là chưa phân biệt rõ sự chân giả lớn nhỏ giữa Phật và Tiên vậy.

Pháp môn Tịnh độ là chỗ quy hướng của tất cả thánh hiền. Khi được sanh về Cực Lạc, tu phước huệ đầy đủ, rồi trở lại Ta Bà, gặp tiên độ tiên, gặp người độ người, gặp ma quỉ độ ma quỉ, cho đến gặp duyên ân oán đều có thể tế độ.

Đó mới thật là năng sự của bậc đại trượng phu! Nếu các vị tin chắc môn Tịnh độ mà quyết chí thật hành, thì hoa sen nơi ao báu ở Cực Lạc sẽ tươi nở ghi tên. Ngay trong hiện tại khi niệm Phật được thanh tịnh, thì tất cả cảnh đẹp, tiếng pháp, hương mầu, vị diệu, ánh sáng, lý chân, đêu trận ngập cả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của các vị. Chừng ấy ngay chính bản thân của chư vị đã thành một đấng cổ Phật rồi đấy?”      ’

Vào tháng hai, niên hiệu Khang Hy thứ 59 đời Thanh, cư sĩ niệm Phật rồi an lành vãng sanh ở am Bảo Thọ, hưởng được sáu mươi hai tuổi. Hàng môn nhơn kết hợp những di ngôn làm thành quyển Tây Khê Cư Sĩ Tập.


VƯƠNG CUNG

Cư sĩ Vương Cung, tự Lễ Ngôn, người đời Thanh, quê ở Thái Thương. Ông tánh điềm đạm ít thị dục, có văn tài, nhưng phóng khoáng không thích nghiệp khoa cử. Cư sĩ cất nhà ở Nam viên thuộc về khu biệt dã của Văn Túc Công. Nơi đó trúc biếc thanh u, gộp đá chồng chất, hoa nở suối reo, cảnh trí sum nghiêm mát mẻ. Ồng thường cùng các bạn tụ hội tại đây, uống rượu ngâm thi, lấy làm tự đắc.

Đến hơn năm mươi tuổi, ông bỏ việc ngâm vịnh, trường trai tu tịnh nghiệp, tự hiệu là Phá Hữu cư sĩ. Một đêm, ông mộng thấy dạo chơi cõi Cực Lạc, thức dậy làm thi để lưu ký rằng:

Lòng tin đã chắc khỏi thương lương
Mộng đến Liên bang cảnh lạ thường!
Đây các thiện nhơn bàn tánh tướng
Kìa chư thiên tử rải hoa hương,
Cầm chim nhạc lưới nhiều thanh điệu
Gác ngọc lầu châu thảy phóng quang.
Gang tấc nguồn tiền từng chẳng cách
Dùng cho lạc lối tiếc ngư lang (1)
Tuyết Sơn lão tử khéo bi tình
Chỉ điểm đường Tây rất bạch minh.
Vô trụ ngại chi nơi đấy trụ
Không sanh kéo đến cảnh nầy sanh.
Giống lành bể tục nhan gieo sẵn
Duyên đẹp trời sen quả tự thành.
Chuyển bước Đài Sơn vẽ cõi ngọc(2)
Dặm nghìn thôi chẳng hỏi Bồng, Dinh(3)

Lúc bấy giờ cư sĩ đã bảy mươi hai tuổi. Mùa hạ năm sau, ông nằm dưỡng bịnh nơi hiên Đàm Ảnh ở Nam viên. Trước hiên có ao sen, một cành hoa to chưa nở mọc lên cạnh mé gộp đá. Một hôm, hoa hướng về phía giường ông nằm mà khoe nở, sắc tươi đẹp hương thanh nhẹ. Hai ngày sau, cư sĩ niệm Phật như thường khóa. Niệm xong, kiết ấn mà qua đời, cành hoa cũng vừa rũ héo. Bấy giờ nhằm ngày mùng tám tháng năm, niên hiệu Càn Long thứ 47.

Không bao lâu, có người ở Lưu Hà lập đàn cơ cầu tiên. Nhân dịp đó, con của Vương Cung đến hỏi thăm về tin tức của cha. Giây phút cơ động viêt thành mấy chữ lớn: “Ta là Phá Hữu chủ nhơn đây!” Hỏi: “Nay cha ở đâu?” Đáp: “Việc trần tục đâu còn chi tưởng nhớ”. Người con cố hỏi về việc nhà đôi ba lần, cơ đều đáp: “Nam mô Phật!” Rồi yên lặng.


TRƯƠNG CHUNG QUỲ

Trương Chung Quỳ, người đời Đường, nhà ở chợ Trường An, làm nghề giết gà bán thịt. Khi sắp chết, ông thấy một vị mặc áo lụa đỏ, đuổi bầy gà đến, bảo: “Cho phép các ngươi báo thù!” Bầy gà liền xúm đến thi nhau mổ. Hai mắt và khắp mình Trương đều đổ máu. Chung Quỳ đau đớn chịu không nổi, rên siết kêu la. Người lân cận nghe biết, đều tựu đến nhìn xem, lộ sắc kinh hãi!

Vừa lúc ấy, có Sa môn Hoằng Đạo đi ngang qua, thấy chuyện huyên náo, liên ghé vào, bày thánh tượng, khuyên Chung Quỳ cấp thiết niệm Phật. Trương vâng lời, chắp tay chí tâm niệm lớn, bỗng nghe mùi thơm đầy nhà, bầy gà tan rã bỏ đi. Ông tiếp tục niệm một lúc, rồi ngồi ngay thẳng mà mãn phần.


TRƯƠNG THIỆN HÒA

Trương Thiện Hòa, người đời Đường, chuyên nghề giết trâu bò bán thịt. Khi sắp chết, ông thấy loài thú ấy kéo đến đầy nhà, nói tiếng người rằng: “Mi đã giết chúng ta, hôm nay phải đền tội!” Thiện Hòa kinh hãi, vội gọi vợ mau tới chùa gần bên, thỉnh chư tăng hộ trợ.

Giây phút, một vị tăng đến, bảo rằng: “Kinh nói: Nếu có chúng sanh nào tạo nghiệp chẳng lành, sắp đọa ác đạo, nên chí tâm niệm A Di Đà Phật mười hơi. Như thế, trong mỗi câu hồng danh sẽ trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sống chết, liền được sanh về thế giới Cực Lạc!” Thiện Hòa nói: “Tướng hỏa xa ở địa ngục đã hiện tới rất gấp! Mau đem hương lại đây?” Rồi không kịp bưng lấy lư hương, sảng sốt tay trái bốc than lửa, tay mặt cầm hương đốt, xây mặt về Tây lớn tiếng niệm Phật. Trương vừa niệm hơn mười câu, bỗng reo lên nói: “Đức Phật A Di Đà hiện đến, đã trao tòa sen báu cho tôi!” Nói xong, liền qua đời.


KIM THÍCH

Kim Thích, người bình dân lam lũ, chưa rõ xuất xứ. Trước tiên ông chài lưới buôn bán cá để sanh nhai, sau tự giác ngộ sợ ác báo, đổi sang nghề khác. Kế tiếp, ông trường trai tu hành, mỗi ngày niệm Phật ử muôn câu, không thêm bớt thay đổi.

Một hôm, Kim Thích bảo người nhà rằng: “Tôi đã thấy đức Phật A Di Đà cùng Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí, và được cho biết sắp sanh về Cực Lạc!” Hôm sau lại nói: “Có hoa sen vàng từ hư không bay đến rước tôi!” Nói xong đốt hương ngồi ngay thẳng, rồi kiết ấn mà hóa. Lúc ấy tiếng nhạc thanh thao dìu dặt nổi lên giữa hư không, hương lạ bát ngát trọn ngày không tan.

Bấy giờ nhằm niên hiệu Chánh Hòa thứ sáu đời Tống.


PHÙNG MÂN

Phùng Mân, người đời Tống, ở xứ Thượng Ngu, thuở bé thích võ nghệ, lớn lên ưa săn bắn. Vùng ấy ở gần rừng núi, có con rắn cực to thỉnh thoảng bò ra ăn thịt gia súc, dân làng đều nơm nớp lo sợ.

Phùng Mân lập thế bắn giết được ác xà, nhưng từ đó rắn thường hiện hình tác quái làm cho trong nhà không yên. Ông lo ngại nó báo thù nên nương về Phật pháp, sám hối làm lành, và chuyên tâm niệm Phật. Tu hành như thế được mười năm, một đêm ông mời nhiều bạn đồng tu đến nhà cùng tụng kinh A Di Đà và niệm Phật.

Khi tụng đến bài sám Phổ Hiền, tiếp qua kệ nguyện vãng sanh, ông ngồi ngay thẳng chắp tay nhắm mắt mà qua đời.


NGÔ QUỲNH

Ngô Quỳnh, người trong hạng thường dân, chưa rõ xuất xứ. Trước tiên ông xuất gia làm tăng, rồi hoàn tục đi nấu bếp cho người. Mỗi khi xắt thịt, miệng ông xưng Phật hiệu không ngớt và thường dạy người trong làng tụng kinh tu sám, niệm A Di Đà Phật.

Về sau, dưới mí mắt Ngô Quỳnh đột nhiên sanh một bướu bọc lớn bằng trứng gà. Ông kinh sợ, giao tất cả việc nhà cho vợ con, rồi cất một túp am tranh, ngày đêm chuyên niệm Phật. Mùa thu năm Thiệu Hưng thứ 23 đời Tống, ông đi khắp nơi thăm viếng và bảo người trong làng rằng: “Ngày mai vào giờ Tuất, Ngô Quỳnh sẽ về Tây phương!” Mọi người nghe nói đều cười. Chiều tối hôm sau, ông lại đi mời các bạn đồng tu, nói: “Đã sắp đến giờ vãng sanh, xin hoan hỷ tới trợ niệm cho tôi!” Khi các đạo hữu tề tựu, ông mặc áo vải, vòng tay từ giã mọi người, kế rót rượu ra chén bưng uống hết, rồi viết bài kệ lưu lại như sau:

Nâng chén rượu không không
Còn hỏi chi Thiền tông?
Ngày nay xin trân trọng
Gió mát lại trăng trong!

Viết xong, ngồi kiết già ngay thẳng, chắp tay niệm Phật. Các đạo hữu cũng đồng niệm theo. Độ giây phút, ông bỗng to tiếng nói: “Đức Phật A Di Dà đã đến!” Liền nhắm mắt mà thoát hóa.


HOÀNG SANH

Hoàng Sanh, người đời Tống, quê ở Đàm Châu. Gia thế vốn nghèo, ông làm nghề thợ rèn để sanh sống.

Một hôm có vị tăng đến nhà khất thực. Ông vội vã mời ngồi uống nước, và đem thức ăn ra cúng dường. Vị tăng thấy là người hảo tâm, khuyên niệm Phật tu hành. Ông thưa; “Con làm nghề nầy, từ hừng sáng đã thức dậy, kéo lửa dập sắt đến tối mịt, gân sức mỏi mòn, còn thì giờ và năng lực đâu đề tu niệm?” Vị tăng bảo: “Không ngại chi, việc tu hành phải tùy phương tiện. Trong mỗi cử động khi kéo lửa và dập sắt, ông niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật. Mỗi ngày cứ hành trì như thế, cũng là một cách thức tu niệm, và sẽ được Phật tiếp dẫn về Tây phương”. Hoàng Sanh nghe qua vui vẻ, từ đó y theo lời dạy mà tuân hành.

Một ngày nọ, ông mời người bạn quen nhà lân cận đến, đọc bài kệ như sau, bảo ghi chép:

Cong cong cang cang
Luyện lâu thành gang.
Thái bình kề cận
Ta về Tây phang!

Người bạn biên xong, ông lại bảo: “Xin lưu bố bài kệ nầy, để xin mọi người tu hành”. Nói xong chắp tay niệm Phật ít câu, rồi nhắm mắt mà vãng sanh.


NGÔ MAO

Ngô Mao nguyên là đứa ở của một thế gia cũng họ Ngô tại Thanh Dương, nên được người xung quanh gọi là Tiểu Ngô. Bình thời, Tiểu Ngô ăn chay trường niệm Phật làm lành, và rất trung thành với chủ. Lúc làm công việc, miệng cũng lâm râm niệm Phật không dứt.

Khi binh của Tả Lương Ngọc tràn qua sông đến Thanh Dương, cà nhà họ Ngô đều bỏ trốn đi, chỉ để một mình Tiểu Ngô ở lại gìn giữ. Binh giặc đến nơi cướp bóc lục soát, bắt Tiểu Ngô tra hỏi, rồi đâm bảy thương giết chết. Giặc kéo đi hết nhà chủ trở về thấy Tiểu Ngô bị đâm chết, cho mời người anh lại để làm bằng chứng. Khi người anh đến, Ngô Mao bỗng tỉnh lại nói: “Tôi vì ác nghiệp đời trước, đáng lẽ phải chuyển kiếp làm thân heo bảy lần. Nhưng nhờ đời nầy biết trai giới niệm Phật, nên chỉ chịu bảy thương để trả xong bảy kiếp làm heo. Hiện thời, Phật A Di Đà đứng chờ ở hư không để tiếp dẫn tôi về Tây phương”. Nói xong, chắp tay nhắm mắt mà vãng sanh.

Việc nầy ở vào năm đầu niên hiệu Thuận Trị đời Thanh.


VƯƠNG NGƯỠNG TUYỀN

Vương Ngưỡng Tuyền, người đời Thanh, quê ở Hàng Châu, làm nghề giết dê bán thịt. Trong thời gian hành nghề, ông giết dê rất nhiều, không biết số là bao nhiêu.

Về sau Ngưỡng Tuyền đau bịnh, thấy bầy dê đến đòi mạng, đứng chật cả trong ngoài. Khi bịnh lành, ông quá sợ hãi, liền đổi nghề, trường trai thờ Phật. Từ đó Ngưỡng Tuyền ngày đêm tụng kinh Kim Cang đủ số ba tạng, rồi tiếp sang lễ bái kinh Pháp Hoa và chuyên niệm Phật.

Lúc được tám mươi mốt tuổi, ông thấy quỉ sứ tới đòi lôi xuống Minh ty đối chất về vụ án mạng, liền kháng cự rằng: “Đợi Phật đến tôi mới đi!” Rồi chắp tay niệm Phật chí thiết suốt cả ngày đêm. Đến năm hôm sau, Ngưỡng Tuyền thấy Phật A Di Đà hiện thân cao lớn giữa hư không, duỗi tay xuống tiếp dẫn. Ông thuật lại cho người nhà biết, rồi chắp tay vui vẻ mà qua đời.


LƯƠNG DUY CHÂU

Lương Duy Châu, quê ở Thiệu Hưng, làm người chấp sự tại am Long Đàm. Đến bốn mươi tuổi, ông mù cả đôi mắt, không còn làm việc để sanh sống được, muốn tự tử.

Có vị tăng trong am khuyên ngăn rằng: “Buồn phiền mà chết như thế, chỉ thêm nghiệp chứ không giải thoát, ở thế giới Cực Lạc phương Tây có đức Phật hiệu A Di Đà. Nếu ông chí tâm thường trì niệm hồng danh, thì sẽ vĩnh viễn thoát khổ, sanh về cõi an vui. Vậy sự đui mù có chi mà đáng ngại? Như ông chịu làm y theo lời, tôi nguyên xin khất thực để giúp đỡ! Duy Châu cảm tạ, nguyện xin tuân hành.

Ông chí thiết niệm Phật được ba năm, đôi mắt bỗng nhiên sáng lại. Hơn nửa tháng sau, ông bảo chúng rằng: “Tôi sắp đi xa!’’ Qua ba hôm, vào giờ Ngọ, Duy Châu ngồi chắp tay day mặt về Tây niệm Phật mà thoát hóa. Lúc ấy nhằm năm Càn Long thứ ba mươi tám.

LỜI BÌNH:

Từ truyện Trương Chung Quỳ đến đây, hoặc bởi những người không quy y Tam bảo, hoặc do sự hiện tích có vẻ ly kỳ, nên soạn giả không sắp vào hàng tứ chúng, mà liệt vào hạng tạp lưu vãng sanh.

Cảnh Luân nghiệp quả đáng bi thương, kiếp phù sanh vẫn như mộng huyễn. Bao nhiêu nỗi khổ vui, vinh nhục, đắc thất đã trải qua: việc lo toan về bản thân, gia đình, xã hội chưa thấy ổn, mà cái chết đã kề cận một bên rồi! Môn Niệm Phật đối với người tại gia rất cần thiết. Bởi thân đắm vào lò lửa trược trần, tâm chìm trong ngục tù phiền não, khi một hơi thở chẳng vào thì nghiệp tam đồ kế tiếp. Nếu không nhờ sức Phật, làm sao đối địch nổi với cảnh nầy? Với những kẻ tạo nghiệp chẳng lành đang bị ác báo, thì công đức của Phật hiệu, sự hộ trì của tha lực lại càng khẩn yếu. Đại khái như Chung Quỳ và Duy Châu, nếu chẳng nhờ một câu hồng danh thì làm sao được giải thoát? Thế mới biết bi nguyện của Phật thật vô cùng rộng sâu, chẳng bỏ sót một chúng sanh nào cả?

***

Chú thích:

1) Đời Tấn, có chàng ngư phủ thấy nhiều cảnh hoa đào tươi đẹp, từ một con suối trôi ra sông, liên bơi thuyền ngược dòng tìm. Đến nơi thấy một vùng non xanh nước biểc, hoa đào đua nở, lâu đài quang cảnh xinh đẹp khác tục trần. Hôm sau chàng định tìm dời nhà đen đó ở, thì lạc mất lối cũ, trong lòng lấy làm bàng hoàng mến tiếc. “Nguồn Tiên” trong câu chuyện, ám chỉ cảnh Cực Lạc. Đây nói ý cõi Ta Bà và cõi Cực Lạc đều ở trong thể chân tâm. Nếu niệm Phật thanh tịnh thì dung hòa vào chân tâm, Ta Bà và Cực Lạc không cách xa gang tấc. Như niệm Phật mà tâm còn vọng tưởng loạn động, tất sẽ lạc lối cách xa Cực Lạc, như chàng ngư phủ lạc lối Đào nguyên, mến tiếc cũng đã muộn!

2) Cư sĩ La Đài Sơn tu Tịnh độ, nhưng niệm trần còn, nguyện vãng sanh chưa chắc, nên chuyển kiếp trở lại hưởng sự phú quý, Ý nói mình tin nguyện chắc khác với Đài Sơn, giả sử hiện tại có gộp Đài Sơn cũng lôi kéo ông ta chuyển bước hướng về Cực Lạc.

3) Bồng Đảọ, Dinh Châụ là cảnh đẹp của tiên. Ý nói mình đã biết cõi Cực Lạc đẹp mầu ức bội phần hơn cảnh tiên, thì không cần chi tìm hỏi về cõi Bồng, Dinh xa xôi nghìn muôn dặm nữa!


MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
(Của TRIỆT NGỘ Thiền sư)

Hán 1:
Nhứt cú Di Đà
Ngã Phật tâm yếu
Thụ triệt Ngũ thời
Hoàng cai Bát giáo

Việt 1:
Một câu A Di Đà
Tâm yếu của Phật ta.
Dọc năm thời thấu suốt
Ngang tám giáo trùm xa.

Lược giải:
Một câu niệm Phật là tâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm, không thể dùng lời nói và tư tưởng để luận bàn suy nghĩ được. Năm thời là: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, và thời Pháp Hoa. Tám giáo là: Tạng, Thông, Biệt, Viên, Đốn, Tiệm, Bí mật và Bất định giáo. Dọc là chỉ cho chiều cao thuộc thời gian. Ngang chỉ cho chiều rộng thuộc không gian. Ý nói câu niệm Phật rất mầu nhiệm, về nghĩa lý bao trùm Năm thời Tám Giáo, về cao rộng suốt cả Thời gian, Không gian.

Hán 2:
Nhứt cú Di Đà
Ý chỉ như hà?
Bạn tri âm thường ít
Mộc nhĩ thiên đa!

Việt 2:
Một câu A Di Đà
Ý chỉ diệu bao nhiêu?
Bạn tri âm thường ít
Kẻ tai gỗ riêng nhiều !

Lược giải:
Như bài kệ trên đã dẫn, ta thấy đại khái ý chỉ của câu niệm Phật cao diệu như thế nào! Cho nên Thành Thời Đại Sư đã nói trong một Đề Từ: ” Mà trong A Di hồng danh thâm. Nghìn muôn khôn tìm ra tri âm! Thiên Như lòng từ soi chân đăng. Đưa người mau ra vòng mê lầm…Ôi câu hồng danh mầu thâm xa. Sâu cùng chư tông làng thiền na. Buông ra thâu vào đều như như. Tương tư mơ đầy trời Liên hoa !” Điệu đàn niệm Phật cao siêu mầu nhiệm như thế, trừ ra bậc tri âm, chớ kẻ tai gỗ làm sao nghe thấu? Vì thế nhiều kẻ đã lầm đánh giá Niệm Phật là pháp thấp kém chỉ để cho kẻ ngu dốt, hạng người già cả tu hành. Thất đáng cảm xót vì cảnh ít tri âm, như lời một bậc tiền bối đã than

Nga nga hồi chí tại cao sơn
Dương dương hồ ý tại lưu thủy
Đàn bá nha ít kẻ tri âm
Những nghe qua xót trộm lại đau thầm
Chung Kỳ mất đập cầm không muốn khảy!

Hán 3:
Nhứt cú Di Đà
Đại ý phân minh
Xà sanh cung ảnh
Dược xuất kim bình.

Việt 3:
Một câu A Di Đà
Đại ý thật phân minh
Rắn sanh từ cung ảnh
Thuốc lấy ở kim bình.

Lược giải:
Một người tới nhà bạn thân chơi, cố giao rót trà ra chén mời uống. Lúc ấy vào khoảng đầu đêm, ánh đèn chấp chóa in bóng cung treo gần bên vào chén giống như con rắn đang lăn quăn chao động. Trong lúc không kịp suy nghĩ, người ấy uống vội hết chén trà, rồi chợt sanh lòng nghi là mình đã nuốt con rắn nhỏ vào bụng, nhưng không dám nói. Về đền nhà anh lo sợ, rồi phát bịnh. Sau bạn đến thăm, hỏi biết duyên cớ, mời đến nhà để dĩa đèn và chén trà chỗ cũ, chỉ cây cung treo gần bên, người ấy mới dứt hết mối nghi và lành bịnh. Thuở xưa người Ấn Độ khi luyện thuốc quí, thường dùng gương dầy hoặc ngọc thủy tinh tụ ánh sáng mặt trăng để lấy nước. Luyện xong lại cất thuốc vào bình bạc hoặc bình vàng, cho tăng thêm hiệu lực linh nghiệm. Đây ý nói câu niệm Phật rõ ràng là pháp viên đốn đi thẳng vào chân tâm, ngay lúc niệm Phật tức đã thể hiện Phật tánh, ví như thuốc quí lấy ra từ bình vàng. Kẻ không biết lầm hiểu niệm Phật là pháp Quyền giáo để dứt trừ vọng tưởng, hoặc pháp Tiệm giáo để gieo lần thiện căn. Như thế có khác gì anh chàng lờ lạc nghi ngờ lầm bóng cung là rắn đâu ?

Hán 4:
Nhứt cú Di Đà
Danh dị phương tiện
Phổ nhiếp quần cơ
Bàng thông nhất tuyến.

Việt 4:
Một câu A Di Đà
Phương tiện cực mầu lạ
Nhiếp khắp hết căn cơ
Rẽ thông vào Bát nhã.

Lược giải:
Ấn Quang Đại sư nói: “Tu các môn khác phải nhiều đời mới thoát luân hồi, và theo như Khởi Tín Luận thì phải trải qua một muôn đại kiếp tu hành liên tục mới vượt lên ngôi Bất thối chuyển. Ví như quan chức phải từ phẩm bậc nhỏ lần lượt thăng đến ngôi Tể tướng. Riêng môn Niệm Phật là phương tiệm mầu lạ để mau thành Phật một đời được đới nghiệp vãng sanh thoát khỏi luân hồi, một kiếp đã bước lên ngôi Bất thối chuyển. Ví như Thái tử khi mới sanh ra, đã tôn qúi vượt hẳn quần thần “Môn Niệm Phật lại nhiếp tất cả căn cơ, dưới từ loài qủy súc, hạng ngu tốt dốt nát tật nguyền, trên đến bậc Đẳng giác Bồ Tát như Văn Thù Phổ Hiền cũng có lời nguyện cầu sanh Tịnh độ. Chữ “Nhất tuyến” đây là chỉ cho môn thiền Trực chỉ, tức đường lối thẳng vào Bát nhã chân tâm. Ngài Triệt Ngộ dùng từ ngữ này, bởi ngài là một “đại thiền sư”. Lại “Nhất tuyến” cũng hàm chỉ cho đường lối đặc sắc nhiệm mầu của môn Tịnh Độ.

Hán 5:
Nhứt cú Di Đà
Khai vãng sanh môn.
Thị đa phước đức
Phi thiểu thiện căn.

Việt 5:
Một câu A Di Đà
Mở đường lối vãng sanh
Đó là nhiều phước đức
Chẳng phải ít căn lành.

Lược giải:
Từ khi Vi Đề Hy phu nhân chán cõi đời trược ác, cầu sanh về thế giới đẹp an vui, đức Thích Tôn mới nói ra môn Tịnh độ mở đường lối vãng sanh, để hành giả được dễ dàng thuận tiến trên bước đường giải thoát. Muốn làm một bậc thượng thiện nhân cao quý ở cõi đẹp mầu như thế giới Cực Lạc, phải là người có nhiều phước đức căn lành. Theo kinh Vô Lượng Thọ: Chúng sanh nào đời này nghe nói Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc, phát lòng tín nguyện, chí thiết niệm Phật cầu vãng sanh. Những chúng sanh đó trong tiền kiếp đã từng gặp nhiều đức Phật, và gieo trồng nhiều phước đức căn lành rồi.

Hán 6:
Nhứt cú Di Đà
Lâm chung Phật hiện
Tứ biện thân tuyên
Lục phương cộng tán.

Việt 6:
Một Câu A Di Đà
Khi lâm chung Phật hiện
Tứ biện khó thân tuyên
Sáu phương đồng khen ngợi.

Lược giải:
Liên Trì Đại Sư nói: “Một câu A Di Đà gồm: Đại thiện căn, đại phương tiện, đại phước đức, đại trí huệ, đại giải thoát, đại từ bi. Câu niệm Phật đã có nhiều công đức lớn như thế, nên người niệm Phật mau diệt nhiều tội chướng, mau sanh nhiều phước huệ, khi lâm chung quyết định Phật sẽ hiện thân tiếp dẫn sanh về Cực Lạc. Cho nên chư Phật sáu phương hiện ra tướng lưỡi rộng dài, tiêu biểu cho sự tuyên thuyết pháp môn tối thượng thừa, mà ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của Tịnh độ. Đã là pháp môn công đức không thể nghĩ bàn; thì đức Thích Ca Mâu Ni và chư Phật dù đã dùng Tứ biện tài là: Từ vô ngại biện, Nghĩa vô ngại biện, Pháp vô ngại biện và Lạc thuyết vô ngại biện, cũng không thể tuyên dương ngợi khen cho hết được.

Hán 7:
Nhứt cú Di Đà
Thành Phật tiêu chuẩn
Dĩ niệm Phật tâm
Nhập Vô sanh nhẫn

Việt 7:
Một câu A Di Đà
Là thành Phật tiêu chuẩn
Dùng tâm hạnh niệm Phật
Chứng vào Vô sanh nhẫn.

Lược giải:
Niệm Phật chẳng riêng khi lâm chung được sanh về cõi Phật mà thôi. Trong hiện tại nếu hành giả nhiếp cả sáu căn , giữ cho tịnh niệm nối luôn, và có thể ngay đời này được ngộ đạo, chứng vào Vô sanh pháp nhẫn. Cho nên gọi: Niệm Phật là tiêu chuẩn thành Phật.

Hán 8:
Nhứt cú Di Đà
Chứng tam bất thối
Chỉ thử nhất sanh
Tiện bổ Phật vị

Việt 8:
Một câu A Di Đà
Chứng ba ngôi Bất thối
Chỉ trong một đời này
Được bổ lên Phật vị

Lược giải:
Ba ngôi bất thối chuyển là: Vị bất thối, Hạnh bất thối, và Niệm bất thối. Cứ theo Thiên Thai Giáo, chứng được đệ nhất bất thối tâm trụ, mới lên ngôi vị bất thối. Chứng thập hồi hướng, lên ngôi hạnh bất thối. Và chứng sơ địa mới vào ngôi niệm bất thối. Nhưng ước theo đường lối phổ thông của Đại thừa giáo thì: Phá được kiến tư hoặc mới lên ngôi vị Bất thối. Phục đoạn Trần sa hoặc, lên ngôi hạnh bất thối. Và tiến phá vô minh hoặc mới vào ngôi niệm bất thối. Như thế chứng được ba ngôi bất thối thật không phải dễ! Theo các giáo môn khác, tất phải tu tập trải A Tăng kỳ số kiếp mới chứng nhập được. Với pháp môn tịnh độ, khi được vãng sanh kể như vĩnh viễn không còn bị thối chuyển nữa. Điều này, theo kinh giáo, gọi là Xứ bất thối. Từ Xứ bất thối, địa vị tam bất thối là cầm chắc trong tay, lần lượt sẽ tiến lên Phật qủa. Cho nên kinh Di Đà nói: là bậc A bệ bạt trí (Bất thối chuyển)”. Chư thiện nhơn ở Cực lạc sống lâu vô lượng vô biên A Tằng kỳ kiếp, chỉ trong một kiếp sanh về nơi đó đã dư thời gian chứng lên ngôi Nhứt sanh bổ sứ, được bổ và Phật vị rồi.

Hán 9:
Nhứt cú Di Đà
Mãn thập đại nguyện
Khởi đắc Phổ Hiền
Thác giáo liễu biện!

Việt 9:
Một câu A Di Đà
Tròn đầy mười thập nguyện
Đâu phải đức Phổ Hiền
Dạy lầm cho xong chuyện!

Lược giải:
Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới, sau khi đức Phổ Hiền nói mười đại Nguyện vương, ngài liền tự phát thệ và khuyên Thiện Tài đồng tử cùng hải chúng Bồ Tát trong biển thế giới Hoa Tạng, đều nên niệm Phật hồi hướng về Cực lạc. Lời phát thệ như sau:

Tôi nguyện khi lúc sắp mạng chung
Dứt trừ tất cả điều chướng ngại
Diện kiến đức Phật A Di Đà
Liền được sanh về Cõi An Lạc.

Tại sao thế? Vì muốn vào cảnh giới Bất tư nghì giải thoát, muốn thành tựu các công đức, muốn chứng Phật qủa phải thật hành mười đại nguyện vương, và muốn không bị nhiều chướng duyên làm cho thối chuyển, muốn sớm mau hoàn mãn mười Đại nguyện vương ấy, tất phải cầu sanh Cực Lạc! Cho nên lời đức Phổ Hiền khuyên dạy chư Bồ Tát niệm Phật cầu về Cực Lạc không phải là điều dạy bảo cạn cợt lạc lầm, nói suông rồi cho xong chuyện! Mà chính đó là lời khuyên dạy tối quan yếu, bao gồm ý vị rất sâu sắc, phải suy gẫm nhiều mới thấu hiểu!

Hán 10:
Nhứt cú Di Đà
Bạch ngưu giá cảnh
Kỳ tật như phong
Hành bộ bình chánh

Việt 10:
Một câu A Di Đà
Xe gác ách trâu trắng
Chạy lẹ như gió bay
Bước đi thật bằng vững.

Lược giải:
Câu niệm Phật, đối với bậc cao, thì có niệm đồng với không niệm. Và mặc dù không nghĩ rằng mình là người hay niệm, đức Phật là vị được niệm, tâm niệm hằng rỗng không, nhưng cũng chẳng ngại gì câu niệm Phật thường hiển lộ rành rẻ rõ ràng. Như chư Bồ Tát, Tổ sư vẫn đi đứng, nằm ngồi, vẫn ăn cơm mặc áo, vẫn thuyết pháp tụng kinh, mà không thấy có các tướng ấy. Các ngài làm pháp hữu vi mà tâm vô vi, tâm tuy vô vi vi song vẫn làm tất cả pháp hữu vi. Như thế mới chẳng đọa vào lỗi “không và có”, tiến lên cảnh giới Đại thừa. Cho nên đức Lục Tổ đã bảo:

Không niệm, niệm mới chánh
Có niệm, niệm thành tà
Có, không đều chẳng tưởng
Ngồi được Bạch ngưu xa.

Cần nhận rõ: Không và Có trên đây, chẳng phải là không niệm Phật tụng kinh. Đây chính là niệm Phật đi vào cảnh giới chân không, chẳng tưởng nghĩ rằng mình có niệm hay không niệm. Với bậc kém hơn, tuy chưa thể ứng dụng được như thế, nhưng biết niệm Phật tức là đã tiến lên đường tu bằng phẳng, bước đi an ổn vững vàng, lần siêu vào cảnh giới Đại thừa. Như đã ngồi trên xe bạch ngưu, bước đi của nó thật bằng vững, không còn lo ngại chi nữa !

Hán 11:
Nhứt cú Di Đà
Như Lai tạng tâm
Thủy ngoại vô lãng
Khí nguyên thị kim

Việt 11:
Một câu A Di Đà
Là tâm tạng Như Lai
Ngoài nước đâu có sóng
Xuyến, vàng vốn chẳng hai!

Lược giải:
Có một tu sĩ hỏi vị thượng tọa: “Niệm Phật để làm gì?”. Ngài đáp: “Niệm Phật để thành Phật!” Tu sĩ ấy mỉm cười lui về, ý không công nhân. Tu sĩ đó không công nhận, vì ông chưa hiểu, và chưa ứng dụng được hạnh niệm Phật đi ngay vào Phật cảnh, tức vào tâm tạng của Như Lai. Theo trí phân biệt, ông chỉ chấp nhận và chỉ có thể ứng dụng câu niệm Phật để trừ vọng tưởng, lần lần chứng vào chân như mà thôi. Nếu theo tâm chấp tướng phân biệt, người ta thấy sóng với nước, xuyến cùng vàng khác nhau. Nhưng thật ra, các thứ đó chẳng phải một, cũng chẳng phải hai. Nếu các hành giả niệm Phật từ thí dụ này để tìm hiểu, tất sẽ xóa tan niệm phân biệt, dung hòa tâm với cảnh, thể nhập pháp môn bất nhị, đi ngay vào tạng tánh Phật, đại khái ý nghĩa như thế. Thuở xưa, một hành giả khi chứng ngộ vào cảnh giới này đã có bài kệ:

Bước đường vô vị đã cùng rồi
Thấy sóng là đâu chỉ nước thôi
Ông Triệu siêu quần chi lắm đó
Mặt mày trông cũng thế mà thôi.

Hán 12:
Nhứt cú Di Đà
Diệu chân như tánh
Xuân tại hoa chi
Tượng hàm cổ cảnh.

Việt 12:
Một câu A Di Đà
Lộ tánh diệu chân như
Sắc xuân nơi hoa sáng
Muôn tượng ẩn gương xưa.

Lược giải:
Thuở xưa, một vị Tăng tụng kinh Pháp Hoa đến câu: “Chư pháp tùng bản lai. Thường tịch diệt tướng” (Các pháp từ xưa nay. Tự tướng thường tịch diệt), bỗng sanh nghi không hiểu. Sau mấy năm tham thiền, ông chợt tỏ ngộ, liền viết tiếp thêm hai câu: “Xuân đáo bách hoa khai. Hoàng Oanh đề liễu thượng” (Xuân đến trăm hoa nở, Oanh vàng kêu liễu biếc!). Câu niệm Phật đã thuần, hành giả sẽ thấy tánh chân như mầu nhiệm lồ lộ hiện bày, không thể dùng lời nói luận bàn, dùng tâm tư nghĩ suy phân biệt được. Cảnh trạng ấy sự sắc xuân hiện nơi trăm hoa đua nở sáng tươi, như oanh vàng kêu hót líu lo trên cành liễu sanh biết, chỉ dùng tâm thiên nhiên mới thể hợp được cảnh thiên nhiên. Nếu nghĩ suy phân biệt, tức là phiền não vọng động rồi, đâu còn chi là sáng suốt, trong đó in cảnh non nước trời mây, gương cùng cảnh tượng dung nhập nhau không nghĩ là đây là kia, là một là khác. Người niệm Phật khi ngộ vào tánh diệu chân như cũng như thế. Thời cận đại ở Trung Hoa, một đêm Hư Vân thượng nhân đang ngồi tịnh ngoài trời dưới ánh trăng sáng, vị Thiền sư đồng tham bước đến ướm hỏi thử:

Mắt cá vẫn nhiều, châu khó nhận
Móng mây dễ lẩn ráng tươi hồng!

Thượng nhân liền đáp:

Gương hàm muôn tượng không kim cổ
Chẳng thuộc âm dương sáng đại đồng.

Thiền sư nghe xong, gật đầu mỉm cười rồi bỏ đi.

Hán 13:
Nhứt cú Di Đà
Thanh tịnh thật tướng
Tuyệt nghị, tuyệt tư
Nan danh, nan trạng.

Việt 13:
Một câu A Di Đà
Cảnh thật tướng sạch trong
Tuyệt bàn, tuyệt suy nghĩ
Khó nói, khó hình dung.

Lược giải:
Lập lại ý trên, hành giả niệm Phật khi đi sâu vào tam muội, thể thật tướng của chân tâm lồ lộ hiện bày. Cảnh giới này chỉ đem tâm thanh tịnh khế hợp, không thể dùng lời nói diễn tả, dùng tâm niệm phân biệt để nghĩ ngợi phan duyên. Bởi thế nên khi Thủy Lão Hòa Thượng đến tham khấu với ý niệm cầu hỏi về chân tâm, vừa mới cúi lạy đã bị đức Mã Tổ đạp cho té lăn tròn. Thế mà Hòa Thượng tỏ ngộ, vỗ tay cười ha hả. Sự tỏ ngộ ấy chỉ đương nhân tự hiểu, như người uống nước lạnh nóng riêng mình biết lấy mà thôi. Cũng với y chỉ này, thuở xưa một vị tôn đức đem bài kệ như sau ướm hỏi các môn nhân:

Có pháp không sau trước
Vô hình vốn lặng trang
Hay làm chủ muôn vật
Chẳng theo bốn mùa tàn.

Một đệ tử nghe xong, vội ứng tiếng thưa: “Đó là chân tâm!” Liền bị tôn đức rầy quở bác phá.

Hán 14:
Nhứt cú Di Đà
Viên dung pháp giới
Thục thể toàn chân
Giao la vô ngại.

Việt 14:
Một câu A Di Đà
Dụng thông tròn pháp giới
Soi lặng thể toàn chân
Xen giăng khắp vô ngại.

Lược giải:
Như trên đã nói, khi hành giả chứng Niệm Phật tam muội, căn trần dứt bặt tự tánh Di Đà dung thông tròn sáng khắp pháp giới. Cảnh tượng ấy lặng lẽ mà chiếu soi, chiếu soi mà lặng lẽ, toàn thể đâu đâu cũng là chân thật. Trong chân thể ấy, hằng sa vô biên thế giới xen giăng nhau, như vô số hạt châu nơi các mắt lưới của trời Đế Thích. Chân cảnh này rất đỗi sâu mầu, trong tứ pháp giới, thuộc về Sự sự vô ngại pháp giới, trong Thập huyền môn, thuộc về Nhân đà la võng cảnh giới môn.

Hán 15:
Nhứt cú Di Đà
Đại viên trí cảnh
Thân độ ảnh hàm
Trùng trùng yêm ánh.

Việt 15:
Một câu A Di Đà
Gương Đại Viên trí cảnh
Thân độ bóng hàm nhau
Lớp lớp mầu lập lánh.

Lược giải:
Đây là nói tiếp về công hạnh niệm Phật của hành giả khi chứng cùng cực chân cảnh tự tánh Di Đà. Chân cảnh này như thể gương tròn sáng không ngằn mé, bao gồm muôn tượng sum la, gọi là Đại Viên cảnh trí. Trong thể Đại viên ấy, “Thân” thuộc về phần Chân như tịch chiếu môn. “Độ” thuộc về phần thế giới sanh diệt môn, đều hàm chứa hình bóng lẫn nhau. Sự hàm ảnh đó như mỗi hạt châu nơi mắt lưới của trời Đế Thích, đều ngậm chứa hình bóng của vô số hạt châu khác. Cảnh hàm ảnh giữa Không với Không, Sắc cùng Sắc, Sắc và Không xen lẫn ngậm bóng nhau ấy, thật là lớp lớp tầng tầng, lấp lánh vô ngại nhiệm mầu khó bề diễn tả.

Hán 16:
Nhứt cú Di Đà
Không Như Lai tạng
Vạn pháp vị hình
Nhất chân tuyệt tướng.

Việt 16:
Một câu A Di Đà
Là không Như Lai Tạng
Vạn pháp dứt hình dung
Nhất chân tuyệt sắc tướng.

Lược giải:
Tiếp theo ý nghĩa trên, cảnh giới tuy nhiên sum la như thế, song hành giả phải một tâm lặng lẽ thể nhập vào Không Như Lai Tạng. Tâm cảnh này dứt cả muôn pháp, tuyệt cả sắc tướng, chỉ là một thể nhất chân không còn phân biệt.

Hán 17:
Nhứt cú Di Đà
Viên mãn Bồ Đề
Thiên cảnh vô thượng
Vân biết dữ tề.

Việt 17:
Một câu A Di Đà
Tròn đủ Bồ Đề đạo
Ráng mây đều ở thấp
Lại không có trời cao.

Lược giải:
Khi hành giả đã thể nhập Không Như Lai Tạng, thì đạo Bồ đề tròn đủ, con đường giác ngộ đến mức cao tuyệt rồi. Cảnh giới ấy như trạng thái của người: “Một mình nằm nghỉ trên đỉnh non cao”. Khi xưa ông Khấu Chuẩn đời nhà Tống, thuở bé theo cha lên núi Thái Sơn, đã đắc ý đọc lên bốn câu thi cũng mường tượng như hai câu sau của bài kệ trên:

Bất dữ quần phong ngũ
Cảnh vô sơn dữ tề
Cử đầu hồng nhật cận
Hồi thủ bạch vân đề.

Tạm dịch:

Chẳng cùng muôn đảnh đồng bạn
Lại không một núi dám qua
Ngước mắt vầng hồng kề cận
Cúi đầu mây bạc thấp xa!

Nhưng đó chỉ là khẩu khí của một vị Tể tướng, vì trên còn có vầng hồng, còn có Thiên Tử. Chưa bằng vua Hồng Võ đời nhà Minh lúc du ngoạn núi này, cũng tức cảnh hai câu:

Nhứt thượng, nhứt thượng, cánh nhứt thượng
Vô hạn yên vân nhãn để thâu!

Tạm dịch:

Lên cao càng lúc càng cao tít
Vô hạn trời mây dưới mắt nhìn.

Đây mới thật là khẩu khí của một bậc Thiên Tử, đứng trên muôn dân. Có thể mượn hai câu sau này để tạm hình dùng cảnh tượng giác ngộ tròn đầy cao tuyệt của một vị Pháp Vương đứng trên vạn pháp.

Hán 18:
Nhứt cú Di Đà
Đại bát niết bàn
Nhất luân minh nguyệt
Vạn lý không hàn!

Việt 18:
Một câu A Di Đà
Là cảnh Đại tịch diệt
Muôn niệm trống thanh lương
Chỉ một vầng minh nguyệt!

Lược giải:
Khi đã vào thể nhiệm mầu cao tuyệt của Không Như Lai tạng, hành giả niệm Phật ở cảnh giới mà nhà Thiền gọi là “Chẳng cùng muôn pháp làm bạn” (Bất dữ vạn pháp vi lữ). Cảnh giới này như vầng trăng tròn sáng, chiếu soi muôn dặm, vắng lặng thanh thanh lương, là cảnh Đại tịch diệt hay Đại Bát Niết Bàn vậy. Đây cũng gọi là cảnh “Song vong”, người chăn và trâu đều mất, phiền não cùng pháp trừ phiền não không còn. Như lời xưa đã diễn tả:

Soi lại người, trâu dã mất tung
Dặm ngàn vắng lạnh nguyệt linh lung!
Ý hay đoan bích như ai hỏi
Cỏ biếc hoa tư tươi tự thắm hồng!

Hán 19:
Nhứt cú Di Đà
Khai Bát nhã môn
Thập hư vạn pháp
Nhứt khẩu bình thôn.

Việt 19:
Một câu A Di Đà
Mở toang cửa bát nhã
Muôn pháp cõi thập hư
Một miếng nuốt tả cả.

Lược giải:
Bát nhã là trí huệ. Thập hư có nghĩa: cõi hư không ở mười phương. Một câu Phật hiệu, nếu niệm cùng cực, tất mở toang được trí huệ và bao hàm muôn pháp ở mười phương hư không. Muốn một tiếng nuốt trọn muôn pháp cõi thập hư, bên trong hành giả phải tiêu trừ bốn đại năm uẩn thuộc ngã chấp, bênngoài xả bỏ sáu trần cùng thời gian, không gian thuộc pháp chấp. Khi chuyên giữ một câu Phật hiệu, xả trừ quan niệm chấp thân tâm và thế giới như thế, đến lúc sức cực công thuần, tam của đương nhân bỗng mở rỗng rang, bao trùm muôn pháp khắp mười phương, như bọt nước hòa tan đồng sức hàm chứa cùng biển rộng. Đó gọi là một miếng nuốt tất cả. Thuở xưa cư sĩ Bàng Uẩn đếm tham khấu đức Mã Tổ hỏi: “Thế nào là ý của Tổ Sư Đạt Ma từ Tây phương đến?”. Mã Tổ đạp: “Đợi khi nào ông uống một hớp hết nước sông tây giang, ta sẽ nói cho biết!”. Cư sĩ nghe xong bỗng đại ngộ. Hành giả niệm Phật nên theo dõi bước đại ngộ này, đừng quan thiệp vào lý giải.

Hán 20:
Nhứt cú Di Đà
Hỏa ốc môn khai
Tùng giả lý nhập
Khoái tùy ngã lai.

Việt 20:
Một câu A Di Đà
Mở cửa nhà đẹp cao
Gọi các hàng tùng giả
Mau theo ta đi vào.

Lược giải:
Hoa ốc đây, chỉ cho cảnh trang nghiêm của thế giới Hoa Tạng. Khi hành giả chứng được Niệm Phật tam muội rồi, tâm cảnh rỗng rang, lần lần đi sâu vào biển thế giới Hoa Tạng, gồm vô biên quốc độ mầu đẹp trang nghiêm. Tự mình giác ngộ chứng được đức trí, lại dùng vô lượng phương tiện khuyên dẫn kẻ hữu duyên đồng bước theo vào nơi hoa ốc để thật hiện đức Bi…Đây là bản nguyện cao cả của người học đạo.

Sự khó nghĩ bàn của môn Niệm Phật, khuyên chúng sanh nên phát nguyện cầu sanh về Cực lạc. Từ xưa đến nay, chư Tổ cũng đã dẫn kinh viết luận rất nhiều, để tán dương môn Tịnh độ. Tâm xót thương sâu rộng, lời khổ thiết khuyên răn của chư Phật, Bồ tát, Tổ sư như thế, thật đã hết lòng hết sức. Ví như người đẩy thuyền chở nặng muôn hộc, giương cung cứng mạnh ngàn cân, sự dùng tâm vận lực đã đến mức điểm cuối cùng vậy.

Hán 21:
Nhứt cú Di Đà
Nhập vương tam muội
Tợ địa quân kinh
Như thiên phổ cái.

Việt 21:
Một câu A Di Đà
Vào tam muội Bảo vương
Như đất đều nâng đỡ
Tợ trời che khắp miền.

Lược giải:
Niệm Phật tam muội cũng gọi là Bảo Vương tam muội. Khi chứng được tam muội này, diệt vô lượng tội chướng, tăng vô biên phước huệ, độ vô số chúng sanh, đức hóa lan rộng khắp mọi nơi như trời che đất chở. Từ nơi Niệm Phật Bảo Vương tam muội này, Bồ tát rưới vô lượng mưa pháp độ khắp chúng sanh. Như trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Vân Bồ tát đã bảo Thiện Tài đồng tử:

“Thiện nam tử! Chư đại Bồ tát có vô biên hành môn trí huệ thanh tịnh. Đó là: Môn Trí Quang Phổ Chiếu Niệm Phật, thường thấy các thứ cung điện nghiêm sạch nơi tất cả quốc độ của chư Phật. Môn Linh Nhứt Thiết Chúng Sanh Niệm Phật, tùy nơi tâm ưa thích của các chúng sanh, đều khiến cho được thấy Phật và được thanh tịnh. Môn Lĩnh An Trụ Lực Niệm Phật, khiến cho được vào mười lực của Như Lai. Môn Linh An Trụ Pháp Niệm Phật, khiến cho thấy vô lượng chư Phật được nghe pháp mầu. Môn Chiếu Diệu Chư Phương Niệm Phật, thấy trong tất cả thế giới, các Phật hải đều đồng nhau không sai khác. Môn Nhập Bất Khả Kiến Xứ Niệm Phật, thấy tất cả cảnh vi tế trong các việc thần thông tự tại của chư Phật. Môn Trụ Ư Chư Kiếp Niệm Phật, trong tất cả kiếp thường thấy các việc làm của Như Lai không tạm mất. Môn Trụ Nhứt Thiết Thời Niệm Phật, trong tất cả thời thường thấy Như Lai đồng ở gần bên không xa lìa. Một Trụ Nhứt Thiết Sát Niệm Phật, trong các quốc độ đều thấy thân Phật vượt hơn tất cả không chi sánh bằng. Môn Trụ Nhứt Thiết Thế Niệm Phật, tùy nơi tâm mình ưa thích, thấy khắp chư Như Lai trong ba đời. Môn Trụ Nhứt Thiết Cảnh Niệm Phật, khắp trong tất cả cảnh giới, thấy chư Như lai lần lượt hiện thân. Môn Trụ Tịch Diệt Niệm Phật, trong một niệm thấy chư Phật trong tất cả cõi thị hiện vào Niết bàn. Môn Viễn Ly Niệm Phật, trong một niệm thấy tất cả Phật từ chỗ mình ở đi ra. Môn Trụ Quảng Đại Niệm Phật, tâm thường quán sát mỗi mỗi thân Phật đầy khắp tất cả các pháp giới. Môn Trụ Vi Tế Niệm Phật, khoảng một đầu lông có bất khả thuyết Như Lai xuất hiện, đều đến tận nơi mà thừa sự. Môn Trụ Trang nghiêm Niệm Phật, trong một niệm thấy tất cả cõi đều có chư Phật thành Đẳng chánh giác hiện sức thần biến. Môn Trụ Năng Sự Niệm Phật, thấy tất cả Phật hiện ra nơi đời phóng ánh sáng trí huệ, chuyển bánh xe pháp. Một Trụ Tự Tại Tâm Niệm Phật, tùy tâm mình ưa thích, tất cả chư Phật đều biết và hiện ảnh tượng. Môn Trụ Tự Nghiệp Niệm Phật, biết tùy theo nghiệp lành chứa nhóm của chúng sanh, hiện ra ảnh tượng khiến cho giác ngộ. Môn Trụ Thần Biến Niệm Phật, thấy Phật ngồi trên hoa sen tươi nở rộng lớn đầy khắp pháp giới. Môn Trụ Hư Không Niệm Phật, quán sát Như Lai có nhiều thân như mây, trang nghiêm pháp giới và hư không giới…”.

Môn Niệm Phật xuất sanh nhiều tam muội và lợi ích khắp chúng sanh như thế, nên gọi là Vương tam muội, và như trời che đất chở.

 

HẾT TẬP MỘT