KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm

 

HỘI THỨ BA

VIII. PHẨM PHƯỚC TỤ

(Từ giữa quyển 503 đến đầu quyển 504)

Trời Đế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào muốn thường được thấy sắc thân, pháp thân của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở mười phương vô lượng, vô số thế giới thì nên đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi, là các thiện nam, thiện nữ v.v… này đã thường được thấy sắc thân, pháp thân của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở mười phương, lần lần tu hành mau chóng viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Khi ấy phải nên đem pháp tánh tu tập này quán niệm Phật.

Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp tánh tóm lược có hai loại: Một là hữu vi, hai là vô vi.

Sao gọi là pháp tánh hữu vi? Đó là trí pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không; trí bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; trí pháp thiện, pháp bất thiện; trí pháp hữu ký, pháp vô ký; trí pháp hữu lậu, pháp vô lậu; trí pháp hữu vi, pháp vô vi; trí pháp có tội, pháp không tội; trí pháp thế gian, pháp xuất thế gian; trí pháp tạp nhiễm, pháp thanh tịnh. Các môn trí vô lượng như thế đều gọi là pháp tánh hữu vi.

Tại sao gọi là pháp tánh vô vi? Đó là tất cả pháp không sanh, không diệt, không trụ, không khác, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, vô tướng vô vi, không tánh tự tánh. Như vậy gọi là pháp tánh vô vi.

Các thiện nam, thiện nữ v.v… này nên dùng hai loại pháp tánh như thế đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà tùy tu niệm Phật.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Chư Phật ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại, đều nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thanh văn đệ tử chư Phật ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Độc giác ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng Độc giác Bồ-đề. Vì sao?

Kiều-thi-ca! Vì trong tạng bí mật Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, cho đến pháp tương ưng với ba thừa như đã nói đây đều dùng vô sở đắc làm phương tiện; dùng vô tánh vô tướng làm phương tiện; dùng vô sanh, vô diệt làm phương tiện; dùng vô nhiễm, vô tịnh làm phương tiện; dùng vô tạo, vô tác làm phương tiện; dùng không nhập, không xuất làm phương tiện; dùng không tăng, không giảm làm phương tiện; dùng không thủ, không xả làm phương tiện. Nói như thế đều y vào thế tục, không y vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chẳng phải là phi Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chẳng phải bờ này, chẳng phải bờ kia, chẳng phải giữa dòng, chẳng phải đất liền, chẳng phải nước, chẳng phải cao, chẳng phải thấp. Chẳng bình đẳng, chẳng bất bình đẳng. Chẳng hữu tướng, chẳng vô tướng. Chẳng thế gian, chẳng xuất thế gian. Chẳng hữu lậu, chẳng vô lậu. Chẳng hữu vi, chẳng vô vi. Chẳng thiện, chẳng bất thiện. Chẳng hữu ký, chẳng vô ký. Chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại.

Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không cùng với pháp chư Phật, không cùng với pháp Bồ-tát, không cùng với pháp Độc giác, không cùng với pháp Thanh văn, cũng không lìa bỏ các pháp phàm phu.

Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:

– Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là đại Ba-la-mật-đa, là vô thượng Ba-la-mật-đa, là vô đẳng đẳng Ba-la-mật-đa. Khi các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, tuy biết cảnh giới sai biệt tâm hành của tất cả hữu tình, nhưng không đắc ngã, không đắc hữu tình, cho đến không đắc người biết, người thấy. Cũng không đắc sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không đắc lục xúc làm duyên sanh ra các thọ. Cũng lại không đắc bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Như vậy cho đến không đắc mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác. Vì sao? Vì chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đối với tất cả pháp dựa vào có sở đắc mà xuất hiện. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm hoàn toàn không tự tánh cũng bất khả đắc. Có thể được sở đắc và hai chỗ y cứ là tánh tướng đều không, bất khả đắc.

Phật bảo trời Đế Thích:

– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm lâu dài, Bồ-đề và Tát-đỏa còn không chứng đắc, huống chi là chứng đắc Đại Bồ-tát? Đã không chứng đắc Đại Bồ-tát thì lấy đâu đắc pháp Đại Bồ-tát? Pháp Đại Bồ-tát còn không chứng đắc, huống chi là chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Trời Đế Thích lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát chỉ nên tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, hay cũng nên tu năm Ba-la-mật-đa?

Phật bảo:

– Các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa. Khi tu bố thí thì không thấy có vật cho, không thấy người cho, và không thấy người nhận.

Khi tu tịnh giới không thấy giới để tịnh, không thấy người trì giới, không thấy người phạm giới.

Khi tu an nhẫn thì không thấy được an nhẫn, không thấy người an nhẫn, không thấy người sân giận.

Khi tu tinh tấn không thấy sự tinh tấn, không thấy người tinh tấn, không thấy người giải đãi, không thấy việc làm phải nên tinh tấn, không thấy thân hoặc tâm có thể làm.

Khi tu tịnh lự không thấy tịnh lự, không thấy người tịnh lự, không thấy người toán loạn.

Khi tu Bát-nhã không thấy Bát-nhã, không thấy người trí tuệ vi diệu, hoàn hảo, không thấy người nhiều ác tuệ, không thấy sự quán sát sai biệt về tánh tướng các pháp của Bát-nhã.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm của các Đại Bồ-tát là ánh sáng, là bậc hướng dẫn để tu tập tất cả Ba-la-mật-đa, không chỗ chấp trước khiến mau chóng được viên mãn.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp dùng vô sở đắc làm phương tiện, Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là ánh sáng, là bậc hướng dẫn, tuy quán sát các pháp mà không chỗ chấp trước khiến cho sự tu tập mau chóng được viên mãn. Nghĩa là dùng vô sở đắc làm phương tiện, Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm làm ánh sáng, làm bậc hướng dẫn, tuy quán các uẩn, các xứ, các giới, cho đến trí nhất thiết tướng mà không chấp trước. Do nhân duyên này khiến cho sự tu tập mau được viên mãn.

Kiều-thi-ca! Cũng như thân, nhánh, lá, quả, hạt, cọng, hoa của các cây ở châu Thiệm-bộ, tuy các hình sắc không đồng mà bóng mát của chúng hoàn toàn không sai biệt, là chỗ quay về của các công đức lớn. Năm Ba-la-mật-đa trước cũng vậy, tuy mỗi loại có khác, nhưng do sự nhiếp thọ của Bát-nhã ba-la-mật-đa, hồi hướng trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, các tướng sai biệt hoàn toàn bất khả đắc, là chỗ nương tựa cho các công đức lớn.

Lúc đó, trời Đế Thích lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, thành tựu công đức thù thắng rộng lớn, thành tựu tất cả công đức thù thắng, thành tựu viên mãn công đức thù thắng, thành tựu vô lượng công đức thù thắng, thành tựu vô số công đức thù thắng, thành tựu vô biên công đức thù thắng, thành tựu vô đẳng công đức thù thắng, thành tựu vô tận công đức thù thắng.

Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào viết chép Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm như vậy, dùng các vật báu để trang nghiêm, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, y như kinh đã nói, suy nghĩ đúng lý. Hoặc có thiện nam, thiện nữ v.v… cũng viết chép Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm như vậy, còn dạy cho người khác thọ trì và lưu truyền cùng khắp. Trong hai phước này, phước nào nhiều hơn?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

– Ta hỏi lại ông, nên trả lời theo ý ông. Nếu có các thiện nam, thiện nữ v.v… nào thỉnh được Xá-lợi Phật của người khác, đựng vào trong họp báu, để chỗ cao hơn. Lại đem các loại tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Cũng có các thiện nam, thiện nữ v.v… khác, thỉnh Xá-lợi Phật rồi phân phát cho người khác chừng bằng hạt cải, những người kia cung kính lãnh thọ và đặt chỗ an ổn đúng như pháp. Lại dùng vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Ý ông nghĩ sao? Hai phước đức này, phước nào thù thắng hơn?

Trời Đế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật dạy, hai phước đức đó, thì phước đức sau thù thắng hơn. Vì sao? Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các loại hữu tình mà dùng tâm đại bi, nên đối với Xá-lợi của chư Phật ai cúng dường, cung kính thì được cứu độ.

Khi Như Lai sắp vào Niết-bàn dùng sức Tam-ma-địa như Kim cương đập vỡ thân kim cương thành nhiều mảnh như hạt cải. Lại dùng thần lực gia trì đại bi sâu rộng, khiến cho sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, số lượng Xá-lợi Phật nhiều viên như hạt cải, nếu ai cúng dường, cung kính đạt được vô biên phước đức. Hưởng thọ nhiều an lạc thù thắng ở trong trời, người, cho đến sau cùng chấm dứt được các khổ. Cho nên người đem Xá-lợi Phật cho người khác thì phước đức thù thắng hơn.

Phật khen trời Đế Thích:

– Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu tự thọ trì cúng dường, cung kính, lưu truyền rộng rãi cho người khác. Hai phước này, phước sau nhiều hơn. Vì sao? Vì do sự trao truyền cho người khác, nên vô lượng, vô số hữu tình được lợi ích an lạc.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu có người đối với nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đã thuyết mà như thật phân biệt giải thích cho người, giúp cho họ được giải thoát, đạt được phước đức thù thắng hơn cả trăm ngàn phần công đức của người lưu truyền. Cung kính Pháp sư này như cung kính Phật, cũng như phụng sự, tôn kính người Phạm hạnh. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm tức là chư Phật, chư Phật tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm.

Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không khác chư Phật, chư Phật không khác Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Vì sao? Vì chư Phật ba đời đều nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tinh cần tu học, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bậc phạm hạnh, nên biết tức là trụ ở Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Đại Bồ-tát cũng nương tựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tinh cần tu học, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Hàng chủng tánh Thanh văn cũng nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tinh cần tu học, đắc quả A-la-hán.

Hàng chủng tánh Độc giác cũng nương tựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tinh cần tu học, chứng đắc Độc giác Bồ-đề.

Bậc chủng tánh Bồ-tát cũng nương tựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tinh cần tu học, vượt qua các hàng Thanh văn, Độc giác v.v…, chứng nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, lần lần tu hành tất cả Bồ-tát hạnh, được trụ ở Bồ-tát Bất thối chuyển.

Vì vậy, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào muốn dùng vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen vị Phật hiện tại, thì nên chép kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, dùng vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Kiều-thi-ca! Khi vừa chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ta quán sát nghĩa này nên suy nghĩ: Ta nên y chỉ vào ai để an trụ? Ai xứng đáng lãnh thọ sự cúng dường, cung kính của Ta? Khi nghĩ như vầy, hoàn toàn không thấy trời, Ma phạm, người chẳng phải người v.v… nào bằng Ta huống gì là hơn Ta. Ta lại suy nghĩ: Ta nên y chỉ vào pháp quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà Ta đã chứng. Pháp này thậm thâm, tịch tịnh, vi diệu. Ta sẽ y chỉ pháp này để an trụ, cúng dường, cung kính đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm.

Kiều-thi-ca! Ta đã thành Phật còn nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa cúng dường, cung kính, huống chi các thiện nam, thiện nữ v.v… muốn cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà lại không nương tựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm để tinh cần tu học, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen? Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm có thể sanh ra chúng Đại Bồ-tát. Từ chúng Đại Bồ-tát này sanh ra chư Như Lai Ứng Cháng Đẳng Giác. Lại nương tựa vào chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà Thanh văn, Độc giác được sanh ra.

Vì vậy, Kiều-thi-ca! Nếu Bồ-tát thừa, Độc giác thừa, Thanh văn thừa, các thiện nam, thiện nữ v.v… đều phải tinh cần tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng vô lượng thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát thừa cốt yếu nương tựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa để tinh cần tu học đạt đến cứu cánh.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các loại hữu tình ở châu Thiệm-bộ, đều làm cho họ an trụ nơi mười thiện nghiệp đạo. Ý ông thế nào? Các thiện nam, thiện nữ v.v… này do nhân duyên đó mà được nhiều phước đức chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào viết chép kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, đọc tụng cho người, hoặc viết chép lưu truyền rộng rãi thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này phước đức được nhiều hơn trước. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì trong tạng bí mật Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho đến tất cả pháp vô lậu, các thiện nam, thiện nữ v.v… đã học, đang học, sẽ học trong đó; hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập Chánh tánh ly sanh của chủng tánh Thanh văn, lần lần cho đến đã chứng, đang chứng, sẽ chứng quả A-la-hán; hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập Chánh tánh ly sanh của chủng tánh Độc giác, lần lần cho đến đã chứng, đang chứng, sẽ chứng Độc giác Bồ-đề; hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập Chánh tánh ly sanh của chủng tánh Bồ-tát, lần lần tu hành các Bồ-tát hạnh, đã chứng, đang chứng, sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kiều-thi-ca! Trong tạng bí mật Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đã thuyết tất cả pháp vô lậu, đó là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi; Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tám giải thoát, chín định thứ đệ; pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa; Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; năm loại mắt, sáu phép thần thông; mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vô lượng, vô biên Phật pháp khác đều là tất cả pháp hữu lậu được thuyết trong đây.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa một hữu tình an trụ quả Dự lưu thì sẽ được nhiều phước đức, huống chi là giáo hóa các hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo. Vì sao? Vì khi các hữu tình an trụ nơi mười thiện nghiệp đạo thì vẫn chưa thoát hẳn cảnh giới địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Nếu các hữu tình trụ ở quả Dự lưu liền vĩnh viễn thoát khỏi các đường ác hiểm, huống chi là giáo hóa, làm cho họ an trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, sẽ đạt được phước đức thù thắng hơn kia rất nhiều.

Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều được an trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thì được nhiều phước đức, nhưng không giống như có người giáo hóa chỉ một hữu tình an trụ nơi Độc giác Bồ-đề. Vì sao? Vì công đức của Độc giác Bồ-đề hơn Dự lưu v.v… gấp trăm ngàn lần.

Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều an trụ Độc giác Bồ-đề, thì sẽ được nhiều phước đức, nhưng không giống như có người giáo hóa một hữu tình đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì nếu giáo hóa hữu tình đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì làm cho Phật nhãn ở thế gian không gián đoạn. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì do có Đại Bồ-tát liền có quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, cũng có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình. Các Đại Bồ-tát đều nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì các thiện nam, thiện nữ v.v… này viết chép kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho người khác đọc tụng. Nếu viết chép, lưu truyền rộng rãi, thì được nhiều phước đức hơn trước vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì trong tạng bí mật Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm rộng nói thiện pháp thế gian và xuất thế gian. Nếu nương tựa thiện pháp này thì thế gian liền có đại tộc Sát-đế-lợi cho đến đại tộc Cư sĩ, trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cũng có bố thí Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng. Cũng có quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, và tất cả Đại Bồ-tát thực hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Cũng có Dự lưu cho đến cũng có chư Phật thiết lập có thể đắc.

Lại nữa Kiều-thi-ca! Đó là nói các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… giáo hóa các hữu tình ở bốn đại châu đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Đó là các loài hữu tình ở bốn đại châu. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… giáo hóa các hữu tình ở Tiểu thiên giới đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Đó là các loài hữu tình ở Tiểu thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… giáo hóa các loài hữu tình ở Trung thiên giới đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Đó là các loài hữu tình ở Trung thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… giáo hóa các loài hữu tình ở Đại thiên giới đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Đó là các loài hữu tình ở Đại thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… giáo hóa các loài hữu tình ở mười phương hằng hà sa v.v… thế giới đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Đó là các loài hữu tình ở mười phương hằng hà sa v.v… thế giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… giáo hóa các loài hữu tình ở tất cả thế giới mười phương đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Các thiện nam, thiện nữ v.v… này nhờ nhân duyên ấy mà được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào viết chép kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho người đọc tụng, khi viết chép lưu truyền rộng rãi thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này sẽ được phước đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì trong nghĩa bí mật Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho đến tất cả pháp vô lậu, các thiện nam, thiện nữ v.v… đã học, đang học, sẽ học trong đó; hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập Chánh tánh ly sanh của chủng tánh Thanh văn, lần lần cho đến đã chứng, đang chứng, sẽ chứng quả A-la-hán; hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập Chánh tánh ly sanh của chủng tánh Độc giác, lần lần cho đến đã chứng, đang chứng, sẽ chứng Độc giác Bồ-đề; hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập Chánh tánh ly sanh của chủng tánh Bồ-tát, lần lần tu hành các Bồ-tát hạnh đã chứng, đang chứng, sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kiều-thi-ca! Trong tạng bí mật Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đã thuyết tất cả pháp vô lậu, đó là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng, hoặc vô lượng, vô biên Phật pháp khác, đều thuyết tất cả pháp vô lậu trong đây.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa một hữu tình an trụ quả Dự lưu sẽ được phước đức, thì huống chi giáo hóa các hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông. Vì sao? Vì các hữu tình an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông thì không còn qua lại cõi địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Nếu các hữu tình an trụ quả Dự lưu liền được chấm dứt, thoát khỏi các đường hiểm ác, huống chi là giáo hóa họ an trụ nơi quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, sẽ được phước đức hơn phước đức trước.

Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều được an trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, được nhiều phước đức không giống như có người giáo hóa một hữu tình, làm cho vị ấy được an trụ Độc giác Bồ-đề. Vì sao? Vì công đức của Độc giác Bồ-đề thù thắng hơn Dự lưu v.v…, hơn gấp trăm ngàn lần.

Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các hữu tình ở châu Thiệm-bộ, đều được an trụ Độc giác Bồ-đề, hưởng nhiều phước đức, không giống như có người giáo hóa một hữu tình, khiến họ đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì nếu giáo hóa hữu tình làm cho đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì làm cho Phật nhãn ở thế gian không đoạn tuyệt. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì do có Đại Bồ-tát nên có quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, cũng có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát chúng hữu tình. Các Đại Bồ-tát đều nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thành tựu.

Do vậy, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… viết chép kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho người đọc tụng, hoặc truyền nhau viết chép, lưu truyền, bố thí cùng khắp, thì được phước đức nhiều hơn trước vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì trong tạng bí mật Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, cho đến thiện pháp thế gian và xuất thế gian, là nương tựa thiện pháp này thì thế gian liền có đại tộc Sát-đế-lợi, cho đến cũng có chư Phật thiết lập có thể đắc.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Đó là các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… giáo hóa các hữu tình ở bốn Đại châu đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Đó là các loài hữu tình ở bốn Đại châu. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các hữu tình ở Tiểu thiên giới đều làm cho an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Đó là các loài hữu tình ở Tiểu thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các hữu tình ở Trung thiên giới đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Đó là các loài hữu tình ở Trung thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các loài hữu tình ở Đại thiên giới đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Đó là các loài hữu tình ở Đại thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các loài hữu tình ở mười phương hằng hà sa v.v… thế giới đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Đó là các loài hữu tình ở mười phương hằng hà sa v.v… thế giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các loài hữu tình ở tất cả thế giới mười phương đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không?

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý thì được nhiều phước đức hơn việc giáo hóa các loài hữu tình ở một châu Thiệm-bộ, khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông. Cũng hơn việc giáo hóa các loài hữu tình ở bốn đại châu. Cũng hơn việc giáo hóa các loài hữu tình ở Tiểu thiên giới. Cũng hơn việc giáo hóa các loài hữu tình ở Trung thiên giới. Cũng hơn việc giáo hóa các loài hữu tình ở Đại thiên giới. Cũng hơn việc giáo hóa các loài hữu tình ở mười phương hằng hà sa v.v… thế giới. Cũng hơn việc giáo hóa các loài hữu tình ở thế giới mười phương, khiến được an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông.

Kiều-thi-ca! Trong đây suy nghĩ đúng lý, nghĩa là chẳng phải hai, chẳng phải không hai hành, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên suy nghĩ Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Như vậy cho đến vì chẳng phải hai, chẳng phải không hai hành, chỉ vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên suy nghĩ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, dùng vô lượng pháp môn để thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, hiển thị, khai sáng, diễn giải, giải thích rõ ràng, phân biệt ý nghĩa để họ hiểu dễ dàng thì được nhiều phước đức. Còn tự mình lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, thì sẽ được gấp bội vô lượng công đức kia.

Kiều-thi-ca! Nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa trong đây là nghĩa lý ấy thuộc của Bát-nhã ba-la-mật-đa, không nên dùng hai tướng để quán, cũng không nên dùng không hai tướng để quán. Chẳng có tướng, chẳng vô tướng, chẳng nhập, chẳng xuất, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng lấy, chẳng bỏ, chẳng chấp, chẳng bất chấp, chẳng trụ, chẳng không trụ, chẳng thật, chẳng không thật, chẳng hợp, chẳng tan, chẳng tương ưng, chẳng bất tương ưng, chẳng ít phần, chẳng phải chẳng ít phần, chẳng toàn phần, chẳng phải chẳng toàn phần, chẳng nhân duyên, chẳng phải chẳng nhân duyên, chẳng pháp, chẳng phi pháp, chẳng chơn như, chẳng phi chơn như, chẳng thật tế, chẳng phi thật tế. Vô lượng pháp môn, nghĩa lý như vậy.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào, tự mình đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, dùng vô lượng pháp môn giảng rộng cho người khác, tuyên thuyết, hiển thị, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, làm cho người kia dễ hiểu, thì được nhiều phước đức, vượt qua phước đức trước vô lượng, vô biên.

Khi ấy, trời Đế Thích liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ v.v… đó phải dùng các loại văn nghĩa thiện xảo để tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho người khác nghe.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các thiện nam, thiện nữ v.v… phải dùng các loại văn nghĩa thiện xảo để tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho người khác.

Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… nào có thể dùng các loại văn nghĩa thiện xảo để tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho người khác, thì thành tựu vô lượng, vô biên công đức lớn không thể nghĩ bàn.

Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… trọn đời mình dùng vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng và đủ loại vật dụng khác mà cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở mười phương vô lượng, vô biên thế giới.

Có các thiện nam, thiện nữ v.v… tự mình đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý; lại theo các loại văn nghĩa thiện xảo, dùng vô lượng pháp môn để giảng rộng cho người khác bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, để họ dễ hiểu, thì sẽ được phước đức hơn phước đức trước rất nhiều. Vì sao? Vì chư Phật ba đời đều nương tựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, để tinh cần tu học chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Có thiện nam, thiện nữ v.v… nào ở vô lượng, vô biên đại kiếp, dùng có sở đắc làm phương tiện, siêng năng tu học bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Còn có thiện nam, thiện nữ v.v… đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, dùng vô sở đắc làm phương tiện, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý; lại dùng các loại văn nghĩa thiện xảo, dù chỉ trong chốc lát thuyết giảng cho người khác bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, để cho họ dễ hiểu, thì được phước đức hơn phước đức trước rất nhiều.

Kiều-thi-ca! Người còn có sở đắc nghĩa là thiện nam, thiện nữ v.v… khi tu hành bố thí, liền nghĩ như vầy: Ta là người bố thí, người kia là kẻ nhận, đây là quả của sự bố thí, việc thí và vật thí. Khi người kia tu bố thí như vậy gọi là trụ bố thí, chứ không gọi là bố thí Ba-la-mật-đa.

Khi tu tịnh giới, lại nghĩ như vầy: Ta tu trì giới vì để hộ trì, đây là quả của giới và chỗ trì giới. Khi người kia tu tịnh giới như vậy gọi là trụ tịnh giới chứ không phải tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Khi tu an nhẫn, lại nghĩ như vầy: Ta tu an nhẫn vì để hộ trì sự cố kia, đây là quả của nhẫn nhục và tự tánh nhẫn nhục. Khi người kia tu nhẫn như vậy gọi là trụ an nhẫn chứ không phải an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Khi tu tinh tấn, lại nghĩ như vầy: Ta tu tinh tấn vì để đoạn trừ sự giải đãi, đây là quả tinh tấn và tự tánh tinh tấn. Khi người kia tu tinh tấn như vậy gọi là trụ tinh tấn chứ không phải tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Khi tu tịnh lự, lại nghĩ như vầy: Ta tu thiền định, kia là cảnh định, đây là quả định và tự tánh định. Khi người kia tu thiền định như vậy gọi là trụ tịnh lự chứ không phải tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Khi tu Bát-nhã, lại nghĩ như vầy: Ta tu trí tuệ, kia là cảnh tuệ, đây là quả tuệ và tự tánh tuệ. Khi người kia tu tuệ như vậy gọi là trụ Bát-nhã chứ không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… này dùng có sở đắc làm phương tiện, nên không được viên mãn bố thí v.v… sáu pháp Ba-la-mật-đa.

Lúc đó, trời Đế Thích liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm sao tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa như bố thí v.v… được viên mãn?

Phật bảo trời Đế Thích:

– Khi Đại Bồ-tát tu hành bố thí, không nghĩ mình cho, người nhận, quả thí và vật thí. Như vậy cho đến khi tu hành Bát-nhã không nghĩ mình là người trí tuệ, cảnh tuệ, quả tuệ, và tự tánh tuệ. Vì dùng vô sở đắc làm phương tiện nên Đại Bồ-tát liền được viên mãn bố thí v.v… sáu pháp Ba-la-mật-đa.

Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát nên dùng trí tuệ vô sở đắc như vậy và các văn nghĩa xảo diệu để tuyên thuyết Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì đời vị lai sẽ có các thiện nam, thiện nữ v.v… nào dùng có sở đắc làm phương tiện, vì người khác tuyên thuyết tương tợ Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Người mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nghe thuyết tương tợ Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, tâm liền mê lầm, thối thất Trung đạo. Cho nên phải dùng trí tuệ vô sở đắc và các loại văn nghĩa xảo diệu, vì người phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà tuyên thuyết Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là tuyên thuyết tương tợ Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

– Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… tuyên thuyết Bát-nhã v.v… sáu pháp Ba-la-mật-đa có sở đắc. Như vậy gọi là tuyên thuyết tương tợ Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa.

Trời Đế Thích lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là các thiện nam, thiện nữ v.v… lại thuyết Bát-nhã v.v… sáu pháp Ba-la-mật-đa có sở đắc?

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… vì người phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà tuyên thuyết sắc cho đến thức là thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; như vậy cho đến thuyết trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, còn nói như vầy: Nếu ai có thể y cứ vào pháp như vậy để tu hành Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, thì gọi là tu hành Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Lại nói như vầy: Người tu hành Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa phải nên cầu sắc cho đến trí nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có thể cầu các pháp v.v… như vậy mà tu hành Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, thì gọi là tu hành Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Kiều-thi-ca! Nếu có người cầu sắc cho đến trí nhất thiết tướng như vậy hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nương tợ các pháp này mà tu hành Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, thì Ta gọi là tu hành tương tợ Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa có sở đắc.

Kiều-thi-ca! Lời nói như trên, nên biết đều thuyết tương tợ Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa có sở đắc.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào vì người phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tuyên thuyết Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, nói như vầy: Lại đây, thiện nam tử, ta sẽ dạy cho ông tu học Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Nên y theo lời dạy của ta mà tu học, sẽ mau chóng an trụ sơ địa Bồ-tát cho đến thập địa Bồ-tát.

Kiều-thi-ca! Người đó dùng hữu tướng và có sở đắc làm phương tiện, y vào sự phân tưởng về giai đoạn, dạy tu Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, gọi là tuyên thuyết tương tợ Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào vì người phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tuyên thuyết Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, nói như vầy: Lại đây, thiện nam tử, ta sẽ dạy cho ông tu học Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Nên y theo lời dạy của ta mà tu học, thì mau chóng vượt qua bậc Thanh văn, Độc giác v.v… nhanh chóng nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, được Vô sanh pháp nhẫn của các Đại Bồ-tát và thần thông thù thắng của Bồ-tát, có thể ở tất cả cõi Phật mười phương để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Do đó, mau chứng trí nhất thiết trí.

Kiều-thi-ca! Người kia dùng hữu tướng và có sở đắc làm phương tiện, y vào sự phân tưởng về giai đoạn, dạy tu hành Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa thì gọi là tuyên thuyết tương tợ Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào bảo người chủng tánh Bồ-tát thừa: Nếu đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, nhất định sẽ được vô lượng, vô biên công đức.

Kiều-thi-ca! Người đó dùng hữu tướng và có sở đắc làm phương tiện nên nói như vậy, gọi là tuyên thuyết tương tợ Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào bảo người chủng tánh Bồ-tát thừa: Ông đối với chư Phật Thế Tôn ba đời, từ lúc mới phát tâm cho đến rốt ráo có được bao nhiêu thiện căn đều nên tùy hỷ, tập hợp tất cả, vì các hữu tình hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kiều-thi-ca! Người đó dùng hữu tướng và có sở đắc làm phương tiện nên nói như vậy, thì gọi là tuyên thuyết tương tợ Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là tuyên thuyết chơn chánh Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… dùng vô sở đắc làm phương tiện, tuyên thuyết Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, gọi là tuyên thuyết chơn chánh Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là các thiện nam, thiện nữ v.v… dùng vô sở đắc làm phương tiện, tuyên thuyết Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… vì người phát tâm Bồ-đề Đại thừa mà tuyên thuyết Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, nói như vầy: Thiện nam tử, đến đây! Ông nên tu Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Khi ông đang tu, không nên quán sát sắc cho đến trí nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì sao? Thiện nam tử! Vì sắc, sắc là tự tánh Không. Cho đến trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết tướng là tự tánh Không. Tự tánh của sắc tức chẳng phải tự tánh, cho đến tự tánh trí nhất thiết tướng tức chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức là Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Đối với Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa này thì sắc cho đến trí nhất thiết tướng đều bất khả đắc. Pháp ấy thường, vô thường, vui, khổ, ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây không có sắc v.v… có thể đắc, huống gì pháp ấy thường, vô thường, vui, khổ, ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh có thể đắc.

Thiện nam tử! Nếu ông có thể tu Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa như thế, thì gọi là tu Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… này nói những điều như vậy là tuyên thuyết chơn chánh Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào, vì người phát tâm Đại thừa Bồ-đề, tuyên thuyết Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, nói như vầy: Thiện nam tử! Hãy đến đây, ta sẽ dạy cho ông tu học Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Khi ông tu học chớ quán các pháp có một ít có thể trụ, có thể vượt, có thể nhập, có thể đắc, có thể chứng, có thể lắng nghe v.v…. sẽ đạt được công đức thù thắng và có thể tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề. Vì sao? Thiện nam tử! Vì đối với Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa này, hoàn toàn không có chút pháp nào có thể trụ, có thể vượt, có thể nhập, có thể đắc, có thể chứng, có thể lắng nghe v.v… sẽ đạt được công đức thù thắng và có thể tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp đều Không. Nếu tự tánh Không thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu là Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Đối với Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa hoàn toàn không có chút pháp gì có nhập, có xuất, có sanh, có diệt, có đoạn, có thường, có giống, có khác, có đến, có đi mà có thể đắc.

Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… nói những lời ấy ngược lại với tất cả những điều đã nói ở trong các phần trên, thì gọi là tuyên thuyết chơn chánh Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Vì vậy, Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… nên đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, dùng vô sở đắc làm phương tiện, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, nhiệt tâm, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, dùng các loại văn nghĩa xảo diệu để thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, để họ dễ hiểu.

Kiều-thi-ca! Do nhân duyên này, nên Ta nói: Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng vô sở đắc làm phương tiện, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý; lại dùng các loại văn nghĩa xảo diệu dù chỉ trong chốc lát thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, diễn giảng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, để họ dễ hiểu, thì đạt được công đức hơn trước rất nhiều.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, các loài hữu tình ở bốn đại châu, các loài hữu tình ở Tiểu thiên giới, các loài hữu tình ở Trung thiên giới, các loài hữu tình ở Đại thiên giới, các loài hữu tình ở mười phương hằng hà sa v.v… thế giới, các loài hữu tình ở mười phương vô biên thế giới đều an trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Các thiện nam, thiện nữ v.v… này, do nhân duyên đây mà có được nhiều phước đức không?

Trời Đế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo diệu, thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, để họ dễ hiểu, lại nói như vầy: Thiện nam tử, đến đây! Ông nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông thạo lanh lợi, suy nghĩ đúng lý, tùy theo pháp môn này mà siêng năng tu học.

Các thiện nam, thiện nữ v.v… này sẽ đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì tất cả quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa này phát xuất ra.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, các loài hữu tình ở bốn đại châu, các loài hữu tình ở Tiểu thiên giới, các loài hữu tình ở Trung thiên giới, các loài hữu tình ở Đại thiên giới, các loài hữu tình ở mười phương hằng hà sa v.v… thế giới, đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc an trụ Bồ-tát Bất thối chuyển, thì ý ông thế nào? Thiện nam, thiện nữ v.v… này do nhân duyên đây mà được nhiều phước đức không?

Trời Đế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

– Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này, dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo diệu thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý để họ dễ hiểu.

Lại nói như vầy: Thiện nam tử, đến đây! Ông nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, làm cho thông thạo lanh lợi, lợi ích, suy nghĩ đúng lý, tùy theo pháp môn này mà nên hiểu đúng đắn. Nếu tin hiểu đúng đắn rồi thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm.

Nếu có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm được thì có thể chứng đắc tất cả pháp trí. Nếu có thể chứng đắc tất cả pháp trí thì tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa được tăng ích, viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa tăng ích viên mãn, liền chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… này sẽ đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì tất cả Đại Bồ-tát mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tất cả Đại Bồ-tát an trụ bậc Bất thối chuyển cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đều là do Bát-nhã ba-la-mật-đa này phát sanh ra.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, các loài hữu tình ở bốn đại châu, các loài hữu tình ở Tiểu thiên giới, các loài hữu tình ở Trung thiên giới, các loài hữu tình ở Đại thiên giới, các loài hữu tình ở mười phương hằng hà sa v.v… thế giới đều đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Còn có các thiện nam, thiện nữ v.v… đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo diệu, thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý để họ dễ hiểu. Lại nói như vầy: Thiện nam tử, đến đây! Ông nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông thạo lanh lợi, suy nghĩ đúng lý, tùy theo pháp môn này mà nên tin hiểu đúng đắn. Nếu tin hiểu đúng đắn thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Nếu tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thì có thể chứng đắc tất cả pháp trí. Nếu có thể chứng đắc tất cả pháp trí thì tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa được tăng ích viên mãn. Nếu tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa tăng ích viên mãn, liền chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… gặp một vị Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo diệu, thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý để họ dễ hiểu. Lại nói như vầy: Thiện nam tử, đến đây! Ông nên thuyết giảng điều này như trước.

Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… này sẽ đạt được công đức hơn trước rất nhiều.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, các loài hữu tình ở bốn đại châu, các loài hữu tình ở Tiểu thiên giới, các loài hữu tình ở Trung thiên giới, các loài hữu tình ở Đại thiên giới, các loài hữu tình ở mười phương hằng hà sa v.v… thế giới, đều được Bất thối chuyển nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại có các thiện nam, thiện nữ v.v… đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này, dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo diệu, thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý để họ dễ hiểu. Trong đó có một người nói như vầy: Nay tôi muốn mau chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu độ các loài hữu tình thoát khỏi những khổ sanh tử. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào vì muốn thành tựu điều kia, thì nên dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo diệu, thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rò ràng, phân biệt nghĩa lý để họ dễ hiểu.

Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… này sẽ được công đức hơn trước rất nhiều.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát như thế đã gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đúng vậy! Đúng vậy! Phải nên đem bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa dạy dỗ, trao truyền cho vị ấy. Cho đến đem trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng dạy dỗ, trao truyền cho vị ấy. Nên đem y phục, thức ăn nước uống, ngọa cụ, thuốc men tốt nhất, tùy theo sự cần dùng của vị ấy mà cúng dường các vật cá nhân khác.

Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào có thể dùng tài thí, pháp thí như vậy mà cúng dường cho vị Đại Bồ-tát kia thì thiện nam, thiện nữ v.v… này đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đó nhờ sự cúng dường tài thí, pháp thí như vậy, nên mau chóng chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

– Lành thay! Lành thay! Ông đã khuyến khích Đại Bồ-tát kia, có thể gìn giữ Đại Bồ-tát kia, cũng có thể hộ trì Đại Bồ-tát kia. Nay ông đã làm những việc của Thánh đệ tử Phật. Vì sao?

Kiều-thi-ca! Các vị Thánh đệ tử của tất cả Như Lai vì muốn lợi ích an lạc cho các hữu tình, nên dùng phương tiện khuyến khích Đại Bồ-tát kia, làm cho vị ấy mau chóng chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Dùng tài thí, pháp thí để cúng dường, giữ gìn, siêng năng hộ trì, giúp đỡ Đại Bồ-tát kia, làm cho vị ấy mau chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả thắng sự ở thế gian của Như Lai, Thanh văn, Độc giác đều do Đại Bồ-tát kia mà được xuất hiện. Vì sao?

Kiều-thi-ca! Vì nếu không có Đại Bồ-tát phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì không có Đại Bồ-tát có thể học sáu pháp Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng. Nếu không có Đại Bồ-tát học sáu pháp Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng, thì không có Đại Bồ-tát có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu không có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì không có thắng sự thế gian của Như Lai, Thanh văn, Độc giác.

Kiều-thi-ca! Do có Đại Bồ-tát phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, liền có Đại Bồ-tát học sáu pháp Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng.

Do có Đại Bồ-tát học sáu pháp Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng, liền có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, có thể chấm dứt cảnh giới địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, cũng làm giảm bớt bè đảng A-tu-la và tăng trưởng chúng trời, người. Còn có đại tộc Sát-đế-lợi cho đến đại tộc Cư sĩ xuất hiện ở thế gian. Cũng có trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất hiện ở thế gian. Lại có sáu pháp Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng xuất hiện ở thế gian. Lại có Thanh văn, Độc giác và Vô thượng thừa xuất hiện ở thế gian.