Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

IV. TÍCH CÔNG LŨY ĐỨC ĐỆ BÁT
(TT)

KINH VĂN:

Ư chư hữu tình, thường hoài từ nhẫn, hòa nhan ái ngữ, khuyến dụ sách tấn, cung kính Tam Bảo, phụng sự sư trưởng, vô hữu hư ngụy siểm khúc chi tâm.

VIỆT DỊCH:

Với các hữu tình thường mang lòng từ nhẫn, vẻ mặt nhu hòa, lời nói dịu dàng, khuyến dụ, sách tấn, cung kính Tam Bảo, phụng sự sư trưởng, chẳng có tâm siểm khúc, hư ngụy.

GIẢNG:

Từ nhẫn”: Đoạn phía trước đã nói “huệ lợi quần sinh” (ban bố cái lợi cho quần sinh) đó là “Từ”; đến “thành tựu Nhẫn lực” đó là “Nhẫn”. Vì vậy, đối với các hữu tình thường có lòng “từ nhẫn”.

Hòa nhan” là vẻ mặt nhu hòa. Sách Hội Sớ giảng: “Bên trong lìa vọng nhiễm nên mặt ngoài thường ôn hòa vì vậy bảo là “hòa nhan”.

Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã chép: “Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, như thị tùy thuận Phật thanh tịnh giáo, thị chư chúng sinh, diện môn tiên tiếu, tằng vô tần túc, sở dĩ nhiên giả? Tâm ly uế trược, chư căn thanh tịnh, bất nhiễm ly cấu, tâm bất sân khuể, nội vô hận kết” (Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, tùy thuận lời Phật dạy một cách thanh tịnh như thế, trông thấy các chúng sinh, mặt liền tươi cười, chưa từng nhăn nhó, vì sao vậy? Tâm lìa uế trược, các căn thanh tịnh, chẳng nhiễm, ly cấu, tâm chẳng nóng giận, trong tâm không kết hận). Cho nên, đạo tràng nhà Phật, tự viện am đường, vừa bước vào cửa, vị đầu tiên xem thấy là Bồ Tát Di Lặc với khuôn mặt rạng rỡ, nụ cười tươi vui.

Người Trung Quốc tạo tượng Bồ Tát Di Lặc là tạo tượng Hòa Thượng Bố Đại. Ngài xuất hiện tại chùa Tuyết Đậu, Phụng Hóa, tỉnh Kiết Giang, vào thời đại Tống Cao Tông, cũng chính là năm đầu thời Nam Tống, Trung Quốc, cùng thời với Nhạc Phi. Ngày nay, người đời tạo tượng Bồ Tát Di Lặc có lẽ hơi khuyếch trương một chút. Nhưng chúng ta đều hiểu được: Bồ Tát Di Lặc mập mập, hiện ra nét hoan hỉ, gặp bất kỳ ai cũng đều tươi cười rạng rỡ. Trước khi ngài viên tịch, nói với mọi người ngài là Bồ Tát Di Lặc hóa thân đến. Nói ra thân phận mình xong, ngài liền đi. Đây là thật không phải giả! Nếu nói mà vẫn không đi, đó là giả không phải thật! Là “yêu ngôn hoặc chúng” có ý đồ, có mục đích, đây là qui củ bất thành văn trong nhà Phật. Nếu người khác đem thân phận của họ tiết lộ, họ cũng ra đi; nếu không đi thì đó cũng là giả!

Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ, thân phận của ngài là do người khác tiết lộ. Ngày đó, Quốc Vương muốn tu phước nên lập ra đại hội  trai tăng, thiên tăng, cúng dường. Người xuất gia đến thọ trai hơn một ngàn người, tất cả vùng lân cận đều đến thọ nhận cúng dường. Hoạt động này thông thường đều do quốc vương, đại thần đứng ra tổ chức để cầu phước, hy vọng lần trai tăng này biết đâu sẽ có Phật, Bồ Tát đến nhận cúng dường, phước báo sẽ rất lớn.

Lúc trai tăng, đương nhiên ghế ngồi sẽ có ghế đầu, các vị cao tăng đại đức đến đều khiêm nhường qua lại: Tôi nhường bạn, bạn nhường tôi, đều không dám ngồi vào ghế đầu. Bỗng nhiên có một vị Hòa Thượng không ai quen biết đi vào, nhìn thấy mọi người nhường qua, nhường lại, bèn đến ngồi xuống chính giữa. Tất nhiên trong tâm vị quốc vương này rất không thoải mái, bởi vị cao tăng mà ông tôn kính nhất không ngồi ở ghế số một, lại để người ngoài đến ngồi ngay chỗ đó! Tuy nhiên, đối với người xuất gia cũng rất khó nói, thôi đành bỏ qua! Sau đó, mọi người đều chia nhau ngồi xuống. Trai tăng xong, quốc vương bèn dọ hỏi xem người ngồi ở ghế trên là Hòa Thượng nào, từ đâu đến? Không ai biết cả! Bèn đến thỉnh giáo Hòa Thượng Vĩnh Minh. Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói:

– Chúc mừng quốc vương, hôm nay có Thánh Nhân đến!

– Là người nào?

– Cổ Phật Nhiên Đăng!

– Là ai?

–  Là vị Hòa Thượng ngồi ở ghế đầu! Tai ngài rất to; mọi người không biết, gọi ngài là Hòa Thượng tai to.

Ngay lúc đó, nhà vua lập tức phái người đuổi theo, đến một sơn động, thấy ngài đang ngồi tĩnh tọa ở đó. Cổ Phật Nhiên Đăng, còn gì bằng nữa, mọi người đều mọp xuống quì lạy ngài. Ngài nói một câu: “Di Đà nhiều chuyện!”, ý nói Phật A Di Đà nhiều chuyện, đem thân phận của ngài nói ra. Nói xong câu này, ngài liền viên tịch.

Mọi người thầm nghĩ: “Di Đà nhiều chuyện”, như vậy Vĩnh Minh Diên Thọ là Phật A Di Đà tái sinh, bèn gấp rút trở về báo cáo “Cổ Phật Nhiên Đăng diệt độ rồi nhưng trong nước vẫn còn một vị Phật là Phật A Di Đà”. Nhà vua vừa nghe nói Vĩnh Minh Diên Thọ là Phật A Di Đà tái sinh, vội vàng đi lạy Phật A Di Đà. Nhưng chưa kịp ra khỏi cửa, bên ngoài đã có người hối hả chạy vào báo tin: “Đại Sư Vĩnh Minh viên tịch rồi!”. Thế là, thân phận bộc lộ, Đại Sư Vĩnh Minh cũng liền viên tịch.

Ngày nay, chúng ta nghe nói: Người này là Bồ Tát gì đó tái sinh, người kia là Phật gì đó tái sinh. Nói xong mà họ vẫn không đi! Đó là giả! Người xưa lưu lại qui củ tốt quá!

– Trên thực tế có Phật, Bồ Tát, A-la-hán tái sinh không?

– Có thật! Nhưng có người để lộ thân phận như Bồ Tát Di Lặc; có người không để lộ thân phận nên họ đến hay đi chúng ta đều không biết được!

Câu chuyện Hàn Sơn, Thập Đắc tại chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, thân phận bị bộc lộ họ liền đi ngay, tìm lại cũng không thấy. Hòa Thượng Phong Can là Phật A Di Đà tái sinh, thân phận bị bộc lộ, về sau tìm cũng không thấy! Chúng sinh khổ nạn, chư Phật, Bồ Tát ứng hóa rất nhiều ở thế gian như: nam, nữ, già trẻ, các ngành, các nghề đều có nhưng chúng ta không biết được. Không có sự thị hiện này, nghiệp lực của chúng sinh có thể làm nổ tung cả trái đất! Có rất nhiều thánh hiền sống trà trộn với mọi người, nhờ phước đức, thiện lực của họ mới hóa giải được tai nạn lớn. Tuy nhiên, tai nạn nhỏ thì không thể tránh khỏi.

Hiện nay xã hội này, như Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tà sư nói pháp như cát sông Hằng”. Có đồng tu nói với tôi: Có người phản đối Pháp sư Tịnh Không đề xướng bổn hội tập của Kinh Vô Lượng Thọ, phải nên đem bổn hội tập đó đốt bỏ! Vậy xin hỏi: Hiện tại Pháp sư  Tịnh Không mỗi ngày đều giảng một tiếng rưỡi đồng hồ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm; vậy Kinh Hoa Nghiêm có cần đốt bỏ không?! Phật pháp cần phải có trí tuệ, phải giác ngộ, không dùng cảm tình làm việc! Dùng cảm tình làm việc thì sai rồi!

Trên thực tế, họ tuyệt nhiên không phải phản đối kinh điển mà phản đối cá nhân tôi, ngày ngày ở nơi đây giảng kinh, giảng đến họ không thể chịu nổi! Tôi ngày nay rời khỏi Đài Loan rồi! Đài Loan có một số Pháp sư rất vui mừng. Vì sao? Vì trước đây họ đã từng đến chỗ này tìm tôi, nói với tôi: – Pháp sư Tịnh Không giảng kinh đã nhiều năm, vậy đủ rồi không nên giảng nữa! Tôi nói: – Được! Tôi nghe lời thầy nên không giảng nữa! Vì sao? Phật dạy chúng ta hằng thuận chúng sinh, thầy bảo tôi không giảng thì tôi không giảng!

Lại có số người đến gặp tôi nói: – “Pháp sư à! Ngài nên tiếp tục giảng, vậy thì tôi lại giảng tiếp! Chúng ta hằng thuận chúng sinh, không phải hằng thuận một người nào! Cho nên, nhất định phải có trí tuệ, phải có lý trí.

Đại Sư Thanh Lương trong Hoa Nghiêm Sớ Sao nói rất rõ ràng: Thế Tôn suốt bốn mươi chín năm chưa từng giảng một câu nào. Kinh ngài nói ra đều là những gì của Cổ Phật đã nói. Cổ Phật, nhất định không phải một vị. Do đây có thể biết: Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói suốt bốn mươi chín năm là hội tập lại những gì cổ Phật đã nói. Như Khổng Lão Phu Tử cả đời chỉ “thuật nhi bất tác”, tổ hợp, thuật lại giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, vậy thì có gì sai?!

Hiện tại có rất nhiều đại đức xuất gia, tại gia giảng khai thị ở các nơi, họ cũng gom nhặt lời dạy của cổ nhân, chỗ này một chút, chỗ kia một chút để cúng dường đại chúng; đây cũng là hội tập. Ví như chúng ta chiêu đãi khách, trên bàn trưng bày một đĩa trái cây với nhiều màu sắc các loại trái cây khác nhau, đó cũng là hội tập.

Đại Sư Ấn Quang trong “Văn Sao” phê bình mấy hội tập của Kinh Vô Lượng Thọ, không phải ngài phê bình hội tập mà phê bình người hội tập sửa đổi nguyên văn trên kinh, ngài phản đối việc này. Hội tập không phải là phiên dịch; phiên dịch có thể dùng ý của chính mình cân nhắc câu, chữ. Nhưng với hội tập thì không được, nhất định phải dùng nguyên văn của người ta, một chữ cũng không được sửa đổi, vậy mới đáng được người tôn kính.

Chỗ này nói: “Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật” chính là nói: Bồ Tát trải qua đời sống trí tuệ cao độ, không luận làm bất cứ việc gì trong đối nhân xử thế tiếp vật, họ không dùng cảm tình làm việc, đây là chúng ta phải nên học tập. Đặc biệt câu sau cùng chính là dạy hàng sơ học chúng ta “tùy thuận Phật thanh tịnh giáo”, tùy thuận giáo huấn của Phật Đà, giáo huấn của Phật Đà đều là thanh tịnh giáo huấn. “Thanh tịnh” này có hai nghĩa:

Thứ nhất là Phật dạy chúng ta phải tu tâm thanh tịnh.

Thứ hai là những gì trong kinh Phật dạy đều lưu xuất từ tâm thanh tịnh.

Chúng ta chân thật tùy thuận giáo huấn của Phật Đà phải nên tùy thuận đời sống trí tuệ cao độ là “hành Bát Nhã Ba La Mật”.

Ái ngữ” là một trong Tứ Nhiếp Pháp. Bốn nhiếp pháp này là “Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành và Đồng Sự. “Ái Ngữ” là khéo tùy theo căn tánh chúng sinh mà vỗ về, dẫn dụ khiến họ sinh tâm thân ái, nương theo mình mà học tập thì gọi là “Ái Ngữ Nhiếp”. Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã bảo: “Hạ thanh tế ngữ, nhuyễn mỹ nhi ngôn, thuận bỉ ý ngữ cố” (Dùng lời nhỏ nhẹ, mềm mỏng, hay đẹp để nói lời đẹp lòng người khác). Tứ Nhiếp Pháp vô cùng quan trọng. Hoằng nguyện của chư Phật, Bồ Tát là nhiếp thọ chúng sinh; cái nhiếp thọ này, cũng chính là phương cách giao tiếp công cộng trong nhà Phật nhằm giáo hóa chúng sinh. Triễn khai Lục Ba La Mật cũng dùng Tứ  Nhiếp Pháp. Tứ Nhiếp Pháp nếu áp dụng trong gia đình thì gia đình hòa thuận; nếu dùng trong vợ chồng thì vợ chồng ân ái hảo hợp; nếu dùng trong xã hội thì bất cứ vấn đề gì cũng đều được giải quyết tốt đẹp.

Năm 1999, ở Singapore, chúng tôi đã đoàn kết được chín tôn giáo, làm rất thành công. Singapore lúc ấy có một vị bộ trưởng tên là Tăng Sĩ Sanh, hình như hiện nay nghỉ hưu rồi. Chúng tôi giao lưu rất thân. Ông ấy hỏi tôi:

– Pháp sư Tịnh Không! Ông dùng phương pháp gì đem chín tôn giáo đoàn kết lại? Tôi nói:

– Tôi không có phương pháp; phương pháp tôi dùng là của đức Phật dạy.

Tai ông ấy dựng lên:

– Phương pháp gì của đức Phật dạy ông?

– Tứ Nhiếp Pháp!

– Thế nào là Tứ Nhiếp Pháp?

–  Tứ Nhiếp Pháp là bốn phương pháp: Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành Đồng Sự.

Bố Thí chính là tặng lễ vật, có lễ vật mới khiến người không trách. Người chưa đến, nhưng lễ vật cần đến trước khiến họ sinh tâm hoan hỉ, đây là điều kiện tiên quyết. Chúng ta trong đời sống hàng ngày, đối với nhân tình thế thái cũng nên hiểu biết việc này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni mọi lúc mọi nơi đều dùng phương pháp này.

Đối với chín tôn giáo, mỗi tôn giáo chúng tôi đều biếu tặng một phần lễ vật. Trong lễ vật chủ yếu nhất là, chúng tôi tặng mười vạn tiền Đài. Trong mỗi tôn giáo đều có sự nghiệp từ thiện như: Thành lập viện dưỡng lão, cô nhi viện, bệnh viện, trường học v.v…

Đạo Hồi còn mở lớp huấn luyện dạy nghề, lớp bồi dưỡng giúp người học có một nghề nuôi thân, đều là việc tốt, rất cần đến tiền. Chúng tôi giúp họ làm sự việc từ thiện, đây là “Bố Thí”. Sau khi lễ vật gửi đến rồi, tiếp đó, chúng tôi đến thăm viếng họ, thỉnh giáo với họ, học tập với họ, thăm hỏi họ chính là Ái Ngữ.

Ái Ngữ không phải lời dua nịnh ngọt ngào mà thật sự là có lợi ích cho họ.

– Lúc này cần nói với họ những gì?

– Điều này cần phải hiểu! Tiêu điểm nói chuyện của chúng tôi là lời dạy của thần thánh, lời dạy của kinh điển, giáo dục tôn giáo, học tập qua lại, giúp xã hội này hóa giải xung đột. Hy vọng mọi người có thể góp một chút sức lực, xây dựng nền hòa bình, an định cho quốc gia, xã hội. Xa hơn một chút là hóa giải được thiên tai.

Trong khi trò chuyện mọi người đều rất hoan hỉ, đâu đó rõ ràng; chừng mực cũng cần nên nắm vững. Tiếp theo là:

Lợi Hành: “Lợi” là lợi ích; “hành” là hành vi. Ngôn ngữ là hành vi của khẩu nghiệp. Tư tưởng là hành vi của ý nghiệp. Tất cả tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta đều có lợi ích đối với họ, khiến họ rất dễ dàng chấp nhận. Nên nhớ! Lời nói dù dễ nghe thế mấy, nhưng việc làm của chúng ta không mang được lợi ích đến cho họ, họ cũng sẽ không qua lại với chúng ta. Cuối cùng là:

Đồng Sự: việc này khó nhất! Ta và họ cùng làm một công việc như nhau, họ vui chúng ta cũng vui. Phạm vi của “Đồng Sự” rất lớn. Đối với hàng sơ học, thiết nghĩ cần thêm chú giải:

– “Đồng Sự” là gì?

– Là cùng việc với Thánh hiền, cùng việc với thần thánh thì không có vấn đề. Nếu như họ thích đánh bạc, ta cũng “đồng sự” với họ, ngày ngày theo họ đánh bạc, vậy có được chăng?

– Không được! Việc này quá nguy hiểm! Không khéo lại bị họ kéo đi mất!

Chúng ta chưa có bản lĩnh, năng lực cảm hóa họ, e rằng bản thân ta không vượt qua được thử thách! Việc này cần cân bằng với trí tuệ cùng định lực của chính mình! Không có trí tuệ và định lực lớn, việc này không thể được! Nên nhớ: “Đồng Sự” là phương thức không phải là mục đích. Bồ Tát có vô lượng trí tuệ, vô lượng đức năng thị hiện ở thế gian này mới có thể làm đến được. Chúng ta xem thấy trên Kinh Hoa Nghiêm: Thắng Nhiệt Bà La Môn, Phạt Tô Mật Đa Nữ đều là trong Tứ Nhiếp Pháp, đặc biệt là Đồng Sự Nhiếp, đến sau cùng, họ đều quay đầu niệm Phật, học Phật.

Cũng thế, Phật, Bồ Tát hiện thân trong ba đường ác là cùng với ác đạo chúng sinh đồng sự, mục đích là giúp họ cải tà qui chánh, cải ác làm lành. Riêng chúng ta chỉ có thể “Đồng Sự” cùng làm việc thiện, không cùng làm việc ác. Lịch sử từ xưa đến nay có rất nhiều đại đức xuất gia không cẩn thận trong “Đồng Sự”, kết quả đều thoái thất đạo tâm, bị người khác độ đi, sự việc này đâu đâu cũng có! Chúng ta không thể không lưu ý!

Nên biết “Bố Thí” trong “Tứ Nhiếp Pháp” cùng với Bố Thí trong Lục Độ, ý nghĩa hoàn toàn khác nhau, Bố Thí trong Lục Độ mục đích là buông bỏ tâm tham của chính mình, cắt đứt tâm tham luyến. Bố Thí trong “Tứ Nhiếp Pháp” mục đích là khiến cho đối phương   sinh   tâm   hoan   hỉ,   nhưng   cũng   cần   chú   ý:   Không nên quá đáng khiến họ sinh tâm phiền não tham ái! Bố Thí này cần ở mức độ vừa phải, không nên nhiều quá cũng không được quá nhỏ mọn, phảicần có trí tuệ.

Hạ thanh tế ngữ, nhuyễn mỹ nhi ngôn”: Chữ “hạ thanh” là âm thanh không cần quá lớn; âm thanh thô bạo sẽ khiến cho người khác giật mình. “Hạ thanh tế ngữ” cũng không phải là âm thanh quá nhỏ nói ra người khác không nghe được. Điều này trong “Đệ tử qui” có. Âm thanh cần tùy nghi thích hợp trong hoàn cảnh nào, trường hợp nào. Ngôn ngữ tốt nhất nên chậm một chút, không nên nói quá nhanh, chậm rãi giúp cho tâm an định. Tôi thường nhắc đến Đại Sư Chương Gia, sự chậm rãi này là Đại Sư Chương Gia dạy tôi. Đại Sư rất ít khi trò chuyện, động tác ngài chậm rãi, âm thanh không lớn nhưng khiến người đối diện nghe rất rõ ràng.

Trong giáo lý Đại thừa có câu “Na già thường tại Định, vô hữu bất Định thời”. “Na già” là rồng, voi. Rồng chúng ta chưa thấy, nhưng voi thì thấy rồi. Voi rất thận trọng, dáng đi chậm rãi không hề có chút nôn nóng, vội vã nào. Phật, Bồ Tát là cao nhân xuất thế gian, ngôn hành, cử chỉ của các ngài giống như voi. Người đời anh hùng hào kiệt đều là rồng đi, hổ bước. Phật, Bồ Tát không như vậy, tiếp cận với các ngài là an tường, thân giáo, là uy đức của các ngài.

Thuận bỉ ý ngữ cố” (Nói lời đẹp lòng người), chữ “thuận” này bên trong cần có trí tuệ cao, có phương tiện thiện xảo không như phàm phu chúng ta chỉ có thể hằng thuận chúng sinh ở mức độ có chừng mực.

Khuyến dụ sách tấn” là khuyên dạy, khuyến khích, vỗ về để “Khai Tri Kiến Phật” cho chúng sinh, chỉ bày Tri Kiến Phật cho họ (tức “Thị Tri Kiến Phật”), đây thuộc về ngôn giáo. Hiện nay, chúng ta sử dụng kỹ thuật cao, mạng internet quốc tế, truyền hình vệ tinh, có thể cùng các chúng sinh có duyên trên toàn thế giới ở những khu vực khác, cùng nhau trao đổi những kinh nghiệm học tập, đem những gì của bản thân mình tâm đắc, hoặc có thành tựu trong học tập mang ra chia sẻ với mọi người. Đây là việc tốt, đều là “Khai Phật Tri Kiến”, “Thị Phật Tri Kiến”.

Xã hội ngày nay khó khăn nhất là không được nhìn thấy phong thái mẫu mực của bậc Thánh Hiền, có nói nhiều, người khác cũng không tin!

– Vậy phải làm sao?

– Nói rồi cần phải làm cho được!

Không nên cầu người khác, cầu người khác không tin tưởng được! Người khác không chịu làm đâu! Việc này chỉ cầu chính mình. Người khác không làm, ta làm. Ta đem một trăm mười ba việc trong “Đệ tử qui” thực hành trong cuộc sống hàng ngày. Tuy không phải là Thánh nhân, người khác nhìn vào cũng có một chút giống Thánh Nhân. Nếu hành vi tạo tác của ta trái ngược với “Đệ tử qui” thì những gì ta nói, ta dạy, họ đều không tiếp nhận!

– Vì sao Phật Thích Ca Mâu Ni, đức Khổng Tử dạy thành công còn chúng ta dạy lại thất bại?!

– Nguyên nhân là Phật làm được, Khổng Tử làm được, chúng ta làm không được!

Hiện nay, tôi mỗi ngày giảng bốn tiếng đồng hồ, đọc bốn tiếng đồng hồ, những thời gian khác niệm Phật, lạy Phật, đây cũng là vận động đối với thân thể. Năm nay, (năm 2011) Liên Hiệp Quốc, Hội Phật Giáo thế giới vẫn còn hoạt động đoàn kết tôn giáo, vận động hòa bình, hóa giải xung đột, tôi tham gia lần cuối. Sau khi hoạt động này kết thúc, tất cả mọi hoạt động tôi đều không tham gia nữa. Tuổi lớn rồi! một lòng một dạ niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, việc này mới quan trọng, những việc khác đều không quan trọng!

Rất nhiều năm qua, trên thế giới những quan hệ này của tôi đều rất tốt. Hy vọng những người trẻ, những thế hệ sau cần tiếp tục duy trì. Con đường đã mở, các bạn cần phát tâm, phát nguyện vì thế giới này, vì chúng sinh khổ nạn mà góp một phần công sức. Nếu không đủ năng lực, chỉ cần cố gắng học hỏi, mười năm sau sẽ gánh vác được. Trách nhiệm “Tục Phật tuệ mạng”, “duy trì tuyệt học của Thánh Hiền” ở trên vai các bạn. Những gì tôi làm đều đã làm được rồi; các bạn làm tiếp, khó khăn sẽ không nhiều. Khó khăn không ở bên ngoài, hoàn toàn do nơi bạn.

Nếu bạn thật sự phát tâm Bồ Đề, đối với chư hữu tình “thường hoài từ nhẫn”, tôi tin bạn sẽ thuận buồm xuôi gió. Bên trong có tâm Bồ Đề, bên ngoài có chư Phật Như Lai gia trì, có long thiên hộ pháp ủng hộ, thành tựu của bạn sẽ vượt xa hơn tôi rất nhiều. Đây là điều tôi rất vui khi nhìn thấy. Thế giới nếu không thể hòa hợp, chúng sinh sẽ rất khổ! Chúng ta nên suy nghĩ nhiều về phương diện này để kích thích đạo tâm của chính mình. Từ chỗ này sẽ phát sinh trí tuệ, ý chí kiên cường, dũng mãnh không lui bước, bắt đầu từ bản thân, bắt đầu từ đạo tràng này của chính mình.

Đạo tràng của chúng ta bên ngoài nhìn vào cũng không tệ! Nhưng bên trong là một nắm cát rời, không đoàn kết! Tự bản thân cần cố gắng suy nghĩ! Cửa Phật đối với mọi người không tệ! Phật tử tại gia cúng dường không điều kiện, mục đích là hy vọng các bạn an tâm học đạo, sau này khai ngộ chứng quả giáo hóa chúng sinh. Nếu chúng ta không làm được sẽ giống như người xưa nói: “Một hạt gạo của thí chủ lớn như núi Tu Di, đời này không thành đạo, mang lông đội sừng trả”. Thật sự là phải chịu trách nhiệm! Nên dùng câu này khuyến khích cho chính mình.

Học Phật, chúng ta chỉ có hai con đường: Một là thành Phật, hai là đọa tam đồ! Chúng ta đi con đường nào? Trong tâm cần phải tường tận rõ ràng. Mục tiêu cuối cùng là sách tấn, khuyến khích mọi người tiến bộ, giúp họ “Ngộ Phật Tri Kiến”, “Nhập Phật Tri Kiến”. “Ngộ” là khai ngộ; “Nhập” là chứng quả. Chứng quả của Tịnh Tông chính là vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Không được vãng sinh là chúng ta có tội: Thứ nhất là có lỗi với chính mình, đời này ta có đầy đủ nhân duyên, vì sao không được vãng sinh?! Đó chính là không đủ thiện căn, phước đức! Thiện căn là tín nguyện, ta không có chánh Tín, không có nguyện vọng mạnh mẽ. Phước đức là thực hành, bản thân ta giải đãi, lười biếng không có thực hành. Trong đây nhân tố rất nhiều, cũng rất phức tạp!

Tuổi trẻ ngày nay chạy theo cái viễn vông, muốn thật tốt, muốn thật nhanh, đặc biệt không biết lúc nên quay lại! Người xưa nói “dục tốc tắc bất đạt”, người khác đi sai đường, ta đi theo cũng sẽ sai đường, lúc quay đầu lại đã không còn kịp nữa!

Học Viện của chúng ta trong mười năm qua, nếu như mỗi học viên đều “Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu” thì hôm nay mọi người đều đã có thành tựu. Học Viện sẽ có được mười mấy hoặc hai mươi mấy giáo viên. Tôi từng nói: Nếu có được mười mấy giáo viên. Học viện liền có thể chính thức chiêu sinh, có thể mở trường. Kỳ vọng của chính phủ Úc đối với chúng ta là hy vọng chúng ta mở trường. Chính chúng ta cũng hy vọng, nhưng không có giáo viên! Mở trường thì dễ, nhưng ai đến dạy?!

Cho nên, đây là vấn đề thực hiện bày ra trước mắt chúng ta. Hy vọng kết thúc của mười năm tới không phải trôi qua vô ích! Mười năm này, những dạy dỗ cốt lõi nên cố gắng ghi nhớ học tập, mười năm tới không được trải qua như thế này. Trải qua như vậy, Phật Giáo sẽ diệt vong, mất trong tay của chúng ta! Kỳ thật sự việc không đến nỗi khó khăn như vậy!

– Dùng phương pháp gì để có thể cứu chính mình? Cứu Học Viện Tịnh Tông? Cứu Phật pháp?

Cung kính Tam Bảo, phụng sự sư trưởng”. Nếu chúng ta để trong tâm, thật sự có thể làm được hai câu này thì mười năm sau chắc chắn sẽ thành công.

Chúng ta nên tìm lại tâm chân thành của chính mình. Tâm của chúng ta ngày nay là giả dối, không chân thành, không biết cung kính, cống cao ngã mạn, mỗi người đều cho mình là hơn, không tôn trọng người khác cho nên là một chậu cát rời! Các bạn cho rằng mình đúng cũng không làm được! Nếu thật sự có người làm được mới cảm hóa được tất cả. Các bạn hy vọng tôi thường ở nơi này.

– Tôi có thể thường ở lại đây không?

– Bản thân tôi không làm chủ được, tùy duyên qua ngày! Ở đâu có duyên thì đến nơi đó!

– Thế nào có duyên?

–  Nơi nào có người chịu thực hành! Các bạn ở đây không chịu nghe lời; nơi khác nếu có người biết nghe lời, tôi sẽ đến đó. Sự việc này không phải là việc của cảm tình; cảm tình sẽ làm hư chuyện! Việc này là việc của lý trí; không phải của cảm tình!

Hoàn cảnh tu học ở đây tốt, các nơi trên thế giới còn có người tu hành chân chánh, mời những người tu hành chân chánh này đến ở một nơi cộng tu là việc tốt. Chúng ta tôn trọng, cúng dường, hộ trì họ, chúng ta tuyên dương Phật pháp, tôi vẫn có thể làm được một chút việc như vậy. Hy vọng các học viên khuyến khích qua lại; Phật, Bồ Tát đang trông chờ, trông mong chúng ta quay đầu là bờ, trông mong chúng ta buông bỏ lợi ích cá nhân, vì Chánh pháp, vì chúng sinh khổ nạn mà ra sức cống hiến. Ra sức cống hiến là thành tựu chính mình. Nên bắt đầu từ hai câu này: “Cung kính Tam Bảo, phụng sự sư trưởng”. Hai câu này, nếu như không có đức hạnh thì không thể làm được!

Tự khiêm viết cung, tôn nhân chi đức viết kính” (Tự khiêm là “cung”, tôn trọng đức hạnh của người khác là “kính”): Cần học khiêm nhường, cung kính đó là việc tốt, là mỹ đức; cũng chính là tánh đức. Không có khiêm nhường tức là ngạo mạn; ngạo mạn là phiền não nghiêm trọng làm chướng ngại đức hạnh, chướng ngại học tập, chẳng những không thể thành tựu công đức mà còn rất dễ phá hoại công đức. Năm đức của Khổng tử được học trò nhìn nhận, khâm phục đối với thầy là: “ôn, lương, cung, kiệm, nhường”. Thầy ôn hòa, thiện lương, cung kính (tức là khiêm tốn), tiết kiệm, nhường nhịn. Năm đức này trong tự tánh vốn đủ, tất cả chư Phật, Bồ Tát, Thánh Hiền đều có.

Cung kính Tam Bảo”, theo chú giải của cụ Hoàng: Hết thảy Phật Đà là Phật Bảo, giáo pháp do Phật Đà giảng ra là Pháp Bảo, người tuân theo giáo pháp của Phật Đà tu hành là Tăng Bảo. Theo Hòa Thượng Tịnh Không: “Tăng” cũng có nghĩa là hòa hợp. Tăng Bảo ở đây không riêng chỉ người xuất gia mà bất luận người tại gia hay xuất gia nếu tùy thuận theo giáo pháp của Phật, thật sự làm theo, người đó là Tăng Bảo chân chính. Ngoài ra “Tự Tánh Tam Bảo” còn đại biểu cho Giác, Chánh, Tịnh.

– Phật là tự tánh giác thì không mê

– Pháp là tự tánh chân chánh thì không tà.

– Tăng là tự tánh thanh tịnh, thì không ô nhiễm.

Sau khi Phật diệt độ, Tam Bảo tồn tại ở thế gian gọi là “Trụ Trì Tam Bảo”. “Trụ Trì Tam Bảo” là biểu pháp nhắc nhỡ chúng ta học tập: Nhìn thấy tượng Phật, nhắc chúng ta nhớ đến Phật, đến lời dạy của ngài, đến cuộc đời ngài thật sự đã vì chúng sinh mà thị hiện trì giới, thọ khổ. “Cung kính Tam Bảo” là khâm ngưỡng đức hạnh của Tam Bảo. Người học Phật phải bắt đầu từ “cung kính Tam Bảo”. Thế nhưng, hiện tại có rất nhiều người đưa ra nghi vấn:

– Có rất nhiều Tăng ni không đúng pháp, chúng ta có cần cung kính đối với họ chăng?!

– Vẫn phải cung kính! Nếu không có tâm cung kính đối với họ thì tâm khinh mạn, tâm phỉ báng thậm chí đến hủy nhục thảy đều nảy sinh! Muốn thành Phật phải noi theo hạnh Phật, noi theo hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, bình đẳng cung kính đối với tất cả mọi người trong mọi thời, mọi lúc, không phân biệt người thiện, kẻ ác. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Đây là đứng trên phương diện Phật tánh mà cung kính họ.

Riêng đối với hành vi tạo tác của họ đều có nhân quả báo ứng, đó là việc của họ không liên quan gì đến ta. Hơn nữa, lễ kính là tánh đức của chính mình. Học lễ kính, không gì khác hơn là hồi phục tánh đức của chính ta, sự việc này rất quan trọng. Chúng ta tu hành chính là đem tất cả tập khí phiền não không tốt của chính mình tu sửa lại; những thứ: Tự tư tự lợi, danh vọng lợi dưỡng, thị phi nhân ngã, tham sân si mạn v.v… thảy đều buông bỏ thì tánh đức của ta mới hiện bày.

Nên nhớ: Tôn kính người khác, người khác cũng tôn kính bạn, đây là định luật, là chân lý! Trong Thập Đại Nguyện Vương Phổ Hiền Bồ Tát, điều thứ nhất là “lễ kính chư Phật”, việc này bạn không làm được thì những điều khác cũng đều không có! Mười nguyện giống như tòa lầu mười tầng, lễ kính là tầng thứ nhất; không có tầng thứ nhất làm sao có tầng thứ hai, tầng thứ ba v.v…, toàn bộ đều không có! Không riêng trong Phật pháp vào cửa từ “lễ kính” mà học vấn của thế gian cũng vào cửa từ “lễ kính”. Tục ngữ có câu “Tiên học lễ, hậu học văn”, trước phải học lễ kính, sau mới học văn chương chữ nghĩa.

Phật Bảo”, Phật không còn trụ thế, giáo pháp của ngài vẫn mãi lưu truyền đến ngày nay. Giáo pháp là kinh điển, chúng ta tiếp nhận giáo pháp của Phật chính là biểu thị tâm cung kính “Phật Bảo”; cảm ân đội đức đối với Phật. Chúng ta tạo tượng Phật cũng là biểu hiện kính ý của mình đối với ngài. Mỗi giờ, mỗi phút vẫn không quên hướng đến Phật để học tập. Nhìn tượng Phật nhắc nhở ta phải đem tâm chân thành, cung kính thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày đối nhân xử thế, tiếp vật. Cung kính tất cả chúng sinh như cung kính Phật, đây là học Phật. Nếu ngược lại, đạo nghiệp của bạn chắc chắn khó thành tựu!

Pháp Bảo”, hiện tại tôi ở đây giảng kinh dạy học, tôi biết có rất nhiều người không ở đây, mỗi lần tôi diễn giảng họ đều ở trên mạng thu nghe. Họ học Phật chân thật là có thành tựu. Họ thật làm!

– Vì sao họ được thành tựu?

–  Vì có tâm “cung kính Tam Bảo”, then chốt chính ở câu này.

Cung kính không phải nói ở ngoài miệng.

– Thế nào gọi là cung kính?

– Chân thật cung kính là y giáo phụng hành. Khi Phật còn ở đời, “Tam Bảo” lấy Phật làm trung tâm. Sau khi Phật diệt độ, lấy Pháp làm trung tâm.

– Chúng ta có tâm cung kính đối với “Pháp bảo” chăng?

– Việc này, cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói với tôi: Trước khi đến Trung Quốc Đại Lục, ông cho rằng người Singapore học Phật rất tốt, tương đối cung kính Tam Bảo. Sau khi đến Đại Lục thì trên trời dưới đất không thể sánh! Vì sao? Họ xem thấy được kinh Phật, hai tay nâng lấy, cung kính để trên đầu. “Pháp Bảo” đối với họ thật quá trân quí, thật quá hy hữu!

Chúng ta ở đây in ấn quá nhiều, có được quá dễ dàng, không thấy đó là quan trọng, không có tâm cung kính! Cho nên thành tựu của chúng ta không thể sánh được với người ở Đại Lục. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên mỗi năm đều muốn đến các nơi ở Trung Quốc để thăm viếng. Ông nói người ở Đại Lục bần cùng, lạc hậu, đời sống vật chất rất gian nan. Thế nhưng, tặng tiền cho họ, họ không nhận; tặng vật chất cho họ, họ cũng không cần! Họ bằng lòng trải qua ngày tháng khổ nhất.

– Họ cần cái gì?

– Họ cần Pháp Bảo! Cho nên tặng kinh sách, tặng băng ghi hình, họ đội trên đầu mà tiếp nhận. Xem thấy họ chân thành, cung kính như vậy, chúng ta sinh tâm hổ thẹn!

Trước đây, chúng ta có gửi tặng băng ghi âm, ghi hình qua đó. Họ nghe đi nghe lại đến mờ nhạt, âm thanh gần như không nghe được, họ vẫn quì ở đó mà chuyên tâm lắng nghe. Chúng ta từ ngoài đến, xem thấy cảnh tượng này trong lòng rất xót xa, rơi lệ! Nghĩ lại chính mình có được quá dễ dàng, không hề có ý niệm trân trọng, làm sao có thể so được với họ! Nên nhớ: Pháp Bảo nhất định phải lưu thông, Pháp Bảo không thể tích chứa ở một nơi! Bạn chính mình không học, phải mau tặng cho người khác học, đó là vô lượng công đức, không nên cất giữ.

Tài vật cũng không nên cất giữ. Ngày nay, có rất nhiều người ở ngay bên bờ vực đói khát, của cải chúng ta quá nhiều trong khi người khác chịu khổ, chịu nạn, đó là việc không nên. Phải đem của dư ra cứu giúp người. Thế nhưng, phải thể hội giáo huấn của Phật Đà: Phương pháp cứu khổ cứu nạn triệt để viên mãn nhất vẫn là giáo dục. Nếu họ không nhận qua giáo dục, không có trí tuệ, không có năng lực, họ vĩnh viễn không thể nào cải thiện đời sống của họ. Cho dù bạn có tâm từ cứu họ một đời, nuôi họ một đời, cũng không bằng giúp họ khai trí tuệ, đạt được kỹ năng, cải thiện được đời sống của họ, đồng thời cũng giúp họ cống hiến cho xã hội, đại chúng, đây mới là chân thật cứu tế triệt để.

Tăng Bảo”: Hình tượng người xuất gia rất đáng quí! Người chân thật học Phật, không cần phải tò mò, tìm xem họ làm những gì?

Chỉ cần nhìn thấy biểu hiện bên ngoài: Cạo tóc, mặc trên người áo cổ tròn tay rộng, chúng ta liền nghĩ ngay đến “Tăng”. Đây là ý nghĩa gì? Khi thọ “tam quy”, chúng ta đều đã đọc qua: “Quy y tăng, chúng trung tôn”. Chữ “chúng” ở đây là đoàn thể. Con người không thể tách rời khỏi đoàn thể mà có thể độc lập sinh tồn. Đoàn thể nhỏ nhất là gia đình, vợ chồng, con cái. Trong gia đình lớn còn có cha mẹ, ông bà, anh, chị em, họ hàng. Đoàn thể thế gian lớn nhất là quốc gia. “Chúng trung tôn” là thế gian, bao gồm tất cả đoàn thể, là một đoàn thể đáng được người tôn kính. Vì sao? Vì đó là đoàn thể hòa thuận gọi là “hòa hợp tăng”. Đoàn thể này tuân thủ sáu giới điều gọi là “Lục Hòa kính” mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy. Họ chắc chắn được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần cung kính ủng hộ nên gọi là “chúng trung tôn”, là đoàn thể tôn quí nhất.