KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

 

TẬP 17

QUYỂN BỐN MƯƠI BỐN

PHẨM THẬP THÔNG THỨ HAI MƯƠI TÁM

Thập thông tức là mưới thứ thần thông. Thần thông là gì ? Đó là :

“Diệu dụng khó dò là thần
Tự tại vô ngại là thông”.

Tức cũng là sức nhậm vận tự tại không thể dò, không thể ngại, cảnh giới thiên biến vạn hoá, không thể nghĩ bàn. Thần thông từ đâu mà có ? Nói đơn giản là, người tiểu thừa tu pháp tứ đế và pháp quán mười hai nhân duyên, tu quán đến cảnh giới viên mãn, thì chứng được thần thông. Người đại thừa tu lục độ vạn hạnh, tham thiền đả toạ, tu tập chỉ quán, hành Bồ Tát đạo, tu đến cảnh giới viên mãn thì chứng được thần thông.

Thần thông của A la hán và thần thông của Bồ Tát có chỗ khác nhau. Thần thông của A la hán, có giới hạn nhất định, chỉ thấy được sự vật trong ba ngàn đại thiên thế giới, chỉ nghe được âm thanh trong ba ngàn đại thiên thế giới, chỉ biết được nhân duyên trong tám vại đại kiếp, nhưng vẫn còn phải tác ý để quán sát, mới biết được. Còn thần thông của Bồ Tát thì chẳng có giới hạn, thấy được cõi nước trong hạt bụi, hạt bụi trong cõi nước, chư Phật ở trong bụi cõi. Nghe được chư Phật đang diễn nói diệu pháp ở trong trùng trùng cõi nước, biết được tất cả tâm niệm của chúng sinh trong bụi cõi, biết được nhân duyên ngoài tám vạn đại kiếp, cũng không cần ở trong định quán sát, nghĩ đến liền biết được.

Phẩm này, là phẩm thứ hai mươi tám trong ba mươi chín phẩm của Kinh Hoa Nghiêm, là Phẩm Thập Thông thứ hai mươi tám.

Vì Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, công đức viên mãn, mà đắc được mười thứ thần thông này. Nếu chúng ta phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo, cũng có thể đắc được mười thứ thần thông này, chỉ cần khi nào tu đến viên mãn, thì không cần mà tự được.

Bồ Tát có thần thông rồi, có phải không nên hiện thần thông chăng? Chẳng phải. Nếu Bồ Tát có thần thông, mà không thị hiện thần thông, thì có thần thông lại có dụng gì ? Giống như có người, ông ta có một hạt bảo châu, mà cất giấu ở trong túi áo, không biết nó là châu báu vô giá, nên vẫn nghèo cùng, không có cơm ăn áo mặc, không có nhà ở, mà chẳng biết đem hạt châu ra đổi tiền về để xài. Nếu có thần thông mà không dùng thần thông, thì cũng giống như vậy.

Không có thần thông, mà muốn dùng thần thông, thì không thể được, đáng cười cũng giống như người si nói mộng. Nhưng nếu như có thần thông, thì có thể tận dụng thần thông. Giáo hoá chúng sinh, lợi dụng thần thông, thì sẽ có hiệu nghiệm, khiến cho chúng sinh tăng thêm niềm tin. Pháp môn thiện xảo phương tiện này, các vị phải chú ý ! Ma cũng hay hiển thần thông, khiến cho người tham cầu thần thông, người chẳng có định lực, dễ bị lừa gạt, mất đi đạo nghiệp, làm quyến thuộc của ma vương. Điểm này, phải đặc biệt chú ý, không thể không cẩn thận.

Hiện tại có người vô tri vô thức, nhất là Phật giáo đồ biết một hiểu nửa, họ sao mình cũng vậy. Đối với đạo lý Phật pháp, tựa đúng mà không đúng, chẳng muốn tìm hiểu sâu xa, thậm chí căn bản cũng không biết, hoặc chẳng muốn nghiên cứu Phật pháp. Giả sử thấy có người hiển thần thông, rất kinh ngạc nói : “Thời đại mạt pháp, con người không thể có thần thông” ! Nói những lời này, thật là ấu trĩ, nói đơn giản đó là chủng tử địa ngục, chẳng hiểu một chút gì về Phật pháp. Các vị chú ý ! Bất cứ đối với sự việc gì, trước khi chưa minh bạch triệt để, không thể tuỳ tiện phê bình nói bậy bạ, càng không thể tuỳ tiện nói không ngừng. Sai nhân quả rồi, thì phải đoạ vào địa ngục cắt lưỡi.

Phật giáo có đạo lý chân chánh, có định luật vạn cổ không thay đổi, có lời những lời vàng thước ngọc, đều do kim khẩu của Phật nói ra, cũng là kinh nghiệm của Phật, tuyệt đối không phải là đạo lý bịt tai ăn cắp chuông, lường gạt người. Lời dạy của Phật là kinh tạng, thân giáo của Phật là luật tạng, chú giải của đệ tử Phật là luận tạng. Tam tạng mười hai bộ kinh tức là lời dạy chân lý, giáo nghĩa chân thật không ngoa.

Chân lý sở tại, mười phương chư Phật đều đến ủng hộ. Chân lý sở tại, mười phương các Bồ Tát đều đến ủng hộ. Chân lý sở tại, thiên long bát bộ đều đến ủng hộ. Minh bạch chân lý, mới là chân chánh Phật giáo đồ. Không minh bạch chân lý là tự lầm lẫn Phật giáo đồ. Các vị ! Phải nhận rõ chân lý, phải biện rõ thị phi, không thể hồ đồ, người ta nói gì, thì tin cái đó. Nếu làm như vậy, thì không thể được.

Bồ Tát đắc được mười thứ thần thông này, tại sao ? Đó là do thiện xảo phương tiện giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, không đồng lưu hợp ô với người thế tục. Nếu người ta sao mình cũng vậy, thì đó là Phật giáo đồ hồ đồ, chẳng những không nghiên cứu chân lý, ngược lại tìm cầu tà pháp. Tin tà pháp, phỉ báng chánh pháp, Phật giáo đồ như thế, thật là đáng thương !

Hiện tại là thời đại mạt pháp, có rất nhiều pháp thân Đại sĩ, đảo giá từ thuyền, đến thế giới Ta Bà giáo hoá chúng sinh, cảnh tỉnh chúng sinh, xa lìa tà tri tà kiến, gần gũi chánh tri chánh kiến. Pháp của Phật nói là chánh pháp, pháp của ma nói là tà pháp. Y giáo phụng hành, y pháp tu hành, nghiêm trì giới luật, thực hành giới luật, tức là chánh pháp, bằng không, tức là tà pháp. Phàm là chẳng hợp với giới luật, thì tuyệt đối đừng làm. Hợp với giới luật, thì tận sức đi làm, đó là đạo của Bồ Tát hành.

Tâm của Bồ Tát, tuyệt đối không ích kỷ lợi mình, mua danh chuộc tiếng khen. Ngài bi tâm thiết thiết, hết lòng giáo hoá chúng sinh, lìa khổ được vui. Bồ Tát lấy sự lợi ích chúng sinh làm điểm xuất phát, chẳng lấy sự lợi ích của mình làm tiền đề, đây là tinh thần của Bồ Tát. Bồ Tát có tâm từ bi, không thể cảm tình dụng sự. Có tư tưởng vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, tuyệt đối không khởi tâm phân biệt, Ngài xem tất cả chúng sinh, đều là người đáng được độ. Chịu cực chịu oán, không phân ngày đêm, lo độ chúng sinh thoát khỏi biển khổ. Ngài nhận rằng là việc phải làm, cho nên đắc được thần thông.

Hiện tại có những Phật giáo đồ không có trí huệ, đi khắp nơi tuyên truyền, thời đại mạt pháp không thể hiển thần thông, cũng không thể có thần thông. Tại sao phải tuyên truyền như vậy ? Vì họ ngu si, không chịu dụng công tu hành, tâm đố kỵ tác quái. Chính họ chẳng có thần thông, cho rằng người khác cũng không có thần thông. Họ chẳng những không có thần thông, mà cho dù người khác có thần thông, họ cũng nhìn chẳng thấy. Tại sao ? Vì người có thần thông, biết họ có tà tri tà kiến, cho nên họ nhìn người có thần thông cũng không nhận ra. Do đó :

“Trước mặt bỏ qua,
Quay lưng mất đi cơ hội”.

Bồ Tát thấy Phật giáo đồ có chánh tri chánh kiến, lúc bí yếu mới chịu hiển thần thông, khiến cho tăng thêm niềm tin, nỗ lực tu đạo, đắc được giải thoát.

Các vị thiện tri thức, bất cứ vị nào có thần thông, tôi đều hoan nghênh các vị hiển thần thông. Nếu lời nói có tội, tôi sẽ một mình chịu trách nhiệm, dù đoạ địa ngục, tôi cũng cam lòng đi thọ tội, chẳng có quan hệ gì đến các vị, đừng có sợ. Chỉ e rằng các vị không có thần thông, hiển không được thần thông. Nếu có thần thông, tận lượng hiển hiện thần thông. Tôi tuyệt đối giữ gìn các vị, hỗ trợ các vị.

Thời đại mạt pháp, cần người có chân tâm tu đạo, cần người khai ngộ, cần người chứng quả. Chứng quả rồi, phải trở lại tiếp dẫn bạn bè có duyên thoát khỏi ba cõi, đến cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Đây là hy vọng của tôi đối với các vị.

Bấy giờ, đại Bồ Tát Phổ Hiền bảo các Bồ Tát rằng : Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ thông. Những gì là mười ?

Sau khi nói xong Phẩm Thập Định, lúc đó, Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền, bảo tất cả Bồ Tát trong pháp hội Hoa Nghiêm rằng : “Các vị đệ tử của Phật ! Các vị mọi người có biết đại Bồ Tát có mười thứ thần thông chăng ? Tôi sẽ nói kỹ càng cho các vị mọi người được rõ, hy vọng mọi người chú ý lắng nghe”.

Những gì là mười thứ thần thông mà đại Bồ Tát có ? Đó là :

1. Trí thần thông khéo biết tâm người khác.
2. Trí thần thông thiên nhãn vô ngại.
3. Trí thần thông biết thuở quá khứ kiếp túc trụ.
4. Trí thần thông biết hết kiếp thuở vị lai.
5. Trí thần thông thiên nhĩ thanh tịnh vô ngại.
6. Trí thần thông đến tất cả cõi Phật trụ không thể tánh, không động tác.
7. Trí thần thông khéo phân biệt tất cả lời lẽ.
8. Trí thần thông vô số sắc thân.
9. Trí thần thông tất cả pháp.
10. Trí thần thông vào tất cả pháp diệt tận tam muội.

THỨ NHẤT, TRÍ THẦN THÔNG KHÉO BIẾT THA TÂM

Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng tha tâm trí thông, biết được tâm khác biệt của chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới.

Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Đại Bồ Tát có thần thông tha tâm trí. Trong tâm của người khác nghĩ gì, muốn nói lời gì, trước khi chưa làm, Bồ Tát đều biết. Ngài biết được hết thảy tâm niệm, đều khác nhau của chúng sinh ở trong ba ngàn đại thiên thế giới. Vì tâm chúng sinh trong một thế giới là như vậy, tâm chúng sinh trong tiểu thiên thế giới cũng như vậy, tâm chúng sinh trong trung thiên thế giới cũng như vậy, tâm chúng sinh trong đại thiên thế giới, như ở dưới đây nói hai mươi chín thứ tâm.

Thế nào là ba ngàn đại thiên thế giới ? Nói đơn giản là một bốn thiên hạ là một thế giới. Một ngàn thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Vì ba lần ngàn nên gọi là ba ngàn đại thiên thế giới.

Đó là : Tâm thiện, tâm bất thiện, tâm rộng, tâm hẹp, tâm lớn, tâm nhỏ, tâm thuận sinh tử, tâm trái sinh  tử, tâm Thanh Văn, tâm Độc Giác, tâm Bồ Tát, tâm Thanh Văn hành, tâm Độc Giác hành, tâm Bồ Tát hành, tâm trời, tâm rồng, tâm Dạ Xoa, tâm Càn Thát Bà, tâm A Tu La, tâm Ca Lâu La, tâm Khẩn Na La, tâm Ma Hầu La Già, tâm người, tâm chẳng phải người, tâm địa ngục, tâm súc sinh, tâm chỗ Diêm Ma vương, tâm ngạ quỷ, tâm chúng sinh các chỗ nạn.

Hai mươi chín thứ tâm đó là :
1. Tâm thiện : Trì giới, tu định, tu huệ, đều là tâm thiện.
2. Tâm bất thiện : Có tham, sân, si, ba độc tức là tâm bất thiện. Thập thiện và thập ác đều do thân miệng ý tạo thành. Tóm lại, ba nghiệp thanh tịnh, tức là thập thiện nghiệp. Ba nghiệp chẳng thanh tịnh, tức là thập ác nghiệp.
3. Tâm rộng : Tức là tâm rộng lớn.
4. Tâm hẹp : Tức là tâm hẹp hòi.
5. Tâm lớn : Tâm đại lượng lớn, có thể bao dung thiên hạ.
6. Tâm nhỏ : Tâm tiểu lượng nhỏ, nếu có người nói một câu nghe không hoan hỉ, bèn nổi nóng, do đó “Tâm lượng hẹp hòi”.
7. Tâm thuận sinh tử : Tức là tâm của phàm phu.
8. Tâm trái sinh tử : Tức là tâm Thánh nhân.
9. Tâm Thanh Văn : Tức là tâm tu pháp tứ đế.
10. Tâm Độc Giác : Tâm quán mười hai nhân duyên.
11. Tâm Bồ Tát : Tâm tu lục độ vạn hạnh.
12. Tâm Thanh Văn hành : Tức là tâm Thanh Văn tu hành.
13. Tâm Độc Giác hành : Tức là tâm Dộc Giác tu hành.
14. Tâm Bồ Tát hành : Tức là tâm Bồ Tát tu hành.
15. Tâm trời : Tâm người trên trời, rất hoan hỉ khoái lạc.
16. Tâm rồng : Rất hoan hỉ dùng thần thông, tại sao phải bị đoạ làm rồng ? Vì thuở xưa tu hành, chuyên tu pháp đại thừa, ngày đêm tinh tấn không giải đãi, nhưng không giữ giới luật, thường phạm quy cụ. Do đó : “Thừa cấp giới hoãn”, vì thừa cấp (tu đại thừa), mà đắc được thần thông. Do giới hoãn (phạm giới), mà đoạ làm súc sinh.
17. Tâm Dạ Xoa : Dịch là tốc tật quỷ, vì chúng đi rất nhanh. Có Dạ Xoa bay trên không, Dạ Xoa đi trên không, Dạ Xoa đi dưới đất, ba loại, đều thuộc về quỷ, hoan hỉ nhiễu loạn người.
18. Tâm Càn Thát Bà : Dịch là hương thần, vì chúng hoan hỉ ngửi mùi hương, còn dịch là nhạc thần, là thần ca hát nhảy múa của trời Đế Thích.
19. Tâm A Tu La : Chúng hoan hỉ đấu tranh, thường nóng giận. A tu la dịch là vô đoan chánh, người nam xấu, người nữ đẹp.
20. Tâm Ca Lâu La : Dịch là kim xí điểu, vì cánh của chúng có ánh sáng màu vàng, rất thích ăn rồng.
21. Tâm Khẩn Na La : Dịch là nghi thần, vì trên đầu có một cái sừng, khiến cho người thấy sinh nghi.
22. Tâm Ma Hầu La Già : Dịch là đại phục hành, tức là thần mãng xà, rất thích phun độc hại người.
23. Tâm người : Tâm của một số người ở thế gian.
24. Tâm chẳng phải người : Tâm của một số chúng sinh thế gian.
25. Tâm địa ngục : Tâm chúng sinh thọ khổ dưới địa ngục.
26. Tâm súc sinh : Tâm của hết thảy súc sinh.
27. Tâm chỗ Diêm Ma Vương : Ở dưới âm phủ quản lý thiện ác của nhân gian, phán đoán sinh tử của con người
28. Tâm ngạ quỷ : Ngạ quỷ thích ăn uống, nhưng thấy thức ăn uống thì biến thành lửa, không được ăn uống.
29. Tâm chúng sinh các chỗ nạn : Tâm chúng sinh không dễ gì trụ xứ.

Vô lượng đủ thứ tâm chúng sinh khác biệt như vậy, đều phân biệt biết được. Như một thế giới, như vậy trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, trăm ngàn ức Na do tha thế giới, cho đến hết thảy tâm chúng sinh, trong các cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, đều phân biệt biết được.

Vô lượng đủ thứ tâm chúng sinh khác biệt như vậy, Bồ Tát vì đắc được tha tâm thông trí, cho nên đều phân biệt biết được rõ ràng. Như một thế giới, như vậy trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, trăm ngàn ức na do tha thế giới, cho đến hết thảy tâm chúng sinh, trong các cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, Bồ Tát đều hoàn toàn phân biệt biết được rõ ràng.

Đó là trí thần thông khéo biết tha tâm thứ nhất của đại Bồ Tát.

Đó là thần thông thứ nhất của đại Bồ Tát, gọi là tha tâm trí thần thông khéo biết.

Học Phật pháp phải dùng trí huệ để học, không thể dùng cảm tình để học. Dùng trí huệ học Phật pháp là chánh pháp. Dùng cảm tình để học Phật pháp là mạt pháp. Học Phật pháp phải có con mắt chọn pháp, lựa chọn thế nào là chánh pháp ? Thế nào là mạt pháp ? Tu chánh pháp dần dần thăng đi lên, tu mạt pháp dần dần đi xuống. Vì trí huệ là thanh tịnh, cảm tình là nhiễm ô. Nếu dùng cảm tình, chẳng những không thể thành tựu, ngược lại càng học càng đoạ lạc. Điểm này, các vị phải đặc biệt nhận thức rõ ràng. Tôi dùng chân tâm để giảng pháp chân thật cho quý vị. Tôi không muốn dùng thủ đoạn ích kỷ gạt người, để giảng pháp hư nguỵ. Tôi đoạ địa ngục, cũng không thể để cho các vị rớt vào địa ngục. Tôi giảng Kinh, biết bao nhiêu thì giảng bấy nhiêu, tôi đem hết tâm chân thành để hoằng dương Phật pháp, nghe hay không nghe là tuỳ quý vị. Tôi giảng kinh đã hơn mười năm, quý vị đã nghe kinh hơn mười năm, cũng chẳng đắc được lợi ích gì. Hiện tại tôi quyết tâm giảng chân thật pháp, các vị phải chú ý lắng nghe. Tông chỉ của tôi là :

“Rét chết không phan duyên
Đói chết không hoá duyên
Nghèo chết không cầu duyên
Tuỳ duyên không đổi
Không đổi mà tuỳ duyên
Giữ gìn ba đại tông chỉ của chúng ta
Xả mạng làm Phật sự
Tạo mạng làm bổn sự
Chánh mạng làm Tăng sự
Tức sự minh lý, minh lý tức sự
Giữ gìn Tổ sư một mạch tâm truyền”.

Chúng ta là Phật giáo đồ, nếu bị chết đói, chết rét, là một sự việc quang vinh nhất. Vì Phật pháp mà hy sinh, đây là việc có giá trị nhất. Chúng ta nhất định phải kiên trì giữ gìn, bất cứ gặp hoàn cảnh nào, cũng không thể thay đổi tông chỉ của chúng ta. Bất cứ lúc nào, cũng không thể thay đổi tinh thần của chúng ta. Chúng ta phải có chí khí :

“Rét chết đứng trước gió,
Đói chết ôm bụng đi”.

Chúng ta phải làm Phật giáo đồ có chí khí, phải có khí tiết kiên nhẫn không lung lay, gì cũng không sợ, dũng mãnh hướng về trước, tuyệt đối không lùi về sau, đó mới là chí hướng chân chánh của Phật giáo đồ.

THỨ HAI, TRÍ THẦN THÔNG THIÊN NHÃN VÔ NGẠI

Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng thiên nhãn trí thông thanh tịnh vô ngại, thấy chúng sinh trong thế giới, nhiều như hạt bụi của vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, chết đây sinh kia, hướng về đường lành, hướng về đường ác, tướng phước, tướng tội, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc dơ, hoặc tịnh. Phẩm loại như vậy, vô lượng chúng sinh.

Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát dùng thiên nhãn trí thông thanh tịnh vô ngại, thấy được chúng sinh trong thế giới, nhiều như hạt bụi của vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, hết thảy chúng sinh ở trong đó, hoặc chết ở đây, lại sinh về chỗ kia, hoặc chết ở thế giới này, lại sinh về thế giới kia, sự luân hồi quả báu như vậy, Bồ Tát dùng thiên nhãn vô ngại nhìn thấy liền biết rõ. Hoặc nhìn thấy chúng sinh sinh về ba đường lành, hoặc sinh về ba đường ác. Làm các việc thiện thì có tướng phước, làm các việc ác thì có tướng tội. Tướng phước là tướng phước đức viên mãn. Tướng tội là tướng xấu xí không gì sánh bằng. Hoặc sinh tướng tốt ngũ quan đoan chánh, hoặc sinh tướng xấu ngũ quan không đủ. Hoặc sinh tướng dơ bẩn, hoặc sinh tướng thanh tịnh. Phẩm loại khác nhau như vậy, có vô lượng chúng sinh.

Đó là chúng trời, chúng rồng, chúng Dạ Xoa, chúng Càn Thát Bà, chúng A Tu La, chúng Ca Lâu La, chúng Khẩn Na La, chúng Ma Hầu La Già, chúng người, chúng chẳng phải người, chúng chúng sinh thân nhỏ bé, chúng chúng sinh thân rộng lớn, chúng nhỏ, chúng lớn.

Đó là :

1. Chúng trời : Người ở trên trời, phước báo rất thù thắng, tướng mạo rất xinh đẹp. Nghĩ ăn thì có ăn, nghĩ mặc thì có mặc, nhưng khi phước trời hưởng hết, thì vẫn phải luân hồi đi thọ sinh.

2. Chúng rồng : Rồng có thần thông quảng đại, ở trong biển, khi giăng mây mưa xuống thì có thể đến trong hư không, nhưng rồng có bốn thứ khổ :

a. Bị chim đại bằng bắt ăn thịt.
b. Khi giao cấu thì biến thành rắn.
c. Bị trùng nhỏ rúc rỉa ăn thịt.
d. Bị cát nóng làm thân thể đau khổ.

3. Chúng Dạ xoa : Chúng là ác quỷ lợi hại nhất, hành động như bay, đến các nơi làm tai ương, nhưng sau khi quy y Phật Pháp Tăng Tam Bảo rồi, trở thành hộ pháp thiện thần.

4. Chúng Càn thát bà : Chuyên môn đi khắp nơi tìm mùi hương, ăn mùi hương, thân toả ra hương thơm. Khi trời Đế Thích muốn nghe ca khúc, bèn đốt hương chiên đàn lên, thì chúng bèn ngửi mùi hương mà tìm đến.

5. Chúng A tu la : Rất thích đấu tranh, cho nên có phước trời mà không có đức trời, không thể hoà bình sống với nhau.

6. Chúng Ca lâu la : Dịch là chim đại bàng cánh vàng, cánh rộng khoảng ba trăm ba mươi do tuần, quạt nước biển rẽ làm đôi bắt rồng ăn.

7. Chúng Khẩn na la : Chúng chuyên tấu lên pháp khúc trang nghiêm, khiến cho người nghe sinh tâm thanh tịnh.

8. Chúng Ma hầu la già : Gọi là địa long, nhưng không có thần thông, không thể đằng không giá mây.

9. Chúng người : Hết thảy chúng sinh nhân loại.

10. Chúng chẳng phải người : Hết thảy những chúng sinh khác.

11. Chúng chúng sinh thân nhỏ bé : Tức là những con kiến, con trùng.

12. Chúng chúng sinh thân rộng lớn : Tức là những con voi, con cá lớn .v.v…

13. Chúng nhỏ : Tức là chúng sinh thân rất nhỏ, như vi khuẩn .v.v…

14. Chúng lớn : Tức là chúng sinh thân rất lớn, như khổng long thời xưa, hiện tại như trâu bò .v.v…

Như vậy đủ thứ ở trong chúng chúng sinh, dùng mắt vô ngại, thảy đều thấy rõ. Tuỳ theo sự tích tập nghiệp, tuỳ theo sự thọ khổ vui, tuỳ theo tâm, tuỳ theo sự phân biệt, tuỳ theo sự thấy, tuỳ theo lời nói, tuỳ theo nhân, tuỳ theo nghiệp, tuỳ theo duyên, tuỳ theo khởi lên, thảy đều thấy được, không có sai lầm.

Như vậy đủ thứ ở trong chúng chúng sinh, dùng thiên nhãn vô ngại để quán sát, thảy đều thấy rõ những cảnh giới đó. Tuỳ theo sự tích tập nghiệp thiện ác, tuỳ theo sự tiếp thọ khổ vui, tuỳ theo tâm ý, tuỳ theo sự phân biệt, tuỳ theo sự thấy hiểu, tuỳ theo lời nói, tuỳ theo nhân tạo ra, tuỳ theo nghiệp đã làm, tuỳ theo nhân duyên sinh ra, tuỳ theo cảnh giới khởi lên, thảy đều thấy được rất rõ ràng, không có sự sai lầm.

Đó gọi là trí thần thông thiên nhãn vô ngại thứ hai của đại Bồ Tát.

Đó là thần thông thứ hai của đại Bồ Tát đắc được, tên gọi là trí thần thông thiên nhãn vô ngại.

THỨ BA, TRÍ THẦN THÔNG BIẾT KIẾP THUỞ QUÁ KHỨ TÚC TRỤ

Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng túc trụ tuỳ niệm trí thông, biết được thân mình, và tất cả chúng sinh trong thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, những sự việc quá khứ số kiếp nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.

Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát Ngài có thần thông túc trụ tuỳ niệm trí huệ. Bồ Tát muốn biết một sự việc gì, không cần phải tác ý, nghĩa là không dùng chú ý để quán sát, bất cứ lúc nào cũng đều biết được. A la hán muốn biết sự việc gì, thì phải yên tĩnh, hoặc tĩnh toạ, chú ý dùng tâm để quán sát, thì sau đó mới biết được tất cả cảnh giới. Đó là chỗ khác nhau của Bồ Tát và A la hán. Bồ Tát có thần thông túc trụ tuỳ niệm trí huệ, biết được thân của mình, cũng biết được hết thảy tất cả chúng sinh trong thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, những sự việc quá khứ số kiếp nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, đều thấu rõ biết được.

Đó là sinh xứ nào? Tên như vậy, họ như vậy, chủng tộc như vậy, ăn uống như vậy, khổ vui như vậy. Từ vô thuỷ đến nay, ở trong các cõi, nhờ nhân, nhờ duyên, dần dần lớn lên, thứ tự liên tục, luân hồi không dứt, đủ thứ phẩm loại, đủ thứ cõi nước, đủ thứ cõi sinh, đủ thứ hình tướng, đủ thứ nghiệp làm, đủ thứ kết sử, đủ thứ tâm niệm, đủ thứ nhân duyên, thọ sinh khác biệt, những việc như vậy, thảy đều biết rõ.

Những chúng sinh đó, thọ sinh ở xứ nào ? Tên gì ? Họ gì ? Thuộc về chủng tộc nào ? Người da trắng, hay da đen ? Sinh vào quốc gia nào ? Thức ăn uống cũng khác nhau : Có người ăn gạo, có người ăn lúa mì. Truyền thuyết ở phi châu có chỗ dùng rễ cây làm thức ăn. Khổ như thế nào ? Vui như thế nào ? Từ vô thuỷ kiếp đến nay, ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, nhờ nhân gì ? Nhờ duyên gì ? Dần dần lớn lên. Đời đời kiếp kiếp trải qua thời gian rất dài, một đời liên tục một đời, một kiếp liên tục một kiếp, đều lưu chuyển trong luân hồi, không có khi nào dứt. Đủ thứ thọ sinh khác nhau trong các cõi, có đủ thứ hình tướng, ví như người thì có tướng người, súc sinh thì có tướng súc sinh. Có đủ thứ nghiệp làm tạo ra, có đủ thứ kết sử, tức là tham, sân, si, mạn, nghi (năm thuần sử), thân, biên, giới, kiến, tà (năm lợi sử), cộng lại là mười sử. Có đủ thứ tâm niệm khác nhau, các loại chúng sinh có tâm niệm của các loại. Vì có đủ thứ nhân duyên khác nhau, cho nên thọ sinh đủ thứ quả báo khác nhau. Đủ thứ những việc vừa nói ở trên như vậy, Bồ Tát thảy đều biết rõ.

Lại nghĩ nhớ quá khứ số kiếp, nhiều như số hạt bụi cõi Phật như vậy. Ở trong thế giới nhiều như số hạt bụi cõi Phật như vậy. Có chư Phật nhiều như số hạt bụi cõi Phật như vậy. Mỗi vị Phật danh hiệu như vậy, hiện ra đời như vậy, chúng hội như vậy, cha mẹ như vậy, thị giả như vậy, Thanh Văn như vậy, hai vị đại đệ tử tối thắng như vậy. Nơi thành ấp như vậy, xuất gia như vậy. Lại ở dưới cội bồ đề như vậy, thành tối Chánh Giác. Xứ sở như vậy, ngồi toà như vậy, diễn nói bao nhiêu Kinh điển như vậy.

Bồ Tát lại nghĩ nhớ quá khứ số kiếp, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật như vậy. Ở trong thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật như vậy. Có chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật như vậy. Mỗi vị Phật danh hiệu là gì ? Hiện ra đời như thế nào ? Hết thảy chúng hội đạo tràng có vị Phật nào thuyết pháp ? Cha mẹ của Phật là ai ? Thị giả của Phật là ai ? Thanh Văn là ai ? Hai vị đại đệ tử tối thắng là ai ? Ở thành ấp nào ? Xuất gia như thế nào ? Lại ở dưới cội bồ đề thành Phật như thế nào ? Ở xứ sở nào ? Ngồi trên toà gì ? Diễn nói pháp gì ? Nói bao nhiêu kinh điển ? Bồ Tát đối với tất cả sự việc như vậy, hoàn toàn biết được rất rõ ràng.

Lợi ích chúng sinh như vậy. Thời gian trụ thọ mạng như vậy. Bố thí làm bao nhiêu Phật sự như vậy. Nương cõi Vô Dư Y Niết Bàn mà vào Niết Bàn. Vào Niết Bàn rồi, pháp trụ lâu mau, tất cả những việc như vậy, Bồ Tát thảy đều nghĩ nhớ được.

Bồ Tát nghĩ nhớ trong quá khứ chư Phật lợi ích chúng sinh, nhiều như hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, trụ thọ mạng làm bao nhiêu là đại Phật sự. Nương cõi Vô Dư Y Niết Bàn, nương cõi Bát Niết Bàn, mà vào Niết Bàn. Vào Niết Bàn rồi, pháp trụ thế bao nhiêu năm ? Hoặc bao nhiêu kiếp ? Tất cả những việc như vậy, Bồ Tát thảy đều nghĩ nhớ không quên, nhớ rất rõ ràng.

Lại nghĩ nhớ danh hiệu chư Phật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi mỗi danh hiệu, có số chư Phật nhiều như hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Từ ban đầu phát tâm, khởi nguyện tu hành, cúng dường chư Phật, điều phục chúng sinh, chúng hội thuyết pháp, thọ mạng bao nhiêu, thần thông biến hoá, cho đến vào Vô Dư Niết Bàn. Vào Niết Bàn rồi, pháp trụ lâu mau, tạo lập tháp miếu, đủ thứ trang nghiêm, khiến cho các chúng sinh, gieo trồng căn lành, thảy đều biết được.

Bồ Tát lại nghĩ nhớ danh hiệu chư Phật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, trong các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi mỗi danh hiệu, lại có số chư Phật Như Lai nhiều như hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi vị Phật, từ lúc ban đầu phát bồ đề tâm, phát khởi nguyện lớn, tu hạnh bồ đề, cúng dường chư Phật, điều phục chúng sinh. Ở trong tất cả chúng hội đạo tràng, diễn nói diệu pháp, thọ mạng bao nhiêu, thần thông biến hoá bao nhiêu, cho đến vào Vô Dư Niết Bàn, chấm dứt sinh tử. Vào Niết Bàn rồi, pháp trụ thế bao nhiêu kiếp, tạo lập bảo tháp và chùa chiền, dùng đủ thứ bảy báu để trang nghiêm, khiến cho tất cả chúng sinh, gieo trồng tất cả căn lành, tất cả các việc như vậy, Bồ Tát đều biết được rất rõ ràng.

Đó là trí thần thông biết kiếp thuở quá khứ túc trụ thứ ba của đại Bồ Tát.

Đó là thần thông thứ ba của đại Bồ Tát, tên gọi là thần thông trí túc trụ biết quá khứ tế kiếp.

THỨ TƯ, TRÍ THẦN THÔNG BIẾT HẾT KIẾP THUỞ VỊ LAI

Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng trí thông biết hết kiếp thuở vị lai, biết hết thảy kiếp trong thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.

Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát dùng thần thông trí huệ, biết hết tất cả sự việc kiếp thuở vị lai, biết hết thảy kiếp số trong thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.

Trong mỗi mỗi kiếp, hết thảy chúng sinh, mạng chung thọ sanh, các cõi liên tục, nghiệp làm quả báo, hoặc thiện, hoặc chẳng thiện, hoặc xuất ly, hoặc chẳng xuất ly, hoặc quyết định, hoặc chẳng quyết định, hoặc tà định, hoặc chánh định, hoặc thiện căn cùng với kiết sử, hoặc thiện căn chẳng cùng với kiết sử, hoặc đầy đủ thiện căn, hoặc chẳng đầy đủ thiện căn, hoặc nhiếp lấy thiện căn, hoặc chẳng nhiếp lấy thiện căn, hoặc tích tập thiện căn, hoặc chẳng tích tập thiện căn, hoặc tích tập tội pháp, hoặc chẳng tích tập tội pháp. Tất cả như vậy, đều biết rõ được.

Trong mỗi mỗi kiếp, hết thảy chúng sinh, khi mạng chung thì đi thọ sanh, ở trong tam giới hai mươi lăm cõi liên tục không ngừng. Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ quả báo, hoặc quả báo thiện, hoặc quả báo ác, hoặc thoát khỏi tam giới, hoặc không thể thoát khỏi tam giới, hoặc quyết định thoát khỏi tam giới, hoặc chẳng quyết định thoát khỏi tam giới, hoặc nhập tà định (tà tri tà kiến), hoặc nhập chánh định (chánh tri chánh kiến), hoặc thiện căn cùng với mười kiết sử (năm độn sử và năm lợi sử), hoặc thiện căn chẳng cùng với mười kiết sử, hoặc đầy đủ thiện căn, hoặc chẳng đầy đủ thiện căn, hoặc nhiếp lấy thiện căn, hoặc chẳng nhiếp lấy thiện căn, hoặc tích tập thiện căn, hoặc chẳng tích tập thiện căn, hoặc tích tập tất cả tội pháp, hoặc chẳng tích tập tất cả tội pháp. Tất cả hết thảy như vậy, Bồ Tát đều phân môn biệt loại, biết rất rõ ràng.

Lại biết các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, hết thuở vị lai, có số kiếp nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi mỗi kiếp, có danh hiệu chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. 

Mỗi mỗi danh hiệu, có chư Phật Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi mỗi Như Lai, từ ban đầu phát tâm, khởi nguyện lập hạnh, cúng dường chư Phật, giáo hoá chúng sinh, chúng hội thuyết pháp, thọ mạng bao nhiêu, thần thông biến hoá, cho đến vào Vô Dư Niết Bàn. Vào Niết Bàn rồi, pháp trụ lâu mau, tạo lập chùa tháp, đủ thứ trang nghiêm, khiến cho các chúng sinh, gieo trồng căn lành. Những việc như vậy, thảy đều biết rõ.

Bồ Tát lại biết các thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, hết thuở vị lai, có số kiếp nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong mỗi mỗi kiếp, có danh hiệu chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi mỗi danh hiệu, có chư Phật Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi mỗi vị Như Lai, từ ban đầu phát bồ đề tâm, phát khởi đại nguyện, lập tu hạnh bồ đề, cúng dường chư Phật, giáo hoá chúng sinh, ở trong chúng hội thuyết pháp, thọ mạng thời gian dài bao lâu, thần thông biến hoá bao nhiêu, cho đến vào Vô Dư Niết Bàn. Vào Niết Bàn rồi, pháp trụ bao nhiêu năm, tạo lập chùa tháp, đều dùng đủ thứ bảy báu để trang nghiêm, khiến cho tất cả chúng sinh, gieo trồng căn lành. Những việc như vậy, Bồ Tát thảy đều biết rõ.

Đó là trí thần thông biết hết kiếp thuở vị lại thứ tư của đại Bồ Tát.

Đó là thần thông thứ tư của đại Bồ Tát, tên gọi là thần thông trí huệ biết hết kiếp thuở vị lai.

THỨ NĂM, TRÍ THẦN THÔNG THIÊN NHĨ THANH TỊNH VÔ NGẠI

Phật tử ! Đại Bồ Tát thành tựu thiên nhĩ thanh tịnh vô ngại, viên mãn, rộng lớn, thông suốt, lìa khỏi chướng ngại, thấu đạt, vô ngại, đầy đủ, thành tựu. Đối với tất cả hết thảy âm thanh, muốn nghe, chẳng muốn nghe, đều tuỳ ý tự tại.

Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát thành tựu thiên nhĩ thông thanh tịnh không có chướng ngại. Thiên nhĩ này, vừa viên mãn vừa rộng lớn, vừa thông minh vừa thấu triệt. Lìa khỏi tất cả chướng ngại, thấu rõ thông đạt, chẳng có mọi sự chướng ngại. Đầy đủ tất cả pháp lành, thành tựu tất cả pháp lành. Đối với tất cả hết thảy âm thanh và lời nói, hoặc muốn nghe, hoặc chẳng muốn nghe, thảy đều tuỳ thuận ý niệm của mình mà quyết định, đó tức là tam muội tuỳ ý tự tại.

Phật tử ! Phương đông có chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Chư Phật đó nói, chỉ bày, khai mở, diễn nói, an lập, giáo hoá, điều phục, nghĩ nhớ, phân biệt, thâm sâu rộng lớn, đủ thứ sự khác biệt, vô lượng phương tiện, vô lượng thiện xảo, pháp thanh tịnh. Tất cả những sự việc nhự vậy, đều thọ trì được.

Các vị đệ tử của Phật ! Phương đông có chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Luật của chư Phật đó nói, thị hiện cảnh giới, khai mở pháp môn, diễn nói pháp, an lập đạo tràng, giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, nghĩ nhớ chư Phật, phân biệt các pháp, thâm sâu lại rộng lớn, có đủ thứ sự khác biệt, có vô lượng phương tiện, vô lượng thiện xảo, pháp thanh tịnh. Tất cả những pháp nhự vậy, Bồ Tát đều thọ trì được.

Lại ở trong đó, hoặc nghĩa, hoặc văn, hoặc một người, hoặc chúng hội. Như âm thanh lời lẽ, như trí huệ, như sự thấu đạt, như sự thị hiện, như sự điều phục, như cảnh giới, như sự nương tựa, như sự xuất đạo.

Bồ Tát lại có thể ở trong tất cả các pháp, hoặc là nghĩa lý, hoặc là văn từ, hoặc là một người, hoặc là ở trong chúng hội đạo tràng. Như âm thanh và lời lẽ, như trí huệ, có thể thấu rõ thông đạt như Phật, thị hiện như Phật, điều phục như Phật, như cảnh cảnh, như nương tựa Niết Bàn, như đạo thoát khỏi tam giới.

Đối với tất cả những sự việc đó, đều nhớ rõ giữ gìn, không quên, không mất, không dứt hẳn, không thối chuyển, không mê, không hoặc. Vì họ diễn nói, khiến cho họ được ngộ hiểu, trọn không quên mất một chữ một câu. Như phương đông, phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.

Bồ Tát đối với tất cả các pháp, không những ghi nhớ, mà còn tu trì, không thể quên, cũng không mất đi, cũng không dứt hẳn, cũng không thối chuyển, không mê, không hoặc. Vì chúng sinh chỉ biết tuỳ thuận pháp thế gian, chẳng biết tu pháp xuất thế, cho nên Phật Bồ Tát vì chúng sinh diễn nói diệu pháp, khiến cho họ được khai ngộ, được giải thoát. Họ trọn không quên mất một chữ một câu pháp. Ở phương đông như vậy, phương nam, phương tây, phương bắc, bốn hướng trên dưới, cũng giống như ở phương đông.

Đó là trí thần thông thiên nhĩ thanh tịnh vô ngại thứ năm của đại Bồ Tát.

Thần thông thứ năm của đại Bồ Tát đắc được, tên gọi là thần thông trí huệ thiên nhãn thanh tịnh vô ngại.

Tại sao chúng ta có phiền não ? Vì có sự ích kỷ. Tại sao có sự ích kỷ ? Vì có lòng tham muốn, tìm hết mọi cách để bảo vệ nó, sợ nó chạy đi mất. Nếu đối với nó bất lợi, thì sẽ phát sinh nóng giận. Tại sao phải nóng giận ? Nguyên nhân chủ yếu là vô minh và ái tình tác quái. Nếu chẳng có vô minh, thì chẳng có ái tình, nóng giận sẽ bỏ chạy cách xa bạn mười vạn tám ngàn dặm, muốn tìm cũng tìm chẳng được.

Nếu như có ái tình, thì sẽ sinh tâm ích kỷ. Có tâm ích kỷ thì chẳng cứ đến gì khác, mục đích bất chấp thủ đoạn để truy cầu cho bằng được, thậm chí hy sinh tánh mạng cũng không tiếc. Quy về nguồn gốc là do lòng tham dục. Nếu chẳng có lòng tham dục, thì sẽ không có sự ích kỷ. Chẳng có ích kỷ thì sẽ không có phiền não. Nếu có phiền não, thì có sinh tử; nếu chẳng có phiền não thì không còn sinh tử. Đạo lý này ai ai cũng đều biết, nhưng làm không được. Phải biết, không còn lòng tham muốn thì hết vô minh. Phá được vô minh, thì hiển bày pháp tánh. Chúng ta học Phật, trước hết là trừ vô minh, khử phiền não. Nếu viên mãn được thì sẽ chứng được giải thoát.

Tại sao chúng ta chẳng có trí huệ ? Vì còn vô minh. Vô minh sinh ra lòng tham muốn, tham muốn sinh ra lòng ích kỷ, ích kỷ sinh ra phiền não. Tham cầu không được bèn sinh phiền não, người khác đối với mình không tốt bèn sinh ra phiền não. Tại sao có phiền não ? Vì còn cái ta tồn tại. Nếu chẳng còn cái ta, thì chẳng còn phiền não. Nếu không còn vô minh, không còn lòng ích kỷ, thì không biết phiền não chạy đi đâu. Các vị tin hay không tin tức là điều này. Ngàn kinh vạn điển, nói tới nói lui, tức là nói cái này. Cái ta không còn nữa, thì sẽ phá được vô minh, lòng tham muốn cũng bị tiêu diệt, chẳng còn tâm ích kỷ, cũng chẳng còn phiền não. Muốn tìm phiền não, cũng tìm chẳng được phiền não. Tại sao ? Vì đã giải quyết được vấn đề gốc rễ.

Các vị phải chú ý ! Tài, sắc, danh, ăn, và ngủ, năm dục này, đều từ vô minh và ái tình mà ra. Nếu chẳng còn ái tình, thì cảm thấy gì cũng không còn quan trọng nữa. Do có ái tình, mới cảm thấy cái này không tốt, cái kia cũng không tốt, cái gì cũng đều không đúng, đó là con quỷ ái tình đang tác quái. Nếu hàng phục được con quỷ ái tình, thì sớm sẽ vào nhà Như Lai, ngồi toà Như Lai, mặc y Như Lai, nói pháp Như Lai.

THỨ SÁU, TRÍ THẦN THÔNG TRỤ KHÔNG THỂ TÁNH KHÔNG ĐỘNG TÁC ĐẾN TẤT CẢ CÕI PHẬT

Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ thần thông không thể tánh, thần thông không tạo tác, thần thông bình đẳng, thần thông rộng lớn, thần thông vô lượng, thần thông không nương tựa, thần thông tuỳ niệm, thần thông khởi, thần thông chẳng khởi, thần thông chẳng thối chuyển, thần thông chẳng dứt, thần thông chẳng hoại, thần thông tăng trưởng, thần thông tuỳ đến.

Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tại thần thông chẳng có thể tánh, thần thông chẳng có tạo tác, thần thông bình đẳng, thần thông rộng lớn, thần thông vô lượng, thần thông không nương tựa, thần thông tuỳ niệm, thần thông khởi, thần thông chẳng khởi, thần thông chẳng thối chuyển, thần thông chẳng dứt, thần thông chẳng hoại, thần thông tăng trưởng, thần thông tuỳ đến.

Bồ Tát này nghe danh hiệu chư Phật trong tất cả thế giới rất xa. Đó là : Vô số thế giới, vô lượng thế giới, cho đến danh hiệu chư Phật trong thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Nghe danh hiệu chư Phật rồi, liền thấy thân mình ở chỗ chư Phật đó.

Bồ Tát này nghe đến danh hiệu của hết thảy chư Phật trong tất cả thế giới rất xa. Đó là : Vô số thế giới, vô lượng thế giới, cho đến danh hiệu của chư Phật trong thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Nghe danh hiệu chư Phật rồi, Bồ Tát liền thấy thân mình ở trong đạo tràng của chư Phật đó, lắng nghe chư Phật diễn nói diệu pháp thâm sâu vô thượng.

Các thế giới đó, hoặc ngửa, hoặc úp, đủ thứ hình tướng, các xứ sở đều khác nhau, vô biên vô ngại. Đủ thứ cõi nước, đủ thứ thời kiếp, vô lượng công đức, đều khác biệt để trang nghiêm. Các Như Lai đó xuất hiện ở trong đó, thị hiện thần biến, tán thán danh hiệu, vô lượng vô số, thảy đều khác nhau. 

Bồ Tát này khi nghe được danh hiệu của các Như Lai đó, chẳng động chỗ của mình, mà thấy thân mình ở chỗ các đức Phật đó, lễ bái tôn trọng, hầu hạ cúng dường. Hỏi pháp của Bồ Tát, nhập vào trí huệ của Phật, đều thấu rõ thông đạt, cõi nước chư Phật, đạo tràng chúng hội, và chỗ thuyết pháp, đến nơi rốt ráo, không có chấp lấy.

Ở trong các thế giới đó, hoặc thế giới ngửa, hoặc thế giới úp, có đủ thứ hình tướng đều khác nhau, các xứ sở cũng đều khác nhau, chẳng có bờ mé, chẳng có chướng ngại. Đủ thứ cõi nước, đủ thứ thời kiếp, có vô lượng công đức, đều khác biệt để trang nghiêm. Ở trong mỗi thế giới, đều có Phật xuất hiện ra đời, thị hiện thần thông biến hoá, tán thán danh hiệu của Phật, có vô lượng vô số, thảy đều khác nhau. Vị Bồ Tát này khi nghe được danh hiệu của các Như Lai đó, chẳng cần lìa khỏi chỗ của mình, mà hiện thân ở trong đạo tràng của chư Phật, lễ bái chư Phật, tôn trọng chư Phật, hầu hạ chư Phật, cúng dường chư Phật. Thỉnh vấn pháp của Bồ Tát tu, nhập vào trí huệ của Phật, tức cũng là chứng được nhất thiết trí của Phật. Bồ Tát hoàn toàn thấu rõ thông đạt cõi nước của chư Phật, đạo tràng của chư Phật, chúng hội của chư Phật, pháp của chư Phật nói. Đã đến được nơi rốt ráo, cũng chẳng có thủ lấy, cũng chẳng có chấp trước.

Như vậy trải qua số kiếp, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, đến khắp mười phương mà không chỗ đến. Đến các cõi thấy Phật, nghe pháp thỉnh đạo, không lúc nào đoạn tuyệt, không xả bỏ, không nghỉ ngơi, không nhàm mỏi. Tu Bồ Tát hạnh thành tựu đại nguyện, đều khiến cho đầy đủ, chưa từng thối chuyển. Vì khiến cho chủng tánh Như Lai rộng lớn, không đoạn tuyệt.

Tình hình như vậy trải qua số kiếp, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, tuy nhiên Bồ Tát phân thân đến khắp mười phương thế giới, nhưng bổn thể chẳng động. Cho nên nói : “Không chỗ đến”. Đi đến các cõi nước chư Phật, thấy được chư Phật, gần gũi chư Phật. Ở dưới toà chư Phật, lắng nghe diệu pháp, thỉnh vấn diệu đạo chấm dứt sinh tử. Bồ Tát nghe pháp thỉnh đạo, không có lúc nào gián đoạn, không lúc nào xả bỏ, không lúc nào nghỉ ngơi, không lúc nào nhàm mỏi. Bồ Tát thường tu Bồ Tát hạnh, thành tựu đại nguyện đã phát, hạnh nguyện đầy đủ, vĩnh viễn không sinh tâm thối chuyển. Vì khiến cho chủng tánh của Như Lai rộng lớn, vĩnh viễn không đoạn tuyệt.

Đó là trí thần thông trụ không thể tánh không động tác đến tất cả cõi Phật thứ sáu của đại Bồ Tát.

Đó là thần thông thứ sáu, tên gọi là trí thần thông trụ không thể tánh không động tác đến tất cả cõi Phật của đại Bồ Tát.

THỨ BẢY, TRÍ THẦN THÔNG KHÉO PHÂN BIỆT TẤT CẢ LỜI NÓI

Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng trí thông khéo phân biệt lời nói của tất cả chúng sinh. Biết đủ thứ lời nói của chúng sinh trong các thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.

Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát Ngài dùng thần thông trí huệ, khéo phân biệt lời nói âm thanh của tất cả chúng sinh. Biết được đủ thứ lời nói của hết thảy chúng sinh trong các thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Bất cứ lời nói của một loài chúng sinh nào, đều biết rõ ràng hết.

Đó là lời nói bậc Thánh, lời nói chẳng phải bậc Thánh, lời nói chư Thiên, lời nói của rồng, lời nói Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người, cho đến hết thảy lời nói của bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh. Mỗi lời nói đều biểu thị, đủ thứ sự khác biệt. Tất cả như vậy, đều biết rõ.

Đó là :

1. Lời nói bậc Thánh : Lời nói của bậc Thánh trong bốn pháp giới của bậc Thánh.
2. Lời nói chẳng phải bậc Thánh : Tức là lời nói của những người chưa chứng bốn pháp giới của bậc Thánh.
3. Lời nói chư Thiên : Tức là lời nói chúng chư Thiên.
4. Lời nói của rồng : Tức là lời nói của loài rồng.
5. Lời nói Dạ Xoa : Tức là lời nói của quỷ tốc tật.
6. Lời nói Càn Thát Bà : Tức là lời nói của thần tầm hương.
7. Lời nói A tu la : Tức là lời nói của chúng vô đoan chánh.
8. Lời nói Ca Lâu La : Tức là lời nói của đại bàng kim xí điểu.
9. Lời nói Khẩn Na La : Tức là lời nói chúng nhạc thần.
10. Lời nói Ma Hầu La Già : Tức là lời nói của chúng nghi thần.
11. Lời nói của người : Tức là lời nói của loài người.
12. Lời nói chẳng phải người : Tức là lời nói của những loài khác.

Cho đến hết thảy lời nói của bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh. Mỗi lời nói đều biểu thị khác nhau, hoặc dùng lời nói để biểu thị, hoặc dùng không lời để biểu thị, có đủ thứ phương thức khác nhau để biểu đạt lời nói của họ. Tất cả lời nói như vậy, Bồ Tát đều hiểu biết rõ.

Bồ Tát này tuỳ theo vào thế giới nào, mà biết được hết thảy tánh tham muốn của tất cả chúng sinh trong đó. Như tánh tham muốn của họ, mà nói ra lời lẽ, khiến cho họ hiểu rõ, không có nghi hoặc. Như ánh sáng mặt trời xuất hiện, chiếu khắp các màu sắc, khiến cho kẻ có mắt, đều nhìn thấy rõ. 

Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng trí huệ khéo phân biệt được tất cả lời lẽ, vào sâu mây tất cả lời lẽ. Hết thảy lời lẽ, khiến cho người thông huệ trong các thế gian, đều được hiểu rõ.

Vị Bồ Tát này, bất cứ đến thế giới nào, đều biết được hết thảy tất cả chúng sinh ở trong đó, tánh tình ham muốn của họ là gì ? Dục niệm của họ ưa thích những gì ? Bồ Tát quán sát sự ưa thích của chúng sinh, mà vì họ nói ra lời lẽ, khiến cho loại chúng sinh đó hiểu rõ thông đạt, không có sự nghi hoặc. Giống như ánh sáng mặt trời xuất hiện, chiếu sáng khắp các màu sắc, khiến cho chúng sinh có mắt, đều nhìn thấy rõ các màu sắc mặt trời chiếu sáng. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng trí huệ khéo phân biệt được tất cả lời lẽ, vào sâu trong mây tất cả lời lẽ. Hết thảy lời lẽ, khiến cho người thông minh có trí huệ trong các thế gian, hoàn toàn hiểu rõ thông đạt được.

Đó là trí thần thông khéo phân biệt tất cả lời nói thứ bảy của đại Bồ Tát.

Đó là thần thông thứ bảy của đại Bồ Tát, tên gọi là trí huệ thần thông khéo phân biệt tất cả lời nói.

THỨ TÁM, TRÍ THẦN THÔNG VÔ SỐ SẮC THÂN

Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng trí thông sinh ra vô lượng A tăng kỳ sắc thân trang nghiêm, biết tất cả pháp, xa lìa sắc tướng, chẳng có tướng khác biệt, chẳng có đủ thứ tướng, chẳng có vô lượng tướng, chẳng có phân biệt tướng, chẳng có tướng xanh vàng đỏ trắng.

Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát dùng thần thông trí huệ sinh ra vô lượng A tăng kỳ sắc thân trang nghiêm, biết tất cả pháp, xa lìa tất cả sắc tướng, chẳng có sắc tướng khác biệt, chẳng có đủ thứ sắc tướng, chẳng có vô lượng sắc tướng, chẳng có phân biệt sắc tướng, chẳng có sắc tướng xanh vàng đỏ trắng.

Bồ Tát vào pháp giới như vậy, hay hiện thân mình đủ thứ sắc tướng.

Bồ Tát vào pháp giới như vậy, hay hiện thân Bồ Tát đủ thứ sắc tướng.

Đó là : Sắc tướng vô biên, sắc tướng vô lượng, sắc tướng thanh tịnh, sắc tướng trang nghiêm, sắc tướng khắp cùng, sắc tướng không gì sánh, sắc tướng chiếu khắp, sắc tướng tăng thượng, sắc tướng không trái nghịch, đủ các sắc tướng.

Bồ Tát thị hiện một trăm lẻ ba (103) thứ sắc thân, đó là : Sắc thân chẳng có bờ mé, sắc thân chẳng có số lượng, sắc thân thanh tịnh không nhiễm, sắc thân tốt đẹp trang nghiêm, sắc thân khắp cùng tất cả, sắc thân không gì sánh bằng, sắc thân trí huệ chiếu khắp, sắc thân tăng trưởng vô thượng, sắc thân chẳng có trái nghịch, sắc thân đầy đủ ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp.

Lìa các sắc tướng xấu, sắc tướng đại oai lực, sắc tướng đáng tôn trọng, sắc tướng vô cùng tận, sắc tướng đẹp xen tạp, sắc tướng rất đoan nghiêm, sắc tướng không thể lường, sắc tướng khéo giữ gìn, sắc tướng hay thành thục, sắc tướng tuỳ sự giáo hoá.

Bồ Tát lại thị hiện lìa khỏi tất cả sắc thân xấu. Sắc thân có sức đại oai đức, sắc thân khiến người tôn trọng, sắc thân chẳng cùng tận, sắc thân tất cả tốt đẹp xen tạp, sắc thân rất đoan nghiêm, sắc thân không thể hạn lượng, sắc thân khéo giữ gìn, sắc thân hay thành thục, sắc thân tuỳ thuận giáo hoá chúng sinh.

Sắc tướng không chướng ngại, sắc tướng rất sáng suốt, sắc tướng không dơ trược, sắc tướng rất trong xanh, sắc tướng đại dũng kiện, sắc tướng phương tiện không nghĩ bàn, sắc tướng không thể hoại, sắc tướng lìa tỳ vết, sắc tướng không ám chướng, sắc tướng khéo an trụ. 

Bồ Tát lại thị hiện sắc thân không có sự chướng ngại, sắc thân rất sáng suốt, sắc thân không dơ trược, sắc thân rất trong xanh, sắc thân đại dũng kiện, sắc thân phương tiện không nghĩ bàn, sắc thân không thể hoại, sắc thân lìa khỏi tỳ vết, sắc thân không có ám chướng, sắc thân khéo an trụ.

Sắc tướng đẹp trang nghiêm, sắc tướng các tướng đoan nghiêm, sắc tướng đủ thứ vẻ đẹp, sắc tướng đại tôn quý, sắc tướng cảnh giới tốt, sắc tướng khéo chùi bóng, sắc tướng thâm tâm thanh tịnh, sắc tướng rất sáng rực rỡ, sắc tướng tối thắng rộng lớn, sắc tướng không gián đoạn. 

Bồ Tát lại thị hiện sắc thân tốt đẹp trang nghiêm, sắc thân các tướng đoan nghiêm, sắc thân đủ thứ vẻ đẹp, sắc thân đại tôn đại quý, sắc thân cảnh giới thù diệu, sắc thân khéo chùi bóng, sắc thân thâm tâm thanh tịnh, sắc thân rất sáng rực rỡ, sắc thân tối thắng rộng lớn, sắc thân không có gián đoạn.

Sắc tướng không nương tựa, sắc tướng không gì sánh bằng, sắc tướng sung mãn bất khả thuyết cõi Phật, sắc tướng tăng trưởng, sắc tướng kiên cố nhiếp thọ, sắc tướng công đức tối thắng, sắc tướng tuỳ các tâm ưa thích, sắc tướng thanh tịnh hiểu rõ, sắc tướng tích tập sự tốt đẹp, sắc tướng khéo léo quyết định.

Bồ Tát lại thị hiện sắc thân không nương tựa, sắc thân không gì sánh bằng, sắc thân sung mãn bất khả thuyết cõi Phật, sắc thân tăng trưởng, sắc thân kiên cố nhiếp thọ, sắc thân công đức tối thắng, sắc thân tuỳ các tâm ưa thích, sắc thân thanh tịnh hiểu rõ, sắc thân tích tập sự tốt đẹp, sắc thân khéo léo quyết định.

Sắc tướng không có chướng ngại, sắc tướng hư không sáng tịnh, sắc tướng thanh tịnh đáng thích, sắc tướng lìa các trần cấu, sắc tướng không thể xưng lượng, sắc tướng thấy đẹp, sắc tướng thấy khắp, sắc tướng tuỳ thời thị hiện, sắc tướng tịch tĩnh, sắc tướng lìa tham.

Bồ Tát lại thị hiện sắc thân không có chướng ngại, sắc thân hư không sáng tịnh, sắc thân thanh tịnh đáng thích, sắc thân lìa các trần cấu, sắc thân không thể xưng lượng, sắc thân thấy đẹp, sắc thân thấy khắp, sắc thân tuỳ thời thị hiện, sắc thân tịch tĩnh, sắc thân lìa tham.

Sắc tướng ruộng phước chân thật, sắc tướng hay làm an ổn, sắc tướng lìa các sợ hãi, sắc tướng lìa hạnh ngu si, sắc tướng trí huệ dũng mãnh, sắc tướng thân tướng vô ngại, sắc tướng du hành khắp cùng, sắc tướng tâm không nương tựa, sắc tướng đại từ khởi lên, sắc tướng đại bi hiện ra.

Bồ Tát lại thị hiện sắc thân ruộng phước chân thật, sắc thân hay làm an ổn, sắc thân lìa các sợ hãi, sắc thân lìa khỏi hạnh ngu si, sắc thân trí huệ dũng mãnh, sắc thân thân tướng vô ngại, sắc thân du hành khắp cùng, sắc thân tâm không nương tựa, sắc thân đại từ khởi lên, sắc thân đại bi hiện ra.

Sắc tướng bình đẳng xuất ly, sắc tướng phước đức đầy đủ, sắc tướng tuỳ tâm nghĩ nhớ, sắc tướng vô biên báu đẹp, sắc tướng bảo tạng quang minh, sắc tướng chúng sinh tin ưa, sắc tướng nhất thiết trí hiện tiền, sắc tướng mắt hoan hỉ, sắc tướng các báu trang nghiêm bậc nhất, sắc tướng không có xứ sở.

Bồ Tát lại thị hiện sắc tướng bình đẳng xuất ly, sắc thân phước đức đầy đủ, sắc thân tuỳ tâm nghĩ nhớ, sắc thân vô biên báu đẹp, sắc thân bảo tạng quang minh, sắc thân chúng sinh tin ưa, sắc thân nhất thiết trí hiện tiền, sắc thân mắt hoan hỉ, sắc thân các báu trang nghiêm bậc nhất, sắc tướng không có xứ sở.

Sắc tướng tự tại thị hiện, sắc tướng đủ thứ thần thông, sắc tướng sinh nhà Như Lai, sắc tướng hơn hẳn ví dụ, sắc tướng khắp cùng pháp giới, sắc tướng chúng đều đi đến, sắc tướng đủ thứ, sắc tướng thành tựu, sắc tướng xuất ly, sắc tướng uy nghi tuỳ kẻ giáo hoá.

Bồ Tát lại thị hiện sắc tướng tự tại thị hiện, sắc thân đủ thứ thần thông, sắc thân sinh nhà Như Lai, sắc thân hơn hẳn ví dụ, sắc thân khắp cùng pháp giới, sắc thân tất cả đều đi đến, sắc thân đủ thứ, sắc thân thành tựu thiện báo, sắc thân xuất ly tam giới, sắc thân uy nghi tuỳ thuận chúng sinh giáo hoá.

Sắc tướng thấy không nhàm đủ, sắc tướng đủ thứ sáng tịnh, sắc tướng hay phóng vô số lưới quang, sắc tướng bất khả thuyết quang minh đủ thứ khác biệt, sắc tướng bất khả tư hương quang minh vượt qua ba cõi, sắc tướng bất khả lượng ánh sáng mặt trời chiếu sáng, sắc tướng thị hiện thân mặt trăng không gì sánh bằng, sắc tướng vô lượng mây hoa đáng ưa thích, sắc tướng sinh ra đủ thứ hoa sen mây búi tóc trang nghiêm, sắc tướng hơn hẳn hương lửa ngọn huân khắp tất cả thế gian, sắc tướng sinh ra tất cả Như Lai tạng, sắc tướng bất khả thuyết âm thanh khai thị diễn xướng tất cả pháp, sắc tướng đầy đủ tất cả hạnh Phổ Hiền.

Bồ Tát lại thị hiện sắc thân thấy không nhàm đủ, sắc thân đủ thứ sáng tịnh, sắc thân hay phóng vô số lưới quang, sắc thân bất khả thuyết quang minh đủ thứ khác biệt, sắc thân bất khả tư nghì hương quang minh vượt qua ba cõi, sắc thân bất khả lượng ánh sáng mặt trời chiếu sáng, sắc thân thị hiện thân mặt trăng không gì sánh bằng, sắc thân vô lượng mây hoa đáng ưa thích, sắc thân sinh ra đủ thứ hoa sen mây búi tóc trang nghiêm, sắc thân hơn hẳn hương lửa ngọn huân khắp tất cả thế gian, sắc thân sinh ra tất cả Như Lai tạng, sắc thân bất khả thuyết âm thanh khai thị diễn xướng tất cả pháp, sắc thân đầy đủ tất cả hạnh Phổ Hiền.

Ở trên là 103 thứ sắc thân, Bồ Tát tuỳ thời đều thị hiện ra.

Phật tử ! Đại Bồ Tát vào sâu pháp giới vô sắc như vậy, hay thị hiện đủ thứ những sắc thân như thế, khiến cho kẻ được giáo hoá thấy, khiến cho kẻ được giáo hoá tưởng nhớ. 

Vì kẻ được giáo hoá mà chuyển bánh xe pháp, tuỳ thuận thời cơ kẻ được giáo hoá, tuỳ thuận sắc tướng kẻ được giáo hoá, khiến cho kẻ được giáo hoá gần gũi, khiến cho kẻ được giáo hoá khai ngộ. 

Vì kẻ được giáo hoá mà khởi đủ thứ thần thông. Vì kẻ được giáo hoá mà hiện đủ thứ tự tại. Vì kẻ được giáo hoá mà làm các thứ việc.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát vào sâu pháp giới vô sắc như vậy, hay thị hiện đủ thứ những sắc thân như thế, khiến cho chúng sinh được giáo hoá đều thấy được vị Bồ Tát này. Khiến cho chúng sinh được giáo hoá thường tưởng nhớ đến vị Bồ Tát này. Vì chúng sinh được giáo hoá mà thường chuyển bánh xe pháp. Tuỳ thuận thời cơ chúng sinh được giáo hoá, tuỳ thuận sắc tướng chúng sinh được giáo hoá, khiến cho chúng sinh được giáo hoá đều gần gũi vị Bồ Tát này, khiến cho chúng sinh được giáo hoá được khai ngộ đắc được trí huệ. Vì chúng sinh được giáo hoá mà sinh khởi đủ thứ thần thông. Vì chúng sinh được giáo hoá hiện đủ thứ tự tại. Vì chúng sinh được giáo hoá mà làm các thứ việc.

Đó gọi là trí thần thông thành tựu vô số sắc thân thứ tám của đại Bồ Tát, vì độ tất cả chúng sinh mà siêng tu.

Đó gọi là thần thông trí huệ thành tựu vô số sắc thân thứ tám của đại Bồ Tát, vì độ tất cả chúng sinh mà siêng tu.

THỨ CHÍN, TRÍ THẦN THÔNG TẤT CẢ PHÁP

Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng trí thông tất cả pháp, biết tất cả pháp không có danh tự, không có chủng tánh, không đến, không đi, không khác, chẳng không khác, không đủ thứ, chẳng không đủ thứ, không hai, chẳng không hai.

Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát dùng tất cả pháp trí huệ thần thông, biết được tất cả pháp, vốn chẳng có danh tự, cũng chẳng có chủng tử, cũng chẳng có thể tánh. Cũng chẳng có đến, cũng chẳng có đi, chẳng phải hai dạng, cũng chẳng phải không hai dạng, chẳng phải đủ thứ, cũng chẳng phải không đủ thứ. Nói nó là hai chăng ? Lại chẳng phải hai. Nói nó chẳng phải là hai chăng ? Lại chẳng phải là một, cho nên nói : “Chẳng hai, chẳng không hai”. Nói tóm lại, tức là trung đạo liễu nghĩa. Trung đạo tức là chân không diệu hữu, chẳng rơi vào không, có hai bên. Liễu nghĩa tức là gì cũng chẳng có, chỗ diệu là tại chỗ này. Nếu hiểu được pháp này, thì vượt qua khỏi ba cõi, chẳng hiểu được pháp này, thì lưu chuyển sinh tử trong ba cõi.

Trong Phật giáo, hết thảy kinh điển đều rất quan trọng. Chỉ có Kinh Lăng Nghiêm là quan trọng nhất. Phàm là chỗ nào có Kinh Lăng Nghiêm, thì có chánh pháp trụ thế. Kinh Lăng Nghiêm chẳng còn nữa, thì mạt pháp hiện tiền. Hết thảy Phật giáo đồ phải đem sức lực ra, đem mồ hôi nước mắt ra để ủng hộ bộ Kinh Lăng Nghiêm này.

Trong Kinh Pháp Diệt Tận có nói : “Thời đại mạt pháp, Kinh Lăng Nghiêm diệt trước nhất. Các kinh điển khác, dần dần sẽ diệt”. Nếu Kinh Lăng Nghiêm không diệt, thì thời đại chánh pháp còn hiện tiền. Do đó, chúng ta là Phật giáo đồ, phải đem tánh mạng ra để ủng hộ Kinh Lăng Nghiêm. Đem máu nước mắt ra để hộ trì Kinh Lăng Nghiêm. Đem chí nguyện ra để hộ trì Kinh Lăng Nghiêm, khiến cho Kinh Lăng Nghiêm vĩnh viễn trụ lâu ở thế gian, phát triển rộng lớn, lưu truyền đến từng mỗi hạt bụi, đến khắp nơi trên toàn thế giới, đến tận hư không khắp pháp giới. Nếu được như thế, thì chánh pháp sẽ phóng đại quang minh.

Tại sao Kinh Lăng Nghiêm diệt trước nhất ? Vì đạo lý nói ở trong Kinh quá chân thật ! Thiên ma ngoại đạo chịu không được, cho nên dùng đủ thứ phương pháp để phá hoại, để tiêu diệt. Trước hết tạo ra lời phỉ báng, nói Kinh Lăng Nghiêm chẳng phải là Kinh từ kim khẩu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra, mà là Kinh người đời sau này nguỵ tạo ra, cho nên Kinh Lăng Nghiêm là giả, là nguỵ kinh. Đó là lối nói cường từ đoạt lý của ngoại đạo, mưu đồ thủ đoạn cố ý phá hoại chân kinh.

Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Phật, Kinh Lăng Nghiêm là xá lợi của Phật, Kinh Lăng Nghiêm là chùa tháp của Phật. Nội dung của Kinh Lăng Nghiêm nói rõ cảnh giới bốn thứ thanh tịnh minh hối, hai mươi lăm vị Thánh thuật lại viên thông của mình, năm mươi ấm ma. Giống như tấm gương chiếu yêu, lộ rõ nguyên hình của bàng môn tả đạo, không có chỗ ẩn thân của bọn yêu ma quỷ quái, vì an toàn của chúng, mới tuyên truyền nói Kinh Lăng Nghiêm là giả, không thể tin.

Một số người vô tri vô thức, chẳng có trí huệ phân biệt được thật giả, người ta sao mình cũng vậy, nói Kinh Lăng Nghiêm chẳng phải là Phật nói. Nguyên nhân chủ yếu, đạo lý nói trong Kinh Lăng Nghiêm là chánh quyết, lại hợp lý. Yêu ma quỷ quái, bàng môn tả đạo, không cách chi ẩn hình, vì lợi ích của họ, bất đắc dĩ dùng mưu đồ thủ đoạn để phá hoại, làm như vậy, sẽ phải đoạ vào địa ngục.

Những năm gần đây, có những học giả vô tri, giáo đồ ngu si, chẳng nhận thức được Phật giáo, chẳng hiểu biết về Phật học, biết một hiểu nửa, phê bình bậy bạ, phát biểu ngông cuồng, khiến cho lòng người hoang mang.

Người học Phật pháp, phải hiểu rõ thâm sâu đạo lý trong Kinh Lăng Nghiêm, cho nên phải đi khắp nơi đề xướng Kinh Lăng Nghiêm, phải đi khắp nơi tuyên dương Kinh Lăng Nghiêm, phải đi khắp nơi giải nói Kinh Lăng Nghiêm, phải đi khắp nơi hộ trì Kinh Lăng Nghiêm, vì khiến cho chánh pháp trụ lâu dài ở thế gian, vì khiến cho tà pháp vĩnh viễn tiêu diệt ở thế gian, đây là trách nhiệm của Phật giáo đồ phải làm hết sức mình.

Hôm nay tôi đề ra bảo đảm với quý vị, bảo đảm Kinh Lăng Nghiêm là chân kinh. Nếu Kinh Lăng Nghiêm là giả, thì tôi nguyện đoạ vào địa ngục. Vì tôi chẳng nhận thức được Phật pháp, lấy giả làm thật, cam tâm tình nguyện tiếp thọ quả báo này. Nếu Kinh Lăng Nghiêm là thật, thì tôi phát nguyện rằng : Đời đời kiếp kiếp phải hoằng dương Kinh Lăng Nghiêm đại pháp, phải xiểng dương giảng nói nghĩa thật của Kinh Lăng Nghiêm.

Các vị hãy nghĩ xem ! Nếu Kinh Lăng Nghiêm chẳng phải của Phật nói, ai có thể nói ra pháp chánh quyết này ? Tôi hy vọng người phê bình Kinh Lăng Nghiêm là giả, hãy mau sám hối, sửa đổi lỗi lầm, bằng không, sẽ đoạ vào địa ngục cắt lưỡi. Tôi mong cho những người đọc Kinh Lăng Nghiêm, những người giảng Kinh Lăng nghiêm, những người tuyên dương Kinh Lăng Nghiêm, những người lưu truyền Kinh Lăng Nghiêm, thảy đều sớm thành Phật đạo.

Vô ngã, không so sánh. Không sanh, không diệt. Không động, không hoại. Không thật, không hư. Một tướng, chẳng phải tướng. Chẳng không, chẳng có. Chẳng pháp, chẳng không pháp. Chẳng tuỳ tục, chẳng không tuỳ tục. Chẳng nghiệp, chẳng không nghiệp. Chẳng báo, chẳng không báo. Chẳng hữu vi, chẳng vô vi. Chẳng phải đệ nhất nghĩa, chẳng không đệ nhất nghĩa.

Pháp thì không có pháp cố định, cho nên nói chẳng hai, chẳng không hai. Pháp thì vô ngã, không có sự so sánh. Pháp cũng không sanh, cũng không diệt. Pháp cũng bất động, cũng không hoại. Pháp cũng không thật, cũng không hư. Pháp là một tướng, cũng là vô tướng. Pháp chẳng nhất định là không, chẳng nhất định là có, chẳng có một pháp có thể được. Trong Kinh Kim Cang có nói :

“Pháp còn phải bỏ,
Hà huống là chẳng phải pháp”.

Cũng chẳng có không phải pháp. Pháp cũng chẳng tuỳ tục đế, cũng chẳng không tuỳ tục đế. Pháp chẳng có nghiệp, cũng chẳng có không nghiệp. Pháp cũng chẳng có báo, cũng chẳng có không báo. Pháp chẳng phải hữu vi, cũng chẳng phải là vô vi. Pháp chẳng thuộc về đệ nhất nghĩa, càng không thể nói nó không phải đệ nhất nghĩa.

Chẳng phải đạo, chẳng phải không đạo. Chẳng xuất ly, chẳng phải không xuất ly. Chẳng lượng, chẳng vô lượng. Chẳng thế gian, chẳng xuất thế gian. Chẳng từ nhân sinh, chẳng phải không từ nhân sinh. Chẳng quyết định, chẳng phải không quyết định. Chẳng thành tựu, chẳng phải không thành tựu. Chẳng xuất, chẳng phải không xuất. Chẳng phân biệt, chẳng phải không phân biệt. Chẳng như lý, chẳng phải không như lý.

Pháp cũng chẳng phải đạo, cũng chẳng phải không đạo. Pháp chẳng nhất định xuất ly, chẳng nhất định không xuất ly. Pháp cũng chẳng có lượng, chẳng phải là vô lượng, vượt qua cảnh giới lời lẽ nghĩ bàn. Pháp cũng chẳng phải thế gian, cũng chẳng phải xuất thế gian. Pháp chẳng từ nhân sinh, cũng chẳng phải không từ nhân sinh. Pháp là chẳng quyết định, chẳng phải không quyết định. Pháp chẳng phải thành tựu, cũng chẳng phải không thành tựu. Ở trong trung đạo mới là pháp rốt ráo. Pháp chẳng phải xuất, cũng chẳng phải không xuất. Pháp chẳng phải phân biệt, cũng chẳng phải không phân biệt. Tìm ở trong sự phân biệt là thức, tìm ở trong sự không phân biệt là trí. Ở trong chính giữa này, pháp là chẳng như lý, cũng chẳng phải không như lý.

Bồ Tát nầy chẳng thủ lấy thế tục đế, chẳng trụ đệ nhất nghĩa. Chẳng phân biệt các pháp, chẳng kiến lập văn tự. Tuỳ thuận tánh tịch diệt, chẳng bỏ tất cả lời nguyện. Thấy nghĩa biết pháp, khắp nổi mây pháp, mưa xuống pháp vũ.

Vị Bồ Tát này, chẳng y chiếu đạo lý thế tục, cũng chẳng trụ tại đệ nhất nghĩa. Chẳng phân biệt tất cả các pháp, chẳng kiến lập tất cả văn tự. Tuỳ thuận tánh tịch diệt của các pháp, chẳng xả bỏ tất cả lời nguyện của Bồ Tát. Thấy tất cả nghĩa lý, liền biết nguốn gốc của tất cả pháp. Khắp nổi mây đại pháp, mưa xuống đại pháp vũ.

Tuy biết thật tướng không thể nói, mà dùng phương tiện biện tài vô tận, tuỳ pháp tuỳ nghĩa, diễn nói thứ lớp. Dùng lời lẽ các pháp diễn nói, đều đắc được thiện xảo. Đại từ đại bi, đều đã thanh tịnh. Có thể ở trong tất cả pháp lìa văn tự, sinh ra văn tự. Với pháp với nghĩa, tuỳ thuận không trái nghịch. Vì nói các pháp đều từ duyên khởi.

Bồ Tát tuy biết thật tướng vô tướng là không thể nói, mà vẫn dùng phương tiện biện tài không cùng tận, tuỳ theo pháp tuỳ theo nghĩa lý, vì chúng sinh khai thị diễn nói thứ lớp. Đối với các pháp, lời lẽ, diễn nói, đều đắc được thiện xảo. Vì nguyện lực đại từ đại bi, cho nên đều đã thanh tịnh. Có thể ở trong tất cả pháp lìa văn tự, sinh ra tất cả văn tự. Đối với pháp với nghĩa, tuỳ thuận không trái nghịch. Vì tất cả chúng sinh, mà diễn nói tất cả các pháp, nói tất cả các pháp, đều từ đạo lý duyên khởi.

Tuy có lời nói, mà không chấp trước. Diễn nói tất cả pháp, biện tài vô tận. Phân biệt an lập, khai phát chỉ đạo. Khiến cho các pháp tánh, hiển rõ đầy đủ. Dứt các lưới nghi, đều được thanh tịnh. Tuy nhiếp chúng sinh, chẳng bỏ chân thật.

Bồ Tát tuy dùng biện tài vô ngại, để diễn nói đủ thứ pháp, nhưng không có chấp trước. Khi diễn nói tất cả các pháp, biện tài không cùng tận. Phân biệt tất cả pháp, an lập tất cả pháp, khai phát tất cả pháp, chỉ đạo tất cả pháp. Khiến cho tất cả pháp tánh, hiển rõ đầy đủ. Dứt lưới nghi của tất cả chúng sinh, đều được nguồn gốc tự tánh thanh tịnh. Bồ Tát tuy làm Phật sự, để giáo hoá chúng sinh, để nhiếp thọ chúng sinh, nhưng chẳng xả bỏ lý thể chân thật.

Đối với pháp không hai, mà không thối chuyển. Thường hay diễn nói pháp môn vô ngại. Dùng các âm thanh hay, tuỳ tâm chúng sinh, khắp mưa pháp vũ, mà không thất thời.

Bồ Tát đối với pháp môn không hai (thật tướng lý thể chân thật), không có khi nào thối chuyển. Thường hay diễn nói pháp môn viên dung vô ngại. Dùng đủ thứ các âm thanh hay, tuỳ thuận tâm ý của chúng sinh, khắp vì chúng sinh để nói pháp, mà không khi nào mất đi thời cơ.

Đó gọi là trí thần thông tất cả pháp thứ chín của đại Bồ Tát.

Đó là thần thông thứ chín của đại Bồ Tát, gọi là trí huệ thần thông tất cả pháp.

THỨ MƯỜI, TRÍ THẦN THÔNG VÀO TAM MUỘI TẤT CẢ PHÁP DIỆT TẬN

Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng trí thông tam muội tất cả pháp diệt tận, ở trong niệm niệm, vào tam muội tất cả pháp diệt tận.

Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát dùng thần thông trí huệ tam muội tất cả pháp diệt tận, ở trong mỗi niệm, đều vào tam muội tất cả pháp diệt tận.

Cũng không thối chuyển Bồ Tát đạo, không bỏ việc Bồ Tát, không bỏ tâm đại từ đại bi. Tu tập Ba la mật, chưa từng nghỉ ngơi. Quán sát tất cả cõi nước, không nhàm mỏi, không bỏ nguyện độ chúng sinh, không dứt việc chuyển bánh xe pháp, không bỏ sự nghiệp giáo hoá chúng sinh, không bỏ hạnh cúng dường chư Phật, không bỏ tất cả pháp môn tự tại, không bỏ thường thấy tất cả chư Phật, không bỏ thường nghe tất cả pháp.

Bồ Tát ở trong định, không thối chuyển đạo của Bồ Tát tu, cũng không bỏ việc của Bồ Tát làm, càng không bỏ tâm đại từ đại bi. Tu tập pháp môn mười Ba la mật, vĩnh viễn đều không nghỉ ngơi. Quán sát cõi nước của tất cả chư Phật, không có khi nào nhàm chán mệt mỏi, không bỏ nguyện lực độ chúng sinh, không dứt Phật sự chuyển bánh xe pháp, không bỏ sự nghiệp giáo hoá chúng sinh, không bỏ hạnh cúng dường tất cả chư Phật, không bỏ tất cả pháp môn tự tại, không bỏ thường thấy tất cả chư Phật, không bỏ thường nghe tất cả pháp. Tâm của Bồ Tát thường nguyện thấy Phật, thường nguyện nghe pháp.

Biết tất cả pháp bình đẳng vô ngại, tự tại thành tựu tất cả Phật pháp. Hết thảy thắng nguyện đều được viên mãn. Biết rõ tất cả cõi nước khác biệt. Vào chủng tánh Phật, đến được bờ kia. Hay ở trong các thế giới đó, học tất cả pháp, rõ pháp vô tướng. Biết tất cả pháp đều từ duyên khởi, không có thể tánh. Tuỳ theo thế tục phương tiện diễn nói. Tuy đối với các pháp, tâm không trụ vào, mà thuận chúng sinh, các căn ưa thích, phương tiện vì họ nói đủ thứ các pháp.

Bồ Tát biết tất cả pháp vốn là bình đẳng, viên dung vô ngại, nhậm vận tự tại, thành tựu tất cả Phật pháp. Nguyện lực thù thắng của Bồ Tát phát ra, đều thành tựu viên mãn. Lại thấu rõ tất cả cõi nước của chư Phật, có đủ thứ cảnh giới khác biệt. Bồ Tát đắc được chủng tánh Phật, đạt đến được bờ kia của chư Phật. Hay ở trong mỗi thế giới, học tập tất cả pháp, thấu rõ pháp chẳng có một thể tướng. Tuy nhiên Bồ Tát biết tất cả pháp, đều từ duyên sinh khởi, nếu không có duyên khởi thì chẳng có tất cả pháp. Pháp chẳng có một thể tánh, nhưng vẫn tuỳ thuận tất cả căn tánh và tất cả sự ưa thích của chúng sinh, dùng pháp môn thiện xảo phương tiện, để vì chúng sinh nói đủ thứ tất cả các pháp.

Khi Bồ Tát này trụ tam muội, thì tuỳ tâm ưa thích của Ngài, hoặc trụ một kiếp, hoặc trụ trăm kiếp, hoặc trụ ngàn kiếp, hoặc trụ ức kiếp, hoặc trụ trăm ức kiếp, hoặc trụ ngàn ức kiếp, hoặc trụ trăm ngàn ức kiếp, hoặc trụ Na do tha ức kiếp, hoặc trụ trăm Na do tha ức kiếp, hoặc trụ ngàn Na do tha ức kiếp, hoặc trụ trăm ngàn Na do tha ức kiếp, hoặc trụ vô số kiếp, hoặc trụ vô lượng kiếp, cho đến hoặc trụ bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp.

Khi vị Bồ Tát này trụ tam muội, thì tuỳ tâm hoan hỉ của Ngài, hoặc trụ một kiếp, hoặc trụ trăm kiếp, hoặc trụ ngàn kiếp, hoặc trụ ức kiếp, hoặc trụ trăm ức kiếp, hoặc trụ ngàn ức kiếp, hoặc trụ trăm ngàn ức kiếp, hoặc trụ na do tha ức kiếp, hoặc trụ trăm na do tha ức kiếp, hoặc trụ ngàn na do tha ức kiếp, hoặc trụ trăm ngàn na do tha ức kiếp, hoặc trụ vô số kiếp, hoặc trụ vô lượng kiếp, cho đến hoặc trụ bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp.

Bồ Tát vào tam muội tất cả pháp diệt tận này, tuy trải qua các kiếp trụ như thế, mà thân không tan rã, không gầy ốm, không biến đổi, chẳng thấy, chẳng không thấy, không diệt, không hoại, không mệt, không lười, không thể kiệt tận. 

Khi Bồ Tát vào tam muội tất cả pháp diệt tận này, tuy nhiên trải qua các kiếp trụ như ở trước đã nói, mà bổn thân của Bồ Tát không tan, không rã, không gầy, không ốm, không biến, không đổi. Một số chúng sinh, hoặc chẳng thấy, hoặc chẳng không thấy. Tại sao ? Vì thân thể của Bồ Tát không diệt, không hoại, không mệt, không lười. Ở trong định trải qua thời gian dài như thế, cũng không thể cùng tận và khô kiệt.

Tuy đối với có không đều vô sở tác, mà hay thành tựu các việc của Bồ Tát. Đó là : Luôn không xả lìa tất cả chúng sinh, giáo hoá điều phục, chưa từng thất thời, khiến cho họ tăng trưởng tất cả Phật pháp. Đối với hạnh Bồ Tát đều được viên mãn. Vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, thần thông biến hoá, không có ngừng nghỉ. Ví như hình bóng quang minh, hiện khắp tất cả, mà nơi tam muội, vắng lặng chẳng động.

Tuy Bồ Tát đối với có, không, đã vượt qua cảnh giới có, không, đều vô sở tác, mà hay thành tựu các việc của Bồ Tát làm. Tức là lục độ vạn hạnh, hành Bồ Tát đạo. Đó là : Luôn không xả lìa tất cả chúng sinh, lúc nào cũng ở với chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, không sớm không trễ, hợp thời hợp lúc, khiến cho tất cả chúng sinh tăng trưởng tất cả sở cầu đối với Phật pháp. Đối với hạnh của Bồ Tát tu, đều đắc được cảnh giới viên mãn tự tại vô ngại. Bồ Tát vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên vận dụng thần thông biến hoá, để giáo hoá chúng sinh, không lúc nào ngừng nghỉ. Giống như hình bóng quang minh, hiện khắp tất cả. Bồ Tát ở trong định, vắng lặng chẳng động.

Đó là trí thần thông tam muội vào tất cả pháp diệt tận của đại Bồ Tát.

Đó là thần thông thứ mười của đại Bồ Tát, gọi là trí huệ thần thông tam muội vào tất cả pháp diệt tận.

Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tại mười thứ thần thông như vậy, tất cả trời người không thể nghĩ bàn, tất cả chúng sinh không thể nghĩ bàn, tất cả Thanh Văn, tất cả Độc Giác, và tất cả các chúng Bồ Tát khác, như vậy thảy đều không thể nghĩ bàn. 

Thân nghiệp Bồ Tát này không thể nghĩ bàn, lời nghiệp không thể nghĩ bàn, ý nghiệp không thể nghĩ bàn. Tam muội tự tại không thể nghĩ bàn, trí huệ cảnh giới không thể nghĩ bàn. Chỉ có chư Phật, và các Bồ Tát khác được thần thông này. Ngoài ra, không ai nói được công đức này, tán thán khen ngợi.

Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát trụ tại mười thứ thần thông như thế, thì tất cả trời người không thể nghĩ bàn vị Bồ Tát này. Tất cả chúng sinh cũng không thể nghĩ bàn vị Bồ Tát này. Tất cả Thanh Văn, tất cả Độc Giác, và tất cả các chúng Bồ Tát khác, thảy đều không thể nghĩ bàn vị Bồ Tát này. Thân nghiệp của Bồ Tát này không thể nghĩ bàn, lời nghiệp cũng không thể nghĩ bàn, ý nghiệp cũng không thể nghĩ bàn. Tam muội của Bồ Tát như thế nào ? Chúng ta chẳng biết. Bất cứ chúng sinh thông minh, hoặc chúng sinh ngu si, không thể dùng vọng tự phê bình cảnh giới của Bồ Tát, hoặc dò cảnh giới của Bồ Tát. Vì cảnh giới của Bồ Tát không thể nghĩ bàn.

Vị Bồ Tát này, tam muội và tự tại không thể nghĩ bàn, trí huệ và cảnh giới cũng không thể nghĩ bàn. Chỉ có chư Phật mới biết được, hoặc các Bồ Tát khác được tam muội tự tại này, mới có thể biết được. Ngoài ra tất cả chúng sinh, không cách chi nói được công đức của vị Bồ Tát này, cũng không có ai có thể tán thán và khen ngợi. Tại sao ? Vì vốn không biết được cảnh giới của vị Bồ Tát này.

Phật tử ! Đó là mười thứ thần thông của đại Bồ Tát. Nếu đại Bồ Tát trụ thần thông này, đều đắc được tất cả trí thần thông vô ngại ba đời.

Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười thứ thần thông trí huệ của đại Bồ Tát chứng được. Nếu đại Bồ Tát trụ tại mười thứ thần thông này, thì hoàn toàn đắc được tất cả thần thông trí huệ viên dung vô ngại của tất cả chư Phật đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại, để giáo hoá tất cả chúng sinh.