KINH HOA NGHIÊM ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

QUYỂN BA MƯƠI LĂM
 
PHẨM THẬP ĐỊA THỨ HAI MƯƠI SÁU

THỨ HAI LY CẤU ĐỊA

Các Bồ Tát đã nghe 
Địa tối thắng vi diệu
Tâm Ngài tối thanh tịnh
Tất cả đều hoan hỉ.
Đều từ toà đứng dậy
Vọt trụ trong hư không
Khắp rải hoa tốt đẹp
Đồng thời cùng khen ngợi.
Lành thay Kim Cang Tạng !
Bậc đại trí vô uý
Khéo nói về địa nầy
Pháp hành của Bồ Tát.
Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt
Biết tâm chúng thanh tịnh
Thích nghe Địa thứ hai
Hết thảy các hạnh tướng.
Liền thỉnh Kim Cang Tạng
Đại huệ xin diễn nói
Phật tử đều thích nghe
Chỗ trụ Địa thứ hai.

Các vị Bồ Tát đã nghe Bồ Tát Kim Cang Tạng nói về pháp môn Hoan Hỉ địa nầy, pháp Hoan Hỉ địa tối thắng vi diệu, hết thảy trong tâm của Bồ Tát đều thanh tịnh, một chút vọng tưởng cũng không còn, chỉ tồn tại tâm hoan hỉ. Hết thảy Bồ Tát đều từ toà ngồi đứng dậy, vọt thân lên hư không, dùng hoa tươi tốt đẹp nhất, rải hoa xuống cúng dường Bồ Tát Kim Cang Tạng, đồng thời cùng nhau khen ngợi Bồ Tát Kim Cang Tạng, nói: “Tốt lắm ! Bồ Tát Kim Cang Tạng ! Ngài thật là một vị Bồ Tát đại trí huệ, chẳng có tơ hào sợ hãi ! Ngài khéo nói về pháp môn Hoan hỉ địa, là pháp môn tu hành của hết thảy Bồ Tát”.

Lúc đó có vị Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt, biết tâm của mọi người đều thanh tịnh. Địa thứ nhất đã nói xong, mọi người đang muốn nghe pháp địa thứ hai. Địa thứ hai nên tu hành như thế nào ? Cảnh giới ra sao ? Pháp môn nầy tu chứng được quả vị gì ? Đều muốn biết. Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt liền thỉnh cầu Bồ Tát Kim Cang Tạng nói: “Bậc đại trí huệ ! Chúng tôi mọi người xin thỉnh Ngài tiếp tục diễn nói pháp địa thứ hai. Các vị đệ tử của Phật và các đại Bồ Tát, đều hoan hỉ lắng nghe hình tướng và cảnh giới của địa thứ hai, cũng đều muốn tiếp tục tu hành pháp môn địa thứ hai”.

Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng, bảo Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt rằng : Phật tử ! Đại Bồ Tát đã tu Sơ địa rồi, muốn vào Địa thứ hai, thì phải khởi mười thứ thâm tâm. Những gì là mười ? 

Đó là : Tâm ngay thẳng, tâm mềm mại, tâm kham năng, tâm điều phục, tâm tịch tĩnh, tâm thuần thiện, tâm không tạp, tâm không cố luyến, tâm rộng, tâm lớn. Bồ Tát nhờ mười thứ tâm, để vào Ly cấu địa thứ hai.

Phật tử ! Bồ Tát trụ Ly cấu địa, tự tánh xa lìa tất cả sự sát sinh, không chứa đao gậy, không ôm lòng oán hận. Có sự hổ thẹn, đầy đủ lòng nhân từ tha thứ. Nơi tất cả chúng sinh có mạng sống, thường sinh tâm làm lợi ích. Bồ Tát đó còn không có ác tâm não hại các chúng sinh, hà huống là Ngài khởi tưởng chúng sinh, cố ý giết hại.

Các vị Bồ Tát và Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt nói xong bài kệ ở trên, thì lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tạng nói với Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt : Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tụ đủ thứ căn lành, đã tu hành chứng được quả vị Hoan hỉ địa rồi, muốn tiếp tục tu hành pháp môn địa thứ hai, thì phải sinh ra mười thứ tâm thâm sâu. Những gì là mười thứ tâm thâm sâu ?

1. Tâm ngay thẳng : Tức là tâm phải ngay thẳng, không quanh co. Do đó : “Tâm thẳng là đạo tràng”. Chánh trực không tà, chẳng có tà tri tà kiến. Ngay thẳng là không quanh co, chẳng có lường gạt người bất cứ việc gì.

2. Tâm mềm mại : Tâm của Bồ Tát phải mềm mại, không cang cường. Tâm cang cường thì không mềm mại.

3. Tâm kham năng : Kham năng nhẫn thọ tất cả, tức là không thể nhẫn thọ cũng phải nhẫn thọ.

Tâm ngay thẳng là bố thí. Tâm mềm mại là trì giới. Tâm kham năng là nhẫn nhục, dù không thể nhẫn cũng phải nhẫn, không thể giữ giới cũng phải giữ, bất cứ như thế nào cũng không thể phạm giới.

Xưa kia có một câu chuyện thế nầy : Có một vị Tỳ Kheo, mặc y màu đỏ, đi đến nhà một người thợ làm vàng, lúc đó ông thợ làm vàng đang làm bảo châu rất quý giá cho ông vua. Sau khi vị Tỳ Kheo đó đi rồi, thì người thợ vàng hốt nhiên phát hiện thiếu mất một hạt châu, liền hoài nghi cho vị Tỳ Kheo đó trộm đi. Kỳ thật, vị Tỳ Kheo đó biết hạt châu ở đó, vì y của vị Tỳ Kheo mặc là màu đỏ, phản chiếu lên hạt châu, làm cho hạt châu biến thành giống như cục thịt. Lúc đó, có con vịt đi vào, tưởng là cục thịt, nên nuốt vào bụng rồi đi. Vì giữ mạng sống cho con vịt, cho nên Ngài chẳng biện bạch. Ông thợ vàng bèn cầm gậy đánh vị Tỳ Kheo một cách tàn nhẫn, máu me lai láng. Con vịt ngửi thấy mùi máu thì chạy vào. Ông thợ vàng không chú ý đến con vịt, đánh một gậy thì con vịt chết tươi.

– Bấy giờ vị Tỳ Kheo mới nói : “Ông cần gì phải đánh tôi, tôi sẽ nói hạt châu đó đang ở đâu”!

– Ông thợ vàng nói : “Ông hãy nói mau lên, ở đây chỉ có tôi và ông hai người, nếu ông không ăn cắp thì ai ?”

-Vị Tỳ Kheo nói : “Tôi không ăn cắp hạt châu của ông, vừa rồi tôi không nói, là sợ ông giết hại con vịt nầy, bây giờ con vịt đã bị ông đánh chết, tôi nói cho ông biết hạt châu ở trong bụng của con vịt. Nếu ông không tin, thì hãy mổ bụng con vịt ra xem thì sẽ biết”.

Ông thợ vàng liền mổ bụng con vịt ra, quả nhiên thấy hạt bảo châu. Ông thợ vàng đem câu chuyện nầy trình lên ông vua. Ông vua nghe rồi rất kính trọng vị Tỳ Kheo nầy, bèn thỉnh Ngài vào trong cung để cúng dường. Đây gọi là tâm kham năng

Còn có một câu chuyện khác nữa : Có mấy vị Tỳ Kheo, đi ra ngoài gặp một bọn cướp, chúng trộm cướp hết sạch, cho đến y phục cũng bị lột hết. Bọn cướp sợ các vị Tỳ Kheo đi báo cáo với vua, bèn nghĩ muốn giết họ để diệt khẩu. Nhưng trong số đó có một tên cướp nói : “Đừng giết những vị Tỳ Kheo nầy, họ giữ giới không sát sinh, cho đến cây cỏ cũng không hại đến. Chúng ta nên trói họ lại bỏ trên cỏ, để cho họ chết đói”. Do đó, bọn cướp bèn trói các vị Tỳ Kheo lại và bỏ trên cỏ không đi đâu được.

Trong đó có một vị Tỳ Kheo lớn tuổi nói với mọi người rằng : “Bây giờ chúng ta gặp hoàn cảnh nầy, chắc chắn kiếp trước chúng ta đã từng trộm cướp tài vật của người khác, làm hại đến tánh mạng của họ, cho nên đời nầy mới gặp quả báo nầy. Mọi người đều phải nhẫn nại một chút”! Đến khi trời tối, thì kiến và mũi mòng đều đến cắn họ, cắn sưng hết khắp mình, vừa đau vừa ngứa. Vị Tỳ Kheo lớn tuổi lại nói : “Mọi người nhẫn nại một chút ! Đừng có sinh tâm sân hận. Các vị hãy nhìn xem loài rồng, khi chúng tu hành thì sinh ra tâm sân hận, cho nên mới đoạ làm thân rồng. Tuy hiện tại chúng ta gặp nạn nầy, nhưng đừng sinh tâm sân hận, đừng giống như loài rồng, khi nào rồng quên đi tâm sân hận thì mới xả bỏ được thân rồng, lại tiếp tục tu hành”.

Đến nửa đêm thì nghe tiếng cọp gầm sói tru, làm cho mọi người kinh hãi, thức suốt tới sáng. Buổi sáng hôm đó, ông vua đi săn, từ xa nhìn thấy các vị Tỳ Kheo không y phục, tưởng rằng đó là cầm thú. Tới gần một chút nhìn thì cho rằng là yêu quái; lại đến gần một chút nữa nhìn, hỏi rõ ràng đầu đuôi câu chuyện, thì mới biết mấy vị Tỳ Kheo nầy bị bọn cướp lột hết sạch, do giữ giới mà thà chết đói, chết khát chứ không muốn làm hại đến cây cỏ. Ông vua nghe xong lập tức nói với mấy vị Tỳ Kheo rằng : “Trong nước của ta có những vị Tỳ Kheo nầy tu hành thật là hiếm có”! Bèn đích thân đến mở trói cho các vị Tỳ Kheo, rất có tâm cung kính đến các vị Tỳ Kheo đó, và còn thỉnh các vị đó vào cung tiếp nhận sự cúng dường.

Các vị ! Chúng ta nghe các vị Tỳ Kheo trong câu chuyện nầy bị người khác dùng cỏ trói lại, các Ngài thà chết đói và bị côn trùng cắn chết chứ không phá giới, tinh thần khó nhẫn mà nhẫn được, khó hành mà hành được, tâm kiên định không thể giữ giới cũng giữ được, đó mới là chân chánh Tăng Bảo trong cửa Phật, đây gọi là tâm kham nhẫn.

4. Tâm điều phục : Đừng nói đến việc điều phục người khác, chính mình còn khó điều phục. Bạn vừa mới nghĩ tu hành, thì nó bèn khởi lên nhiều vọng tưởng. Bạn muốn thanh tịnh, thì tâm nhiễm ô lại đến, tâm của chúng sinh thật không dễ gì điều phục. Nếu điều phục được tâm cang cường và tâm không nghe lời, thì đó mới là công phu thật.

5. Tâm tịch tĩnh : Tâm tịch tĩnh chẳng phải chỉ cho hoàn cảnh tịch tĩnh bên ngoài, mà là chỉ cho nội tâm không có tất cả mọi âm thanh, như vậy thì tự nhiên tịch tĩnh.

6. Tâm thuần thiện : Tâm thuần thiện tức là trong tâm chẳng có chút ý niệm ác nào.

7. Tâm không tạp : Tức là trong tâm chẳng có tâm niệm tạp loạn nào.

8. Tâm không cố luyến : Ví như bạn bố thí đồ vật, bố thí rồi tuyệt đối không luyến tiếc.

9. Tâm rộng : Tâm rộng rãi.

10. Tâm lớn : Tâm nầy lớn không có gì sánh bằng.

Bồ Tát phải có mười thứ tâm thâm sâu như ở trên vừa nói, nương theo mà tu hành, thì mới vào được địa thứ hai, lìa tất cả trần cấu. Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Khi Bồ Tát trụ Ly cấu địa, thì tự tánh xa lìa tất cả cảnh giới sát sinh, cho đến loại khí cụ đao gậy có thể làm thương hại đến sinh mạng, đều không lưu trữ cất giữ. Trong tâm của Bồ Tát chẳng có oán hận với bất cứ ai, luôn luôn sinh tâm đại hổ thẹn. Thế nào gọi là nhân từ tha thứ ? Việc mình không muốn thì tuyệt đối đừng bố thí cho người khác; ví như mình không muốn bị người khác đàn áp, thì đừng có đàn áp người khác. Mình không muốn bị người ta mắng chửi, thì mình đừng mắng chửi người khác, đây gọi là nhân từ tha thứ. Bất cứ ai có lỗi lầm gì, đều có thể tha thứ hết. Đầy đủ tâm nhân ái và tâm tha thứ, đối với tất cả chúng sinh, phải luôn luôn sinh ra tâm từ bi lợi ích cho họ. Như vậy Bồ Tát tu hành, Ngài không muốn dùng tâm ác làm cho tất cả chúng sinh, sinh ra phiền não. Vì Ngài đã nhận rõ họ chỉ là chúng sinh, tức là chúng sinh thì nỡ nào sinh ác tâm giết hại họ ? Họ là chúng sinh, thì nên có tâm từ bi nhân từ tha thứ đối với họ, chứ chẳng phải dùng tâm ác cố ý giết hại họ.

Tánh không trộm cắp, Bồ Tát đối với tài vật của mình thường biết vừa đủ. Với người thì từ bi tha thứ không muốn làm tổn hại. Nếu vật thuộc người khác, thì nghĩ vật thuộc người khác, trọn không vì thế mà sinh tâm trộm cắp, cho đến cỏ lá, họ không cho thì không lấy, hà huống là những đồ tư sanh khác !

Địa thứ hai – Ly cấu địa, tức cũng là tự tánh thanh tịnh địa, tức cũng là tự tánh vốn không nhiễm ô. Trong cảnh giới nầy, tự tánh lìa khỏi tất cả pháp nhiễm ô, cho đến khởi tâm động niệm đều là thanh tịnh, chẳng có sự nhiễm ô. Động một tâm niệm nhiễm ô, thì đó chẳng phải là thanh tịnh. Đạo lý giảng trong Kinh Hoa Nghiêm, đều là pháp bình thường hằng ngày không lìa khỏi mỗi người. Không những Kinh Hoa Nghiêm như vậy, mà mỗi bộ Kinh đều không rời khỏi phạm vi hằng ngày qua hành vi động tác của chúng ta. Nếu đạo lý nói trong Kinh điển chẳng có quan hệ gì với đời sống sinh hoạt hằng ngày của chúng ta, thì đức Phật chẳng nói Kinh đó. Kinh điển của đức Phật nói, là muốn trợ giúp mỗi người có đời sống chánh thường tốt đẹp và rất có quy cụ. Cho nên đức Phật nói tất cả pháp môn, giảng tất cả nghĩa Kinh, đều chỉ dẫn chúng ta hướng con đường chánh mà tiến về trước. Song, chúng ta phải chịu đi tới thì mới có sự hữu dụng. Nếu chúng ta chỉ biết có Kinh điển mà không ý chiếu theo trong nghĩa Kinh tu hành, thì hằng ngày nghe Kinh, nghe đến tạm vạn đại kiếp, cũng giống như không nghe. Chúng ta chỉ nghe thôi chưa đủ, nếu khi nghe mà hôn trầm, nghe mà ngủ gà ngủ gật, thì đó chẳng phải là có mắt không thấy Lô Xá Na, có tai không nghe giáo lý viên đốn chăng ? Tôi thường nói với mọi người, khi nghe Kinh, bất luận là ai, trước hết đừng có ngủ; nếu ngủ thì có mắt cũng không thấy được, có tai cũng không nghe được, nhưng vẫn có người không chịu nghe. Thứ hai là đừng có nằm mộng, trong mộng ném Kinh Hoa Nghiêm lên chín tầng mây, do dị tánh của mỗi người đi vào trong cảnh mộng; khi tỉnh mộng thì vẫn không ngừng đi tìm cảnh giới trong mộng. Như ở đây giảng Kinh rất hay, nhưng chẳng có thọ dụng gì đối với bạn. Nếu không ngủ, không nằm mộng, thì nghe Kinh sẽ đắc được lợi ích, trở về nhà vẫn suy gẫm kỹ càng, lãnh hội được vị pháp ở trong Kinh, như vậy mới thọ ích được không ít.

Ý nghĩa chữ tánh, như trong Tam Tự Kinh có nói : “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện. Tánh tương cận, tập tương viễn. Cú bất giáo, tánh nãi thiên. Giáo chi đạo, quý dĩ chuyên”. Đây chẳng phải là Kinh Phật, là quyển sách của các em nhi đồng Trung Quốc phải đọc qua, người Mỹ thì chẳng biết, dù người thiếu niên Trung Quốc hiện đại, cũng rất ít người đọc qua. Bây giờ tôi giải thích cho các vị nghe mấy câu vừa rồi ở trên : Nhân chi sơ – con người lúc ban đầu còn nhỏ, bản tánh vốn lương thiện (cũng có người nói bản tánh ác). Về sau trải qua hoàn cảnh biến đổi và huân tập khi lớn lên, dần dần xa lìa bản tánh. Giả như, không dạy dỗ họ lúc còn nhỏ, thì bản tánh thiện cũng sẽ biến thành tánh ác. Như hôm nay thời đại giáo dục của người Mỹ, bản tánh của họ tự nhiên phát triển, không thêm sự quản giáo; giống như trồng cây, cứ tự nhiên để cho nó lớn lên, kết quả cành lá mọc ra lung tung, thân cây không thể trở thành vật dụng hữu ích, đương nhiên không thể nói đến làm trụ cột được. Ở nước Mỹ, rất nhiều thanh niên biến thành hiếp pi, đó là kết quả không giáo dục mà ra.

Ý nghĩa tánh không trộm cắp, là nói về bản tánh của Bồ Tát không trộm cắp. Chẳng riêng gì về phương diện hữu hình không phạm giới, mà về phương diện vô hình cũng không phạm giới. Tóm lại, về mặt hữu hình thấy được sự việc không phạm giới, cho đến sự việc mình không thấy được, mình cũng chưa từng giám sát sự việc, cũng không phạm giới. Đây tức là trong bản tánh chẳng có hạt giống trộm cắp. Trộm cắp, nghĩa là không hỏi mà tự mình lấy tức là trộm cắp, chưa được người chủ hứa khả, đồ vật cũng không có mặt chủ nhân mà lấy đi, đây cũng gọi là trộm cắp. Bạn cho rằng người khác không nhìn thấy, nhưng ở trong tự tánh có sự ô nhiễm, chưa lìa khỏi cấu bẩn, đây chẳng phải là thanh tịnh, là nhiễm ô, đã phạm giới trộm cắp.

Bồ Tát đối với tài sản của mình, nội tài như : Đầu mắt tuỷ não, ngoại tài như đất nước vợ con, thường hay biết đủ, do đó “Tri túc thường lạc”. Tại sao con người hay trộm cắp ? Vì không biết đủ, có tâm tham, chẳng biết vừa đủ. Biết đủ thì an lạc, biết đủ thì không nhục, biết ngừng thì không nguy. Thường hay biết đủ thì không bị phạm pháp, cũng không bị người khác khinh thường tủi nhục. Cho nên có câu nói rằng : “Tri túc thường lạc, năng nhẫn tự an”.

Làm thế nào mới gọi là Bồ Tát ? Bồ Tát với con người giống nhau, bất quá tư tưởng và hành vi của Ngài khác với người phàm (Lúc nào Ngài cũng nghĩ lợi ích người khác giáo hoá chúng sinh). Ngài không ích kỷ, không lợi mình, chẳng mưu cầu cho chính mình). Chẳng màng đời sống của mình như thế nào ? Chết rồi hậu sự lại an bài như thế nào ? Bồ Tát tuyệt đối không làm hại, khinh thường chúng sinh. Ngài vì hết thảy nhân loại mà phục vụ, sự việc gì đối với nhân loại có ích thì Ngài làm. Nếu đối với nhân loại mà có hại thì Ngài không làm. Chẳng phải Bồ Tát có thần thông như thế. Thần thông chỉ là cảm ứng tự nhiên. Tại sao con người không có thần thông ? Vì nếu con người mà có thần thông thì họ sẽ cậy vào đó mà đi làm hại người khác. Đây không gọi là thần thông, đó là ác quỷ ! Một lòng muốn người khác thọ ác báo. Bồ Tát chẳng phải như vậy, chẳng màng người nghe hay không nghe lời dạy của Ngài, Ngài vẫn thí giáo không biết mệt nỏi. Ngài cũng không trừng phạt những người không nghe lời dạy của Ngài, làm cho họ khổ.

Bồ Tát đối với tất cả chúng sinh đều từ bi tha thứ, từ hay ban vui. Chúng sinh có lỗi lầm, Bồ Tát đều tự trách mình, cho rằng mình không giáo hoá họ tốt, không làm cho chúng sinh minh bạch đạo lý, do đó chúng sinh mới tạo nghiệp. Bồ Tát thường trở về cầu chính mình, hồi quang phản chiếu, chẳng giống chúng sinh luôn cảm giác người khác không đúng, đây là do tâm chúng sinh chiếu bên ngoài, còn tâm Bồ Tát thì chiếu bên trong.

Không muốn tổn hại : Bồ Tát không muốn lợi ích mình mà tổn hại người khác. Nếu như tài vật thuộc về của người khác, thì Ngài tuyệt đối không xâm chiếm lợi ích của người khác, cho dù quý trọng, thậm chí châu báu giá trị hiếm có trên thế gian, Bồ Tát cũng không có lòng tham. Không có lòng tham thì không trộm cắp. Nếu tham không biết chán, lòng tham quá lớn, liền sinh tâm trộm cắp. Cho đến một cộng cỏ, một cây kim, người khác không cho cũng không dám lấy. Cộng cỏ cây kim còn như vậy, hà huống là những vật quý trọng khác !

Tánh không tà dâm, Bồ Tát biết đủ với vợ của mình, không mong cầu vợ người. Đối với thê thiếp, con gái, thân tộc của người, Bồ Tát còn không sinh tâm tham nhiễm, hà huống là việc dâm dục, huống gì hành vi trái với đạo đức.

Ở trên đã nói qua giới giết hại và giới trộm cắp, chỗ vi tế nhất của Bồ Tát cũng cẩn thận giữ gìn, tờ hào không phạm, đối với giới dâm, càng đặc biệt coi trọng hơn. Tuy nhiên trong tự tánh có đủ nghiệp dâm, nhưng không tà dâm. Tà dâm tức là hành vi dâm dục phi pháp, phi đạo đức. Làm thế nào dâm dục sinh ra ? Là do lòng tham sinh ra. Tham tài tham sắc, đều do lòng tham sinh khởi, nếu không có lòng tham, thì tâm dâm dục cũng không có. Cho nên nói ý niệm dâm dục cũng từ lòng tham mà ra. Tham khiến cho con người không biết rõ thị phi, không biết trắng đen. Nói theo trong mười hai pháp Nhân duyên, đó gọi là vô minh. Nam hoan nữ ái, là gốc rễ của vô minh, con người thường chìm đắm trong ái dục, mà không thể tự chủ được, không biết nguyên nhân, đó tức là ma lực của vô minh. Có vô minh rồi thì sinh ra hành vi, cho nên nói vô minh duyên hành. Vô minh sinh khởi, tiếp theo thì có hành vi, đây là tà lực dẫn dắt con người đi vào đường chết. Con người từ sắc dục mà sinh, cuối cùng do sắc dục mà chết. Từ chỗ nhiễm ô mà ra, rồi lại từ chỗ nhiễm ô mà đi. Lực không minh bạch nầy, khiến cho con người có đủ thứ tội nghiệp hành vi, sau đó liền có thức. Do thức mà có danh sắc, có danh sắc rồi, sau đó sinh ra lục nhập. Lục nhập tức là : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu căn. Sau đó thì có xúc giác, do xúc giác mà sinh ra thọ dụng. Trong thọ dụng có cảm giác thư thái, liền có tâm ái dục. Có ái dục rồi tiếp theo thì có thủ, thủ là chấp trước, tất cả đều muốn chiếm đoạt để mình có (hữu), do có mà sinh ra sinh, lão tử. Mười hai nhân duyên nầy tuần hoàn không dứt, trầm luân trong sáu nẻo luân hồi. Nếu diệt được vô minh, thì tất cả liền tiếp theo đó mà diệt. Vô minh thì chẳng có trí huệ, chẳng có quang minh. Nếu có trí huệ quang minh thì sẽ không bị vô minh làm ô nhiễm, liền có thể chuyển pháp nhiễm ô thành pháp thanh tịnh. Chuyển, nói thì rất dễ, có thể nói dễ như trở bàn tay. Phiền não tức bồ đề, chuyển phiền não thành bồ đề cũng là ý nghĩa nầy, tại sao người thế gian có phiền não ? Vì có tâm tham dục, có tâm ích kỷ, có tâm tự lợi. Vì không thể thoả mãn dục vọng của mình, không thể làm đầy được tâm tham của mình, bèn sinh ra phiền não. Đây cũng là nguyên nhân “ngã kiến” (thấy cái ta) quá sâu nặng, nhất là tà kiến và dục niệm càng tác quái. Nếu như con người đoạn trừ được dục, thì sẽ không còn phiền não. Tánh không tà dâm, tức là ở trong tự tánh, căn bản chẳng có ý niệm dâm dục. Bồ Tát đối với thê thiếp của mình, đều chẳng có tâm dâm dục, biết đủ, vì Ngài biết tu hành, phải “đoạn dục khử ái”, Ngài không bị ái dục làm giao động, tuy sống với những người thê thiếp, mà không bị cảnh giới nhiễm ô làm lay động. Không mong cầu vợ người khác, đối với vợ con của mình còn không có tâm tham dục, thì làm sao khởi tà niệm với thê thiếp của người khác ? Cho đến những con gái có sự bảo hộ của gia đình, hoặc con gái đẹp trong thân tộc, hoặc là thiếu nữ có gia tộc luật pháp bảo hộ, cùng với hết thảy nữ tánh, Ngài đều không sinh tư tưởng tham nhiễm, hà huống là hành vi không hợp với đạo đức, Ngài càng không bao giờ làm.

Tánh không nói dối, Bồ Tát thường nói lời chân, lời thật, nói đúng thời, cho đến trong mộng cũng không nói dối, nói lời che đậy, lời vô tâm, hà huống là cố ý phạm.

Vì sao Bồ Tát không tà dâm ? Vì Bồ Tát có định lực chân chánh, Ngài quán được “mắt thấy hình sắc trong tâm chẳng có, tai nghe việc đời mà chẳng hay”, như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt. Cho nên định lực của Ngài đầy đủ, không bị bất cứ sắc đẹp nào làm lay động.
Tánh không vọng ngữ. Do đó:

“Một thiện tất cả đều thiện
Một thật tất cả đều thật”.

Vì không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, cho nên Ngài cũng không nói dối. Động cơ nói dối là vì mình không đạt được lợi ích nào đó, nên mới dùng lời nói dối để lừa gạt người khác.

Hoặc tránh né điều gì đó bất lợi đối với mình, sợ bị tổn hại, biết rõ nói dối là không đúng, mà vẫn cứ nói dối. Bồ Tát chẳng có tâm ích kỷ, tâm tự lợi, tâm vì mình như vậy, Bồ Tát đối với tất cả việc tốt mà có lợi ích, thì Ngài đều ban tặng cho người khác; còn việc không tốt, không có ích thì mình thọ nhận, cho nên Ngài không cần nói dối. Vì trong tâm của Ngài vốn không còn nhân nói dối, cũng không còn duyên nói dối, càng không tạo nghiệp nói dối. Bồ Tát thường nói lời thật : Nói lời chân thật. Trong con mắt phàm phu, Bồ Tát không nói dối là có chút sự ngu ngốc, nhưng ở trong tâm Phật, Bồ Tát là đệ tử tốt nhất. Đức Phật thường khen ngợi Bồ Tát là thiện nam tử, người có đại trí huệ. Ngu si và trí huệ là dùng lối thấy pháp mà quyết định sự khác biệt. Phàm phu thế tục cho rằng là trí huệ, đều là trí huệ phàm phu. Trí huệ của Phật nói tức là đại trí huệ của Thánh nhân. Bồ Tát Di Lặc tự gọi mình là lão khờ, ý nghĩa là vừa già, vừa khờ khạo, là người ngu si.

Đức Khổng Tử khen Nhan Hồi vài câu như thế nầy : “Ngô dữ hồi ngôn chung nhật, bất vi như ngu. Thối nhi tỉnh kỳ tư, diệc túc dĩ phát, Hồi dã bất ngu”.

Khổng Tử nói : Ta nói chuyện với Nhan Hồi, y chưa bao giờ trái ý ta, nói chung Nhan Hồi đáp tốt hoặc dạ, thật giống như người khờ. Nhưng khi y xử lý sự tình thì, lời của ta nói, từng câu từng câu y đều phát huy tác dụng của nó. Nhan Hồi ơi ! Một chút cũng không ngu si.

Lời xưa có nói : “Đại trí nhược ngu” (bậc trí như người ngu). Lời chân : Nói lời chân thật, không nói lời giả dối lường gạt. Nói đúng thời : Lời nên nói thì nói; lời không nên nói thì không nói, đúng thời thì nói; không đúng thời thì không nói. Cho đến ở trong mộng : Thậm chí ở trong mộng, cũng không tạo ra lỗi lầm, hoặc nói dối, tâm vốn không còn nói dối, thì còn cố ý nói dối chăng !

Tánh không nói hai lưỡi, Bồ Tát đối với các chúng sinh không có tâm ly gián, không có tâm não hại. Không đem lời người nầy, vì phá người kia mà nói với họ. Không đem lời người kia, vì phá người nầy mà nói với họ. Người chưa phá thì không khiến cho phá, người đã phá rồi thì không tăng thêm. Không vui sự ly gián, không thích sự ly gián, không tạo ra lời ly gián, không nói lời ly gián, hoặc thật, hoặc không thật.

Tánh không nói hai lưỡi : Trong tự tánh của Bồ Tát chẳng có tập khí thị phi đôi bên. Bồ Tát đối với chúng sinh chẳng có sự ly gián, làm cho họ mất hoà khí, cũng chẳng có tâm tư hãm hại chúng sinh, chỉ có tâm từ bi lợi ích chúng sinh. Không đem lời người nầy vì phá người kia mà nói với họ : Không thể đem lời nói xấu của người A nói với người B. Không thể đem lời người kia vì phá người nầy mà nói với họ : Cũng không tuỳ tiện đem lời nói xấu của người B nói với người A. Như vậy gọi là nói hai lưỡi, phá hoại hoà khí giữa hai người, làm cho họ sinh phiền não. Người chưa phá không khiến cho phá : Chưa từng làm việc phá hoại hoà khí người khác, thì ngàn vạn đừng làm. Người đã phá rồi, thì đừng cho tăng thêm : Nếu đã từng có hành vi như thế, thì đừng có làm nữa, nên sửa lỗi làm mới. Con người chẳng phải Thánh hiền, chẳng có ai không có lỗi, biết lỗi mà sửa đổi, chẳng có việc thiện nào bằng. Bồ Tát chẳng nhớ lỗi xưa, không thích chuyện thị phi làm cho họ mất hoà khí. Không nói lời tổn hại sự hoà khí, không màng là thật có việc đó hay không, hoặc là lời không thật, thảy đều hoá giải thị phi, khiến cho hoà thuận đôi bên.

Tánh không chưởi mắng, như là : Lời độc hại, lời thô ác, lời làm khổ họ, lời khiến cho họ sân hận, lời hiện tiền, lời không hiện tiền, lời xấu ác, lời dung tục đê tiện, lời không thích nghe, lời người nghe không vui, lời giận dữ, lời như lửa đốt tâm, lời oán kết, lời nhiệt não, lời không đáng ưa, lời không vui thích, lời làm hại thân mình và thân người. Những lời như vậy, thảy đều xả lìa. 

Thường nói lời thấm nhuần, lời mềm mại, lời vừa ý, lời đáng thích nghe, lời người nghe hoan hỉ, lời khéo vào tâm người, lời phong nhã điển tắc, lời nhiều người ưa thích, lời nhiều người vui thích, lời thân tâm hớn hở.

Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, ở trong phần tánh của tự tánh, không có chưởi mắng. Như là : lời độc hại : Dùng thái độ không hợp lễ nghĩa, nói những lời độc hại, lời thương hại đến người khác hoặc độc hại giống như tên độc, khiến cho người nghe sinh phiền não. Lời thô ác : Dùng lời nói cường từ đoạt lý. Lời làm khổ họ : Lời nói ra làm cho người nghe trong tâm rất phiền não đau khổ. Lời khiến cho họ sân hận : Lời nói ra khiến cho người nghe lập tức khởi tâm sân hận. Lời hiện tiền : Ở trước mặt người khác nói thị nói phi. Lời không hiện tiền : Ở sau lưng người khác nói thị nói phi. Lời xấu ác : Nói lời nói rất xấu lại rất ác độc, khiến cho người nghe không thuận tai. Lời dung tục đê tiện : Nói lời nói rất dung tục đê tiện, chẳng có chút giá trị gì. Lời không thích nghe : Nói lời nói khiến cho người không hoan hỉ nghe. Lời người nghe không vui : Nói lời nói làm cho người khác nghe rồi không vui vẻ. Lời giận dữ : Lời nói ra khiến cho người nghe rồi sinh nổi giận, sinh tâm rất sân hận. Lời như lửa đốt tâm : Lời nói ra khiến cho người nghe rồi chán nãn giống như lửa đốt tâm. Lời oán kết : Lời nói ra khiến cho người nghe rồi, vĩnh viễn ở trong tâm sinh ra sự cừu oán. Lời nhiệt não : Lời nói ra khiến cho người nghe rồi bèn sinh phiền não. Lời không đáng ưa : Lời nói ra chẳng có ai hoan hỉ nghe. Lời không vui thích : Lời nói ra đều khiến cho người không vui thích. Lời làm hại thân mình và thân người : Lời nói ra làm thương hại đến thân mình, lại không lợi cho người khác, đó là lời tổn hại người chẳng lợi cho mình. Những lời nói như vậy, đều thuộc về chưởi mắng, đều là tạo nghiệp ác, đều phải từ bỏ. Nên thường nói những lời có ý nghĩa, lời nói giống như nước hay thấm nhuần thực vật. Lời mềm mại : Lời nói rất nhu hoà. Lời vừa ý : Lời nói ra khiến cho người rất vui thích. Lời đáng thích nghe : Lời nói ra khiến cho người nghe rồi rất khoái lạc. Lời người nghe hoan hỉ : Lời nói ra khiến cho người nghe đặc biệt hoan hỉ. Lời khéo vào tâm người : Lời nói ra đều là thiện ý, khiến cho người nghe có cảm giác ngọt vào trong đáy lòng. Lời phong nhã điển tắc : Lời nói ra rất phong phú tao nhã, rất thanh cao, khiến cho người nghe rồi cũng hoan hỉ học tập, đáng làm lời điển tắc. Lời nhiều người ưa thích : Lời nói ra khiến cho rất nhiều người nghe có cảm giác vui vẻ thân thiết. Lời nhiều người vui thích : Lời nói ra khiến cho rất nhiều người nghe có đồng cảm vui vẻ khoái lạc. Lời thân tâm hớn hở : Lời nói ra khiến cho người nghe thân tâm khoái lạc, mừng rỡ mà nhảy nhót, trong tâm sinh đại hoan hỉ.

Tánh không thêu dệt, Bồ Tát thường nói lời chánh đáng, lời phải thời, lời chân thật, lời có ý nghĩa, lời đúng pháp, lời thuận đạo lý, lời khéo điều phục, lời tuỳ thời trù tính quyết định. Bồ Tát nầy cho đến cười đùa còn luôn suy nghĩ kỹ, hà huống nói ra lời tán loạn.

Trong tự tánh Bồ Tát cho đến phần tánh chửi mắng đều không có, càng không thể có lời thêu dệt. Thêu dệt tức là nói lời tà không chánh đáng, khiến cho người nghe dễ sa vào sự ô nhiễm. Bồ Tát ba nghiệp thanh tịnh, không nói những lời lẽ không chánh đáng. Khi Bồ Tát nói thì Ngài suy gẫm rất cẩn thận rõ ràng, nghĩ kỹ đúng đắn rồi mới nói. Lời phải thời: Lúc nên nói mới nói, lúc không nên nói thì Ngài không nói. Lời chân thật: Nếu có người không minh bạch đối với Phật pháp, hoặc có sự hoài nghi thỉnh vấn Bồ Tát, thì Ngài giải thích rõ ràng thiết thực không có chút hư vọng nào, cũng chưa từng nói dối. Lời có ý nghĩa : Những câu nói ra đều có nội dung, có nghĩa thú chánh quyết, không nói những lời vô vị dư thừa. Lời đúng pháp : Lời nói ra hợp với Phật pháp. Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, nhất định dùng ba loại lời nói nầy: Chân thật, ý nghĩa, đúng pháp. Lời thuận đạo lý: Giáo hoá chúng sinh giữ gìn giới luật, khiến cho chúng sinh thông tình đạt lý, đối với họ thưởng phạt phân minh, và làm cho họ minh bạch phàm làm việc gì đều phải thuận lý mà hành mới có sự thành tựu. Lời khéo điều phục : Bồ Tát giáo hoá chúng sinh dùng phương pháp phương tiện khéo léo, triết nhiếp hợp nghi, thì chúng sinh mới điều phục được. Lời tuỳ thời trù tính quyết định: Bồ Tát tuỳ thời chú ý làm cho chúng sinh hoan hỉ, nếu chúng sinh có công đức, thì khen ngợi họ; nếu chúng sinh có lỗi lầm thì khuyên họ làm cho tốt. Quán sát kỹ càng quyết không trái thời, đều phù hợp với mọi hoàn cảnh. Lúc Bồ Tát vui mừng nhất, cũng không tuỳ thời đùa giỡn hoặc nói nói bậy bạ, sao lại có sự cố ý nói những lời tán loạn ?

Tánh không tham dục, Bồ Tát đối với tài vật của người khác, vật dùng của người khác, không sinh tâm tham, không muốn, không mong cầu.

Tánh không tham dục: Ba nghiệp của Bồ Tát đều thanh tịnh, ba độc dứt trừ, không những tất cả nghiệp ác đều chẳng còn, mà sớm đã thoát khỏi tham dục. Đối với tài vật ngoài thân, như đồ vật quý trọng, Ngài đều không khởi lòng tham. Hết thảy vật dùng của người khác, Ngài càng không sinh khởi tâm tham muốn chiếm lấy về mình, cũng không mong cầu gì hết.

Tánh lìa sân hận, Bồ Tát đối với tất cả chúng sinh, luôn khởi tâm từ, tâm lợi ích, tâm thương xót, tâm hoan hỉ, tâm hoà nhuận, tâm nhiếp thọ, vĩnh viễn xả bỏ sự sân hận oán hại nhiệt não, thường nghĩ tuỳ thuận thực hành nhân từ lợi ích.

Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, trong tự tánh lìa khỏi sân hận. Đại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, tu tập đủ thứ căn lành, đối với hết thảy chúng sinh chín pháp giới, luôn khởi tâm từ; thời khắc đều sinh khởi tâm từ bi, khiến cho chúng sinh đắc được tất cả sự an lạc. Tâm lợi ích: Thường nghĩ đến cho chúng sinh tất cả sự lợi ích. Tâm thương xót: Đối với chúng sinh sinh ra một thứ tâm đáng thương xót, tuỳ thời trợ giúp họ. Tâm hoan hỉ: Tâm của Bồ Tát thời khắc đều hoan hỉ, chẳng có chút gì ưu sầu. Tâm hoà nhuận: Tâm của Bồ Tát đối với tất cả chúng sinh đều hoà khí, nhuận trạch, cho nên tất cả chúng sinh đều hoan hỉ Ngài. Tâm nhiếp thọ: Tức là hay nhiếp thọ những người thiện nam tín nữ phát tâm bồ đề, chỉ dẫn cho họ tu hành tiến vào bồ đề đại đạo. Bồ Tát vĩnh viễn xả bỏ tâm sân hận người, tâm oán hại người, và tâm khiến cho họ sinh phiền não, nói chung luôn luôn nghĩ đến tuỳ thuận thực hành nhân từ lợi ích: Nhân ái tất cả chúng sinh, thương xót tất cả chúng sinh, trợ giúp tất cả chúng sinh, lợi ích tất cả chúng sinh.

Lại lìa tà kiến, Bồ Tát trụ nơi chánh đạo, không làm việc chiêm bói, không thủ ác giới. Tâm thấy chánh trực, không siểm nịnh. Đối với Phật Pháp Tăng khởi niềm tin quyết định.

Lại lìa tà kiến: Bồ Tát thời khắc đều ở trong sự chánh tri chánh kiến, xa lìa tất cả tà tri tà kiến, thường trụ ở trong Bát chánh đạo. Không làm việc chiêm bói: Bồ Tát chưa từng dùng sự chiêm bói để quyết định sự việc, dự đoán cát hung. Người học Phật, có thể nghiên cứu đọc kinh Dịch, hiểu được sự học vấn chiêm bói, nhưng không nên mọi việc đều dùng sự chiêm bói để quyết định. Cổ nhân có nói :”Quân tử vấn hoạ không vấn phước”. Nghĩa là nói: Người chánh tri chánh kiến chỉ quan tâm đến tai hoạ của đại chúng, không vì cá nhân mà cầu may mắn phát tài. Bồ Tát không màng đến mình có tai nạn hay không, cảnh nghịch đến đều thuận mà thọ nhận, cho nên Ngài không cần chiêm tinh bói quẻ. Không thủ ác giới: Bồ Tát cũng không thọ những giới bò, giới chó, của ngoại đạo, vọng cầu được lên trời. Tâm thấy chánh trực: Bồ Tát tâm chánh, thấy chánh, cho nên nói: “Trực tâm thị đạo tràng”. Không siểm nịnh: Bồ Tát không vọng cầu danh lợi, hoặc khi dối người khác tham lấy tài vật, cũng không cậy có quyền thế, cầu lấy hư danh. Ngài đối với Phật Pháp Tăng Tam Bảo, sinh khởi niềm tin chí thành và tuyệt đối, vĩnh viễn không sinh hoài nghi.

Phật tử ! Đại Bồ Tát hộ trì thập thiện nghiệp đạo như vậy, thường không gián đoạn. Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh đoạ vào đường ác, đều do mười điều nghiệp ác. Cho nên tôi phải tự tu chánh hạnh, cũng khuyên họ khiến cho họ tu chánh hạnh. Tại sao ? Vì nếu tự mình không tu chánh hạnh, mà khiến họ tu thì không thể nào được.

Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy lại nghĩ như vầy: Mười điều ác là nhân thọ sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Mười điều lành là nhân sinh về cõi người, cõi trời, cho đến cõi trời Hữu Đảnh. 

Lại thượng phẩm mười điều lành, dùng trí huệ tu tập, vì tâm hẹp kém, vì sợ ba cõi, vì thiếu đại bi, vì theo người khác nghe âm thanh mà hiểu ngộ, nên thành Thanh Văn thừa. 

Lại thượng phẩm mười điều lành nầy, tu trị thanh tịnh, không theo người khác dạy, nên tự giác ngộ, vì đại bi phương tiện, không đầy đủ, vì ngộ hiểu thâm sâu pháp nhân duyên, nên thành Độc Giác thừa. 

Lại thượng phẩm mười điều lành nầy, tu trị thanh tịnh, vì tâm rộng vô lượng, vì đầy đủ bi mẫn, vì phương tiện nhiếp lấy, vì phát sinh nguyện lớn, vì không xả bỏ chúng sinh, vì cầu đại trí của chư Phật, vì tịnh trị các địa Bồ Tát, vì tịnh tu tất cả các độ, mà thành tựu hạnh rộng lớn của Bồ Tát. 

Lại thượng phẩm mười điều lành, vì nhất thiết chủng trí thanh tịnh, cho đến vì chứng thập lực, bốn vô sở uý, tất cả Phật pháp, đều được thành tựu. Do vậy, nay tôi bình đẳng thực hành mười điều lành, phải khiến cho tất cả đầy đủ thanh tịnh, phương tiện như vậy, Bồ Tát sẽ học.

Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đại đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tập đủ thứ căn lành, các Ngài tôn trọng và bảo hộ mười điều lành, và nghiêm cẩn giữ gìn giới thiện, chưa từng giải đãi gián đoạn. Ngài lại nghĩ về tất cả chúng sinh, tại sao phải đoạ vào ba đường ác ? đều vì do làm nhiều mười điều ác, cho nên tôi phải tu hành hạnh chánh pháp mười điều lành, lại khuyên chúng sinh khác tu hành mười điều lành. Tại sao ? Nếu như mình nói mà không làm, mà kêu chúng sinh khác tu tập, thì chúng sinh sẽ chẳng nghe lời, cũng chẳng có hiệu quả tốt.

Các vị đại đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo lại nghĩ như vầy : Phàm là người làm nhiều mười điều ác, thì gieo trồng xuống nhân địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ ba đường ác, cho nên thọ sinh vào ba đường ác; ngược lại, làm nhiều mười điều lành, thì gieo trồng xuống nhân thọ sinh vào nhân gian, cõi trời, hoặc trời Hữu đảnh (cõi trời cao nhất).

Lại nữa, thượng phẩm mười điều lành nầy: Hai chữ thượng phẩm là chỉ tam thừa tu hành mười điều lành, như Thanh Văn, Độc Giác, Bồ Tát, ba thừa nầy tự dụng công khác nhau mà nói. Tu hạnh môn nghiệp thiện nầy là dùng trí huệ để tu tập, nhưng tâm hẹp hòi, chỉ có thể tự lợi, không thể lợi tha. Vì sợ thống khổ của ba cõi, thiếu đại bi, là nói chỉ cầu tự độ mà xả bỏ chúng sinh. Vì theo người khác nghe âm thanh mà ngộ hiểu: Là chỉ những người nghe giảng Kinh thuyết pháp mà khai ngộ, như vậy sẽ thành tựu Thanh văn thừa, chứng được quả vị A la hán.

Lại có sự tu hành mười điều lành mà hộ trì được rất thanh tịnh, có thể không theo sự chỉ dạy của người khác, mà giác ngộ, song, đại bi phương tiện chưa viên mãn. Theo tu hành mười điều lành, chỉ minh bạch tỏ ngộ pháp nhân duyên thâm sâu, và đạo lý nhân quả tuần hoàn, người tu hành như vậy, sẽ thành tựu Độc giác thừa.

Lại có sự tu thượng phẩm mười điều lành, tu trì được vô thượng thanh tịnh, tâm thiện rộng lớn, lợi ích chúng sinh. Phát tâm đại thừa vô lượng, đầy đủ tâm từ bi thương xót chúng sinh. Dùng bốn pháp nhiếp, phương tiện nhiếp thọ chúng sinh phát tâm bồ đề. Phát tâm nguyện lớn, vĩnh viễn không xả bỏ tất cả chúng sinh, và phương tiện giáo hoá họ, để cầu được đại trí huệ như chư Phật, thanh tịnh tu tập pháp môn thập địa và các độ vạn hạnh, như vậy hành giả sẽ thành tựu hạnh rộng lớn của Bồ Tát.

Tóm lại, mười điều lành tối thượng ở trên, do tự mình tu tập công đức khác nhau, nên thành tựu của mỗi người cũng khác nhau. Nhất thiết chủng trí đều thanh tịnh, cho đến chứng được mười lực và bốn vô sở uý của Phật, tất cả pháp môn của Phật nói, đều tu tập thành tựu. Cho nên hiện tại tôi phải bình đẳng tu tập mười điều lành, khiến cho tất cả nhân lành đều tự thành thục, dứt trừ tất cả tập khí mà đầy đủ thanh tịnh. Những pháp môn phương tiện như vậy, Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, thực hành Bồ Tát đạo phải học tập.

Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy lại nghĩ như vầy: Mười điều ác, bậc thượng là nhân địa ngục, bậc trung là nhân súc sinh, bậc hạ là nhân ngạ quỷ. 

Tội sát sinh, hay khiến cho chúng sinh đoạ vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là mạng sống ngắn ngủi, hai là nhiều bệnh tật. 

Tội trộm cắp, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh vào trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là bần cùng, hai là tài sản chung không được tự tại. 

Tội tà dâm, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là vợ không trinh lương, hai là quyến thuộc không được tuỳ ý. 

Tội nói dối, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào trong ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là bị nhiều người phỉ báng, hai là bị họ lừa dối. 

Tội nói hai lưỡi, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là quyến thuộc trái lìa, hai là thân tộc tệ ác. 

Tội chửi mắng, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là thường nghe tiếng ác, hai là lời nói ra nhiều sự tranh tụng. 

Tội nói thêu dệt, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là nói ra không có ai tin, hai là nói không rõ ràng. 

Tội tham dục, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là tâm không biết đủ, hai là nhiều dục không chán. 

Tội sân hận, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là thường bị người khác tìm chỗ hay dở, hai là luôn bị người khác não hại. 

Tội tà kiến, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là sinh vào nhà tà kiến, hai là tâm dua vạy. 

Phật tử ! Mười điều ác, hay sinh vào vô lượng vô biên những nơi khổ sở như vậy.

Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát hạnh, tích tụ đủ thứ căn lành, đắc được quả vị Ly cấu địa rồi, lại quán tưởng như vầy: Quả báo của mười điều ác nầy, nghiêm trọng nhất là đoạ vào địa ngục, kế đến là đoạ làm súc sinh, kế tiếp là đoạ làm ngạ quỷ. Trong mười điều ác nầy, thứ nhất là tội sát sinh, do chúng sinh sát sinh mà đoạ vào trong địa ngục.

Địa ngục có ngàn vạn thứ, không riêng gì chỉ có một, mà là nhiều loại khác nhau, tuỳ theo tội nghiệp mà hiển hiện, vào trong đó thọ quả báo. Súc sinh cũng có ngàn vạn thứ, do đủ thứ tội nghiệp khác nhau, nên tự thọ quả báo khác nhau, ngạ quỷ cũng có ngàn vạn loại. Nếu như tạo mười nghiệp ác, thì đoạ vào ba đường ác, thọ hết tội báo phải thọ trong ba đường ác rồi, nếu như được sinh vào trong loài người, thì được hai thứ quả báo.

Nếu sát sinh nhiều, tuy được thân người, nếu như không phải mạng sống ngắn ngủi, thì bị nhiều chứng bệnh, thọ sự thống khổ của bệnh tật.

Nếu phạm tội trộm cắp; nếu được sinh vào trong loài người, thì cũng bị hai thứ quả báo. Một là suốt đời bần cùng, vì họ hay trộm cắp tài vật của người khác, khiến cho người khác thọ khổ bần cùng. Hai là tài sản chung không được tự tại, tự mình không thể giàu có, phải cùng chung với người khác, mình không được tự làm chủ, bị người khác khống chế, chẳng được thọ dụng tự do tự tại.

Tội tà dâm; tà dâm là hành vi không chánh đáng, hoặc trái với pháp luật, tức chẳng phải vợ của mình mà dùng mưu mô thủ đoạn dụ dỗ vợ của người khác, hoặc dùng cường bạo lăng nhục vợ của người khác, để đạt được sự thoả mãn, đó đều phạm về tội ác tà dâm. Cổ ngữ có nói rằng:

“Vạn ác dâm vi thủ, tử lộ bất khả tẩu”.

Nghĩa là: Trong vạn điều tội ác, thì tội tà dâm là đứng đầu, chúng ta ngàn vạn đừng phạm tội tà dâm. Phạm tội ác nầy, là tự mình đi tìm đường chết. Phạm về tội ác nầy, chết rồi sẽ đoạ vào trong ba đường ác, thọ hết tất cả tội báo rồi, nếu được sinh vào trong loài người, thì bị hai thứ quả báo. Một là vợ không trinh lương, vì họ hay khiến cho vợ của người khác không trinh lương, đời nầy phải bị quả báo vợ mình không trinh lương. Hai là quyến thuộc không được như ý, quyến thuộc bất hoà, chẳng có hạnh phúc.

Tội nói dối, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Phải thọ quả báo trong ba đường ác rồi, nếu được sinh vào trong loài người cũng bị hai thứ quả báo. Một là luôn luôn bị người khác phỉ báng, tức là bị chỉ trích. Hai là do thuở xưa thích nói dối, lường gạt người khác, cho nên đời này thường bị người khác lường gạt và phỉ báng lại.

Tội nói hai lưỡi, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào trong ba đường ác, thọ hết tội báo rồi, nếu sinh vào trong loài người, cũng bị hai thứ quả báo: Một là quyến thuộc không hoà thuận hoặc thường phân ly. Hai là mọi người trong thân tộc, phần đông tướng mạo xấu ác, ít có người tuấn tú mà phần đông thành oán địch.

Tội chửi mắng, tức là thích chửi mắng người khác, nói ra làm hại đến người khác. Người như vậy chết rồi đoạ vào trong ba đường ác. Sau khi thọ hết tội báo rồi, nếu được sinh vào trong loài người, cũng phải bị hai thứ quả báo: Một là thường bị người khác chửi mắng, mở miệng thì tranh luận với người khác, thậm chí phát sinh sự kiện tụng. Hai là bị người não hại.

Tội thêu dệt, tức là ưa thích nói lời tà, dẫn dụ kẻ khác làm chuyện không chánh đáng, có tư tưởng không chánh đáng, chết rồi cũng bị đoạ vào trong ba đường ác. Thọ xong khổ báo rồi, nếu được sinh làm người, cũng bị hai quả báo: Một là lời nói ra chẳng có ai để mắt tới. Hai là lời nói ra không rõ ràng, không hấp dẫn làm cho người khác chú ý.

Tội tham dục, người tâm tham nặng, dục vọng cũng nhiều, thì suốt đời uổng phí tâm sức, cũng không thể đầy đủ tâm tham, chết rồi đoạ vào trong ba đường ác. Sau khi thọ hết khổ báo rồi, nếu được sinh làm người, cũng bị hai thứ quả báo. Một là trong tâm luôn cảm thấy không thể đầy đủ dục vọng, mà phiền não và thống khổ. Hai là suốt đời cứ tham lam tài vật không biết chán, chẳng được tự tại thoải mái.

Tội sân hận, cũng khiến cho chúng sinh chết rồi đoạ vào trong ba đường ác. Sau khi thọ hết khổ báo rồi, nếu được sinh làm người, cũng bị hai thứ quả báo: Một là bị người khác trách mắng, nói họ không đúng. Hai là bị người khác chán ghét, làm tốt bị người khác cho rằng không tốt, thường bị người khác não hại.

Tội tà kiến, tà kiến tức là kiến giải không chánh đáng, đối với sự lý, thường giữ biên kiến, chuyên môn phản đối chánh tri chánh kiến, lấy phải làm trái, lấy trái làm phải, nói những lời mê hoặc tâm người, do đó mà tạo ra nhiều tội nghiệp, chết rồi đoạ vào trong ba đường ác. Sau khi thọ quả báo xong, nếu được sinh làm người, cũng bị hai thứ quả báo: Một là sinh vào nhà tà tri tà kiến, những gì thấy nghe đều tà ác, vĩnh viễn thấy nghe sự lý không được chánh tri chánh kiến. Hai là khi sinh ra tâm địa bất chánh, làm người hành vi hạ liệt, hư nguỵ dối trá, a dua nịnh bợ, tâm dua vạy theo người có quyền thế, chuyên môn khi dối đàn áp kẻ bần cùng nhược tiểu. Vì tà kiến, nên phạm mười điều ác ở trên, làm nhiều điều bất nghĩa, không biết chết rồi sẽ bị đoạ vào trong ba đường ác thọ quả báo thống khổ. Làm người nếu thọ quả báo khổ ở trên, đừng bao giờ trách người khác không tốt đối với bạn. Phải tự mình phản tỉnh, đó đều là do đời trước đã gieo trồng xuống nhân ác, đời này thọ quả báo, là tự mình làm mình chịu. Bồ Tát Kim Cang Tạng nói xong mười điều ác rồi, lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Các vị hiện tại đều biết tội báo thống khổ vô lượng vô biên của mười điều ác, chúng sinh làm ác phải thọ vô lượng vô biên tội báo.

Do đó, Bồ Tát nghĩ như vầy: Tôi sẽ xa lìa mười điều ác. Dùng mười điều lành để làm vườn pháp, vui thích an trụ. Tự mình trụ ở trong đó, cũng khuyên người khác, khiến cho họ trụ ở trong đó.

Biết tội báo của mười điều ác ở trên rồi, vị Bồ Tát nầy trụ Ly cấu địa, do đó bèn quán tưởng như vầy: Tôi tu hành Bồ Tát đạo, không nên phạm những tội ác nầy, không nên theo mười điều ác nầy mà đi hành sự, phải căn cứ vào mười điều lành tu học Phật pháp, dùng mười điều lành làm quy cụ cho mình, làm mục tiêu tu hành cho mình. Xa lìa mười điều ác, lại dùng mười điều lành làm vườn pháp, ưa thích tự tại trụ ở trong mười điều lành. Tự mình trụ ở trong vườn pháp thù thắng nầy, cũng khuyên quyến thuộc, bạn bè, hết thảy mọi người, đều lìa khỏi mười điều ác, cùng nhau trụ ở trong vườn pháp mười điều lành.

Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy lại đối với tất cả chúng sinh: Sinh tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm từ, tâm bi, tâm thương xót, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ, tâm tự kỷ, tâm sư, tâm đại sư. 

Nghĩ như vậy nói : Chúng sinh đáng thương, đoạ vào tà kiến, ác huệ, ác dục, rừng rậm đường ác. Tôi phải khiến cho họ trụ nơi chánh kiến, thực hành đạo chân thật.

Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát chứng được Ly cấu địa, Ngài hành Bồ Tát đạo, tích tụ đủ thứ căn lành, không làm các điều ác, mà làm các điều lành, cho nên trở thành đại Bồ Tát trong Bồ Tát. Ngài lại đối với tất cả chúng sinh, sinh khởi mười tâm nguyện:

1. Cứu độ chúng sinh ác hạnh, khiến cho họ sống ở trong thiện hạnh, khiến cho họ đắc được tâm lợi ích chân chánh.

2. Vì những chúng sinh phiền não đó, khai thị cho họ, khiến cho tâm được an lạc.

3. Khiến cho những chúng sinh bị oán ghét sầu khổ đó, khai đạo cho họ sinh khởi tâm từ bi, không còn báo thù lẫn nhau nữa, đố kị lẫn nhau mà không được bình an.

4. Đối với chúng sinh cùng khổ, sinh khởi tâm bi trợ giúp họ thoát khỏi hoàn cảnh khốn khổ, sống trong sự an lạc.

5. Nhìn thấy những chúng sinh sống trong sự say sưa, chết trong mộng mơ, chìm nổi trong đời sống phóng dật, mà sinh khởi tâm thương xót, dùng bốn pháp nhiếp, khiến cho họ giác ngộ, sau đó tiếp dẫn họ đi vào con đường chánh.

6. Đối với những chúng sinh mất đi chánh niệm, đi vào con đường tà, sinh khởi tâm nhiếp thọ, giáo hoá họ, khiến cho họ sinh niềm tin chân chánh.

7. Đối với pháp hữu đồng tu, sinh khởi tâm thủ hộ, không khiến cho sinh tâm thối chuyển.

8. Thấy những chúng sinh phát tâm bồ đề, sinh khởi tâm hoan hỉ giống như thương mình.

9. Đối với những chúng sinh dũng mãnh tinh tấn, hướng về đạo đại thừa, thì sinh khởi tâm sư cung kính như sư (thầy).

10. Đối với những người tu hành đầy đủ tất cả căn lành công đức, thì sinh khởi tâm đại sư, cung kính họ như như đại sư trưởng.

Bồ Tát lại quán tưởng như vầy: Chúng sinh thật là đáng thương, bởi vì họ vô tri, không gặp được sự chỉ dạy của bậc thiện tri thức, mà đoạ lạc vào con đường tà tri tà kiến, vẫn cho mình là thông minh, sinh khởi những dục niệm không chánh đáng, giống như đi trên con đường chông gai đầy độc tố (ba đường ác), không thấy mặt trời, mê không ra khỏi được. Tôi phải tiếp dẫn họ, khiến cho họ sinh khởi chánh kiến, chánh tín, thường tu hành chân thật không hư ở trong Phật pháp.

Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh phân biệt ta người, phá hoại lẫn nhau, đấu tranh sân hận, thiêu đốt không ngừng. Tôi phải khiến cho họ trụ ở nơi vô thượng đại từ. 

Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh tham lấy không chán, chỉ cầu tài lợi, tà mạng tự sống. Tôi phải khiến cho họ trụ nơi nghiệp thân miệng ý thanh tịnh, ở trong pháp chánh mạng. 

Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh thường theo ba độc, đủ thứ phiền não, do đó mà bị thiêu đốt. Không hiểu chí cầu phương tiện thoát khỏi. Tôi phải khiến cho họ trừ diệt tất cả lửa lớn phiền não, an trí nơi Niết Bàn mát mẻ. 

Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh vì ngu si mờ tối nặng nề, màng dày vọng kiến che đậy, vào rừng rậm tối loà, mất đi ánh sáng trí huệ, đi con đường hiểm hoang dã, khởi các ác kiến. Tôi phải khiến cho họ được con mắt trí huệ thanh tịnh không chướng ngại, biết tất cả pháp như thật tướng, không theo sự chỉ dạy của người khác.

Bồ Tát trụ nơi Ly cấu địa, tích tụ tất cả căn lành, vì tất cả chúng sinh hồi hướng, để lợi ích chúng sinh. Do đó, Ngài lại quán tưởng như vầy: Hết thảy chúng sinh, đều do tướng ta, thấy cái ta, mà phân biệt đó đây quá nặng, nên phát sinh việc “phá hoại lẫn nhau, đó đây tranh đấu”. Nguyên nhân là do tranh lợi, đều hy vọng được lợi ích lớn, mới xảy ra sự phá hoại lẫn nhau, đấu tranh không ngừng.

Khi Đức Phật còn tại thế là thời đại chánh pháp, sau khi Đức Phật vào Niết Bàn rồi, là thời đại tượng pháp, lúc đó chùa chiền mọc lên khắp nơi, khắp nơi đều làm tượng Phật. Hiện tại là thời đại mạt pháp, chúng ta đều sinh vào thời đại mạt pháp nầy, trong đầu óc con người lúc nào cũng nghĩ đến chữ “lợi”, khắp nơi đều đấu tranh. Nước nầy với nước kia đấu tranh, nhà nầy với nhà kia đấu tranh, người nầy với người kia đấu tranh, đều tranh giành quyền lợi, khắp nơi đều đầy dẫy không khí sân hận. Lửa dữ sân hận thiêu đốt không ngừng, lan tràn khắp nơi, khó mà dập tắt được. Bồ Tát trụ nơi Ly cấu địa, nhìn thấy tình huống như vậy, sinh khởi tâm đại từ mẫn, nói: “Tôi phải giáo hoá những loại chúng sinh nầy – chúng sinh phá hoại lẫn nhau, đấu tranh, sân hận – khiến cho họ biết nghiệp báo sân hận, cải ác hướng thiện, tu học pháp môn đại từ bi. Đối với tất cả chúng sinh, diệt trừ tâm sân hận và hành vi đấu tranh, khiến cho mọi người được an trụ trong đại từ bi”. Bồ Tát lại quán tưởng như vầy: Những chúng sinh nầy đều tham không chán, chẳng có lúc nào đầy đủ. Ví như đi buôn cầu phát tài, đều muốn được lợi lớn, được ngàn muốn vạn, được vạn muốn ức, vĩnh viễn không biết đủ. Tà mạng tự sống: tức là không suy xét chỗ tài lợi đến có chánh đáng hay không, cũng không suy xét nghề nghiệp có cao thượng hay không. Như những người chiêm tinh bói quẻ, xem tướng cát hung, nói những lời hay tốt, nhờ đó mà kiếm tiền, mưu danh lợi, đó đều là tà mạng tự sống. Bồ Tát chẳng hỏi cát hung hoạ phước, cho nên Ngài không tin lời tiên đoán, cũng không chiêm bói. Do đó, Ngài phát nguyện độ những chúng sinh tà mạng tự sống, khiến cho thân miệng ý ba nghiệp của họ được thanh tịnh, có chánh tri chánh kiến, trụ trong đời sống chánh mạng chánh nghiệp.

Bồ Tát Ly cấu địa lại quán tưởng như vầy: Tất cả chúng sinh thường chuyển theo ba độc – tham sân si. Từ vô thuỷ kiếp đến nay, tại sao chúng sinh không thể thành Phật, người tu đạo cũng rất ít chứng quả ? Vì bị ba độc mê hoặc, làm cho con người mê muội, việc gì cũng điên đảo không tỉnh giác. Tham thì tham không biết chán. Sân là lửa vô minh, khiến cho con người tánh nóng giận rất lớn. Si là thấy việc không rõ ràng, còn cho rằng đúng. Trong ba độc đó, người tâm tham nặng thì khó giáo hoá nhất. Do bị ba độc mê hoặc che đậy tâm trí, nên sinh ra vô lượng phiền não, phiền não có thể khiến cho con người chẳng có trí huệ, chẳng có trí huệ thì diệt mất ánh sáng quang minh. Thứ lửa độc phiền não nầy thiêu đốt mãnh liệt, che lấp bản tánh, làm cho chúng sinh trầm mê ở trong đó, căn bản không thể minh bạch sự tai hại của ba độc, lưu chuyển luân hồi, trôi mãi không ngừng, lại không biết tìm cầu pháp môn phương tiện thoát khỏi lưới La, ra khỏi ba cõi. Tôi phải giúp họ diệt trừ lửa lớn phiền não ba độc – có tám vạn bốn ngàn phiền não. An trí họ trong cảnh giới mát mẻ không sinh không diệt, chứng được bốn đức Niết Bàn: Thường, lạc, ngã, tịnh.

Bồ Tát lại quán tưởng như vầy: Tất cả chúng sinh do ngu si, nên không rõ thị phi, giống như bị nhốt ở trong đen tối, không thấy được ánh sáng. Vì ngu si nên sinh ra sự thấy hư vọng, thấy hư vọng tức là trong con mắt sinh ra một lớp màng dày, che lấp sự thấy. Lại giống như đi ở trong rừng rậm tối tăm (quá nhiều phiền não), mất đi ánh sáng trí huệ vốn có, lại giống như đi giữa bầy ác thú hoang dã nguy hiểm – bầy sói, cọp, báo, sư tử. Chúng sinh như vậy, họ lúc nào cũng sinh khởi đủ thứ biên kiến ác độc. Bồ Tát nói: “Tôi phải cứu độ những chúng sinh nầy, khiến cho họ đắc được cảnh giới viên dung vô ngại, đắc được con mắt trí huệ thanh tịnh, chiếu khắp tất cả các pháp thật tướng, chân như thật tướng, không cần ỷ lại sự giáo hoá của người khác, tự mình cũng giác ngộ được cảnh giới nầy”.

Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh ở trong đường hiểm sanh tử, sẽ đoạ vào địa ngục súc sinh ngạ quỷ. Vào trong lưới ác kiến, do rừng rậm ngu si làm mê. Theo đuổi tà đạo, làm hạnh điên đảo. Ví như người mù, không có người dẫn đường, thì không thể ra khỏi yếu đạo. Vào cảnh giới ma, bị ác tặc nhiếp lấy, tuỳ thuận tâm ma, xa lìa tâm Phật. Tôi phải cứu họ ra khỏi hiểm nạn như vậy, khiến cho họ trụ nơi thành Nhất thiết trí không sợ hãi.

Bồ Tát trụ Lý cấu địa, lìa khỏi tất cả phiền não, tập khí và mao bệnh, cũng lìa khỏi tất cả nhiễm ô. Chẳng có tâm nhiễm ô, cũng chẳng có dục niệm, đạt đến cảnh giới đoạn dục khử ái trở về nguồn cội. Phàm phu thì không như vậy, tâm dục quá nặng, xem ái làm sanh mạng thứ hai, làm việc điên đảo, suốt ngày ở trong phiền não còn tự cho là vui, trộn thức ăn uống với phiền não làm một, cũng không tự giác. Gặp có thiện tri thức giáo hoá, muốn khiến cho lìa khổ cầu vui thanh tịnh chân thật, họ cũng không tin. Có những người đến già, hoặc lúc lâm chung mới giác ngộ, nhưng không thể nào học tập tu hành được nữa, có những người đến chết cũng không giác ngộ.

Bồ Tát nhìn thấy tất cả chúng sinh điên đảo ngu si như vậy, lại quán tưởng như vầy: Rất nhiều chúng sinh cũng đang bồi hồi ở trong đường sinh tử nguy hiểm, nếu bất cẩn sẽ sinh ra sai lầm lớn. Một niệm sinh ác sẽ đoạ vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, ba đường ác, thọ tội báo không có thời hạn. Một niệm sinh thiện công đức, sẽ sinh về liên bang đắc Phật quả, tất cả chỉ ở tại một niệm. Địa ngục không giống như nhà tù ở nhân gian, tuỳ theo tội nghiệp của người tạo mà hiện ra, nghiệp chín mùi thì đi thọ. Nặng nhất gọi là địa ngục vô gián, địa ngục nầy không hạn chế số người thọ, một người cũng đầy, thời gian cũng không biết là bao lâu. Tại sao có địa ngục nầy ? Vì làm người tà kiến quá sâu nặng. Súc sinh cũng có trăm ngàn vạn thứ, thọ báo cũng không giống. Ngạ quỷ là một loài ở trong đường ngạ quỷ, quỷ có trăm ngàn vạn thứ quỷ; như có quỷ đói, quỷ giàu, quỷ nghèo. Quỷ giàu chẳng phải giống như sự giàu có ở nhân gian, có rất nhiều tài sản, mà là có thế lực, có quỷ thông. Quỷ có ngũ thông, nhưng chẳng có lậu tận thông. Quỷ nghèo cũng chẳng phải không có tiền, mà là chẳng có thế lực, chẳng có quỷ thông, tri thức thấp kém.

Xã hội Trung Quốc đốt tiền giấy cho người mất, có tác dụng gì chăng ? không có cách gì chứng minh. Người tây phương chẳng đốt tiền giấy, e rằng những người mất của họ không có tiền xài chăng ? Người Trung Quốc đốt tiền giấy thật có dụng ý, là con cháu đời sau đối với tổ tiên biểu thị lòng hiếu, không quên sự khổ cực của người xưa, để tưởng nhớ mà thôi. Ngạ quỷ trải qua trăm kiếp khó mà được một chút thức ăn uống vào trong bụng, hơn nữa thức ăn ngon một khi vào trong miệng lập tức biến thành lửa, đó là do nghiệp báo chiêu cảm ra.

Tôi nhớ lại, vào thời năm dân quốc thứ ba mươi ba, tỉnh Hà Nam của Trung Quốc gặp nạn hạn hán lớn, ngũ cốc thất thu, mọi người không có thức ăn, phải ăn rễ cỏ, vỏ cây và đất trắng. Ngoài đồng có một loại sâu, người ta giăng lưới bắt để làm thức ăn, khi họ bỏ vào nồi rang để ăn thì, những loài sâu đó biến thành phân, đó là do cộng nghiệp của con người chiêu cảm ra. Nghiệp chiêu cảm như vậy, các vị nên thức tỉnh !

Vào trong lưới ác kiến, do rừng rậm ngu si làm mê; chúng sinh không có chánh kiến, thì sinh ra ác kiến, làm việc điên đảo, giống như bị khốn ở trong lưới la ác kiến, ngu si giống như cây gai mọc rậm rạp, làm cho chúng sinh mê hoặc ở trong đó. Đuổi theo tà đạo, làm việc điên đảo; chúng sinh bị khốn ở trong rừng rậm tà kiến ngu si, tâm tánh bị mê hoặc, thì tự nhiên chạy theo ngoại đạo, làm việc cũng điên đảo. Chỗ nầy có ví dụ, giống như người mù đi đường, chẳng có ai dẫn đường, vốn chẳng có cách chi thoát khỏi ba cõi, nhưng họ tự cho rằng họ đã thoát ra khỏi ba cõi. Kỳ thật là vào trong cảnh giới ma, làm quyến thuộc của ma. Bị ác tặc nhiếp phục, tất cả đều tuỳ thuận theo tâm ý của ác ma, xa lìa  khỏi tư tưởng chánh đạo của Phật. Bồ Tát tự nghĩ phải đi theo vào trong đường ác, để cứu chúng sinh ra, khiến cho họ thoát khỏi hoàn cảnh khốn khó, khiến cho họ trụ ở trong thành quách bốn vô sở uý và đủ Nhất thiết trí huệ, vĩnh viễn không còn đoạ vào trong cảnh giới ma.

Bây giờ thảo luận về vấn đề, tại sao chúng sinh có nhiều phiền não ? Chủ yếu là do tướng ta tác quái.

1. Chúng sinh: Là chúng duyên hoà hợp mà sinh, con người do có các duyên hoà hợp mới sinh làm người.

2. Thấy cái ta: Tức là tướng ta. Thấy có cái ta, thì có tướng ta. Có tướng ta thì có tướng người. Có tướng người thì có tướng chúng sinh. Có tướng chúng sinh thì có tướng thọ mạng. Đó gọi là bốn tướng. Thấy cái ta, tức là trước hết có quan niệm về cái ta. Song, cái ta nầy chẳng phải là cái ta thật. Một số người nhận rằng là có cái ta; vậy chúng ta đừng ngại suy xét, quán sát kỹ lưỡng. Toàn thân của chúng ta từ đầu cho đến bàn chân, ngũ quan tứ chi, bên trong thì có ngũ tạng lục phủ, bên ngoài thì có lông, tóc, da, mỗi thứ đều có tên của nó, vậy chỗ nào gọi là cái ta ? Tức không có cái ta, vậy có thấy cái ta chăng ? Đây là sự chấp trước của chúng sinh. Do có cái ta, nên có sự ích kỷ, bèn sinh chấp trước về thấy cái ta, tranh lấy cái ta nầy, cái ta nọ, tất cả đều thuộc về ta. Khi còn sống thì ta ôm lấy, giữ gìn tất cả, không thể nào mất đi. Khi chết đi thì tâm thương tiếc, cũng chẳng mang đi được, phải bỏ lại hết, gì cũng chẳng có. Ta lại đi về đâu ? Vì cái ta nầy chỉ biết chính mình, chẳng màn đến sự sống chết của kẻ khác, do đó làm cho thế giới càng thêm độc hại, tâm con người càng ngày càng xu hướng hạ lưu, mỗi ngày không như mỗi ngày, đó đều do chấp trước mà tạo thành nghiệp quả, hại khổ con người. Nếu cái ta không còn, thì còn thấy cái ta nữa chăng ? Đây là phá trừ sự chấp trước về thấy cái ta của đại ngã (cái ta lớn) ; vẫn còn có chút ít sự chấp trước vi tế về tiểu ngã (cái ta nhỏ), chẳng còn chấp trước thì tướng là sẽ không. Lúc đó, tận hư không khắp pháp giới, đều hợp với tự tánh mà làm một, liền đạt đến cảnh giới :

“Không ta không người quán tự tại
Chẳng không chẳng sắc thấy Như Lai”.

Thấy ta người thành một thể, người có cát, hung, hoạ, phước, cũng giống như mình có, như vậy thì dần dần sẽ diệt trừ được sự chấp trước. Bồ Tát lợi ích tất cả chúng sinh, chưa bao giờ nghĩ Ngài đang làm lợi ích cho người khác. Tuy độ tận hết tất cả chúng sinh, nhưng Ngài chưa từng nghĩ Ngài đã từng độ một chúng sinh nào, đó tức gọi là “hành sở vô sự”, quét tất cả các pháp, lìa tất cả các tướng. Nếu bạn nghĩ đến mình giúp người, lợi ích người, tức giống như đang khởi vọng tưởng. Bổn lai không một vật, chỗ nào dính bụi bặm !

Lại nghĩ như vầy : Tất cả chúng sinh, bị dòng nước chảy xiết sóng lớn nhận chìm vào dòng dục, dòng hữu lậu, dòng vô minh, dòng tà kiến, xoay lăn trong sinh tử, trôi nổi trong sông ái dục, mãi bị dồi dập không rảnh để quán sát. 

Bị quan niệm tham dục, quan niệm sân hận, quan niệm độc hại theo đuổi không bỏ được. Thân thấy La Sát chấp lấy ở trong đó, đưa họ vĩnh viễn vào trong rừng rậm ái dục. Do sự tham ái, mà sinh ra nhiễm trước sâu nặng. Trụ nơi gò ngã mạn, ở nơi tụ lạc sáu căn. Nếu không có người cứu giỏi, thì không thể độ được họ. Tôi sẽ ở nơi đó khởi tâm đại bi, dùng các căn lành cứu độ họ, khiến cho không có tai hoạn lìa nhiễm tịch tĩnh, trụ nơi thành báu nhất thiết trí huệ.

Bồ Tát chứng được Ly cấu địa lại quán tưởng như vầy : Tất cả chúng sinh giống như đang đứng ở bên cạnh dòng nước chảy xiết. Dòng nước chảy xiết chảy rất mạnh và nhanh. Người đứng ở bên cạnh dòng nước chảy xiết, thì có thể bị cuốn trôi vào trong biển, thậm chí có thể bị mất mạng, đây là ví dụ chúng sinh sinh tồn nguy hiểm ở trong ác kiến. Chúng sinh sẽ bị cuốn vào dòng dục : Dòng tham dục tức là do hành vi tham dục không biết chán khởi lên. Dòng hữu lậu : Tức là bị dẫn vào trong ba cõi, hoặc ở trong tà kiến hai mươi lăm cõi. Dòng vô minh : Tất cả tà tri tà kiến đều do vô minh mà sinh, vào dòng vô minh rồi, thì tất cả việc xấu đều làm ra. Dòng tà kiến : Tức là biên kiến, tà kiến, là ngựa hại bầy ở trong nhân loại. Những chúng sinh nầy ở trong biển sinh tử, bị sóng nhận chìm xoay chuyển, trôi nổi ở trong sông ái tình. Mãi bị dồi dập : Là hình dung dòng nước chảy xiết chảy rất nhanh, rất mạnh, giống như ngựa chứng, khiến cho chúng sinh leo lên yên rồi, cũng không có thời gian để quán sát tình hình kỹ càng. Lại bị tà huệ sai khiến, sinh ra giác tri tham dục, tham cầu không ngừng. Giác tri sân hận, khiến cho con người nổi giận, cứ làm những chuyện vô ích tà giác tri có hại, mà còn bị những tà huệ đó ràng buộc không thể nào giải thoát. Lại bị một thứ ác quỷ tà kiến thân thấy La Sát, chấp lấy không buông bỏ đặng, đưa họ vĩnh viễn vào trong rừng rậm ái dục, vĩnh viễn mê hoặc ở trong ác niệm tham ái tập khí xấu, sinh ra sự ô nhiễm chấp trước thâm sâu ; khiến cho họ trụ ở trên núi cao đại ngã mạn, an nhiên sống ở trong tụ lạc sáu căn sáu trần. Chẳng có ai dùng phương pháp khéo léo cứu họ, cũng chẳng có ai đến trợ giúp cứu độ họ. Bồ Tát thấy loại chúng sinh nầy, bèn phát nguyện nói : Tôi phải sinh khởi tâm đại bi đối với những chúng sinh nầy, đem đủ thứ căn lành công đức tích tụ của tôi tu hành, để cứu giúp họ, khiến cho họ vĩnh viễn không có tai nạn, xa lìa sự nhiễm ô, đắc được an lạc Niết Bàn tịch tĩnh, khiến cho họ trụ nơi thành báu lớn có đủ nhất thiết trí huệ.

Lại nghĩ như vầy : Tất cả chúng sinh ở trong lao ngục thế gian, chịu nhiều khổ não. Thường ôm lấy sự thương ghét, tự sinh lo sợ. Bị tham dục sâu nặng trói buộc, che đậy trong rừng rậm vô minh. Ở trong ba cõi, không thể nào tự ra được. Tôi phải khiến cho họ vĩnh viễn lìa khỏi ba cõi, trụ ở trong đại Niết Bàn không chướng ngại.

Bồ Tát trụ Ly cấu địa lại quán tưởng như vầy : Tất cả chúng sinh ở trong lao ngục thế gian, họ rất ta thán, những chúng sinh nầy ở trong thế gian, giống như ở trong lao ngục, không thể nào thoát khỏi khổ não của ba cõi. Đức Phật đã từng nói : “Ba cõi không yên, như ở trong nhà lửa”. Song, chúng sinh không giác ngộ, giống như chim bị nhốt ở trong lồng, không thể được tự do. Con người đến thế gian nầy có rất nhiều khổ và vô lượng phiền não không thoát ra được. Thường ôm lòng thương ghét, tự sinh lo sợ : Thường thường đều bị khổ về thương yêu phải xa lìa, hoặc khổ về ghét mà gặp nhau. Tức là có oán, ghét hận, nên phải gặp nhau, cùng hại nhau mà sinh khổ não. Mình lại luôn luôn không việc gì mà lại sinh lo, ở đâu cũng sinh lo sợ. Lo về quần áo, lo về ăn uống, lo về con cái không phát đạt, lo về gia tài không thịnh vượng. Lo về không có nhà ở, lại sợ bệnh tật tai hại xảy đến, nghĩa là suốt ngày cứ sợ hãi, để tâm vào sự không an như vậy. Tâm tham dục trói buộc sâu nặng, giam hãm con người không lối thoát. Tham không biết chán, làm cho tâm thần mệt mỏi, đến lúc chết thì chẳng mang theo được gì cả. Dục vọng nhốt chặt con người không lối thoát. Vô minh giống như rừng rậm dày đặc, che đậy mắt con người nhìn không thấy rõ sự vật. Người ngu si chẳng có trí huệ suốt ngày ở trong bóng tối, lưu chuyển ở trong ba cõi – cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, vĩnh viễn không thể thoát ra được. Bồ Tát nói : “Tôi phải độ những chúng sinh nầy, để cho họ vĩnh viễn thoát khỏi thống khổ trong ba cõi, trụ ở đại Niết Bàn thường lạc ngã tịnh, không sinh không diệt, không có sự chướng ngại”.

Lại nghĩ như vầy : Tất cả chúng sinh chấp trước về cái ta, nơi nhà tù năm uẩn, không cầu thoát khỏi. Nương tựa vào tụ lạc sáu căn trống rỗng, khởi lên bốn hạnh điên đảo. Bị rắn độc bốn đại xâm phạm não hại, oán tặc năm uẩn giết hại, thọ vô lượng khổ. Tôi phải khiến cho họ trụ nơi tối thắng không có sự chấp trước, đó là vô thượng Niết Bàn diệt tất cả sự chướng ngại. 

Lại nghĩ như vầy : Tâm của họ thấp kém, không thực hành đạo nhất thiết trí tối thượng. Tuy muốn giải thoát, nhưng thích Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa. Tôi phải khiến cho họ trụ nơi Phật pháp rộng lớn, trí huệ rộng lớn.

Bồ Tát trụ Ly cấu địa lại nghĩ như vầy : Tất cả chúng sinh, đều có mao bệnh giống nhau, tức là đều chấp vào cái ta. Trong nhà tối năm uẩn – sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không muốn đi ra khỏi nhà tối này. Ỷ lại vào sáu căn – Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Tư tưởng tụ lạc rỗng không : Tức là nói vốn là không, nên nói sáu căn tụ lạc rỗng không. Khởi bốn hạnh điên đảo : Sinh khởi bốn hành vi điên đảo :

1. Chẳng thường cho rằng thường.
2. Chẳng vui cho là vui.
3. Chẳng phải ngã cho là ngã.
4. Chẳng tịnh cho là tịnh.

Vì có bốn thứ điên đảo nầy, cho nên tự tánh mê mất đi. Rắn độc bốn đại nầy xâm hại nhiệt não – bốn con rắn độc là : đất, nước, gió, lửa. Lại bị oán tặc năm uẩn giết hại – năm uẩn là : sắc, thọ, tưởng, hành, thức, do đó mà thọ vô lượng thống khổ. Bồ Tát nói : “Tôi phải giáo hoá loại chúng sinh thọ khổ nầy, khiến cho họ trụ nơi vô thượng Niết bàn an lạc thù thắng nhất, không còn sự chấp trước nào, tất cả mọi sự chướng ngại đều diệt trừ, khiến cho tất cả chúng sinh đều được an lạc”.

Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tất cả chúng sinh, tâm lượng của họ, đều rất thấp kém, không biết tu học lục độ vạn hạnh, chánh tri chánh kiến chánh tín tối thù thắng, và Phật pháp rộng lớn. Tuy nhiên họ cũng muốn thoát khỏi ba cõi, ra khỏi biển khổ, nhưng vì tâm lượng hẹp hòi, ưa thích tu học pháp Thanh văn và Bích chi Phật nhị thừa. Bồ Tát nghĩ : Hiện tại tôi đã biết tâm nguyện tiểu thừa của họ, nên phải giáo hoá họ hồi tiểu hướng đại, phát tâm nguyện đại thừa, hướng về đại thừa, cầu được đại trí huệ chân chánh rộng lớn vô biên.

Phật tử ! Bồ Tát hộ trì giới như vậy, khéo tăng trưởng tâm từ bi. 

Phật tử ! Bồ Tát trụ Ly cấu địa, do nhờ nguyện lực, nên gặp được nhiều vị Phật : Gặp được nhiều trăm vị Phật, nhiều ngàn vị Phật, nhiều trăm ngàn vị Phật, nhiều ức vị Phật, nhiều trăm ức vị Phật, nhiều ngàn ức vị Phật, nhiều trăm ngàn ức vị Phật. Như vậy cho đến gặp nhiều trăm ngàn ức Na do tha vị Phật. 

Ở chỗ các Đức Phật, dùng tâm rộng lớn, tâm thâm sâu, cung kính tôn trọng, thừa sự cúng dường : Y phục, thức ăn uống, toà ngồi, thuốc men, tất cả đồ tư sanh, thảy đều dâng cúng. Cũng cúng dường cho tất cả chúng Tăng, đem căn lành nầy, hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ở chỗ các Đức Phật, dùng tâm tôn trọng, lại thực hành pháp mười điều lành, tuỳ theo sự thọ trì, cho đến bồ đề, trọn không quên mất.

Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát hộ trì giới hạnh của Ngài như vậy, nhờ đó mà tăng trưởng tâm từ bi để lợi ích chúng sinh. Phật tử ! Bồ Tát Ly cấu địa, do nguyện lực thù thắng cao xa của Ngài, cho nên gặp được rất nhiều vị Phật : Hàng trăm, ngàn, ức, trăm ức, ngàn ức, vạn ức, cho đến nhiều không thể đếm được số vị Phật. Ở tại chỗ các đức Phật, dùng tâm Bồ Tát đại thừa rộng lớn, chân tâm chí thành khẩn thiết, cung kính lễ nghi tôn trọng tối cao vô thượng, và tâm ân cần dâng cúng lên các đức Phật. Lại cúng dường tất cả đồ cần dùng như : Y phục, thức ăn uống, toà ngồi, thuốc men .v.v… các thứ vật chất, không để cho thiếu thốn, cũng đem những thứ đồ như vậy cúng dường lên hết thảy các hiền Thánh Tăng. Đem căn lành tu học, tích tụ đủ thứ công đức của Ngài, hồi hướng về quả vị bồ đề chí cao vô thượng (A nậu đa la tam miệu tam bồ đề). Ở chỗ các đức Phật, càng dùng tâm tôn kính tu tập pháp môn mười điều lành, tuỳ theo chỗ tu tập tâm đắc, từ ban đầu phát tâm đến chứng được quả giác bồ đề, vĩnh viễn không bao giờ tiêu mất.

Bồ Tát đó, ở trong vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, vì xa lìa cấu bẩn tham lam đố kị phá giới, nên bố thí trì giới thanh tịnh đầy đủ. Ví như vàng thật để trong phàn thạch, theo như pháp luyện rồi, lìa khỏi tất cả dơ bẩn, lại được sáng sạch. 

Bồ Tát trụ Ly cấu địa nầy, cũng lại như thế. Trong vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, vì xa lìa cấu bẩn tham lam đố kị phá giới, nên bố thí trì giới thanh tịnh đầy đủ.

Phật tử ! Bồ Tát nầy ở trong bốn pháp nhiếp, thiên nhiều về ái ngữ. Trong mười Ba la mật, thiên nhiều về trì giới, còn các pháp kia, chỉ tuỳ phần tuỳ sức.

Phật tử ! Đó là lược nói về Ly cấu địa thứ hai của đại Bồ Tát. Bồ Tát trụ ở địa nầy, phần nhiều làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm đại pháp chủ. Đầy đủ bảy báu, có sức tự tại, trừ được tất cả chúng sinh cấu bẩn tham lam phá giới. Dùng phương tiện khéo léo, khiến cho họ an trụ trong mười điều lành. Làm đại pháp chủ chu cấp vô tận. Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, làm tất cả các nghiệp như vậy, đều không lìa niệm Phật, không lìa niệm pháp, không lìa niệm Tăng, cho đến không lìa niệm đầy đủ nhất thiết chủng trí, nhất thiết trí. 

Lại nghĩ như vầy : Tôi phải ở trong tất cả chúng sinh, là thượng thủ, là thắng, là thù thắng. Là diệu, là vi diệu. Là thượng, là vô thượng. Cho đến là chỗ y chỉ của trí nhất thiết trí. Nếu Bồ Tát nầy muốn từ bỏ nhà thế tục, để vào trong Phật pháp, siêng thực hành tinh tấn, thì sẽ xả bỏ được nhà vợ con năm dục.

Bồ Tát trụ Ly cấu địa, ở trong vô lượng trăm ngàn ức Bất khả thuyết kiếp, đã xa lìa san tham và đố kị phá giới. Các Ngài lúc nào cũng giữ gìn giới luật thanh tịnh, giống như trăng rằm mùa thu trong sáng, chẳng có chút mờ đục nào. Đối với sự bố thí và giữ giới luật, đều đã hoàn toàn thanh tịnh không ô nhiễm, viên mãn đầy đủ. Giống như vàng thật ở trong phàn thạch, y theo pháp rèn luyện, luyện đến sạch không còn cấu bẩn nữa, thì sẽ trong sáng thanh tịnh hơn so với lúc trước. Khi Bồ Tát chứng được địa thứ hai, thì cũng như luyện vàng, ở trong vô lượng kiếp về trước, đã xa lìa nhiễm ô san tham, phá giới, cho nên thực hành bố thí và giữ giới thanh tịnh viên mãn.

Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đại đệ tử của Phật ! Phương pháp của Bồ Tát trụ Ly cấu địa hành Bồ Tát đạo độ chúng sinh, ở trong bốn pháp nhiếp, thì phần nhiều dùng phương pháp ái ngữ giáo hoá chúng sinh. Khi thực hành mười Ba la mật, thì chú trọng nhất về trì giới, về phương diện giới hạnh, chưa từng sơ suất, cũng chẳng phóng túng. Ba pháp nhiếp kia và chín Ba la mật kia còn lại, chẳng phải là hoàn toàn không dùng, mà chỉ là thấy cơ hành sự, tuỳ duyên phận của chúng sinh và khả năng của mình mà làm.

Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đại đệ tử của Phật ! Đây bất quá là nói sơ lược một chút về tình hình, tu hành của đại Bồ Tát trụ Ly cấu địa mà thôi. Khi Bồ Tát ở tại địa thứ hai, phần nhiều cũng đến nhân gian thị hiện làm Chuyển Luân Thánh Vương, dùng Phật pháp để trị vì việc nước, giáo hoá nhân dân, hoặc làm đại pháp vương, hoằng dương chánh pháp. Dùng căn lành công đức của Bồ Tát, hoá hiện Luân Vương, các Ngài nhất định là bảy báu đầy đủ:

1. Bánh xe báu, tên là Vô ngại hành.
2. Voi báu, tên là Kim cang thân.
3. Ngựa báu, tên là Tốc tật phong.
4. Châu báu, tên là Nhật quang tạng.
5. Nữ báu, đệ nhất phu nhân.
6. Tạng thần báu.
7. Binh báu.

Có thần lực tự tại nhậm vận tự như, có thể phá trừ tất cả san tham, tập khí nhiễm ô của chúng sinh. Dùng phương pháp phương tiện khéo léo, giáo hoá họ tu học Phật pháp mười điều lành, khiến cho họ cũng an nhiên trụ ở trong pháp mười điều lành. Làm chủ nhân đại bố thí, chu cấp vô cùng vô tận cho những người đáng thương. Bồ Tát dùng bốn Pháp nhiếp – bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, để giáo hoá cứu độ chúng sinh, chưa từng quên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm công đức Tam Bảo. Cũng đầy đủ tất cả công đức căn lành, và tất cả trí huệ vô thượng đặc biệt thù thắng vi diệu.

Bồ Tát lại quán tưởng như vầy : Tôi phải ở trong tất cả chúng sinh, làm thượng thủ của họ, làm người lãnh đạo có trí huệ vi diệu, có tư tưởng, có chánh kiến, trở thành minh chứng của họ, và là chỗ y chỉ an toàn. Bồ Tát phát tâm nguyện Bồ Tát như vậy, nếu Ngài muốn xả bỏ sự ràng buộc của nhà thế tục, toàn tâm toàn ý tinh tấn tu hành trong Phật pháp, thì lập tức có thể từ bỏ vợ con, xả bỏ tất cả tiền tài châu báu thế tục, và sự hưởng thọ năm dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ), sống cuộc sống phạm hạnh thanh tịnh không nhiễm ô.

Khi đã xuất già rồi, thì siêng năng tinh tấn. Trong khoảng một niệm, đắc được ngàn tam muội, thấy được ngàn vị Phật, biết thần lực của ngàn vị Phật, có thế chấn động ngàn thế giới, cho đến có thể thị hiện ngàn thân. Nơi mỗi mỗi thân, có thể thị hiện ngàn Bồ Tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng thần lực tối thắng của Bồ Tát, tự tại thị hiện, thì sẽ hơn số nầy. Trăm kiếp, ngàn kiếp, cho đến trăm ngàn ức Na do tha kiếp, không thể nào đếm biết được.

Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng muốn thuật lại nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng :

Chất trực nhu nhuyến và kham năng
Điều phục tịch tĩnh với thuần thiện
Tâm rộng lớn mau thoát sinh tử
Dùng mười tâm nầy vào Nhị địa.

Bồ Tát xả bỏ đất nước, vợ con, tiền tài châu báu và năm dục – tài, sắc, danh, ăn, ngủ ; diệt được tham sân si, đi xuất gia trong thành Phật pháp, cho nên Ngài đặc biệt chuyên cần tinh tấn, tu hành giới, định, huệ. Trong khoảng một niệm, Ngài bèn khai ngộ chứng quả, đắc được ngàn thứ Tam muội – chánh định, chánh thọ. Cũng thấy được ngàn vị Phật, và biết được sức thần thông của chư Phật. Lại có thể khiến cho đại địa chấn động, thậm chí chấn động ngàn thế giới, lại có thể thị hiện ngàn thứ thân hình, mỗi thân hình, lại có thể thị hiện ngàn vị Bồ Tát, để làm quyến thuộc của Ngài. Nếu như nói về dùng nguyện lực đặc biệc thù thắng của Bồ Tát, thì thần lực tuỳ ý nhậm vận tự tại của Ngài rất phi thường, vượt qua số mục đó. Dù một trăm kiếp, một ngàn kiếp, trăm ngàn ức kiếp, cho đến không thể đếm được bao nhiêu kiếp, cũng không biết chính xác số mục thần thông biến hoá. Lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tạng muốn thuật lại lời ở trên, bèn dùng kệ để biểu đạt : “Tâm chất trực, tâm nhu nhuyến, và tâm kham năng nhẫn nhục, tâm điều phục, tâm tịch tĩnh, tâm thuần thiện, tâm không tạp nhiễm mau thoát sinh tử, tâm vô cấu niệm, tâm rộng, tâm lớn, phải dùng mười thứ tâm nầy, thì sẽ chứng được quả vị Ly cấu địa”.

Trụ thành tựu giới công đức nầy
Xa lìa sát sinh không não hại
Cũng lìa trộm cắp và dâm dục
Lìa hẳn vọng ác lời vô nghĩa.
Không tham tài vật thường từ mẫn
Chánh đạo tâm thẳng không xiểm nịnh
Lìa hiểm xả mạn rất điều nhu
Nương giáo mà hành không phóng dật.
Địa ngục súc sinh thọ các khổ
Ngạ quỷ thiêu đốt phun lửa mạnh
Tất cả đều do tạo các tội
Tôi phải lìa xa trụ thật pháp.
Tuỳ ý thọ sinh trong loài người
Cho đến Hữu Đỉnh vui thiền định
Độc Giác Thanh Văn đạo Phật thừa
Đều do thập thiện mà thành tựu.
Suy gẫm như vậy không phóng dật
Tự giữ tịnh giới dạy họ giữ
Lại thấy quần sinh thọ các khổ
Lại càng tăng thêm tâm đại bi.

Bồ Tát tu học mười thứ tâm thiện, thì có thể tiến vào trụ Ly cấu địa, thành tựu công đức trì giới của Ngài. Xa lìa ác tập giết hại tất cả chúng sinh, cũng không nhiễu loạn và xâm hại họ, càng không trộm cắp tài vật của người khác, nhất là không dụ dỗ phụ nữ của người khác, phát sinh hành vi tà dâm không chánh đáng. Tất cả những giới nói dối, chửi mắng, nói hai lưỡi, và những lời lẽ tư tưởng thấp hèn hạ tiện. Đối với những ác hạnh đó phải đặc biệc cẩn thận, xa lìa, thì mới không đoạ vào ba đường ác. Người tu hành, đừng có tham đồ tất cả tiền tài vật chất, trong tâm thường tồn tại tâm từ bi, thương xót chúng sinh, phải tu tập Bát chánh đạo – Chánh kiến, chánh ngữ, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Phải dùng tâm chánh trực thành khẩn đối đãi với người khác, đừng dùng tâm hư nguỵ dối trá. Cũng phải phá trừ tâm âm hiểm ác độc, xả bỏ thái độ cống cao ngã mạn, đối với người bất luận giàu, nghèo, sang, hèn, một luật dùng tâm thành ý từ bi nhu hoà tiếp đãi. Kính trọng lời dạy của Đức Phật mà tu hành, một chút cũng không giải đãi ỷ lại, càng không vượt qua quy cụ, đi, đứng, nằm, ngồi, đãi người tiếp vật, tất cả đều phải hợp với quy giới của người xuất gia. Những chúng sinh đoạ vào trong địa ngục và thọ sinh làm súc sinh, họ đều phải thọ quả báo khổ rất nặng và lâu dài. Nếu đoạ vào trong ngạ quỷ, thì bị lửa dữ thiêu đốt đến trăm ngàn kiếp cũng chẳng tìm được một chút thức ăn uống. Những chúng sinh đó đoạ vào trong ba đường ác, đều do họ tự tạo mười điều ác mà chiêu cảm ra. Tuy nhiên như vậy, tôi cũng phải cứu độ họ thoát khỏi đường ác, khiến cho họ trụ nơi Phật pháp chân thật. Cõi nước thế gian, tuỳ theo ý của Ngài, muốn thọ sinh vào đâu thì thọ vào đó. Nghĩa là muốn thọ sinh lên cõi trời Hữu Đỉnh cao nhất, Tứ Thiền hoặc Tứ Không Xứ, hưởng thọ phước trời, hoặc hưởng thọ khoái lạc của thiền định; hoặc muốn thành tựu Độc Giác thừa, Thanh Văn thừa, hai thừa giác đạo; hoặc muốn phát tâm nguyện lớn thành tựu Bồ Tát đạo, Phật đạo, đều do gieo trồng xuống nhân lành mười điều lành nầy mà thành tựu. Bồ Tát suy gẫm, quán tưởng như vậy, không giải đãi ỷ lại, không tuỳ tiện, đều cẩn thận giữ gìn giới luật thanh tịnh, cũng khuyên người khác biết giữ gìn lợi ích công đức của giới. Bồ Tát do thấy được tinh hình tất cả chúng sinh thọ khổ, càng tăng thêm tâm từ bi của Ngài, đi giáo hoá hết thảy chúng sinh thọ khổ.

Phàm ngu tà trí hiểu bất chánh
Thường khởi phẫn hận nhiều tranh tụng
Tham cầu cảnh giới không nhàm đủ
Tôi phải khiến họ trừ ba độc.

Tư tưởng của ngạ quỷ không chánh đáng so với con người. Tư tưởng của súc sinh ngu si hơn so với con người. Tư tưởng của phàm phu cũng rất ngu si hơn so với bậc Thánh nhân. Phàm phu đều tự cho mình mọi việc đều đúng, nhưng trong mắt của Thánh nhân thì chẳng có một việc nào mà không điên đảo, cũng chẳng biết đúng, thấy đúng, hiểu đúng. Vì ngu si điên đảo, nên sinh ra nhiều tà tri, tà kiến, tà giải, cho nên nói phàm ngu tà trí hiểu bất chánh. Trong tâm của phàm phu, đều luôn luôn ôm lòng phẫn hận, chẳng phải phẫn hận việc nầy, thì oán hận người nọ, tranh đấu với người, kiện tụng nơi toà án, đối với tất cả sự vật, đều tham cầu tranh giành, vĩnh viễn không có lúc nào ngừng. Cổ nhân có nói: “Tri túc thường lạc, năng nhẫn tự an”. Họ không biết đủ, cũng không khi nào an được. Nếu ai ai cũng biết đủ, thì thế giới sẽ chẳng còn chiến tranh, nhân loại sẽ hoà bình. Bồ Tát Ly cấu địa, thấy phàm phu tạo nghiệp như vậy, bèn phát nguyện muốn giáo hoá họ, khiến cho họ biết tiêu trừ tham, sân, si, ba độc.

Ngu si đen tối che trùm lấp
Vào đường hiểm lớn lưới tà kiến
Sinh tử giam hãm oán bắt nhốt
Tôi phải khiến họ trừ ma tặc.

Tại sao phàm phu tạo ra những việc không chánh đáng ? Vì họ bị ngu si đen tối – vô minh, làm cho tâm trí bị che trùm lấp, mà đi vào con đường hiểm ác, và vào sâu trong lười tà kiến. Bị lồng sinh tử giam hãm, bị cừu oán bắt nhốt, không minh bạch được tại sao lại bị lưu chuyển điên đảo ở trong dòng sinh tử, vĩnh viễn không thể nào được tự do. Bồ Tát Ly cấu địa phát nguyện, tôi phải giáo hoá những phàm phu nầy, khiến cho họ biết hàng phục ma tặc sáu căn sáu trần.

Bốn dòng trôi nổi tâm chìm đắm
Ba cõi thiêu đốt vô lượng khổ
Chấp uẩn là nhà ngã ở trong
Vì muốn độ họ siêng hành đạo.

Bốn dòng tức là lưu chuyển sinh tử, và tư tưởng điên đảo – tham, sân, si, mạn, bốn thứ tưởng điên đảo. Tức cũng là : Không thường cho là thường, không vui cho là vui, chẳng phải ngã cho là ngã, không tịnh cho là tịnh. Nghĩa là : Không phải thường, lạc, ngã, tịnh chân thật, mà phàm phu cho là chân thật. Tư tưởng điên đảo rất nhiều, chỉ đưa ra bốn thứ chủ yếu mà thôi. Phàm phu, ngoại đạo, nhận giặc làm con, nhận giả làm thật, lấy khổ làm vui. Nên trôi nổi tứ xứ; giống như ở trong biển cả, trôi dạt không có mục tiêu, trôi đi theo sóng. Tâm bị chìm ở trong tư tưởng điên đảo, chẳng có trí huệ. Ba cõi : Tức là cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Đức Phật đã từng nói :

“Ba cõi không yên, như trong nhà lửa”.

Chúng sinh cõi dục xem dục làm sanh mạng, tham cầu tài, sắc, danh, ăn, ngủ; sắc, thanh, hương, vị, xúc. Vĩnh viễn không bao giờ đầy đủ, đó là vì lấy dục làm trung tâm của sự sinh hoạt. Nếu như có thể đoạn dục khử ái, thì sẽ vượt ra khỏi cõi trời dục giới, đạt đến cõi trời sắc giới. Nếu như không phá được sắc dục, đến cõi trời sắc giới rồi lại mê. Thoát khỏi cõi trời sắc giới, đến được cõi trời vô sắc giới, ở đây không còn thanh, sắc, cũng không còn tư tưởng nữa, nhưng vẫn còn ở trong ba cõi. Khổ trong ba cõi nhiều vô lượng, nên nói giống như thiêu đốt. Con người và tất cả chúng sinh, đều sinh tồn ở trong cõi trời dục giới. Phàm phu dùng sắc pháp, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, năm uẩn làm nhà ở, lấy cái cái ta làm chủ thể ở trong đó. Tư tưởng sai lầm nầy biểu thị hành vi ai lầm – nghiệp, khiến cho Bồ Tát Ly cấu địa thấy được, bèn phát nguyện cứu độ loại chúng sinh điên đảo nầy, thoát khỏi bốn dòng điên đảo, do đó Ngài dũng mãnh tinh tấn tu hành Phật đạo.

Dù cầu thoát khỏi tâm thấp kém
Bỏ trí huệ tối thượng của Phật
Tôi muốn khiến họ trụ đại thừa
Chuyên cần tinh tấn không nhàm đủ.

Có người muốn tu hành, nhưng không phát khởi được tâm từ bi, cũng không phát khởi được tâm vô ngã của đại thừa, chỉ muốn làm tự liễu hán, tu hành pháp Thanh Văn Duyên Giác cho xong việc. Vì chỉ muốn làm tự liễu hán, cho nên nói tâm của họ thấp kém. Tuy muốn tu thoát khỏi ba cõi, nhưng tâm lượng lại không lớn, chỉ có thể tu quả vị A la hán, không cầu trí huệ của Phật, không cầu pháp đại thừa, đối với trí huệ tối thù thắng, tối thượng của Phật thì không biết cầu. Do đó, Bồ Tát Ly cấu địa muốn khiến cho loại chúng sinh nầy, phát tâm đại thừa, trụ nơi Phật đạo đại thừa, phát tâm đại bồ đề, dũng mãnh tinh tấn, tu tập giới, định, huệ, không khi nào nhàm đủ.

Bồ Tát trụ đây tập công đức
Thấy vô lượng Phật đều cúng dường
Ức kiếp tu trị thiện thêm sáng
Như dùng thuốc tốt luyện vàng thật.

Bồ Tát trụ Ly cấu địa, phát tâm đại bồ đề, hành Bồ Tát đạo khó hành, tích tụ đủ thứ công đức. Thấy vô lượng vô biên trăm ngàn vạn, Hằng hà sa Na do tha vị Phật, đều thừa sự cúng dường. Trải qua vô lượng ức kiếp tu trị, thanh tịnh trí huệ càng thêm sáng sạch. Giống như dùng phương pháp phàn thạch đúc vàng, để luyện vàng thật, thì vàng càng sáng. Nghĩa là nói trí huệ càng sáng tịnh, thì tu hành sẽ không phế bỏ giữa đường, chỉ cầu chứng được quả vị A la hán là mãn nguyện. Bồ Tát biết như vậy càng siêng cầu thượng thừa Phật đạo.

Phật tử trụ đây làm Luân Vương
Giáo hoá chúng sinh hành thập thiện
Hết thảy pháp lành đều tu tập
Sẽ thành Thập lực cứu thế gian.

Phật tử chứng được quả vị Ly cấu địa – Bồ Tát nầy, Ngài phát nguyện thị hiện làm Chuyển Luân Thánh Vương. Tại sao Ngài nguyện làm Chuyển Luân Thánh Vương ? Vì Chuyển Luân Thánh Vương có thế lực lớn, có đại thần thông, Ngài nhờ sức lực nầy mà giáo hoá khắp chúng sinh, khiến cho họ thọ trì năm giới, tu mười điều lành, tu tất cả phước báo. Hết thảy pháp lành đều dạy, khiến cho chúng sinh tu tập, thì sẽ thành tựu thần thông Thập lực của Phật, để cứu khắp chúng sinh thế gian.

Muốn bỏ ngôi vua và tài báu
Liền bỏ nhà cửa nương Phật giáo
Dũng mãnh tinh tấn trong một niệm
Được ngàn tam muội thấy ngàn Phật.

Khi làm Chuyển luân thánh vương, Ngài có thể bố thí ngôi vua và tiền tài châu báu cho người khác, thậm chí có thể bố thí đất nước, vợ, con, đầu, mắt, tuỷ, não, cho chúng sinh, sau đó Ngài y chiếu theo sự giáo hoá của Phật để tu hành. Dũng mãnh, tinh tấn, tu hành Phật đạo vô thượng, khiến cho trong khoảng một niệm, đắc được ngàn thứ tam muội, thấy được ngàn vị Phật và ngàn thế giới.

Hết thảy đủ thứ sức thần thông
Địa nầy Bồ Tát đều hiện được
Nguyện lực chỗ làm lại hơn đây
Vô lượng tự tại độ quần sinh.

Hết thảy đủ thứ sức thần thông, Bồ Tát trụ đệ nhị địa đều có thể hiển hiện được. Nếu dùng đại nguyện lực của Ngài mà nói, thì sức thần thông hiển hiện của Ngài, sẽ hơn nhiều so với cảnh giới ở trước đã nói, Ngài dùng vô lượng sức thần thông nầy, để độ hoá tất cả chúng sinh.

Người lợi ích tất cả thế gian
Tu hạnh tối thắng của Bồ Tát
Công đức Địa thứ hai như vậy
Vì các Phật tử đã diễn nói.

Chúng sinh trong tất cả thế gian thọ được lợi ích, tu tập, đều do Bồ Tát giáo hoá hạnh tối thắng. Công đức thành tựu của Bồ Tát địa thứ hai như vậy, nay tôi đã vì các Phật tử mà diễn nói rõ ràng.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10