KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

 

TẬP 13

QUYỂN HAI MƯƠI TÁM

PHẨM THẬP HỒI HƯỚNG
THỨ HAI MƯƠI LĂM PHẦN SÁU

 

Phật tử ! Ðại Bồ Tát, nếu thấy Như Lai xuất hiện ra đời, diễn nói chánh pháp, thì dùng âm thanh lớn, khắp cáo tất cả: Như Lai hiện ra đời! Như Lai hiện ra đời! Khiến cho các chúng sinh được nghe danh Phật, xả lìa tất cả ngã mạn hí luận. Lại càng siêng chỉ dẫn, khiến cho họ sớm được thấy Phật, khiến cho họ nghĩ nhớ Phật, khiến cho họ hướng về Phật, khiến cho họ phan duyên với Phật, khiến cho họ quán sát Phật, khiến cho họ khen ngợi Phật.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, nếu như Ngài biết có Phật hiện ra đời, lại ở trước Phật lắng nghe Phật khai diễn chánh pháp nhãn tạng. Lúc đó, Ngài nhất định hô lớn tiếng, hướng về khắp mười phương pháp giới nói: Như Lai đã hiện ra đời ! Như Lai đã hiện ra đời ! Tại sao Bồ Tát làm như thế ? Một là tâm đại từ bi của Bồ Tát, vì Phật xuất hiện ra đời, là việc trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, trước khi Phật xuất hiện ra đời, chúng sinh như ở trong chỗ u ám, trời người giảm bớt, ác đạo ngày càng tăng, cho đến danh Phật đều không nghe được, chúng sinh đều khổ đến cực điểm. Hiện tại có Phật ra đời, ngày chúng sinh được cứu đã đến, Bồ Tát sao lại nhẫn tâm thấy chúng sinh ở trong nước sâu lửa nóng thọ khổ nạn lớn ! Cho nên Bồ Tát vui mừng hô lớn tiếng, khắp cáo mười phương thế giới, khiến cho chúng sinh lập tức nghe được danh Phật, thấy diện Phật, khiến cho những chúng sinh vô tri có thể xả bỏ đủ thứ tập khí xấu và ngã mạn hí luận hư vọng không thật. Hơn nữa, khi chư Phật xuất hiện ra đời, đều có đại sự và nhân duyên của Ngài. Trong Kinh Pháp Hoa Phẩm Phương Tiện Thứ Hai, trong đó có một đoạn Kinh văn nói rất rõ ràng là: “Chư Phật Thế Tôn, muốn khiến cho chúng sinh khai mở tri kiến Phật, khiến được thanh tịnh, nên xuất hiện ra đời. Muốn mở bày cho chúng sinh tri kiến Phật, nên xuất hiện ra đời. Muốn khiến cho chúng sinh ngộ tri kiến Phật, nên xuất hiện ra đời. Muốn khiến cho chúng sinh vào tri kiến Phật, nên xuất hiện ra đời”.

Phật thị hiện ra đời, khai diễn chánh pháp tức là mở bày cho chúng sinh, chánh tri chánh kiến giống như Phật, hiện tại bị năm dục che lấp, Phật đến trợ giúp chúng sinh, làm cho khôi phục lại thanh tịnh. Chỉ bày cho chúng sinh cũng có tri kiến của Phật, mười pháp giới tất cả đều bình đẳng, chẳng có khác biệt. Khiến cho chúng sinh giác ngộ tri kiến vốn có, như pháp tu hành. Khiến cho chúng sinh vào sâu tri kiến của Phật, vĩnh viễn chẳng thối chuyển, chứng trí huệ của Bồ Tát, viên mãn bồ đề. Có lợi ích thù thắng như thế, Bồ Tát làm sao không thể khắp nói cho chúng sinh biết, để họ sớm đi đến gặp Phật nghe pháp, và còn phải luôn luôn nghĩ nhớ từ bi đức tướng của Phật, suy gẫm chánh pháp của Phật nói, không làm cho quên mất. Phải dùng chân tâm thành ý hướng về Phật, nương theo lời dạy tu tâm niệm và hành vi, phải y chỉ Ðức Phật, thọ được quang minh của Phật gia hộ. Tuỳ thời quán sát tướng tốt trang nghiêm của Phật, học tâm từ bình đẳng của Phật khắp hộ chúng sinh, dạy chúng sinh biết ân báo ân, tán dương tinh thần vĩ đại của Phật cứu độ chúng sinh, khen ngợi công đức vô lượng vô biên của Phật.

 Bồ Tát lại vị họ rộng nói: Phật khó gặp được, ngàn vạn ức kiếp đến thời mới xuất hiện một lần. Do đó chúng sinh được thấy Phật, sinh niềm tin thanh tịnh, nhảy nhót vui mừng, tôn trọng cúng dường. Lại ở chỗ Ðức Phật, nghe danh hiệu chư Phật, nhờ vậy sẽ gặp vô số các Ðức Phật, trồng các gốc lành, tu tập tăng trưởng.

Bồ Tát lại đối với tất cả chúng sinh nói: Phật xuất hiện ra thế gian, rất khó gặp được, phải trải qua ngàn kiếp, vạn kiếp, ngàn ức kiếp, mới có một vị Phật xuất hiện ra đời. Chúng sinh phải có căn lành lớn, phước đức lớn, mới có thể sinh ra thời nầy gặp được Phật. Nhân duyên cơ hội tốt nầy, đừng để mất đi. Khi các bạn thấy được Phật, thì tự nhiên sẽ sinh tâm tin thanh tịnh, sẽ vui mừng nhảy nhót không tự chủ được. Nên dùng tâm tôn trọng Phật thanh tịnh nhất, dùng tâm lễ bái Phật cung kính nhất, dùng thân tâm nầy cúng dường Phật, suốt thuở vị lai thừa sự phụng trì. Lại có thể ở tại đạo tràng của Phật, nghe danh hiệu của các đức Phật khác; nhờ vậy, sẽ gặp được vô số đức Phật. Ở trước mỗi vị Phật, đều gieo trồng gốc nghiệp lành tốt nhất, tu tập tất cả pháp môn, tăng trưởng căn lành và đức hạnh, khi phước huệ đầy đủ công đức viên mãn, thì sẽ thành tựu quả vị Phật.

Bấy giờ, vô số trăm ngàn vạn ức Na do tha chúng sinh, vì thấy được Phật, nên đều được thanh tịnh, rốt ráo được điều phục. Các chúng sinh đó, ở chỗ Bồ Tát đều sinh ý niệm thiện tri thức tối thượng. Nhờ Bồ Tát nên thành tựu Phật pháp. Dùng căn lành đã gieo trồng vô số kiếp, khắp nơi thế gian bố thí làm Phật sự.

Bồ Tát đối với những chúng sinh đó, khẩn thiết nói khai thị như ở trên rồi, lúc đó, có vô số trăm ngàn vạn ức chúng sinh, nhờ tiếp thọ được sự khuyên dạy của Bồ Tát, mà thấy được Phật, nên thân tâm thọ được lợi ích lớn, cảm giác được thân tâm thanh tịnh, các căn điều phục. Cổ đức có nói:

“Nhiều đời nghe lời thiện
Nghiệp nặng nghe lời ác”.

Một chút cũng không sai, nghe được người khác nói lời thiện, đó đều là nhờ phước đức nhiều đời. Lại có cơ hội nghe Kinh nghe pháp, đó là do nhân duyên tu tập nhiều đời. Không tin thì hãy xem ngoài xã hội, tại sao người đến Chùa nghe Kinh lễ Phật thì ít ? Ðó là vì chúng sinh căn lành không đủ. Phàm là người nhiều đời đã gần gũi Tam Bảo, căn lành sâu dày, thì họ hoan hỉ gặp Phật nghe pháp, họ có thể dùng niềm vui thiền định làm thức ăn, niềm vui của pháp tràn đầy. Hà huống hiện tại Bồ Tát khuyên bảo họ đi đến gặp Phật thiệt xuất hiện ra đời ? Cho nên những chúng sinh đó, đối với Bồ Tát nói không ra được cảm kích, đại khái mọi người có ý niệm giống nhau: Chúng ta thật may mắn, gặp được thiện tri thức tốt nhất. Nhờ vị Bồ Tát nầy tiếp dẫn, mà khiến cho chúng ta minh bạch chân lý, xa lìa tà ác. Nay chúng ta thân tâm thanh tịnh điều phục, tiêu diệt ba độc năm dục, nhờ đó mà có cơ hội tiếp thọ được Phật pháp, hy vọng thành tựu đạo nghiệp. Dùng căn lành vô số kiếp đã gieo trồng, khắp ở tại thế gian làm các Phật sự. Phạm vi Phật sự bao quát rất rộng, làm các điều lành, việc lớn việc nhỏ hợp với chánh tri chánh kiến, đều có thể gọi là Phật sự. Người xuất gia giảng Kinh thuyết pháp, lãnh đạo thiện tín cư sĩ tu trì, đối với người khuyên làm lành bỏ làm ác, tịnh hoá xã hội .v.v…đều là Phật sự, cũng có thể nói làm tất cả việc mà Phật khen ngợi.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát khai thị chúng sinh khiến cho gặp được Phật, đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh chẳng cần chờ khuyên bảo, tự đi đến gặp Phật, thừa sự cúng dường, đều khiến cho hoan hỉ. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường ưa thích gặp Phật, tâm chẳng xả bỏ. Nguyện cho tất cả chúng sinh, thường siêng tu tập trí huệ rộng lớn, thọ trì tất cả pháp tạng của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh, tuỳ chỗ nghe được đều ngộ Phật pháp, trong vô lượng kiếp tu hạnh Bồ Tát. Nguyện cho tất cả chúng sinh, an trụ chánh niệm, luôn dùng mắt trí huệ gặp Phật ra đời. Nguyện cho tất cả chúng sinh, chẳng nghĩ nhớ nghiệp khác, thường nghĩ thấy Phật, siêng tu mười lực.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài khẩn thiết đối với chúng sinh khai thị sự lợi ích gặp Phật nghe pháp rồi, bèn đem đủ thứ căn lành của Ngài tu tập hồi hướng cho chúng sinh như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh minh bạch cơ duyên thấy Phật rất khó được, gặp Phật là phước báu vô thượng, gặp Phật nghe pháp sẽ đắc được lợi ích thù thắng vi diệu, mọi người đều sẽ tự động nhảy nhót đi gặp Phật, đừng đợi người khác đến khuyên mời, hoặc nhờ người khác dẫn dắt mới đi. Tự động tự phát do nơi chân thành, bị người khác dẫn dắt, hoặc khuyên mời là miễn cưỡng. Miễn cưỡng thì chẳng có tâm tin, sẽ chẳng đắc được lợi ích. Chúng ta ở trước phải ân cần thừa sự Phật, phải dùng tâm chí thành cúng dường Phật, tất cả hành vi đều phải biểu hiện nhất chí, mọi việc đều phát tâm hoan hỉ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, luôn ưa thích thấy Phật, tâm thành đó vĩnh viễn không dứt mất, hoặc xả bỏ mà thay đổi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thường tinh tấn siêng tu tất cả chánh pháp nhãn tạng của chư Phật, vì có thể rộng lớn suối nguồn trí huệ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tuỳ tiện nghe được âm thanh gì, thấy được cảnh giới gì, đều có thể khai ngộ, minh bạch hết thảy tất cả trên thế gian đâu chẳng phải là Phật pháp. Hưng suy khen chê của đời người, tiếng chim hương hoa của thiên nhiên, khí hậu bốn mùa thay đổi .v.v…đủ thứ hiện tượng đâu chẳng phải là Phật pháp, đều có thể khiến cho người giác ngộ sự vô thường.

Bồ Tát Phổ Hiền nói với chúng ta rằng: “Sát na cuối cùng lúc lâm chung, tất cả các căn thảy đều tan hoại, tất cả thân thuộc thảy đều xả lìa, tất cả oai thế thảy đều thối lùi mất, phụ tướng đại thần, cung thành trong ngoài, vạn mã xe cỡi, ngọc ngà châu báu, tất cả như vậy, đều chẳng mang theo được”. Phàm phu vì danh, vì lợi, suốt đời bôn ba lao nhọc, cuối cùng thì mang theo được cái gì ? Chỉ có mang theo được nghiệp thiện và nghiệp ác đã tạo ra ! Cho nên Bồ Tát Phổ Hiền lại nói với chúng ta: “Chỉ có chúng ta hành phát nguyện lớn, nó sẽ không bỏ lìa chúng ta. Khi chúng ta lâm chung, thì nó dẫn dắt chúng ta vãng sinh về thế giới Cực Lạc, gặp Ðức Phật A Di Ðà và Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Quán Âm, cùng các đại Bồ Tát khác”. Do đó, đại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, Ngài hy vọng chúng sinh có thể tuỳ theo nghe được âm thanh mà tỏ ngộ chân lý Phật pháp, ở trong vô lượng kiếp, đời đời kiếp kiếp, ở khắp các nơi, đều tu học hạnh Bồ Tát, học thực hành Bồ Tát đạo, vĩnh viễn chẳng giải đãi thối lùi. Cổ Ðức cũng cảnh tỉnh chúng ta nói:

“Ðời người sống đến bảy mươi xưa nay hiếm
Trước trừ niên thiếu sau trừ già.
Thời gian khoảng giữa chẳng là bao
Lại có một nửa là ngủ nghỉ”.

Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tuỳ thời đều an trụ ở trong đời sống chánh tri chánh niệm, mọi việc đừng sinh vọng tưởng. Thường dùng mắt tâm trí huệ, nghinh tiếp Phật đến nhân gian để hộ trì khắp chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đừng thọ ảnh hưởng của ngoại đạo dị luận, sinh tưởng niệm không chánh đáng, tạo ra nghiệp ác, phải thường nghĩ nhớ Phật, hy vọng thường gặp Phật nghe pháp, siêng tu mười lực của Phật.

Mười lực của Phật:

1. Trí lực tri giác xứ phi xứ: Xứ nghĩa là đạo lý. Biết đạo lý của sự vật là đúng hay không đúng.
2. Trí lực biết nghiệp báo ba đời: Biết nhân quả nghiệp báo của tất cả chúng sinh ba đời.
3. Trí lực biết tam muội của các thiền giải thoát: Biết tam muội của tứ thiền bát định và tám giải thoát, ba thứ tam muội.
4. Trí lực biết các căn thắng liệt: Biết chúng sinh các căn ưu tú hay hạ liệt.
5. Trí lực biết đủ thứ sự thấu hiểu: Biết trình độ thấu hiểu của chúng sinh đối với sự lý.
6. Trí lực biết đủ thứ cảnh giới: Biết cảnh giới khác biệt của tất cả chúng sinh.
7. Trí lực biết tất cả chí xứ đạo: Biết nghiệp quả thực hành năm giới, mười điều lành, bát chánh đạo .v.v…tại nhân gian và trên trời.
8. Trí lực biết thiên nhãn vô ngại: Dùng thiên nhãn thấy tất cả nghiệp của chúng sinh.
9. Trí lực biết túc mạng vô lậu: Biết túc mạng của chúng sinh, và vô lậu Niết Bàn.
10. Trí lực biết vĩnh viễn đoạn trừ tập khí: Biết vĩnh viễn đoạn trừ tất cả vọng hoặc dư tập khí mà chẳng khiến cho sinh nữa.

Nguyện cho tất cả chúng sinh, nơi tất cả chỗ thường thấy chư Phật, thấu đạt Như Lai khắp cõi hư không. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được đầy đủ thân tự tại của Phật, khắp ở trong mười phương, thành đạo thuyết pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh, gặp thiện tri thức, thường nghe Phật pháp, nơi các Ðức Như Lai được niềm tin bất hoại. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều khen ngợi chư Phật xuất hiện ra đời, khiến cho người thấy khắp được thanh tịnh. 

Ðó là hồi hướng căn lành khen Phật ra đời của đại Bồ Tát, vì khiến cho chúng sinh thấy tất cả chư Phật, cúng dường thừa sự, nơi pháp vô thượng, rốt ráo thanh tịnh.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, bất cứ ở đâu cũng đều có thể thấy được Phật, minh bạch pháp thân của Phật, là tận cùng hư không khắp pháp giới. Ứng hoá thân của Ngài là tuỳ duyên ứng cơ chúng sinh mà hiển hiện. Chỉ cần tâm thành ý tịnh, thì sẽ cảm ứng hiện. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được thân tự tại đầy đủ phước huệ giống như Phật, tuỳ nguyện lực và nhân duyên, nhậm vận tự như đến khắp cùng mười phương thế giới thành đạo thuyết pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thường gặp được đại thiện tri thức, nghe được chánh pháp của Phật giáo, đối với bi nguyện xuất hiện ra đời của Phật, cùng với tất cả chánh pháp của Phật nói, thảy đều tin sâu không nghi hoặc, mà còn thiết thực phụng hành, không thọ ảnh hưởng dị luận của ngoại đạo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều khen ngợi tán thán bi nguyện chư Phật xuất hiện ra đời. Phàm là người gặp được Phật ra đời, đều đắc được thân tâm thanh tịnh, trồng căn lành lớn, khai mở đại trí huệ. Ðó là hồi hướng căn lành tích tập của đại Bồ Tát, tán thán khen ngợi chư Phật xuất hiện ra đời. Vì khiến cho chúng sinh thấy được chư Phật rồi, sẽ minh bạch cúng dường chư Phật, đi thừa sự phụng trì chư Phật. Ðối với diệu pháp vô thượng, có thể đắc được trí huệ thanh tịnh, trí huệ viên mãn.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát xả bỏ đất đai, hoặc bố thí cho chư Phật, tạo lập tinh xá. Hoặc bố thí cho Bồ Tát và thiện tri thức, tuỳ ý sử dụng. Hoặc bố thí cho chúng Tăng, dùng làm nơi ở. Hoặc bố thí cho cha mẹ. Hoặc bố thí cho người khác, Thanh Văn Ðộc Giác, đủ thứ ruộng phước, cho đến tất cả những kẻ bần cùng cô nhi, và bốn chúng. Tuỳ ý thảy đều bố thí cho, không thiếu thốn thứ gì. Hoặc bố thí kiến lập tháp miếu của Như Lai. Ở trong các nơi như vậy, thảy đều đầy đủ đồ tư sanh, khiến tuỳ ý sử dụng, không có sự sợ hãi.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài bố thí đất đai cho chư Phật tạo lập tinh xá, làm nơi diễn nói chánh pháp. Hoặc bố thí cho các đại Bồ Tát, hoặc đại thiện tri thức-người có đại trí huệ, minh bạch sự lý, có thể hướng dẫn người tu hành, bố thí cho các vị đó tuỳ ý sử dụng. Hoặc bố thí cho chúng Tăng những người xuất gia, làm nơi tu hành. Hoặc bố thí cho cha mẹ, hoặc bố thí cho những người khác, cũng không hỏi họ có phải là người giàu có chăng. Hoặc bố thí cho hàng nhị thừa bậc Thánh Thanh Văn Ðộc Giác, như vậy đủ thứ ruộng phước, Phật là ruộng phước lớn nhất. Cho đến tất cả những người nghèo khổ, cô nhi, đây là ruộng phước nhỏ nhất, Bồ Tát một luật bình đẳng bố thí, cùng với bốn chúng đệ tử-Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, cũng bố thí như nhau; tuỳ ý họ cần dùng không tính số lượng, đều khiến cho họ mãn nguyện, tuyệt đối không thiếu thốn. Ðó là cảnh giới của Bồ Tát, chẳng phải một số người có thể làm được; hoặc bố thí cho người xuất gia làm chùa, tu viện. Nghe nói những nơi nầy, Bồ Tát chẳng những bố thí đất đai, mà còn làm chùa, tu viện chỗ ở .v.v… tại mỗi nơi, thiết bày chu toàn, tất cả đồ tư sanh, đáng có thì có, khiến cho bất cứ ai ở trong đó đều không có cảm giác thiếu thốn đồ cần dùng, hoặc không phương tiện, không tự tại, không an toàn. Khiến cho đời sống của họ tuỳ ý lấy dùng, chẳng có sự sợ hãi và thiếu thốn.

Khi đại Bồ Tát bố thí đất đai, đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ đất thanh tịnh nhất thiết trí, đạt đến các hạnh Phổ Hiền bờ bên kia. Nguyện cho tất cả chúng sinh được đất tổng trì, chánh niệm thọ trì tất cả Phật pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh được sức lực trụ trì, thường thủ hộ tất cả Phật giáo. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm như đất, nơi các chúng sinh ý thường thanh tịnh, chẳng có niệm ác. Nguyện cho tất cả chúng sinh giữ các giống Phật, thành tựu các bậc thứ lớp của các Bồ Tát, chẳng có đoạn tuyệt. Nguyện cho tất cả chúng sinh khắp vì tất cả làm nơi an ổn, đều khiến điều phục, trụ đạo thanh tịnh.

Khi đại Bồ Tát bố thí đất đai, đều đem căn lành của Ngài tu tập, đối với chúng sinh hồi hướng, Ngài nói: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được đầy đủ các thứ trí huệ thanh tịnh, đều tu vô tận vạn hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, đạt thành viên mãn, lên được hạnh nguyện Phổ Hiền bờ bên kia. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được đất tâm tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa, thân thể lực hạnh chánh niệm suy gẫm tu trì tất cả Phật pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được sức lực trụ trì Phật pháp, thường thủ hộ Phật giáo, khiến cho Phật pháp phát triển rộng lớn. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được tâm tin kiên cố giống như đất, đối với những chúng sinh khác có tâm đại từ bi ái hộ, ý thường thanh tịnh, chẳng có tâm ác niệm xâm hại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, hành trì được không làm các điều ác, chuyên làm các điều lành, làm hạt giống chư Phật, tương lai có thể trở thành đại Bồ Tát, sẽ tu hành đến pháp môn thập địa, có thể y theo thứ tự từng bậc từng bậc tiến tới, chẳng thối tâm bồ đề, cũng chẳng bỏ tâm nguyện tu hành. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, làm nơi nương tựa bình đẳng cho khắp tất cả chúng sinh, khiến cho những chúng sinh cang cường khó điều phục, nhờ gần gũi nương tựa mà được cảm hoá, tự nhiên cũng sẽ trụ trong Phật đạo thanh tịnh.

Nguyện cho tất cả chúng sinh đồng các Như Lai lợi ích thế gian, khắp khiến họ siêng tu, an trụ nơi Phật lực. Nguyện cho tất cả chúng sinh khắp vì chỗ ưa thích thế gian, đều khiến cho an trụ trong niềm vui vô thượng của Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được phương tiện khéo léo, trụ ở trong pháp vô uý các lực của Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được trí huệ như đại địa, tự tại tu hành tất cả Phật pháp. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí đất đai. Vì khiến cho chúng sinh đều được rốt ráo tất cả bậc thanh tịnh của Như Lai.

Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều giống như Phật lợi ích thế gian, khắp khiến cho những đệ tử Phật siêng tu Phật đạo, đều được an ổn tự tại trụ nơi Phật lực. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, khắp thọ được vui ưa thích thế gian, đều được bình an trụ ở trong niềm vui vô thượng của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được đủ thứ phương tiện khéo léo, an trụ nơi mười lực của Phật và ở trong chánh pháp không sợ hãi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được trí huệ giống như đất. Ðất bình đẳng nhất, từ bi nhất, chẳng có tâm thương ghét. Ðất hay sinh vạn vật, nuôi lớn vạn vật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có trí huệ như đất, an nhiên tự tại tu tập tất cả Phật pháp. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí đất đai, vì khiến cho chúng sinh đều có thể đắc được quả địa chân chánh thanh tịnh của chư Phật.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát bố thí đồng bộc, cúng dường cho tất cả chư Phật Bồ Tát, chân thiện tri thức. Hoặc bố thí cho Tăng bảo. Hoặc phụng hiến cho cha mẹ, những ruộng phước thù thắng. Hoặc lại bố thí cho chúng sinh bệnh khổ, khiến cho chẳng thiếu thốn. Hoặc lại bố thí cho kẻ bần cùng cô nhi, cùng với tất cả những kẻ không ai giúp đỡ săn sóc. Hoặc để giữ gìn tháp miếu của Như Lai. Hoặc để biên chép giữ gìn chánh pháp của chư Phật. Ðem trăm ngàn ức Na do tha đồng bộc, tuỳ thời bố thí cho. Các đồng bộc đó, đều thông minh khéo léo, tính tự điều thuận, thường siêng tinh tấn, chẳng có giải đãi. Ðầy đủ tâm chất trực, tâm an lạc, tâm lợi ích, tâm nhân từ, tâm cung kính, chẳng có tâm oán hận, chẳng có tâm thù địch. Có thể tuỳ theo phương tục, làm các điều lợi ích. Lại do tịnh nghiệp của Bồ Tát sở cảm, mới có tài năng, khéo léo tính toán, chẳng có gì mà không thông đạt, khéo hay cung phụng hầu hạ, làm vừa lòng chủ nhân. 

Các vị đệ tử của Phật ! Hiện tại đại Bồ Tát lại bố thí nhiều đồng bộc, cúng dường cho chư Phật, các đại Bồ Tát, các đại thiện tri thức chân chánh, hoặc bố thí cho Tăng Bảo, hoặc phụng hiến cho cha mẹ, đó là những ruộng phước tối thắng vô thượng nhất, hoặc cũng bố thí cho những chúng sinh nghèo khổ bệnh tật, khiến cho có người chiếu cố chăm sóc họ, hiện tại có người đến trợ giúp họ, do đó mà khỏi cái chết, bảo tồn được tánh mạng. Hoặc bố thí cho những người nghèo khổ, và côi cút không có chỗ ở, cùng với những người già trẻ đáng thương không có ai chăm sóc. Hoặc bố thí cho tùng lâm đạo tràng, để họ trợ giúp giữ gìn chùa tháp Phật, hoặc trợ giúp biên chép Kinh văn. Những người đồng bộc đó, cũng biết thọ trì chánh pháp, tu hành biện đạo. Bồ Tát dùng trăm ngàn ức Na do tha đồng bộc, tuỳ thời tuỳ lúc bố thí khắp. Những đồng bộc mà Ngài bố thí, đều rất thông minh lanh lợi, khéo biết ý của chủ nhân, tính tình của họ đều rất thuần lương, sáu căn thanh tịnh tự nhiên điều thuận. Làm việc không để cho chủ nhân tháo tâm và chỉ huy, hằng ngày tự động tinh tấn làm việc như thế, không có sự giải đãi. Tâm của họ cũng rất lương thiện, thành khẩn thật thà, không dối trá xảo quyệt. Tâm tình thoải mái cũng rất an lạc nơi công việc của họ. Thường ôm hoài bảo làm lợi ích cho mọi người, có tâm nhân từ xử sự cách vật, có tâm cung kính tôn trọng cẩn thận, chưa từng oán hận ai, đối với bất cứ ai cũng đều không có tâm cừu địch. Những đồng bộc đó đều có phẩm hạnh tốt đẹp như vậy, mà còn tuỳ theo tất cả phong tục tập quán của chủ nhân, sinh hoạt rất là dung hợp. Ðại Thánh Khổng Tử và Á Thánh Mạnh Tử của Trung Quốc đối với học trò nói rằng:

“Nhập quốc vấn sở
Nhập hương vấn tục”.

Bên trong việc nhà có quan hệ đối với chủ nhân, bên ngoài có quan hệ lợi ích đối với địa phương, đều tận tâm tận sức làm tất cả những việc có ích cho mọi người. Lại đều thọ được sự lợi ích nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát chiêu cảm, mà phát huy trí lực tài năng vốn có, học tập kỹ thuật và đủ thứ nghề nghiệp .v.v…tinh tấn như vậy, và đều có biểu hiện hơn người. Lại khéo hiểu ý chủ nhân, bất cứ việc lớn nhỏ, không làm cho chủ nhân phiền hà, tất cả đều cung phụng hầu hạ chu toàn, khiến cho trong tâm của chủ nhân rất hoan hỉ mà còn phóng tâm.

Bấy giờ, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm điều thuận, ở chỗ tất cả chư Phật, tu tập căn lành. Nguyện cho tất cả chúng sinh tuỳ thuận cúng dường tất cả chư Phật, nơi chỗ Phật nói, đều nghe và thọ trì. Nguyện cho tất cả chúng sinh được Phật nhiếp thọ, thường quán Như Lai, càng không có niệm nào khác. Nguyện cho tất cả chúng sinh không hư hoại giống Phật, siêng tu tất cả thuận theo căn lành của Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường siêng cúng dường tất cả chư Phật, không có lúc nào trôi qua lãng phí. Nguyện cho tất cả chúng sinh nhiếp trì tất cả diệu nghĩa của chư Phật, lời lẽ biện luận thanh tịnh, du hành không sợ hãi. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường ưa thích thấy Phật, tâm không nhàm đủ, ở chỗ chư Phật không tiếc thân mạng.

Khi Bồ Tát bố thí đồng bộc, đồng thời đem đủ thứ căn lành của Ngài tu tập, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều thân tâm bình an, sáu căn điều thuận, chẳng có phiền não tạp niệm vọng tưởng, dùng tâm tự tại thanh tịnh nhất, ở tại đạo tràng của chư Phật, tu học Phật pháp, làm đủ thứ công việc, tích tụ căn lành công đức. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, chân tâm thành ý, tuỳ sức, tuỳ phần, tuỳ thời, cúng dường chư Phật, đối với chánh pháp của chư Phật nói, Tam Tạng Mười Hai Bộ Kinh điển, đều y giáo phụng hành, xử sự cách vật, trong ngoài nhất chí, thọ nơi tâm, trì nơi thân. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được quang minh của chư Phật nhiếp thọ, luôn luôn quán tưởng tướng tốt trang nghiêm, phước đức viên mãn, tinh thần từ bi cứu đời của chư Phật, ngoại trừ tư tưởng nầy ra, không có tư tưởng nào khác, chỉ một lòng nhớ nghĩ đến chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đừng sinh tâm ác, làm các điều lành, phát tâm bồ đề, không hư hoại giống tánh Phật. Siêng tu tất cả chánh pháp của chư Phật nói, thuận theo tâm ý tích tập căn lành của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường siêng cúng dường chư Phật, Pháp và Tăng, đừng có lúc cúng lúc không, phải có tâm hằng thường, cúng dường Tam Bảo công đức không tổn hại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có chánh niệm suy gẫm chánh pháp diệu nghĩa của chư Phật nói, nhiếp thọ tu trì tất cả chánh pháp, lời lẽ thanh tịnh, hoằng dương chánh pháp của chư Phật, du hành mười phương đều không sợ hãi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, lúc nào cũng hoan hỉ thấy được từ bi tướng tốt trang nghiêm của Phật, vĩnh viễn không bao giờ có tâm biết đủ, càng không sinh tâm nhàm lìa. Ở tại đạo tràng của Phật, tất cả sự việc trong ngoài lớn nhỏ, đều thấy có trách nhiệm của mình trong đó, tuyệt đối không sợ gian nan khó khăn. Như gặp sự việc nguy hiểm của Phật giáo phát sinh, vì bảo vệ Phật giáo, không tiếc thân mạng, quyết tâm đấu tranh bảo vệ đến cùng.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được thấy chư Phật, tâm chẳng nhiễm trước, lìa sự nương tựa của thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh, chỉ quy y với Phật, vĩnh viễn lìa khỏi sự quy y của tất cả tà giáo. Nguyện cho tất cả chúng sinh, tuỳ thuận Phật đạo, tâm thường ưa thích quán sát Phật pháp vô thượng. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí đồng bộc. Vì khiến cho chúng sinh xa lìa bụi trần dơ bẩn, tịnh trị cõi Phật, được thấy thân tự tại của Như Lai.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có đủ phước báo, có căn lành thấy được các Ðức Phật, trong tâm rốt ráo thanh tịnh, chẳng có tơ hào nhiễm ô, lìa khỏi hết thảy tất cả mao bệnh chấp trước của thế gian. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có trí huệ biện rõ chánh tà, biết Phật mới là nơi quy y chân chánh, cho nên chỉ quy y với Phật, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả tà ma dị luận. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thấu đạt nghĩa lý của các pháp, tuỳ thuận đạo lý của Phật nói, thường ưa thích quán sát các pháp, chẳng có ngừng nghỉ, thấu hiểu các pháp không tướng, thành tựu đạo quả Phật pháp vô thượng. Ðó là hồi hướng đủ thứ căn lành của đại Bồ Tát tu tập, khi Ngài bố thí đồng bộc cho các Ðức Phật, Bồ Tát, hàng Thánh nhị thừa, đại thiện tri thức, cha mẹ, cùng với các chúng sinh nghèo khổ côi cút .v.v…Vì khiến cho chúng sinh xa lìa tất cả sự nhiễm ô bụi trần, thanh tịnh trị học pháp môn thành Phật, đạt đến quả vị Phật, có thể hiển hiện thân thanh tịnh tự tại như Phật, giáo hoá chúng sinh.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng thân bố thí cho những người đến xin, khi bố thí sinh tâm khiêm tốn. Sinh tâm như đất. Sinh tâm nhẫn thọ các sự khổ chẳng biến động. Sinh tâm cung cấp hầu hạ chúng sinh không nhàm mỏi. Sinh tâm đối với chúng sinh như mẹ hiền, hết thảy các điều lành, đều hồi hướng cho. Sinh tâm nơi các chúng sinh ngu si, gian hiểm, cực ác, đủ thứ sự xâm lăng, đều khoang dung, an trụ nơi căn lành, tinh tấn chuyên cần phục vụ cho chúng sinh.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát lại dùng thân của mình bố thí cho những người đến cầu xin. Khi Ngài bố thí thân mình, đối với người xin, trong tâm Ngài sinh ra tâm khiêm cung hoà nhã, chẳng có khí chất ngạo mạn. Lại sinh tâm giống như đất, dung được vạn vật, chẳng màng dơ sạch. Hay sinh ra vạn vật, chẳng lựa sang hèn, hay chở vạn vật, chẳng phân biệt thương ghét. Tâm bình đẳng từ ái giống như đất là như vậy. Lại sinh tâm nhẫn thọ các sự thống khổ, tuyệt đối không biến động thối chuyển. Lại sinh tâm vì chúng sinh mà phục vụ, cung cấp hầu hạ chúng sinh, tuyệt đối không sinh tâm mệt nhọc lười mỏi. Lại sinh tâm đối với tất cả chúng sinh, như mẹ hiền thương yêu con cái, đem đủ thứ căn lành của mình tích tập, hoàn toàn hồi hướng cho họ. Lại sinh tâm đối với những chúng sinh ngu si, gian hiểm, cực ác, họ đối với người làm ác, xâm lăng, lừa dối, áp bức, đủ thứ hành vi hung ác, Bồ Tát đều tha thứ cho họ, chẳng trách họ. Bồ Tát vẫn an trụ nơi căn lành, tinh tấn phục vụ cho chúng sinh.

Bấy giờ, Bồ Tát đều đem căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh tuỳ theo vật họ cần, thường không thiếu thốn. Tu hạnh Bồ Tát, luôn không gián đoạn, chẳng xả bỏ tất cả nghĩa lợi của Bồ Tát. Khéo trụ nơi đạo của Bồ Tát hành. Thấu đạt pháp tính bình đẳng của Bồ Tát. Ðược ở trong số chủng tộc của Như Lai. Trụ nơi lời lẽ chân thật, giữ hạnh Bồ Tát, khiến cho các thế gian được Phật pháp thanh tịnh. Tâm tin hiểu thâm sâu, chứng được pháp rốt ráo, khiến cho các chúng sinh, sinh ra tăng trưởng căn lành thanh tịnh, trụ nơi công đức lớn, đầy đủ nhất thiết trí.

Khi Bồ Tát phát nguyện dùng thân mình bố thí cho chúng sinh, Ngài lại đem đủ thứ căn lành tu tập vì chúng sinh hồi hướng: Ngài nói, tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, tuỳ theo tất cả vật tư sinh mà họ cần dùng, trong đời sống hằng ngày, đều không thiếu thốn. Ðời đời kiếp kiếp, nơi nơi chốn chốn, một sát na đều không gián đoạn tu hạnh môn của Bồ Tát, làm công việc của Bồ Tát làm từ bi giáo hoá tế độ chúng sinh, vĩnh viễn không dừng lại giữa đường, cũng không xả bỏ tất cả nghĩa vụ của Bồ Tát, lợi ích chúng sinh, càng không trái với tâm ý và tông chỉ thân làm Bồ Tát. Khéo an trụ nơi phạm vi đạo lý của Bồ Tát làm, mọi việc đều hợp với tâm lý của chúng sinh, hợp với sự lợi ích. Lại thông đạt pháp Bồ Tát là oán thân bình đẳng, từ bi chúng sinh, chẳng sinh tâm phân biệt, phải có sự pháp tánh bình đẳng về lối nhìn. Có những ưu điểm vừa nói ở trên, thì có thể được sinh ở trong chủng tộc của Phật. Phải thường trụ trong sự chân thành, có tâm chân thật trung hậu, nói lời thành thật, khiến cho nghiệp ý, nghiệp lời, đều thanh tịnh. Tu pháp môn của Bồ Tát tu, hành trì chánh nghiệp của Bồ Tát hành, thì thân cũng thanh tịnh. Bồ Tát hy vọng mỗi chúng sinh đều có biểu hiện như vậy, thì sẽ cảm chiêu được người khác, do đó khiến cho tất cả thế gian đều trở thành cõi nước thanh tịnh, đắc được Phật pháp thanh tịnh, đều minh bạch được nghĩa lý của chánh pháp. Tất cả chúng sinh cũng đều đối với Phật pháp có sự tin hiểu thâm sâu thân thiết, cuối cùng đều chứng ngộ đạo lý chân thật của chánh pháp. Khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm thanh tịnh, khai mở đại trí huệ, tăng trưởng căn lành vô thượng. Trụ ở trong biển công đức lớn, đầy đủ viên mãn nhất thiết chủng trí.

Lại đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh thường cúng dường các Ðức Phật, hiểu tất cả các pháp, thọ trì đọc tụng, không quên không mất, không hoại không tán. Tâm khéo điều phục, không điều khiến cho điều. Dùng pháp vắng lặng mà điều tập. Khiến cho chúng sinh đó ở chỗ các Ðức Phật, trụ nơi việc như vậy. Lại đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh làm tháp bậc nhất, đáng thọ đủ thứ sự cúng dường của thế gian. Khiến cho tất cả chúng sinh trở thành ruộng phước tối thượng, đắc được trí huệ của Phật khai ngộ tất cả. Khiến cho tất cả chúng sinh làm kẻ thọ tối thượng, khắp lợi ích tất cả chúng sinh. Khiến cho tất cả chúng sinh trở thành phước lợi tối thượng, hay khiến cho đầy đủ tất cả căn lành.

Bồ Tát lại đem đủ thứ căn lành của Ngài tu tập, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh luôn luôn cúng dường mười phương các Ðức Phật. Hiểu rõ tất cả chánh pháp, lãnh thọ chánh pháp, tu trì chánh pháp, đọc tụng Tam Tạng mười hai bộ Kinh điển đại thừa. Vĩnh viễn chẳng quên, vĩnh viễn không thất lạc, vĩnh viễn không bị người phá hoại niềm tin, tâm mình cũng vĩnh viễn không tán loạn. Tâm ý thường rất vắng lặng, chẳng có tư tưởng tạp loạn. Nếu sáu căn chạy bên ngoài không điều thuận, thì khiến cho nó điều phục, dùng sự vắng lặng tu thiền định để điều tập nó. Khiến cho những chúng sinh cang cường khó điều phục, ở trong đạo tràng Phật giáo cũng học tập pháp vắng lặng nầy-ngồi thiền tu định. Bồ Tát lại dùng căn lành thân mình làm đồng bộc, hồi hướng cho chúng sinh, khiến cho họ làm bảo tháp bậc nhất trên thế gian, đáng tiếp thọ đủ thứ sự cúng dường của tất cả chúng sinh trên thế gian. Lại khiến cho tất cả chúng sinh trở thành ruộng phước tốt nhất-thành Phật rồi là ruộng phước tối thượng của thế gian, đắc được trí huệ như Phật, khai đại ngộ minh bạch tất cả sự và lý trên thế gian, cũng minh bạch pháp xuất thế mới là pháp chân lý chân chánh. Lại khiến cho tất cả chúng sinh làm kẻ thọ tối cao vô thượng-như Ðức Phật tiếp thọ tất cả lễ tán cúng dường, cũng khắp lợi ích tất cả chúng sinh. Lại khiến cho tất cả chúng sinh trở thành phước đức bậc nhất tối cao vô thượng, lại hay lợi ích tất cả chúng sinh-giống như Ðức Phật, hay khiến cho tất cả chúng sinh đều viên mãn đầy đủ tất cả căn lành.

Khiến cho tất cả chúng sinh trở thành nơi bố thí tốt bậc nhất, hay khiến cho đắc được vô lượng phước báo. Khiến cho tất cả chúng sinh ở trong ba cõi, đều được thoát khỏi. Khiến cho tất cả chúng sinh làm đạo sư bậc nhất, vì thế gian mà mở bày đạo như thật. Khiến cho tất cả chúng sinh được diệu tổng trì, trì đầy đủ tất cả chánh pháp của chư Phật. Khiến cho tất cả chúng sinh chứng được vô lượng pháp giới bậc nhất, đầy đủ chánh đạo hư không vô ngại. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát bố thí thân mình, vì khiến cho chúng sinh đều được ứng cúng vô lượng trí thân.

Bồ Tát lại nguyện khiến cho chúng sinh trở thành kẻ ưa thích bố thí bậc nhất thế gian, vì thường hành bố thí, cho nên sẽ đắc được vô lượng vô biên phước báo. Lại nguyện khiến cho tất cả chúng sinh, biết ba cõi như nhà lửa, biết quy y Phật đạo, tuỳ theo sự lãnh đạo của Bồ Tát, để thoát khỏi ba cõi. Lại khiến cho chúng sinh, làm đạo sư bậc nhất trong ba cõi-giống như Ðức Phật vì tất cả chúng sinh thế gian, tuyên nói chỉ bày đạo lý chân như thật tướng. Lại khiến cho chúng sinh, đắc được pháp môn tổng trì thâm sâu vi diệu, biết rõ lý chân không diệu hữu của tất cả các pháp, trì vô lượng nghĩa, chẳng bỏ chánh pháp, tu trì đầy đủ tất cả chánh pháp của mười phương chư Phật. Lại khiến cho chúng sinh, chứng được vô lượng pháp giới huyền môn bậc nhất, viên mãn đầy đủ chánh pháp chánh đạo không chướng ngại như hư không. Ở trên là hồi hướng đủ thứ căn lành của đại Bồ Tát tu tập. Vì hy vọng chúng sinh đều chứng được Phật quả, thọ trời người cúng dường, thành tựu thân trí huệ vô lượng.

Các vị thiện tín ! Các vị hãy nghĩ xem, làm Bồ Tát là dễ, hay là không dễ ? Tinh thần cảnh giới của Bồ Tát, xả bỏ thân thịt xương cốt .v.v…bố thí nội tài, và đất nước vợ con bảy báu .v.v…bố thí ngoại tài, không dễ làm được. Vì con người xem xả bỏ tiền như lóc thịt; nhưng lóc xương đầu còn khó hơn so với xả thân làm nô bộc. Nếu chúng ta có thể ở bất cứ nơi nào cũng không chiếm tiện nghi, cử chỉ hành động đều phát tâm từ bi, chẳng có ý niệm tham sân si, hoàn toàn nghĩ về người khác, đó tức là Bồ Tát sống, đó chẳng phải rất dễ làm chăng ? Song, một số người việc dễ mà không làm, việc khó càng không làm được. Các vị nói Bồ Tát có đáng thương hay không? Phát trăm ngàn vạn nguyện lớn, xả bỏ đầu mắt tuỷ não, công đức hoàn toàn hồi hướng cho chúng sinh, Ngài ngày ngày hy vọng, thời thời hy vọng chúng ta thọ được lợi ích của Ngài hồi hướng căn lành, thành Phật thành Thánh. Vậy mà chúng ta vẫn ưa thích ở trong nhà lửa ba cõi, lưu chuyển ở trong biển khổ thế gian, các vị nói Bồ Tát có thương tâm hay chăng ? Song, Ngài tuyệt đối chẳng thối tâm, vẫn cứu độ chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, đem sinh mạng tài sản bố thí cho chúng sinh, đem căn lành công đức hồi hướng cho chúng sinh, hy vọng chúng sinh thành Phật, thành Thánh, thành tổ sư.

Các vị ! Nếu có phụ nữ đã từng làm mẹ, thì bạn có thể thể nghiệm tâm của Bồ Tát, giống như tâm của các vị đối với con cái. Mỗi người phụ nữ làm mẹ, đều lo cho con cái, tất cả đều làm hết lòng hết sức vì con cái, chỉ vì muốn cho con cái được lợi ích. Khi con cái còn ở trong bụng mẹ, thì người mẹ đã bắt đầu lập kế hoặch, đặc niềm hy vọng trong tương lai, tất cả đều mỹ mãn đầy đủ, thông minh tài trí hơn người, vinh hiển dòng dõi. Và lúc con cái ra đời, làm mẹ nghe tiếng con khóc oa oa cất tiếng chào đời, lại nhìn thấy mặt mày con cái, trong sát na thống khổ đó, mười tháng mang thai gian nan khổ sở, đủ thứ cực nhọc không thể hình dung được, khi người mẹ nghe đến tiếng con khóc chào đời thì đều quên hết. Từ đó nuôi nấng con cái, cầu thần lạy Phật, đốt hương khấn nguyện, hy vọng con cái mạnh khoẻ không bệnh tật, mau chóng lớn thành người. Có người lớn lên không cô phụ sự hy vọng của cha mẹ, cả nhà hạnh phúc vui vẻ. Có những người ngỗ nghịch bất hiếu, đánh cha mắng mẹ, làm những điều không tốt liên luỵ đến cha mẹ. Nhưng người mẹ vẫn thương yêu con cái, không thất vọng, cảm thấy con cái của mình tốt hơn bất cứ con cái nhà nào. Các vị, đó tức là tâm từ của mẹ hiền !

Tâm Bồ Tát đối với chúng sinh cũng giống như tâm người mẹ đối với con cái. Ðức Phật nói ân của cha mẹ khó báo đền, ân của Bồ Tát đối với chúng ta, làm thế nào có thể báo đáp một trong vạn phần ! Mỗi người tu học Phật đạo, phải luôn luôn đừng quên ân đức sâu nặng ! Bất luận là đệ tử Phật tại gia hay xuất gia, lấy từ bi làm đầu, khoang dung nhân hậu đối đãi với mọi người. Nếu chỗ cơ sở học Phật nầy làm không tốt, thì e rằng trên con đường bồ đề không dễ gì ấn vết chân của bạn xuống được !

Phật tử ! Ðại Bồ Tát nghe pháp hoan hỉ vui mừng, sinh niềm tin thanh tịnh. Có thể dùng thân của Ngài cúng dường chư Phật. Vui mừng tin hiểu Pháp Bảo vô thượng. Ở chỗ chư Phật sinh tư tưởng như cha mẹ, đọc tụng thọ trì đạo pháp vô ngại, vào khắp vô số Na do tha pháp. Ðại trí huệ bảo, các môn căn lành, tâm thường nhớ niệm vô lượng chư Phật. Vào cảnh giới của Phật, thông đạt nghĩa lý thâm sâu. Hay dùng phạm âm vi mật của Như Lai, nổi mây Phật pháp, mưa Phật pháp vũ, dũng mãnh tự tại, có thể phân biệt nói bậc đệ nhất nhất thiết trí. Ðầy đủ thành tựu thừa Tát Bà Nhạ1. Dùng vô lượng trăm ngàn ức Na do tha đại pháp, để thành tựu viên mãn các căn.

Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát nghe nói về Phật pháp vi diệu, thì thật là pháp hỉ tràn đầy, lập tức sinh khởi niềm tin thanh tịnh. Bồ Tát có thể dùng thân của mình cúng dường chư Phật, thừa sự tất cả Phật sự. Ngài dùng tâm hoan hỉ tin sâu ngộ hiểu Pháp Bảo vô thượng đã nói ra. Ngài đến chỗ của mỗi vị Phật, thấy được Phật, thì trong tâm cảm giác giống như được thấy cha mẹ của mình. Do đó đủ biết Bồ Tát coi trọng việc thấy Phật nghe pháp, mà chúng ta thân làm phàm phu tục tử, như nay được thấy Phật nghe pháp, mà chẳng sinh tư tưởng được chưa từng có ! Bồ Tát cũng ưa thích đọc tụng các Kinh điển đại thừa của Phật nói, càng thành khẩn thực tiễn tâm thọ thân trì, y giáo phụng hành pháp đạo vô ngại trong các Kinh điển. Khắp nghiên cứu thâm nhập vô lượng vô số các pháp. Ðắc được đại trí huệ, vào các pháp bảo tạng, thành tựu các môn căn lành. Trong tâm của Ngài luôn luôn nghĩ nhớ mười phương chư Phật, vào nơi cảnh giới của Phật, thông đạt nghĩa lý chân thật của tất cả các pháp. Có thể dùng phạm âm thanh tịnh giống như Phật, nơi mười phương thế giới nổi mây pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, đánh trống pháp lớn, chuyển bánh xe pháp, vì chúng sinh diễn nói diệu pháp. Bồ Tát dũng mãnh không sợ hãi nhậm vận tự như, làm sư tử hống, phân biệt môn loại, đối với chúng sinh diễn nói bậc trí trong mười phương ba đời-chư Phật, các đại Bồ Tát, các đại thiện tri thức .v.v…cho nên các Ngài trở thành bậc nhất trong thế gian, đến được quả vị cao nhất, phải có đủ những nhân tố. Các Ngài đều đã từng trải qua ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng tướng tốt, viên mãn sáu độ vạn hạnh, mới đầy đủ thành tựu thừa Tát bà nhạ-tức là rốt ráo viên mãn trí huệ quả vị Phật, đủ thứ phẩm loại thế xuất thế gian, trí huệ chẳng có gì mà không hiểu đại Thánh Phật đạo. Trí huệ đó từ trong vô lượng trăm ngàn ức Na do tha pháp lớn, mới có thể tu đến viên mãn đầy đủ các căn lành.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát ở chỗ các Ðức Phật, nghe pháp như vậy, hoan hỉ vô lượng, an trụ trong chánh pháp, tự đoạn trừ nghi hoặc, cũng khiến cho người khác đoạn trừ, tâm luôn luôn vui vẻ thư thái, công đức thành tựu viên mãn, căn lành đầy đủ. Ý luôn luôn tương tục, lợi ích chúng sinh. Tâm thường không thiếu thốn, đắc được trí huệ tối thắng, thành kim cang tạng, gần gũi các Ðức Phật, thanh tịnh cõi nước chư Phật, thường siêng cúng dường tất cả Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát ở tại đạo tràng của các Ðức Phật mười phương ba đời, lắng nghe diệu pháp thâm sâu vô thượng, tâm sinh vô lượng hoan hỉ, an nhiên trụ ở trong chánh pháp, vĩnh viễn không sinh tâm thối chuyển. Những nghĩa lý Kinh điển trong quá khứ không minh bạch và có chỗ hoài nghi, một khi nghe đến các Ðức Phật khai thị, bèn khoát nhiên thông đạt, dứt trừ hết thảy nghi hoặc rồi, đồng thời cũng khiến cho tâm người khác còn chỗ nghi ngờ, cũng được thông đạt vô ngại. Do đó, trong tâm thường thường vui vẻ thư thái, tất cả công đức cũng rất thuận lợi thành tựu viên mãn, căn lành tu được cũng đầy đủ. Tâm ưa thích nghe thấy pháp đó vẫn liên tục không dứt, chẳng có tâm tự mãn, cũng chẳng sinh ra tâm cống cao ngã mạn, cảm thấy tôi đã thấu hiểu không hoài nghi, chẳng cần nghe nữa. Bồ Tát nghe pháp lợi mình tâm không thôi nghỉ, mà tâm lợi ích chúng sinh thường cũng không thiếu khuyết. Bồ Tát tự tu và lợi tha, và thường lấy mục đích vì chúng sinh mà tu hành làm đầu, cho nên Ngài hay đắc được trí huệ thù thắng, thành tựu thân thể kim cang tạng kiên cố. Lại thường hay gần gũi chư Phật, trang nghiêm cõi nước của các Ðức Phật, thường siêng cúng dường mười phương các Ðức Phật.

Bấy giờ, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được thân viên mãn tối thắng, được tất cả các Ðức Phật nhiếp thọ. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường gần gũi các Ðức Phật, nương các Ðức Phật mà ở, luôn được hầu cận ngưỡng mộ, chưa từng xa lìa. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được thân thanh tịnh không hoại, đầy đủ tất cả công đức trí huệ. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường siêng cúng dường tất cả các Ðức Phật, thực hành phạm hạnh được chỗ rốt ráo. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân không còn cái ta, lìa cái ta và của ta. Nguyện cho tất cả chúng sinh có thể phân thân khắp mười phương cõi nước, giống như hình ảnh hiện mà không đến đi.

Lúc đó Bồ Tát đem đủ thứ căn lành của Ngài tu, hồi hướng cho chúng sinh như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được thân viên mãn thù thắng, được các Ðức Phật mười phương nhiếp thọ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thường được gần gũi các Ðức Phật, nương vào các Ðức Phật mà ở, được các Ðức Phật che chở bảo hộ. Luôn được hầu cận các Ðức Phật, chiêm ngưỡng biển phước đức trí huệ của các Ðức Phật, không muốn xa lìa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được thân thanh tịnh không hoại, đầy đủ các thứ trí huệ và vô lượng công đức. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, luôn luôn ân cần cúng dường các Ðức Phật, không bao giờ gián đoạn, cũng không chấp trước vào tướng cúng dường, hoặc có sự cầu xin. Thực hành chỗ vô sự, hoàn toàn xuất phát từ tâm chân thành thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân không có cái ta, chẳng chấp trước thân ta và tướng cái ta, xả lìa chấp trước cái ta và của ta. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được thần thông có thể phân thân khắp mười phương cõi nước tuỳ ý mà đến, tự tại ảnh hiện mà chẳng có đến đi. Giống như:

“Phi điểu hành không bất kiến ngân,
Trừu đao đoạn thuỷ thuỷ nãi lưu”.

Nghĩa là:

Chim bay trên trời chẳng thấy dấu
Rút đao chém nước nước vẫn chảy.

Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân tự tại, đến khắp mười phương, không có cái ta và không có thọ. Nguyện cho tất cả chúng sinh từ thân Phật sinh, ở tại thân nhà vô thượng của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân pháp lực, sức nhẫn nhục lớn không thể hoại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân không gì sánh bằng, thành tựu pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu thân công đức xuất thế, sinh vào thế giới thanh tịnh không chỗ đắc được. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát dùng thân cúng Phật. Vì khiến cho chúng sinh vĩnh viễn trụ ở trong nhà của các Ðức Phật ba đời.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được ý sinh thân nhậm vận tự tại, đến khắp mười phương thế giới giáo hoá chúng sinh, chẳng có tư tưởng chấp cái ta và cái ta thọ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, giống như từ trong thân Phật sinh ra. Trong Kinh Pháp Hoa Phẩm Ví Dụ Thứ Ba có mấy câu Kinh văn là: Xá Lợi Phất nghe Phật nói pháp chưa từng có rồi, Ngài dứt trừ tất cả nghi hối, thân tâm thái nhiên nói: “Ngày hôm nay mới biết thật là Phật tử, từ miệng Phật sinh ra, từ pháp hoá sinh, được phần Phật pháp”. Vì Phật tử siêng tu các pháp môn, viên mãn lục độ, đầy đủ tất cả căn lành công đức, tự nhiên đều thường cùng ở với Phật, tương lai nhất định sẽ thành Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tại nhân địa tu hành công hạnh viên mãn, chứng được pháp thân đồng với hư không. Sức nhẫn nhục sinh ra trong vô hình, bất cứ vật gì cũng phá hoại không được tâm của Ngài. Dù huỷ hoại được thân hình của Ngài, nhưng tinh thần của Ngài vẫn tồn tại. Tục ngữ có nói, người nào đó tinh thần bất tử, tức là nói hạnh lành mỹ đức của họ vĩnh viễn lưu lại trong tâm của họ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân tốt đẹp nhất, trên thế gian không có thân người nào so sánh được, mà còn thành tựu pháp thân thanh tịnh giống như Phật, có thể khắp mọi nơi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tu hành viên mãn lục độ vạn hạnh, thành tựu công đức xuất thế, chứng được ba thân mười thân, thường trụ nơi pháp giới thanh tịnh của chư Phật không chỗ đắc được-cõi Tịnh độ Thường Tịch Quang. Ðó là hồi hướng cho chúng sinh các thứ căn lành tích tụ của đại Bồ Tát, Ngài dùng thân cúng dường các Ðức Phật, vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn an trụ ở trong nhà của các Ðức Phật mười phương ba đời.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng thân bố thí cho tất cả chúng sinh, vì muốn khiến cho khắp tất cả đều thành tựu căn lành, nghĩ nhớ căn lành. Ðại Bồ Tát tự nguyện thân của mình làm đèn sáng lớn, chiếu sáng khắp tất cả chúng sinh. Làm các nhạc cụ, nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh. Làm tạng diệu pháp, nhậm trì khắp tất cả chúng sinh. Làm quang minh thanh tịnh, khai sáng khắp tất cả chúng sinh. Làm quang ảnh thế gian, khắp khiến cho chúng sinh thường được thấy. Làm nhân duyên căn lành, khắp khiến cho chúng sinh thường được gặp. Làm chân thiện tri thức, khiến cho tất cả chúng sinh đều được dạy dỗ. Làm con đường bằng phẳng, khiến cho tất cả chúng sinh đều được đi trên con đường đó. Làm người đầy đủ an lạc bậc nhất, khiến cho tất cả chúng sinh được lìa khổ thanh tịnh. Làm mặt trời trong sáng, khắp làm lợi ích bình đẳng thế gian.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát dùng thân của Ngài bố thí cho tất cả chúng sinh, mục đích của Ngài là muốn khiến khắp cho tất cả chúng sinh, thành tựu căn lành tu hành của họ, và thường nghĩ nhớ căn lành tích tụ thuở xưa. Ðại Bồ Tát, Ngài cũng nguyện Ngài trở thành cái đèn lớn chiếu sáng, chiếu khắp chúng sinh mười phương thế giới, vì họ phá trừ đen tối, tiếp nhận ánh sáng. Lại nguyện trở thành nhạc cụ mà chúng sinh vui thích, dùng tiếng nhạc hay, nhiếp khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều cảm nhận được pháp nhạc vô thượng. Lại hy vọng trở thành bảo tạng chánh pháp vi diệu, lãnh đạo khắp tất cả chúng sinh, vào sâu diệu pháp tạng Kinh. Lại hy vọng mình trở thành quang minh trí huệ thanh tịnh, khắp vì chúng sinh diễn nói diệu pháp, khai thị nghĩa lý chân thật của diệu pháp. Lại hy vọng trở thành quang và ảnh của thế gian, khắp khiến cho tất cả chúng sinh thường thường thấy được quang ảnh, vĩnh viễn chẳng bị hiểm ách đen tối. Lại hy vọng có thể làm nhân duyên căn lành của chúng sinh, khắp khiến cho chúng sinh thường thấy được nhân duyên căn lành nầy, mà tích tụ các thứ căn lành. Lại hy vọng mình có thể làm bậc thiện tri thức chân chánh có đại trí huệ, dạy dỗ chúng sinh, lãnh đạo chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều thọ được lợi ích. Lại hy vọng mình giống như con đường lớn bằng phẳng, khiến cho tất cả chúng sinh đều đi trên con đường đó bình an. Lại hy vọng mình trở thành người an lạc bậc nhất trên thế gian, đầy đủ nhất thiết trí huệ, có thể tiếp dẫn chúng sinh lìa khổ được vui, minh bạch tất cả thế gian là khổ, không, vô thường, đạt đến cảnh giới thanh tịnh vô vi. Lại hy vọng mình giống như ánh sáng trong sáng của mặt trời, lợi ích khắp tất cả thế gian, bình đẳng bố thí cho tất cả chúng sinh thế gian.

Bấy giờ, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh thường gần gũi Phật, vào bậc trí huệ của Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được trí huệ tuỳ thuận, trụ vô thượng giác. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường ở nơi pháp hội của Phật, ý khéo điều phục. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm gì đều có pháp tắc, đủ oai nghi của Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được Niết Bàn, hiểu sâu nghĩa của pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh đủ hạnh tri túc, sinh vào nhà Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh xả bỏ tham dục vô minh, trụ nơi chí lạc của Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh, sinh căn lành thù thắng, ngồi dưới cội bồ đề. Nguyện cho tất cả chúng sinh giết tặc phiền não, lìa tâm oán hại. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ hộ trì tất cả Phật pháp.

Vị đại Bồ Tát đó dùng thân bố thí cho tất cả chúng sinh, khi Ngài phát những điều nguyện ở trên rồi, tiếp theo Ngài đem vô lượng căn lành của Ngài tu tập đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh luôn luôn gần gũi các Ðức Phật, nhờ đó mà có thể đắc được trí huệ của Phật, vào sâu trong biển trí huệ của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được trí tuỳ thuận, có thể tuỳ thuận căn cơ của tất cả chúng sinh, nhiếp thọ chúng sinh hướng về Phật đạo, đạt đến cảnh giới vô thượng, vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh luôn luôn ở trong pháp hội của Phật, nghe chánh pháp, khiến cho tâm ý thọ được sự huân tập chánh quyết, chẳng sinh phiền não, chẳng bị cảnh giới lay chuyển, thường trụ chánh niệm, ý thức khéo an nhiên điều phục. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh tâm có pháp tắc, làm có quy tắc, học oai nghi của Phật, đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều chứng được Niết Bàn, hưởng thọ được vui vắng lặng thường lạc ngã tịnh, vì thấu rõ nghĩa lý chân thật của các pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể lãnh thọ tri túc đạo lý thường lạc, rằng:

“Tri túc thường lạc
Năng nhẫn tự an”.

Nghĩa là:

Biết đủ thường an vui
Nhẫn được thì bình an.

Thông đạt và giác ngộ đạo lý như thế, thì tương lai nhất định sẽ thành Phật, bằng không thì không thể nào sinh vào trong dòng tộc của Như Lai. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể xả bỏ tất cả tham dục vô minh. Người tin hiểu Phật giáo nhiều như cát bụi, sao đến hôm nay người thành Phật chứng quả có được bao nhiêu ? Ðó là vì chẳng có ai xả bỏ hết tham dục vô minh. Vô minh thì như màng con mắt, che lấp mất chân tính, khiến cho con người ở trong đen tối thọ tông chỉ tham dục điên đảo, cứ sinh điên đảo tạo nghiệp ác, trôi nổi ở trong sáu nẻo ba đường ác, đó là vô minh tham dục ban cho chúng sinh cái quả. Nếu chúng ta chẳng nguyện trôi nổi ở trong sinh tử, làm nhà trong ba đường ác, thì phải xả bỏ tham dục vô minh, siêng tu Phật đạo, chí cầu pháp vui, trụ lâu dài trong an vui, nương tựa Tam Bảo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể sinh ra căn lành thù thắng, làm thế nào mới có thể xả bỏ vô minh tham dục ? Ðơn giản nhất chỉ có mười chữ là:

“Không làm các điều ác
Mà làm các điều lành.

Căn cứ hai câu nầy trên thân miệng ý lúc nào cũng hạ thủ công phu, thì sẽ sinh ra căn lành thù thắng, tham dục vô minh sẽ tiêu trừ trong vô hình, khi bạn đầy đủ viên mãn tất cả công đức, thì sẽ có người trời sẽ vì bạn trải có cát tường ở dưới cội bồ đề, khi bạn ngồi xuống cội bồ đề sẽ thành Đẳng Chánh Giác.

Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể giết ác tặc phiền não, gì là tặc phiền não ? Làm thế nào để giết tặc phiền não ? Các vị: Ai ai cũng đều có ba tặc phiền não, chúng tên là tham sân si. Chúng ta không cần giết chúng, chỉ chuyển biến qua thì thành hạt going bồ đề. Chúng ta đối với bất cứ sự vật gì cũng đừng khởi tâm tham, mà còn làm cho sạch hết, bố thí sạch hết tất cả, hoàn thành căn lành bố thí tối thượng. Chúng ta đối với bất cứ ai cũng đừng sinh tâm sân hận, tâm đố kị, chuyển tâm sân thành tâm từ bi, tâm bình đẳng, giúp đỡ người hết khả năng của mình, hoàn thành vô lượng căn lành cứu giúp chúng sinh. Chúng ta một lòng chuyên chú tu học chánh đạo, chẳng sinh tà niệm vọng tưởng, chuyển tâm ngu si thành chánh tri chánh kiến, hoàn thành căn lành bố thí pháp lợi người lợi mình. Nếu tu học được như thế, thì tặc phiền não sẽ thành bồ đề, như vậy còn có tâm oán hận nữa chăng ? Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được tất cả chánh pháp, đều có thể tu trì tất cả chánh pháp, cũng hộ trì tất cả chánh pháp và đạo tràng của Phật.

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, Ngài dùng thân bố thí cho tất cả chúng sinh. Vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ được nơi an ổn vô thượng.

Ở trên là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài dung thân bố thí cho tất cả chúng sinh. Mục đích của Bồ Tát là muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều đắc được nơi lập thân lập mạng tốt.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát tự dùng thân của mình hầu hạ các Ðức Phật. Ở chỗ các Ðức Phật, nhớ báo ân nặng, như nghĩ cha mẹ. Nơi các Như Lai, khởi niềm tin vui sâu. Dùng tâm thanh tịnh, hộ Phật bồ đề, trụ nơi pháp của các Ðức Phật, lìa nghĩ tưởng thế gian, sinh vào nhà Như Lai. Tuỳ thuận các Ðức Phật, lìa cảnh giới ma. Thấu đạt chỗ thực hành của các Ðức Phật, thành tựu pháp khí của tất cả chư Phật. 

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát Ngài tự nguyện xả thân hầu hạ các Ðức Phật, làm tất cả các việc. Khi phục vụ ở trong đạo tràng của các Ðức Phật, trong tâm của Ngài nghĩ: Vì các Ðức Phật mà phụng sự chút công sức, nhờ đó mà báo đáp ân sâu của các Ðức Phật, giống như báo đáp ân dưỡng dục của cha mẹ. Lại nghĩ đối với các đức Như Lai, nên sinh khởi tâm tin chân thành, thọ được vui tin hiểu. Dùng tâm thanh tịnh nhất không nhiễm, bảo hộ bồ đề giác đạo của Phật, một lòng không hai, an trụ ở trong tất cả Phật pháp, lìa khỏi tất cả vô minh, tham dục, tình ái, đủ thứ si tưởng vọng niệm không thanh tịnh trên thế gian. Sinh vào trong dòng tộc của Phật, theo các Ðức Phật tu tập phạm hạnh. Xa lìa cảnh giới tà ma ngoại đạo. Minh bạch tất cả hạnh môn của các Ðức Phật tu, thông đạt diệu nghĩa các pháp của các Ðức Phật nói, thành tựu pháp khí của chư Phật khen ngợi.

Bấy giờ, Bồ Tát đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm thanh tịnh, tự trang nghiêm nhất thiết trí bảo. Nguyện cho tất cả chúng sinh trụ khéo điều phục, xa lìa tất cả các nghiệp bất thiện. Nguyện cho tất cả chúng sinh được quyến thuộc vững bền không thể hoại, khắp nhiếp thọ chánh pháp của các Ðức Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm đệ tử Phật, đến bậc quán đảnh của Bồ Tát. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường được các Ðức Phật nhiếp thọ, vĩnh viễn lìa tất cả các pháp bất thiện. Nguyện cho tất cả chúng sinh tuỳ thuận các Ðức Phật, tu hành pháp tối thắng của Bồ Tát. Nguyện cho tất cả chúng sinh vào cảnh giới của Phật, thảy đều được thọ ký nhất thiết trí. Nguyện cho tất cả chúng sinh thảy đều bình đẳng với các Như Lai, đều tự tại đối với tất cả Phật pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được các Ðức Phật nhiếp thọ, thường tu tập nghiệp không thủ lấy chấp trước. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường làm người hầu cận bậc nhất của các Ðức Phật, tu tất cả hạnh trí huệ của Phật.

Khi trong tâm Bồ Tát sinh khởi các thứ tư tưởng như ở trên thì, lập tức đem các căn lành tu tập, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Ngài nguyện chín pháp giới chúng sinh, đều đắc được tâm thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô, cũng chẳng ngu si, dùng nhiết thiết trí huệ như báu để trang nghiêm pháp thân của mình. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh an trụ nơi bậc trí của Bồ Tát, khéo nương theo pháp để điều phục các căn của mình, xa lìa tất cả nghiệp ác không thiện, thành tựu đủ thứ nghiệp thiện. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được quyến thuộc thù thắng, trong ngoài hoà thuận, bình an tự tại chẳng có phiền não. Mỗi thân tộc đều có thể nhiếp thọ chánh pháp của các Ðức Phật, cũng có thể lưu truyền tuyên dương chánh pháp của các Ðức Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có thể làm đệ tử Phật, quy y Tam Bảo, phát tâm bồ đề, tu học hạnh Bồ Tát, đạt đến bậc thứ lớp cao nhất của Bồ Tát, thọ các Ðức Phật quán đảnh, vào hậu bổ Phật vị. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, luôn luôn được các Ðức Phật nhiếp thọ, làm các điều lành, không làm điều ác, nghiêm trì giới thanh tịnh, phát tâm đại bồ đề, vĩnh viễn lìa khỏi những hoàn cảnh ác liệt. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có thể theo các Ðức Phật, thuận lời Phật nói, học tập tu hành Phật pháp đại thừa vi diệu thâm sâu vô thượng mà các đại Bồ Tát tu. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tu hành viên mãn lục độ vạn hạnh, đầy đủ các căn lành và nhất thiết đạo chủng trí, vào trong cảnh giới của Phật, được mười phương các Ðức Phật thọ ký nhất thiết trí huệ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có thể đạt đến chỗ bình đẳng với Phật, hết thảy tám vạn bốn ngàn pháp môn của các Ðức Phật nói, tam tạng mười hai bộ Kinh điển, đều thông đạt vô ngại, vận dụng tự như, vào sâu biển trí huệ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được các Ðức Phật nhiếp thọ, thường tu hành không thủ lấy-không tham, không chấp trước năm dục, không khởi hoặc nghiệp, một lòng tu trì nghiệp thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường làm người hầu cận của các Ðức Phật, tại đạo tràng của các Ðức Phật, tu tập hạnh môn đại trí huệ.

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài dùng thân của mình hầu hạ các Ðức Phật. Vì muốn chứng được bồ đề của các Ðức Phật. Vì muốn cứu hộ tất cả chúng sinh. Vì muốn thoát khỏi tất cả ba cõi. Vì muốn thành tựu tâm không tổn não. Vì được vô lượng bồ đề rộng lớn. Vì muốn thành tựu trí huệ Phật pháp. Vì muốn thường được các Ðức Phật nhiếp thọ. Vì được các Ðức Phật hộ trì. Vì muốn tin hiểu tất cả Phật pháp. Vì muốn thành tựu bình đẳng căn lành với các Ðức Phật ba đời. Vì muốn viên mãn tâm không hối hận. Chứng được pháp tất cả pháp của các Ðức Phật.

Ở trên vừa nói là đại Bồ Tát, dùng thân của mình dâng lên các Ðức Phật, làm người hầu hạ các Ðức Phật, đem các căn lành đắc được hồi hướng cho chúng sinh. Mục đích Bồ Tát hồi hướng cho chúng sinh, là vì muốn chứng được giác đạo và giác quả của các Ðức Phật, sớm thành đạo nghiệp. Là vì cứu hộ tất cả chúng sinh, lợi mình cũng không quên lợi chúng sinh. Hy vọng mình hoàn thành quả Phật, mới có thể cứu bạt tất cả chúng sinh thoát khỏi ba cõi. Tất cả ba cõi là bao quát tất cả chư Thiên, vì chư Thiên vẫn chưa thoát khỏi ba cõi, vẫn chưa thoát khỏi khổ luân hồi, cho nên người tu hành không tu phước báo của trời người, phải tu pháp rốt ráo thoát khỏi ba cõi-lục độ vạn hạnh, mới vĩnh viễn lìa khỏi ba cõi. Là vì muốn thành tựu tâm không tổn não người khác, xâm hại chúng sinh. Là vì muốn đắc được vô lượng bồ đề giác quả rộng lớn-thành quả Phật Chánh Giác. Là vì muốn thành tựu đại trí huệ của Phật pháp, thông đạt diệu lý duyên khởi tánh không của các Ðức Phật. Là vì muốn thường được các Ðức Phật nhiếp thọ bảo hộ. Là vì muốn nương theo các Ðức Phật, được các Ðức Phật ái hộ. Là vì tin sâu các pháp, thấu hiểu tất cả các pháp của Phật nói. Là vì muốn thành tựu căn lành đồng với các Ðức Phật ba đời, chứng được quả Phật bình đẳng. Là vì viên mãn lục độ vạn hạnh đầy đủ phước huệ, chẳng có thiếu khuyết tâm hối hận, rốt ráo chứng được các thứ pháp môn của các Ðức Phật nói. Do những nhân duyên vừa nói ở trên, cho nên Bồ Tát phát nguyện xả bỏ thân mình để hầu hạ các Ðức Phật, ưa thích làm tất cả mọi việc.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát bố thí cõi nước tất cả mọi vật, cho đến ngôi vua, thảy đều xả bỏ được. Nơi các việc đời, tâm được tự tại, không ràng buộc, không luyến tiếc, xa lìa nghiệp ác, lợi ích chúng sinh, chẳng chấp nghiệp quả, chẳng ưa pháp thế gian, lại chẳng tham nhiễm các cõi nơi sinh ra. Tuy ở tại thế gian, chẳng phải nơi nầy sinh ra. Tâm không chấp trước uẩn giới xứ pháp. Nơi pháp trong ngoài, tâm không nương trụ, thường không quên mất các hạnh Bồ Tát, chưa từng xa lìa các thiện tri thức. Hành trì hạnh nguyện rộng lớn của các Bồ Tát, thường ưa thích thừa sự tất cả bạn lành.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát bố thí cõi nước của Ngài và tất cả tài sản vật chất, thậm chí ngôi vua cao quý nhất, Ngài cũng bố thí cho người khác. Ðối với tất cả vinh hoa phú quý trên thế gian, danh lợi địa vị, Ngài đều xem như mây trôi, nhìn xuyên thủng buông xả mà còn rất tự tại, chẳng có chút vướng mắc nào, chẳng có sự ràng buộc, chẳng có tham ác và chấp trước. Xa lìa tất cả nghiệp ác, một lòng một dạ làm mọi việc lợi ích chúng sinh. Chẳng có tư tưởng thọ báo, cũng chẳng ưa thích những việc thế tục, thọ hưởng năm dục. Càng không tham đồ giàu có và địa vị bất chánh, cũng chẳng đến những nơi tạo tội nghiệp, tất cả nghiệp ác ô nhiễm như giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, tuyệt đối chẳng nhiễm. Tuy thân cùng với chúng sinh ở tại thế gian, nhưng tâm của Ngài giống như “chẳng phải từ đây sinh ra”. Vì tâm của Bồ Tát chẳng giống như phàm phu chấp trước năm uẩn-sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng chấp trước mười tám giới: sáu căn, sáu trần, sáu thức. Chẳng chấp trước nơi mười hai xứ-sáu căn, sáu trần. Uẩn giới xứ ba cái nầy đều là pháp ô nhiễm mê chấp của phàm phu, tâm Bồ Tát chẳng chấp trước vào những pháp nầy. Về pháp vô lậu của nội pháp và pháp hữu lậu của ngoại pháp, đều chẳng sinh tâm nương trụ, cho nên Ngài có thể bên trong thì bố thí đầu mắt tuỷ não, bên ngoài thì bố thí đất nước vợ con. Bồ Tát mọi thời mọi nơi đều chẳng quên mất lục độ vạn hạnh của Ngài tu, là phải xả mình vì người, đại công vô tư, muốn lợi ích tất cả chúng sinh. Ngài cũng chưa từng xa rời các vị đại thiện tri thức, gần gũi cúng dường, thừa sự tất cả mọi việc hầu hạ cung cấp. Hành trì hạnh nguyện rộng lớn của các đại Bồ Tát, và thường ưa thích trợ giúp tất cả những người bạn lành cùng tu.

Bấy giờ, Bồ Tát đem căn lành nầy hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh làm đại Pháp Vương, nơi pháp tự tại, đến được bờ kia. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành vua Phật pháp, diệt trừ tất cả phiền não oán tặc. Nguyện cho tất cả chúng sinh trụ ngôi vua Phật, được trí Như Lai, khai diễn Phật pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh trụ cảnh giới của Phật, chuyển được bánh xe pháp tự tại vô thượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh sinh vào nhà Như Lai, nơi pháp tự tại, hộ trì giống Phật, vĩnh viễn khiến không đoạn tuyệt. Nguyện cho tất cả chúng sinh khai thị vô lượng chánh pháp của bậc Pháp Vương, thành tựu vô biên các đại Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát tu pháp hồi hướng, Ngài đem cõi nước ngôi vua và tất cả mọi vật bố thí cho chúng sinh, lại phát tâm bồ đề tu vô thượng đạo cứu độ tất cả chúng sinh, lúc đó Ngài lại đem căn lành bố thí hồi hướng cho chúng sinh: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh đều được làm đại Pháp Vương-thành Phật, đối với pháp như thật không nghĩa thật tướng, đều thông đạt vô ngại, vận dụng tự như, chẳng thêm tạo tác, rất tự tại đạt đến Niết Bàn bờ kia. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thành Pháp Vương trong Phật giáo, đắc được pháp chánh tri chánh kiến, thường vui thích pháp. Do đó, tất cả phiền não oán tặc, thảy đều phá tan tiêu diệt hết. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể trụ nơi bậc Pháp Vương của Phật, đắc được nhất thiết chủng trí như Phật, lại có thể khai thị diễn nói pháp của các Ðức Phật nói. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đạt đến cảnh giới của các Ðức Phật, có thể chuyển bánh xe chánh pháp vô thượng, nhậm vận tự tại chẳng bị mọi sự trở ngại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều được sinh vào dòng dõi của Phật, đối với tất cả các pháp đều thấu hiểu, vận dụng tự như, toàn tâm toàn sức bảo hộ chúng sinh phát tâm bồ đề, khiến cho họ thừa gia nghiệp của Phật, tiếp nối huệ mạng của Phật, khiến cho hạt giống Phật vĩnh viễn không đoạn tuyệt. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể khai diễn chỉ bày chánh pháp nghĩa lý của các Ðức Phật nói, do đó mà có thể thành tựu vô lượng đại Bồ Tát.

Nguyện cho tất cả chúng sinh trụ pháp giới thanh tịnh, làm đại Pháp Vương, hiện thân Phật ra đời liên tục chẳng dứt. Nguyện cho tất cả chúng sinh nơi các thế giới làm vua trí huệ, hoá đạo chúng sinh, chẳng lúc nào tạm xả bỏ. Nguyện cho tất cả chúng sinh, khắp vì tất cả chúng sinh làm chủ bố thí pháp, trong các thế giới pháp giới hư không giới, khiến cho họ đều được trụ nơi đại thừa. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thành vua đầy đủ các điều thiện, đồng với căn lành của các Ðức Phật ba đời. 
Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí ngôi vua. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo trụ nơi an ổn.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh trụ nơi cảnh giới thanh tịnh, làm vua thuyết pháp lớn nhất, thị hiện thân Phật, xuất hiện ra đời, mỗi vị Phật, mỗi vị Phật tiếp nối xuất hiện ra thế gian, liên tục không ngừng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh tại tất cả thế giới, đều làm bậc lãnh đạo có trí huệ nhất, giáo hoá chúng sinh, làm Phật sự tịnh hoá xã hội, chẳng ngừng nghỉ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, khắp vì chúng sinh trong mười phương ba đời tất cả thế giới tận hư không khắp pháp giới, diễn nói chánh pháp, bố thí mưa pháp, làm chủ bố thí pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều tin thọ Phật pháp đại thừa, an trụ nơi cảnh giới đại thừa pháp ích. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều làm các điều lành, đầy đủ các căn lành, làm vua của các điều lành, đồng với căn lành của các Ðức Phật ba đời. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài tu bố thí ngôi vua, vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, chân chánh an trụ nơi an ổn, tức cũng là an trụ trong đạo tràng của các Ðức Phật.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát thấy có người đến xin đại thành tốt đẹp kinh đô của vua, và những chỗ thâu thuế, đều bố thí cho họ, tâm chẳng xẻn tiếc, chuyên hướng về bồ đề, phát thệ nguyện lớn, trụ nơi đại từ, hành nơi đại bi, lợi ích chúng sinh. Dùng trí rộng lớn thấu hiểu pháp thâm sâu, an trụ nơi pháp tánh bình đẳng của các Ðức Phật, vì phát tâm cầu nhất thiết trí. Vì nơi pháp tự tại khởi tâm ưa thích thâm sâu. Vì cầu chứng được trí tự tại. Vì tịnh tu tất cả các công đức. Vì trụ nơi đại trí huệ kiên cố. Vì rộng tích tập tất cả các căn lành. Vì tu hành tất cả nguyện Phật pháp. Vì tự nhiên giác ngộ pháp đại trí. Vì an trụ tâm bồ đề không thối chuyển. Vì tu tập tất cả hạnh nguyện Bồ Tát. Vì nhất thiết chủng trí trọn rốt ráo, mà thực hành bố thí.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát Ngài thấy có người đến cầu xin kinh thành của vua ở-thủ đô trang nghiêm đẹp nhất, và cùng với những vùng biên giới, cửa khẩu xuất nhập nơi thu thuế, những nơi quan trọng như thế, Ngài đều chẳng có tơ hào xẻn tiếc, thảy đều bố thí cho người xin. Tại sao Bồ Tát hăng hái như thế ? Vì Ngài một lòng cầu bồ đề giác đạo, phát thệ nguyện rộng lớn, khắp độ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển sinh tử. Ðãi người tiếp vật, mọi sự đều ôm lòng từ bi, lúc nào cũng lấy tông chỉ cứu khổ ban vui đối với chúng sinh. Tất cả hành sự, đều lợi ích chúng sinh, dùng mục tiêu nầy vì người khác mà làm. Cho nên nói Bồ Tát trụ nơi đại từ, hành nơi đại bi. Chí nguyện và tâm ý của Ngài sung mãn sự vui vẻ hay làm lợi ích cho chúng sinh. Dùng trí huệ rộng lớn của Ngài, thông đạt thấu hiểu pháp nghĩa thâm sâu vi diệu. Do đó, Bồ Tát có trí huệ không thối chuyển, và pháp tánh bình đẳng của các Ðức Phật. Mục đích của Bồ Tát phát tâm bồ đề là vì cầu được minh bạch nhất thiết trí huệ. Ðối với sự giải thoát thân tâm, đắc được diệu pháp nhậm vận tự tại, sinh ra tâm tin ưa thích thâm sâu. Ðối với thần thông diệu dụng, trí huệ nhậm vận tự như, cũng hy vọng chứng đắc được. Siêng tu tất cả công đức thanh tịnh, an trụ trong trí huệ kiên cố rộng lớn vô biên, khắp tu tập các căn lành bình đẳng rộng lớn. Tu hành pháp môn và nguyện lớn của các Ðức Phật nói, thì tự nhiên sẽ đạt được công hạnh viên mãn, sẽ khai đại ngộ, chiếu rõ thật tướng của các pháp, đắc được đại trí huệ, thấu rõ không chỗ đắc: An trụ nơi tâm bồ đề, dũng mãnh tinh tấn, vĩnh viễn không sinh tâm thối chuyển. Tu tập hạnh môn và nguyện lớn của các đại Bồ Tát tu, hy vọng đắc được nhất thiết chủng trí giống như Ðức Phật, đều chân thật đắc được. Bồ Tát vì hoàn thành những nguyện vọng ở trên, cho nên Ngài phải tu hành bố thí lớn ít có khó làm được.

Bồ Tát đem căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều có thể nghiêm tịnh vô lượng cõi nước, dâng cúng cho các Ðức Phật làm chỗ ở. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường ưa ở nơi A Lan Nhã, vắng lặng không động. Nguyện cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn không nương ở nơi kinh đô tụ lạc, tâm ưa thích vắng lặng, vĩnh viễn được rốt ráo. Nguyện cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn không ưa chấp tất cả thế gian, nơi lời lẽ thế gian, thường ưa xa lìa. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lìa tâm tham, bố thí hết thảy, trong tâm chẳng hối tiếc. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm xuất ly, xả bỏ các gia nghiệp. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm không bỏn xẻn, thường hành bố thí. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm không chấp, lìa pháp tại gia. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lìa các khổ, trừ diệt tất cả tai nạn sợ hãi. Nguyện cho tất cả chúng sinh nghiêm tịnh mười phương tất cả thế giới, bố thí cho các Ðức Phật. 
Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí kinh đô. Vì khiến cho chúng sinh đều được nghiêm tịnh các cõi nước Phật.

Bồ Tát đem căn lành tu tập bố thí kinh đô thành lớn, hồi hướng cho chúng sinh như sau: Như lời Ngài nói, tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có thể dùng công đức của Ngài tu, trang nghiêm vô lượng vô biên cõi nước nhiều như số hạt bụi, đem những cõi nước thanh tịnh đó, dâng cúng cho các Ðức Phật, để làm đạo tràng hoằng pháp lợi sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ưa xa lìa thành thị, ở nơi rừng núi thanh tĩnh, vắng lặng tu tập phạm hạnh, chẳng tuỳ tiện đi du hành khắp nơi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đừng ở nơi đô thành của vua và trong khu trung tâm thành phố, hoặc là trị trấn lớn đông đúc dân cư. Vì những nơi phồn hoa đó, là nơi ô uế tạo nghiệp, dễ khiến cho người đoạ lạc, cho nên Bồ Tát không muốn cho chúng sinh dính nhiễm nghiệp ác, mà muốn chúng sinh hiểu được tâm ưa thích sự vắng lặng, có thể đắc được trí huệ thanh tịnh rốt ráo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn không chấp trước vào tất cả hư huyễn danh văn lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, vợ con tiền tài, hưởng thụ vô thường của thế gian. Ðối với những lời lẽ a dua xiểm nịnh của thế gian, phải xa lìa đừng nghe, đừng thấy, vì những lời lẽ ngon ngọt dễ nghe đó, đều dẫn dụ con người đi hướng về con đường ác. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tâm biết đủ thường an vui, chẳng có tham dục. Không tham cầu, thì càng ưa thích bố thí, đem hết thảy bố thí cho người, mà chẳng sinh tâm hối tiếc. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tâm thoát khỏi nhà thế tục, có thể xả bỏ vợ con tài sản danh lợi, phá tan gông cùm chướng ngại vô hình. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tâm không tham xẻn, thường bố thí cho chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tâm không chấp trước, đối với câu: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” của thế gian hay nói, không coi là quá nghiêm trọng, vì nó làm chướng ngại chí nguyện xuất gia vô thượng. Và còn có thể dùng thân tâm thanh tịnh, hướng đạo dũng cảm lìa khỏi truyền thống nối dõi tông đường của pháp thế tục gia đình. Tục ngữ có nói: “Nhất tử thành Phật, cửu tộc thăng thiên”, thậm chí gà chó ở trong nhà cũng đều theo sinh về trời, đó chẳng hơn là hiếu đạo nối dõi tông đường chăng ? Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thoát khỏi tất cả thống khổ, trừ diệt hết mọi tai nạn hoạ hoạn sợ hãi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có thể cúng dường đồ trang nghiêm tốt đẹp, nghiêm tịnh tất cả thế giới trong mười phương, dâng cúng cho các Ðức Phật trong mười phương. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí kinh đô. Vì muốn khiến cho chúng sinh đều hoàn thành trang nghiêm thanh tịnh cõi nước của các Ðức Phật.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát đem hết thảy tất cả quyến thuộc trong cung, các thiếu nữ hầu hạ đều xinh đẹp đoan chánh, tài năng đầy đủ, cười nói ca múa, thảy đều khéo léo. Các thứ y phục, các thứ hương hoa, dùng để nghiêm thân, ai thấy cũng đều hoan hỉ, tình không nhàm đủ, nữ báu như vậy trăm ngàn vạn ức Na do tha số, đều do nghiệp thiện của Bồ Tát sinh ra, tuỳ ý tự tại, kính thuận không lỗi lầm, thảy đều đem bố thí hết cho những người đến xin, mà tâm không lưu luyến, tâm không đam mê, tâm không ràng buộc, tâm không chấp lấy, tâm không tham nhiễm, tâm không phân biệt, tâm không đuổi theo, tâm không thủ tướng, tâm không dục lạc.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát bố thí kinh đô ngôi vua rồi, hiện tại Ngài lại bố thí hết thảy quyến thuộc ở trong cung gồm hoàng hậu, phi tần, thái tử, công chúa và những tì nữ ca múa kỹ nhạc. Những người nữ đó, dung mạo đều xinh đẹp đoan chánh hơn người, tài năng đều đầy đủ, nói cười phong nhã, ca múa tuyệt luân. Quần áo y phục rất đẹp, hoa quý hương thơm dùng trang nghiêm thân, khiến cho ai thấy được cũng đều sinh tâm hoan hỉ, không khi nào nhìn chán.

Nữ báu như vậy có nhiều hàng trăm ngàn vạn ức Na do tha, đều do phước báu nghiệp thiện của Bồ Tát, tích luỹ nhiều đời nhiều kiếp sinh ra. Họ cũng rất an tường tự tại, sống rất tự do, đối với người lớn họ rất kính trọng thuận theo, chưa từng phạm chút lỗi lầm nào. Bồ Tát đem hết những người nữ đó, bố thí cho những người đến xin. Khi Bồ Tát quyết tâm bố thí cho người, thì tâm không lưu luyến mà xả bỏ không được, tâm không đam mê, tâm không bị ràng buộc, tâm không chấp trước buông xả không đặng, tâm không tham dục nhiễm ô, tâm chẳng phân biệt thương ghét, tâm chẳng đuổi theo, tâm chẳng chấp lấy tướng, tâm không dục lạc.

Bấy giờ, Bồ Tát quán các căn lành. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều được thoát khỏi mà hồi hướng. Được vui trong Phật pháp mà hồi hướng. Nơi không kiên cố được kiên cố mà hồi hướng. Được trí kim cang tâm không thể hoại mà hồi hướng. Vào đạo tràng Phật mà hồi hướng. Đến được bờ bên kia mà hồi hướng. Được tâm vô thượng bồ đề mà hồi hướng. Hay dùng trí huệ thấu đạt các pháp mà hồi hướng. Sinh ra tất cả căn lành mà hồi hướng. Vào nhà các Ðức Phật ba đời mà hồi hướng.

Ðại Bồ Tát tu bố thí, lúc đó Ngài tư duy kỹ càng, quán sát tất cả căn lành, khảo lự vì chúng sinh mà hồi hướng, do đó trong tâm Ngài lập ra mười mục tiêu vì chúng sinh hồi hướng:

1. Hy vọng tất cả chúng sinh đều được thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử.
2. Hy vọng tất cả chúng sinh đều được niềm vui tràn đầy trong Phật pháp.
3. Hy vọng tất cả chúng sinh minh bạch đạo lý việc đời vô thường hư huyễn không có chủ. Trong quá trình sinh tử vô thường không kiên cố, tu học Phật pháp, được pháp tánh thân kiên cố vĩnh hằng.
4. Hy vọng tất cả chúng sinh được trí huệ kim cang Bát Nhã thù thắng, và tâm không thể bị phá hoại.
5. Hy vọng tất cả chúng sinh đều được nghe pháp ở trong đạo tràng của Phật.
6. Hy vọng tất cả chúng sinh đều được lên bờ Niết Bàn bên kia.
7. Hy vọng tất cả chúng sinh được tâm vô thượng bồ đề giác đạo.
8. Hy vọng tất cả chúng sinh dùng trí huệ kim cang, thấu đạt thật tướng lý thể của các pháp.
9. Hy vọng tất cả chúng sinh siêng tu các pháp môn Bồ Tát đạo, nhờ đó mà sinh ra tất cả căn lành.
10. Hy vọng tất cả chúng sinh tu hành viên mãn, đầy đủ các công đức, được sinh vào dòng dõi của các Ðức Phật ba đời. Vào giống tánh Phật, được thành quả Phật. Bồ Tát căn cứ mười điều nầy, mà vì chúng sinh hồi hướng.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát trụ nơi pháp như vậy, được sinh vào nhà Như Lai. Tăng trưởng nhân thù thắng thanh tịnh của các Ðức Phật. Sinh ra nhất thiết trí đạo tối thắng. Vào sâu trí nghiệp rộng lớn của Bồ Tát. Diệt trừ tất cả phiền não trần cấu của thế gian. Thường cúng dường bố thí công đức ruộng phước. Vì các chúng sinh tuyên nói diệu pháp, khéo léo an lập, khiến cho họ tu tập các hạnh thanh tịnh, thường siêng nhiếp lấy tất cả căn lành.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, thân tâm của Ngài luôn luôn đều huân đúc ở trong Phật pháp đại thừa vô thượng, cho nên Ngài thành tựu giống Phật, sinh vào trong dòng dõi của Phật. Mắt thấy phước đước thù thắng vi diệu của Phật, tăng trưởng nhân tố tối thắng nghiệp thiện thanh tịnh của Bồ Tát, mà sinh ra đạo chủng chủng trí huệ tối thù thắng, vào sâu trí huệ rộng lớn của Bồ Tát, nương trí hành tất cả nghiệp thiện. Diệt trừ vô lượng trần cấu và phiền não của thế gian. Biết phải thường thường cúng dường Tam Bảo, khắp hành bố thí, cứu tế chúng sinh cô nhi nghèo khổ, tu công đức lành, trở thành ruộng phước cho chúng sinh gieo trồng. Lại vì chúng sinh diễn nói diệu pháp của các Ðức Phật nói, dung pháp môn phương tiện khéo léo an ủi tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều có thể học tập tu trì hạnh môn thanh tịnh. Thường hộ niệm chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, siêng tu nghiệp thiện, nhiếp lấy tất cả căn lành.

Bấy giờ, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh thường được vô lượng tam muội quyến thuộc. Bồ Tát thắng định tương tục không dứt. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường ưa thấy Phật, đều vào trang nghiêm tam muội của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu định lực không nghĩ bàn của Bồ Tát, tự tại du hí vô lượng thần thông. Nguyện cho tất cả chúng sinh vào định như thật, được tâm không hoại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tam muội thâm sâu của Bồ Tát, nơi các thiền định mà được tự tại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm giải thoát, thành tựu tất cả tam muội quyến thuộc. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở trong các thứ tam muội, đều được khéo léo, đều có thể nhiếp lấy các tướng tam muội. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thắng trí tam muội, khắp học tập các môn tam muội. Nguyện cho tất cả chúng sinh được vô ngại tam muội, vào sâu thiền định, trọn không thối chuyển mất. Nguyện cho tất cả chúng sinh được vô trước tam muội, tâm luôn chánh thọ chẳng thủ lấy hai pháp. 
Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí tất cả quyến thuộc trong nội cung.

Lúc đó, Bồ Tát đem căn lành của Ngài tu tập bố thí quyến thuộc trong cung, hồi hướng cho chúng sinh như sau: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh luôn luôn được rất nhiều quyến thuộc chánh định chánh thọ, tam muội thiền định tối thắng của Bồ Tát tu tập, vĩnh viễn không đoạn tuyệt. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, luôn luôn hoan hỉ thấy Phật, đồng thời cũng vào trong tam muội trang nghiêm của các Ðức Phật-trong chánh định. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu đại định vi diệu không thể nghĩ bàn của Bồ Tát, nhậm vận tự tại du hí mười phương cõi nước chư Phật, hiện vô lượng thần thông. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vào trong định chân như thật tướng, được tâm kim cang không thể hoại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, hoàn toàn đắc được chánh định thâm sâu của Bồ Tát, ở trong tứ thiền bát định mà được niềm vui thiền định tự tại, xuất định nhật định không cần tác ý. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được tâm giải thoát, không chấp trước, thành tựu các thứ tam muội, dùng tam muội-chánh định làm quyến thuộc. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ở trong vô lượng tam muội đều đắc được tam muội phương tiện khéo léo nhậm vận tự như, có thể dùng một tam muội diễn biến thành vô lượng tam muội, tất cả tam muội đều nhiếp lấy với nhau. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tam muội trí huệ thù thắng, học tập khắp tất cả tam muội, đều đạt được môn viên dung vô ngại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được chánh định viên dung vô ngại, vào trong thiền định thâm sâu, trọn không thối thất công năng thiền định đó. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được chẳng chấp về tam muội không, chẳng chấp về tam muội có, tâm thường ở trong chánh định chánh thọ, chẳng thủ trước pháp môn khác. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí quến thuộc trong nội cung.

Bồ Tát vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều được quyến thuộc thanh tịnh không hoại. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều được quyến thuộc Bồ Tát. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều được đầy đủ Phật pháp. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh đầy đủ nhất thiết trí lực. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh chứng được trí huệ vô thượng. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh được quyến thuộc tuỳ thuận. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh được người tu hành cùng chí hướng ở chung với nhau. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh đầy đủ tất cả phước trí. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu căn lành thanh tịnh. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh được quyến thuộc lương thiện. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu biện tài thứ lớp như lý, khéo nói vô tận pháp tạng của chư Phật. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn xả bỏ tất cả căn lành thế tục, đồng tu căn lành thanh tịnh xuất thế. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh tịnh nghiệp viên mãn, thành tựu tất cả pháp thanh tịnh. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh tất cả Phật pháp thảy đều hiện tiền, dùng pháp quang minh khắp nghiêm tịnh.

Tại sao Bồ Tát đem công đức căn lành của Ngài bố thí quyến thuộc trong nội cung, hồi hướng cho chúng sinh ? Thứ nhất là Ngài chẳng vì tham đồ hư danh của thế gian. Thứ hai là chẳng tham đồ người khác cúng dường. Ngài một lòng hy vọng tất cả chúng sinh, đều có thể đắc được bạn lành và quyến thuộc thanh tịnh kim cang bất hoại. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được quyến thuộc của họ làm Bồ Tát bất thoái. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều minh bạch pháp của chư Phật nói, đầy đủ sự cầu pháp của họ. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thiết thực tu hành pháp môn của chư Phật nói, mà thành tựu đủ thứ trí huệ thần thông lực. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, chứng được trí huệ vô thượng thù thắng, trên thế gian chẳng có gì hơn được thứ trí huệ Ba La Mật nầy. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều được quyến thuộc rất hoà mục, cung kính thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau, đó đây đều tuỳ thuận khiêm nhường. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, tuỳ nơi đều có thể gặp được bạn đạo chí đồng đạo hợp, cùng tu với nhau, quyết không gặp cảnh khổ ghét mà gặp nhau. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ tất cả phước đức và trí huệ, thành tựu bậc Thánh nhân đầy đủ phước huệ. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều thành tựu đủ thứ căn lành thanh tịnh. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều được quyến thuộc thiện lương. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu pháp thân thanh tịnh giống như Phật, sung mãn hư không pháp giới, đồng thể với Phật. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu biện tài chân thật, được trí huệ bốn biện tài vô ngại. Khéo diễn nói đại bảo pháp tạng vô cùng vô tận của chư Phật mười phương ba đời nói, có thứ lớp ví dụ giải nói, hùng biện hợp lý, khiến cho người nghe được pháp hỉ thâm sâu. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, minh bạch chẳng trồng căn lành nhân duyên thế tục, vì căn lành thế tục là hữu lậu, chẳng rốt ráo, cho nên phải vĩnh viễn xả bỏ, phải tu căn lành vô lậu xuất thế, căn lành thanh tịnh hợp với chánh pháp. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được tám vạn bốn ngàn pháp môn của chư Phật nói hiện ra trước mắt-viên mãn thành tựu, dùng trí huệ quang minh của pháp khắp trang nghiêm mười phương cõi nước, khiến cho mười phương cõi nước đều trở thành cõi thanh tịnh yên vui. Vì các nhân duyên như thế, mà Bồ Tát đem căn lành của Ngài bố thí quyến thuộc trong cung, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, hy vọng chúng sinh thọ được sự lợi ích hồi hướng của Ngài, đầy đủ nguyện vọng của Ngài.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát có thể đem vợ con thương yêu của mình để bố thí. Như thuở xưa thái tử Tu Ðạt Noa. Bồ Tát Hiện Trang Nghiêm Vương, và vô lượng các Bồ Tát khác.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài có thể bố thí vợ con thương yêu của mình, khó xả bỏ mà xả bỏ được, mục đích chỉ vì cầu pháp, cho nên nói Bồ Tát vì pháp mà xả bỏ được, vì pháp quên mình. Bồ Tát có thể xả bỏ vợ con thương yêu của mình, như thuở xưa thái tử Tu Ðạt Noa, hiện tại như Bồ Tát Hiện Trang Nghiêm Vương, và còn có vô lượng các Bồ Tát khác, các Ngài chẳng phải chẳng thương yêu vợ con của các Ngài, mà bố thí cho người khác. Các Ngài đem những gì quý báu, thích nhất của mình bố thí cho người, đó mới gọi là khó xả bỏ mà xả bỏ được, khó làm mà làm được, cho nên mới được gọi là Bồ Tát.

Giảng về đoạn nầy có câu chuyện quan hệ về thái tử Tu Ðạt Noa xả bỏ vợ con để cầu pháp: Thái tử đã là vương tử quán đảnh, tức sẽ là người kế vị ngôi vua, nhưng Ngài rất mến mộ Phật pháp, lại ưa thích bố thí lớn. Người hướng về Ngài cầu xin bố thí chẳng biết là bao nhiêu, chẳng những Ngài đem tất cả vật chất và ngôi vua tương lai của Ngài ra bố thí cho người rồi, cuối cùng chỗ ở cũng bố thí luôn. Phụ vương của Ngài thấy tình hình như vậy, bèn cho Ngài chiếc xe bò cũ kỹ, kêu Ngài mang vợ con vào trong rừng sâu núi thẳm không người để ở. Lúc đó, trời Ðế Thích vì thấy Ngài tất cả đều xả bỏ được, dẫn vợ và con cạnh bên mình, bèn nghĩ cách thử tâm xả bỏ triệt để của Ngài như thế nào ? Do đó, bèn hoá làm một người Bà La Môn tướng mạo rất xấu xí, đến chỗ thái tử nói rằng:

– “Tôi từng nói rất nhiều diệu pháp, bất quá bây giờ tôi đói quá, nếu Ngài xả bỏ cúng vợ con của Ngài cho tôi ăn, thì tôi sẽ nói pháp cho Ngài nghe”.

Thái tử lập tức hứu khả, nhưng vợ của Ngài không nhẫn tâm đưa con mình cho người ăn, bèn khóc lóc.

– Thái tử nói: “Lúc nàng muốn lấy tôi, tôi đã nói e rằng nàng sẽ cản trở tâm cầu pháp của tôi, cho nên tôi không muốn cưới nàng. Về sau nàng đã phát nguyện không cản trở tôi, và còn nguyện trợ giúp cho tôi tu đạo. Lúc đó nàng đã từng nói bài kệ, chẳng lẽ nàng đã quên rồi sao ? Chẳng phải nàng đã nói:

“Vô lượng kiếp đầu đội
Núi kim cang rộng lớn
Nếu thương mà nạp nhận
Tôi cam chịu khổ nầy.
Vô lượng biển sinh tử
Ðem thịt thân tôi thí
Ngài được nơi Pháp Vương
Nguyện tôi cũng được thế.
Nếu thương nạp nhận tôi
Làm chủ thân của tôi
Ðời đời hành bố thí
Nguyện thường đem tôi thí”.

Thái tử nói xong cũng sinh tâm hoan hỉ, bèn dẫn con đưa cho Bà La Môn ăn. Sau đó Bà La Môn nói với thái tử rằng:

“Tất cả hành vô thường
Sinh ra đều có khổ
Năm ấm không vô tướng
Chẳng có ta của ta”.

Thái tử nghe rồi, rất hoan hỉ vô cùng, chẳng có gì hối tiếc, bèn biên chép bài kệ nầy lưu truyền cho đời sau nầy.

Lúc đó, trời Ðế Thích biết tâm cầu pháp của thái tử kiên cố như thế, rất thán phục, bèn vọt thân lên hư không, hiện ra thân phận của mình, rất cung kính nói với thái tử rằng:

– “Ngài chân thật là bậc tu hành, tương lai nhất định sẽ thành quả Phật”.

Nói xong ẩn thân chẳng còn thấy nữa. Lúc đó, thái tử phát hiện vợ con vẫn đang ở bên cạnh Ngài. Một người tu hành thường phải thọ sự khảo nghiệm của chư Thiên, Bồ Tát, hoặc Phật. Nhất là trong lúc nghịch cảnh, xem bạn có chân tâm thành ý tu hành chăng? Do đó, người tu hành nhất định phải có ý chí kiên cường, bằng không thì chẳng vượt qua đặng sự khảo nghiệm, thì sẽ đoạ lạc, hoặc sinh tâm thối chuyển.

Bấy giờ, Bồ Tát nương tâm cầu nhất thiết trí, tu tất cả sự bố thí. Tịnh tu bố thí của Bồ Tát đạo, tâm Ngài thanh tịnh, chẳng có sự hối tiếc, xả bỏ hết thảy sự trân quý của mình, để cầu nhất thiết trí, khiến cho các chúng sinh chí nguyện thanh tịnh thâm sâu, thành tựu hạnh bồ đề, quán Bồ Tát đạo, niệm Phật bồ đề, trụ nơi giống tánh Phật.

Lúc đó toàn tâm toàn ý của Bồ Tát ôm hoài bão chứng được nhất thiết trí huệ, tu hành các sự bố thí, chuyên tâm nhất chí tu hành pháp thanh tịnh của Bồ Tát tu, tâm của Ngài thanh tịnh, chưa từng sinh tâm hối tiếc, mà ngừng nghiệp thiện bố thí. Bồ Tát bố thí, chẳng phải Ngài đem vật chất dư thừa bố thí cho người, cũng chẳng phải đem những gì mình không thích bố thí cho người, càng chẳng phải đem những vật hư hoại bố thí cho người, mà là đem hết tất cả những vật trân quý nhất để bố thí cho người. Vì Ngài cầu đắc được nhất thiết trí. Tư tưởng của Ngài khác với tư tưởng của phàm phu là tại chỗ nầy. Sự truy cầu của phàm phu là vật chất có hình tướng vô thường không thật, sự cầu của Bồ Tát là chí cao vô thượng, trí huệ vĩnh hằng, và Phật pháp thâm sâu vi diệu. Bồ Tát cầu nhất thiết trí, chẳng chỉ vì lợi mình, Ngài hi vọng chúng sinh đắc được sự lợi ích hồi hướng của Ngài, đồng thời cũng sinh tâm thanh tịnh, tin sâu tất cả chánh pháp của chư Phật nói, lập chí lớn phát nguyện lớn, lấy pháp làm niềm vui, hoan hỉ hành bố thí. Siêng tu lục độ, thành tựu hạnh môn bồ đề giác đạo. Quán sát Bồ Tát tu Phật đạo đại thừa, thường thường nghĩ nhớ bồ đề giác đạo Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật tu chứng. An trụ trong giống tánh của Phật, vĩnh viễn không thối thất, được Phật gia bị.

Ðại Bồ Tát thành tựu tâm bố thí như vậy rồi, quyết định chí cầu thân của Như Lai. Tự quán thân mình hệ thuộc tất cả, chẳng được tự tại. Lại dùng thân của Ngài nhiếp khắp chúng sinh, giống như cõi châu báu, bố thí tất cả, ai chưa đầy đủ thì khiến cho họ được đầy đủ. Bồ Tát hộ niệm chúng sinh như thế, muốn khiến cho thân mình làm tháp bậc nhất, khắp khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỉ. Muốn nơi thế gian sinh tâm bình đẳng. Muốn vì chúng sinh làm hồ mát mẻ. Muốn ban cho chúng sinh tất cả sự an lạc. Muốn vì chúng sinh làm đại thí chủ. Trí huệ tự tại, biết rõ hạnh của Bồ Tát tu hành, mà có thể đại thệ trang nghiêm như thế. Hướng về nhất thiết trí, nguyện thành tựu ruộng phước trí huệ vô thượng. Khắp nhớ nghĩ chúng sinh, thường theo bảo hộ, mà có thể thành tựu thân mình lợi ích trí huệ quang minh, chiếu khắp thế gian. Thường siêng nghĩ nhớ tâm bố thí của Bồ Tát, luôn ưa thích quán sát cảnh giới của Như Lai.

Ðại Bồ Tát thành tựu tâm bố thí như đã nói ở trên rồi. Ngài quyết định lập chí trên cầu Phật đạo, muốn được pháp thân giống như Phật. Ngài lại quán sát thân thể của mình, trong vô hình bị rất nhiều trần lao ràng buộc, không thể đắc được tự tại. Ví như nóng lạnh đói khát, đều không thể tự chủ được, vì thích ứng sinh tồn nên phải thay đổi thân thể. Tuy nhiên cảm thấy sắc thân nầy hệ luỵ, nhưng không nhờ sắc thân nầy để tu chân, thì không thể nào thành tựu đạo nghiệp, cho nên phải nhiếp hoá khắp chúng sinh, vẫn còn phải dùng thân thể nầy. Ví dụ: Thân thể nầy giống như cõi châu báu, có các châu báu ẩn tàng thâm sâu, có thể sinh sản ra các thứ báu vật, đem những báu vật đó làm bố thí lớn, khiến cho những chúng sinh nghèo khổ, đều được đầy đủ nhu cầu của họ, khiến cho họ đều có đời sống an ổn vui vẻ. Bồ Tát thường hộ niệm chúng sinh như vậy, chẳng xả bỏ chúng sinh, do đó Ngài hi vọng mình trở thành tháp báu bậc nhất trong thế gian, khắp khiến cho tất cả chúng sinh, thấy được Ngài đều sinh tâm đại hoan hỉ. Lại cảm thấy mình đối với tất cả chúng sinh trong thế gian, phải đối đãi bình đẳng, không có tâm phân biệt thương ghét. Lại cảm thấy mình phải làm hồ mát mẻ cho tất cả chúng sinh, có thể tắm rửa tẩy trừ hết những bụi bặm và phiền não của họ. Lại hi vọng có thể ban cho chúng sinh tất cả sự an lạc. Lại nghĩ đến phải làm đại thí chủ của chúng sinh, khắp bố thí cho họ những đồ vật họ cần dùng, họ thích nhất, và pháp ích vô thượng.

Hết thảy trí huệ của Bồ Tát nhậm vận tự như, vì Ngài đã thấu triệt quán thông tất cả hạnh môn của Bồ Tát tu, đều đã viên dung vô ngại, mà còn phát thệ nguyện lớn, độ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ, dùng nguyện lớn đó trang nghiêm cõi Phật, trang nghiêm pháp thân của mình. Mục tiêu của Ngài là hướng về nhất thiết trí huệ thành Phật, muốn mình trở thành ruộng phước trí huệ vô thượng của chúng sinh. Khắp thương xót nghĩ đến tất cả chúng sinh, tuỳ thời tuỳ lúc hộ trì họ, chẳng khiến cho họ thọ tai nạn sợ hãi. Tuy nhiên Bồ Tát không lúc nào chẳng lợi ích chúng sinh mà khổ nhọc, nhưng Ngài chẳng bỏ sự tu trì của mình. Ngài làm việc lợi người lợi mình rồi, đại trí huệ quang minh của Ngài chiếu khắp mười phương thế giới. Ngài thường nghĩ nhớ không quên, là làm một vị đại Bồ Tát phải có tâm bố thí. Vì bố thí là đứng đầu trong lục độ Ba La Mật, Bồ Tát có thể viên mãn rốt ráo bố thí độ, thì năm độ kia nhất định cũng sẽ viên mãn đầy đủ. Khi nào Bồ Tát làm việc, đều lấy trí huệ làm đầu, chẳng giống như phàm phu chúng ta dùng ý làm việc. Dùng ý làm việc tức là tư tưởng ngu si, hành vi điên đảo. Do đó, Bồ Tát thường siêng nghĩ nhớ tâm bố thí, để đừng mất đi căn lành bố thí. Bồ Tát cũng thường hoan hỉ tĩnh toạ ngồi suy gẫm cảnh giới của chư Phật, quán tưởng cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ của chư Phật đang ở.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng tâm không ràng buộc không chấp trước bố thí vợ con. Căn lành tu tập được hồi hướng như vầy: 

Nguyện cho tất cả chúng sinh trụ nơi Phật bồ đề, khởi thân biến hoá, khắp cùng pháp giới, chuyển bánh xe pháp bất thoái. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân vô trước, nguyện lực đi khắp tất cả cõi Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh xả bỏ tâm thương ghét, dứt sạch kết tập tham sân. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm đệ tử Phật, theo Phật tu hành. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở chỗ chư Phật, sinh tâm như chính nhà mình, không thể trở hoại. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường làm con Phật, từ pháp hoá sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được nơi rốt ráo, thành tựu trí huệ tự tại của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh chứng Phật bồ đề, vĩnh viễn lìa phiền não. Nguyện cho tất cả chúng sinh diễn nói đầy đủ đạo Phật bồ đề, thường thích tu hành pháp thí vô thượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm chánh định, chẳng bị tất cả các duyên phá hoại. Nguyện cho tất cả chúng sinh ngồi cội bồ đề, thành tối Chánh Giác, khai thị vô lượng các thiện nam nữ từ pháp hoá sinh. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí vợ con. Vì muốn khiến cho chúng sinh đều chứng được trí huệ vô trước giải thoát vô ngại.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài dùng tâm chẳng ràng buộc, chẳng chấp trước, tâm giải thoát chân chánh buông xả tự tại, bố thí vợ và con của Ngài cho người xin, căn lành tu tập được vì chúng sinh mà hồi hướng như vầy: Ngài nói, tôi nguyện cho tất cả chúng sinh an trụ nơi bồ đề giác đạo của Phật, đắc được ý sinh thân ngàn biến vạn hoá, du hành khắp mười phương thế giới, chuyển bánh xe pháp bất thoái, hoằng dương chánh pháp, giáo hoá chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân trí huệ vô trước, ôm hoài bảo đại nguyện lực đã phát ra, đến mười phương cõi nước chư Phật gần gũi chư Phật, cúng dường lễ bái chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh xả bỏ tâm tình ái và thương ghét quá khứ, vì ái dục là chủ nhân khiến cho chúng sinh trầm luân trong dòng sinh tử vô lượng kiếp, thương ghét che lấp tâm trí vốn có, ràng buộc con người đi vào đường ác, điên đảo thị phi tạo nghiệp ác. Nếu như xả bỏ được hai thứ tâm nầy, thì có thể dứt trừ được kết tập tham luyến, thoát khỏi biển khổ, nhập vào dòng pháp tánh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều quy y Phật, làm đệ tử của Phật, theo chư Phật tu hành, học phương pháp của Phật tu hành, học hạnh của Phật, học từ bi của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh ở tại đạo tràng của Phật, giống như ở nhà mình, giống như nương ở nhà của cha mẹ mình, trong tâm chẳng có trở ngại, cũng chẳng bị dị luận ngoại đạo làm giao cảm. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường làm trưởng tử của chư Phật, như tùng Phật khẩu sinh, tùng pháp hoá sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được nơi quy y chân thật, thành tựu trí huệ tự tại giống như Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tu bồ đề giác đạo Phật quả, giống như chư Phật đã chứng được, vĩnh viễn xa lìa vô minh phiền não. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ bốn biện tài vô ngại, diễn nói bồ đề giác đạo của Phật nói, thường thường ưa thích tu hành pháp môn bố thí vô thượng.

Trong pháp môn bố thí, thì bố thí pháp là trên hết, bố thí tài là giúp đỡ người cải thiện đời sống, bố thí pháp là tiếp nối huệ mạng, cho nên bố thí pháp là trên hết. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm chánh định, đối với bất cứ việc gì, cũng đều có sự nhận thức chánh quyết, có tông chỉ nhất định không thay đổi. Bồ Tát hy vọng chúng sinh có tâm chánh định, thì sẽ không bị những duyên bên ngoài phá hoại sự thành tựu chánh đáng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi dưới cội bồ đề thành Chánh Ðẳng Chánh Giác, chứng được quả vị Phật, sau đó chuyển bánh xe pháp, khai thị vô lượng chánh pháp, giáo hoá chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh thọ được sự lợi ích của chánh pháp, đều trở thành người hoàn mỹ nhất, tài đức kiêm toàn. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí vợ con. Vì muốn khiến cho mỗi chúng sinh, đều có thể chứng được đại trí huệ chẳng có chướng ngại, chân chánh giải thoát.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát trang nghiêm nhà cửa phòng xá và các đồ tư sanh. Tuỳ theo người cầu xin, tất cả đều bố thí cho hết. Thực hành bố thí pháp, chẳng chấp trước về nhà cửa, xa lìa tất cả quan niệm nhà ở, nhàm chán gia nghiệp, đồ tư sanh, chẳng tham, không thích, không bị tâm ràng buộc. Biết nhà dễ hư hoại, tâm luôn nhàm lìa, đều chẳng có sự ưa thích. Song, muốn xuất gia tu hạnh Bồ Tát, dùng các Phật pháp mà tự trang nghiêm chính mình, tất cả đều xả bỏ, trong tâm chẳng hối tiếc. Thường được chư Phật khen ngợi. Nhà cửa tài vật, tùy theo chỗ có, đều bố thí cho hết, thấy người đến xin, sinh tâm vui mừng.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài sửa sang nhà cửa cho thật đẹp, cùng với đủ thứ vật cần dùng. Nếu có người đến cầu xin, thì Bồ Tát chẳng do dự lập tức đem bố thí tặng cho họ. Bồ Tát tu pháp môn bố thí, đối với tất cả gia đình, Ngài chẳng có tâm chấp trước, trong tâm của Ngài sớm đã lìa quan niệm gia tộc. Ngài minh bạch nhà vốn là không, do nhân duyên hoà hợp mà thành, duyên hết thì sẽ phân tán, có gì mà chấp trước ! Ngài vốn nhàm chán hết thảy động sản và bất động sản trong nhà, cùng với những đồ vật tư sanh. Trong đời sống hằng ngày, Ngài chẳng tham hưởng thụ quần áo đẹp thức ăn ngon năm dục, cho nên tâm của Ngài chẳng bị những vật chất đó ràng buộc. Ngài biết nhà cuối cùng cũng sẽ tan hoại, chẳng tồn tại vĩnh viễn, cho nên tâm của Ngài đối với quan niệm gia đình rất là đạm bạc, luôn luôn đều muốn xả bỏ nhà thế tục, xuất gia tu đạo, cầu thoát khỏi nhà ba cõi. Bồ Tát nhìn xuyên thủng tất cả, buông xả tất cả, vì không bị gia đình bức bách, cho nên Bồ Tát chỉ cầu thoát khỏi nhà thế tục, tu học theo hạnh Bồ Tát. Dùng tám vạn bốn ngàn pháp môn của chư Phật nói tu tập, mà chứng được đạo quả bồ đề, để trang nghiêm thân mình. Xả bỏ hết vật chất bên ngoài thân, chẳng sinh tâm hối tiếc. Tác phong như thế của Bồ Tát, luôn luôn được mười phương chư Phật tán thán khen ngợi: Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Ông thật tinh tấn, phát tâm đại bồ đề như thế, làm việc mà người khác không làm được, xả bỏ nhà cửa vật chất mà người khác không thể xả bỏ được, tất cả hết thảy, đều bố thí cho người khác, mà chẳng hối tiếc, chẳng lưu luyến, chẳng chấp trước, thật là đáng quý. Bồ Tát thấy thấy có người đến cầu xin, trong tâm rất hoan hỉ vô cùng, vui mừng có cơ hội thực hành đại bố thí.

Bấy giờ, Bồ Tát đem căn lành hồi hướng như vầy: 

Nguyện cho tất cả chúng sinh xả lìa vợ con, thành tựu niềm vui xuất gia bậc nhất. Nguyện cho tất cả chúng sinh giải thoát khỏi nhà ràng buộc, vào nhà giải thoát, ở trong các Phật pháp tu hành phạm hạnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh xả lìa bỏn xẻn, ưa thích bố thí tất cả, tâm chẳng thối chuyển. Nguyện cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn lìa nghiệp nhà, ít dục biết đủ, không cất giấu của cải. Nguyện cho tất cả chúng sinh thoát khỏi nhà thế tục, trụ nhà Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh được pháp vô ngại, diệt trừ tất cả sự chướng ngại. Nguyện cho tất cả chúng sinh lìa sự luyến ái quyến thuộc gia đình, tuy hiện ở nhà mà tâm chẳng chấp trước. Nguyện cho tất cả chúng sinh khéo hoá dụ, không lìa nghiệp nhà, mà nói trí huệ của Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh thân hiện tại gia, tâm thường tuỳ thuận Phật trí mà trụ. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở tại gia, mà trụ nơi nhà Phật, khắp khiến cho vô lượng vô viên chúng sinh phát tâm hoan hỉ. 

Ðó là hối hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí nhà cửa. Vì muốn khiến cho chúng sinh thành tựu đủ thứ hạnh nguyện thần thông trí huệ của Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát tu hạnh bố thí, lúc đó lại đem căn lành tu tập bố thí nhà cửa, vì chúng sinh mà hồi hướng như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh quyết tâm xả lìa tự cầu giải thoát, đi tu học phạm hạnh Bồ Tát đạo, thành tựu tự tại an lạc của sự xuất gia. Xuất gia là việc không dễ dàng, chẳng phải cạo đầu xong, mặc y cà sa vào, nói mấy câu đạo lý nghe hay lỗ tai, ngồi đó nhắm mắt tham thiền. Ðó chỉ là người xuất gia mặc y Phật, ăn cơm Phật, biểu diễn mà thôi. Nếu có thể lời nói hành động hợp nhất, từ bi bình đẳng đãi người tiếp vật, trước người sau người chẳng trái với chánh đạo, thì đó mới là bổn phận của một người xuất. Người xuất gia có ba loại:

1. Thân xuất gia tâm không xuất gia.
2. Tâm xuất gia thân chưa xuất gia.
3. Thân tâm đều đã xuất gia.

Nhà xuất gia có ba trình độ khác nhau, xem người công phu tu trì mà định.

1. Xuất thế tục gia (ra khỏi nhà thế tục): Ðây tứ là bốn chúng đệ tử-Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Da Di Ni.
2. Xuất phiền não gia (ra khỏi nhà phiền não): Xuất gia rồi mỗi người tự tu trì tiến tới, chỉ có mình biết, bất quá nói năng hành động của người này, người khác cũng có thể nhìn thấy được. Tập khí mao bệnh của một người xuất gia, ngày càng giảm bớt, thì biểu hiện tham sân si, ngày càng tiêu diệt, cổ đức có nói:

“Vô minh phần phần phá
Pháp thân phần phần chứng”.

Nghĩa là phá từng phần từng phần vô minh, chứng từng phần từng phần pháp thân. Vị xuất gia đó, đang nỗ lực thoát khỏi nhà vô minh phiền não, hướng đi tới đại đạo bồ đề.

3. Xuất tam giới gia (ra khỏi nhà ba cõi): Ðây tức là người đã xuất gia mà vẫn còn chìm đắm trong tại gia, khai thị tổ hợp gia tộc, đều do nhân duyên thành tựu, không cần quá chấp trước. Họ dẫn dụng nhân sinh đạo lý đại trí huệ của Phật nói, chỉ dẫn những kẻ mê lầm, khiến cho họ không lìa nhà thế tục, mà cũng tín ngưỡng Phật pháp, tu học Phật pháp, minh bạch Phật pháp, không bị nhà thế tục trói buộc.

Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tuy nhiên hiện thân ở trong nhà thế tục, mà tâm tuỳ thuận trí huệ của chư Phật, tu hành biện đạo an trụ chẳng động. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tuy nhiên hiện tại chẳng có xuất gia, vẫn là cư sĩ tại gia, nhưng tâm nguyện của họ đã trụ nơi địa vị của Phật, có thế khắp khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh, phát sinh tâm hoan hỉ. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí nhà cửa. Vì muốn khiến cho chúng sinh thành tựu đủ thứ đại nguyện và pháp môn tu hành như Bồ Tát, và thần thông trí huệ nhậm vận tự tại.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát bố thí đủ thứ vườn rừng đình đài, nơi trang nghiêm du hí khoái lạc, bèn nghĩ như vầy: Tôi sẽ vì tất cả chúng sinh làm vườn rừng tốt. Tôi sẽ vì tất cả chúng sinh thị hiện pháp vui. Tôi sẽ bố thí cho tất cả chúng sinh ý hoan hỉ. Tôi sẽ bày cho tất cả chúng sinh vô biên sự vui mừng. Tôi sẽ bố thí cho tất cả chúng sinh pháp môn khai tịnh. Tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm hoan hỉ. Tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh được Phật bồ đề. Tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu viên mãn nguyện lớn. Tôi sẽ ở nơi chúng sinh giống như cha mẹ. Tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh được trí huệ quán sát. Tôi sẽ bố thí cho tất cả chúng sinh đồ vật tư sanh. Tôi sẽ ở nơi tất cả chúng sinh giống như cha lành, sinh trưởng tất cả căn lành nguyện lớn.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, lại nguyện cho tất cả chúng sinh, giải thoát khỏi sự ràng buộc gia đình, nhập vào gia đình của chư Phật, tu học pháp môn của chư Phật nói, siêng tu phạm hạnh thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh trừ khử sạch tâm tham sân si, chuyển biến thành tâm hỉ xả hoan hỉ bố thí, ưa thí xả hết thảy vật chất, vĩnh viễn chẳng sinh tâm thối chuyển. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi quan niệm gia đình thế tục, thăng quan phát tài, dương danh hiển thân, truyền tông tiếp đại .v.v…càng không muốn tham đồ bất nghĩa, cất giấu châu báu, những việc đó đều là gốc mầm tạo nghiệp mang hoạ. Cổ nhân có nói:

“Ða tàng tất hậu vong”.

Lại nói:

“Thân biên vô ái vật
Tự vô phiền não sinh”.

Nghĩa là mình chẳng có vật thương tiếc, thì chẳng có phiền não gì sinh ra. Cổ nhân nói không sai chút nào, chung quanh mình thương tiếc vật gì nhiều, thì phiền não ràng buộc không ngừng, đó cũng là thương tiếc vật gì, thì cũng xả bỏ không được, chết đi chẳng nhắm mắt đặng, cuối cùng vẫn là hai bàn tay trắng ra đi.

Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, sớm thoát khỏi phiền não ràng buộc của nhà thế tục, để học Phật pháp, tu học hạnh thanh tịnh, tương lai trụ ở trong nhà của Phật, ở với Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được pháp rốt ráo viên dung vô ngại, diệt trừ sạch tất cả pháp ô nhiễm chướng ngại người khác, thanh tịnh tự tại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, lìa khỏi tình ái trong gia đình, tuy nhiên hiện là thân phận tại gia, nhưng trong tâm chẳng chấp trước luyến ái về gia đình. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, khéo làm vườn hoa lớn nhỏ, rừng cây danh quý, thiết kế lầu các tinh xảo mỹ lệ, đình đài, nhà ca hát, nhảy múa, nơi nơi đều trang trí rất là đẹp đẽ, trần thiết cũng trang nghiêm, thật là tận thiện tận mỹ, khiến cho mọi người vui chơi mà quên về. Bồ Tát bố thí những nơi cao cấp như vậy cho chúng sinh, Ngài vẫn cảm thấy chưa đủ, do đó, trong tâm Ngài nghĩ: Bản thân tôi phải làm một vườn rừng đẹp cho chúng sinh, để cho chúng sinh học từ hành vi của tôi mà được hoàn thành nhân cách kiện toàn. Tôi phải vì chúng sinh dùng thân làm khuông phép, thị hiện đời người chánh quyết bát chánh đạo, khiến cho chúng sinh biết lấy pháp làm vui, mới là chân chánh an lạc. Tôi phải tuỳ thời bố thí cho tất cả chúng sinh tâm ý hoan hỉ. Tôi phải chỉ dẫn chúng sinh, như thế nào để truy cầu vô biên vô tận hoan hỉ an lạc. Tôi phải đối với tất cả chúng sinh khai thị diễn nói đủ thứ pháp môn thanh tịnh. Tôi phải khiến cho tất cả chúng sinh, tuỳ thời đều tự tại phát sinh tâm hoan hỉ. Tôi phải khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được quả bồ đề giác đạo của Phật. Tôi phải khiến cho tất cả chúng sinh, đều có thể viên mãn thành tựu nguyện lớn của họ đã phát. Tôi phải đối với tất cả chúng sinh như là người cha từ ái của họ. Tôi phải giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều khai mở đại trí huệ, dùng mắt trí huệ để quán sát tất cả nhân duyên thiện ác thị phi, tuần hoàn nghiệp báo trên thế gian. Tôi phải bố thí cho tất cả chúng sinh vật chất nuôi dưỡng sinh mạng, dưỡng lớn Phật pháp huệ mạng. Tôi phải đối với tất cả chúng sinh, giống như mẹ hiền của họ, bồi dưỡng họ sinh trưởng các thứ căn lành, hướng dẫn họ phát tâm nguyện lớn, gieo trồng hạt giống bồ đề.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát tu hành các căn lành như vậy, nơi chúng sinh ác, chẳng sinh tâm mỏi nhàm, cũng chẳng lầm khởi tâm xả bỏ. Giả sử thế gian đầy tất cả chúng sinh không biết ơn, Bồ Tát ở chỗ họ ban đầu chẳng sinh tâm hiềm hận, chẳng sinh một tâm niệm cầu báo đáp, chỉ muốn diệt vô lượng khổ não của họ. Nơi các thế gian tâm như hư không, chẳng có sự nhiễm trước, khắp quán tướng chân thật của các pháp. Phát thệ nguyện lớn, diệt trừ khổ của chúng sinh. Vĩnh viễn chẳng nhàm bỏ chí nguyện đại thừa, diệt trừ tất cả những cái thấy, tu các hạnh nguyện bình đẳng của Bồ Tát.

Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát, giống như Kinh văn ở trước đã nói, tu hành đủ thứ căn lành, đối với những chúng sinh ác bất thiện, Ngài chẳng sinh tâm nhàm chán, cũng không thể gặp mà khởi tâm bỏ họ. Giả sử trên thế gian đầy dẫy tất cả những chúng sinh không biết ơn báo đức, đối với thiện tri thức vong ơn bội nghĩa, Bồ Tát đối với loại người nầy, từ đầu đến cuối cũng chẳng hiềm khích họ, chẳng sân sận họ, tuyệt đối chẳng sinh một tâm niệm đáp lại, nhận rằng mình bố thí cho các bạn rất nhiều đồ vật, đối đãi các bạn có ơn, thì các bạn sẽ báo đáp tôi, làm nô lệ cho tôi. Bồ Tát chẳng có những tư tưởng như thế, chỉ nguyện có thể thay thế chúng sinh diệt trừ vô lượng đau khổ phiền não. Ðối với tất cả vinh hoa phú quý trên thế gian, hưởng thụ năm dục, Ngài đều thấy như là mây trôi. Tâm của Ngài giống như hư không, có thể dung chứa vạn vật, chẳng sinh chẳng diệt, không tăng không giảm, không dơ không sạch, chẳng nhiễm một chút nào, chẳng chấp trước bất cứ những gì, tự tại vô hạn. Khắp quán sát thật tướng của các pháp, minh bạch tướng chân thật tức là vô tướng, vô tướng mới là thật tướng. Có tướng thì có sinh diệt, vô tướng thì chẳng có sinh diệt. Cho nên Bồ Tát đã giác ngộ đạo lý nầy, bèn phát thệ nguyện lớn cứu chúng sinh thoát khỏi cảnh mê có tướng, diệt trừ đau khổ truy cầu, chấp trước, có tướng của chúng sinh. Ngài vĩnh viễn chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh, vĩnh viễn cũng chẳng xả lìa chí nguyện Bồ Tát đại thừa cứu chúng sinh. Ngài đã diệt trừ kiến hoặc tà tri tà kiến, tư hoặc, vô minh hoặc. Ðầy đủ chánh tri chánh kiến, tu hành hạnh lớn nguyện lớn bình đẳng vô tư của các vị đại Bồ Tát, giáo hoá tất cả chúng sinh.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát quán sát như vậy rồi, nhiếp các căn lành đều đem hồi hướng: 

Nguyện cho tất cả chúng sinh niệm niệm sinh ra vô lượng pháp lành, thành tựu tâm vườn rừng vô thượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được pháp chẳng động, thấy tất cả chư Phật đều hoan hỉ. Nguyện cho tất cả chúng sinh, ưa thích pháp vườn tược, được niềm vui vườn tược của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tâm tịnh diệu, thường thấy vườn rừng thần thông của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được niềm vui du hí của Phật, thường khéo du hí cảnh giới trí huệ. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được niềm vui du hí, đến khắp đạo tràng chúng hội cõi nước của chư Phật.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, giống như ở trước đã nói, quán sát căn tánh ưu liệt của chúng sinh thế gian rồi, Bồ Tát thương xót chúng sinh ngu si, nghĩ muốn cứu chúng sinh thoát khỏi biển khổ, do đó, Ngài nhiếp lấy các thứ căn lành của mình tu tập, đều hồi hướng cho chúng sinh. Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, ở trong niệm niệm, đều từ từ sinh ra vô lượng pháp lành, thành tựu tâm tốt đẹp giống như vườn rừng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được pháp tam muội chánh định chẳng động, ở trong định thấy được các đức Phật, mỗi vị Phật đối với Bồ Tát đều sinh tâm hoan hỉ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, hoan hỉ như pháp vườn hoa và vườn động thực chim thú quây quần, người với chim thú sống hoà bình với nhau, đầy sự vui vẻ thương yêu. Chỉ có vườn tược trong cõi nước chư Phật, mới đắc được sự vui vẻ không thể nghĩ bàn như thế. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được tâm pháp thanh tịnh thượng diệu, luôn luôn có thể thấy được thần túc vườn rừng của Phật. Thứ vườn rừng đó nhà tự nhiên ngàn biến vạn hoá, có thần lực kỳ diệu không thể nghĩ bàn, có thể ví dụ nó có thần túc thông. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được niềm vui du hí của Phật, sự du hí đó là chư Phật vì giáo hoá chúng sinh, biến đổi phương thức dẫn dắt chúng sinh nhập vào biển trí huệ của Phật, chứ chẳng phải du hí của thế gian chẳng có ý nghĩa gì, mà là có thể khiến cho chúng sinh thường du hí trong cảnh giới trí huệ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được niềm vui du hí thần thông, ở trong mỗi niệm có thể đến khắp cõi nước chư Phật trong mười phương, tham gia đại pháp hội thuyết pháp, nghe chánh pháp, trong đạo tràng của chư Phật.

Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu du hí giải thoát của Bồ Tát, suốt kiếp thuở vị lai thực hành hạnh Bồ Tát, tâm không mệt mỏi. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, thấy tất cả chư Phật đầy khắp pháp giới, phát tâm rộng lớn, trụ nơi vườn rừng của Phật. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có thể đến khắp tất cả cõi Phật. Trong mỗi mỗi cõi, đều cúng dường các đức Phật. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tâm muốn thiện lành, trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật. 

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí vườn rừng đình đài. Vì muốn khiến cho chúng sinh thấy được tất cả chư Phật. Du hí tất cả vườn rừng của Phật.

Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu giải thoát vô ngại giống như các đại Bồ Tát, nhậm vận tự tại du hí trong các cõi, suốt thuở vô lượng kiếp vị lai, đều tu hành hạnh Bồ Tát, hành Bồ Tát đạo, mà tâm vĩnh viễn không mệt mỏi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thấy được chư Phật đầy dẫy trong hư không pháp giới, mỗi chúng sinh đều phát tâm bồ đề rộng lớn, mọi người đều trụ nơi vườn rừng của chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có thể đến khắp cõi nước chư Phật trong mười phương, đến đạo tràng của mỗi vị Phật để cúng dường chư Phật, lễ lạy chư Phật, gần gũi chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được tâm vui thiện lành, thanh tịnh ba nghiệp thành tựu căn lành, trang nghiêm cõi nước chư Phật.
Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí vườn rừng đình đài. Ngài vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều có thể thấy được mười phương chư Phật, tự tại du hí nơi vườn rừng của chư Phật.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát lập trăm ngàn ức Na do tha, vô lượng vô số hội bố thí rộng lớn, tất cả đều thanh tịnh, được chư Phật ấn khả, trọn không tổn não một chúng sinh nào. Khắp khiến cho chúng sinh xa lìa các điều ác, thanh tịnh ba nghiệp, thành tựu trí huệ, mở bày vô lượng trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ cảnh giới thanh tịnh. Tích tập vô lượng trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ vật tư sanh.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp bố thí, Ngài đã từng lập trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ vô lượng vô số lần pháp hội bố thí rộng lớn. Những lần pháp hội đó, đều làm được viên mãn thanh tịnh, lại được mười phương chư Phật khen ngợi ấn khả. Từ đầu đến cuối chẳng có tổn hại não loạn một chúng sinh nào. Khắp khiến cho tất cả chúng sinh đều xa lìa các thứ nghiệp ác, đắc được đạo quả ba nghiệp thanh tịnh, thành tựu tâm trí huệ. Mở bày vô lượng trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ cảnh giới thanh tịnh. Tích tập vô lượng trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ vật tư sanh tốt đẹp.

Bồ Tát phát tâm bồ đề rất khó được, hành bố thí vô hạn, khiến cho các chúng sinh trụ đạo thanh tịnh. Ban đầu, giữa, sau, đều thiện. Sinh niềm tin hiểu biết thanh tịnh. Tuỳ thuận sự ưa thích trăm ngàn ức vô lượng tâm chúng sinh, đều khiến cho họ hoan hỉ. Dùng đại từ bi cứu hộ tất cả, thừa sự cúng dường chư Phật ba đời. Vì muốn thành tựu tất cả giống Phật. Tu hành bố thí, trong tâm chẳng hối tiếc, tăng trưởng niềm tin, thành tựu viên mãn hạnh thù thắng, niệm niệm tăng tấn bố thí Ba La Mật.

Bồ Tát phát tâm bồ đề vô thượng rất khó được, thực hành đại bố thí khó xả mà xả bỏ được-trong thì xả đầu mắt tuỷ não ngũ tạng lục phủ và thân nầy. Ngoài thì xả đất nước vợ con và tất cả kho tàng bảy báu. Bố thí pháp, bố thí không sợ hãi, chẳng có giới hạn. Khiến cho tất cả chúng sinh đều an trụ nơi Phật đạo thanh tịnh. Ban đầu lành, giữa lành, sau lành, ngày đêm sáu thời, chẳng có thời nào chẳng sinh tâm tin thanh tịnh, và đối với Phật đạo các thứ pháp môn tâm trí giác ngộ thông đạt thấu hiểu. Tuỳ thuận trăm ngàn ức vô lượng chúng sinh đều hoan hỉ. Bồ Tát đều khiến cho mỗi người đều đầy đủ tâm hoan hỉ của họ. Dùng tâm đại từ bi để cứu bạt tất cả chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi biển khổ, dùng nguyện lực cứu khổ cứu nạn, để bảo hộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều đắc được an ổn vui vẻ. Thừa sự mười phương chư Phật, dùng đồ vật thượng hạng cúng dường mười phương chư Phật. Mục đích Bồ Tát tu hành thành khẩn như thế, là vì hy vọng thành tựu đức hạnh giống Phật, tu hành bố thí lớn khó làm mà làm được. Hy sinh bất cứ cái gì, đều hành vô sở đắc, trong tâm chưa từng so sánh, cũng chẳng sinh tâm hối tiếc. Căn lành tăng trưởng, niềm tin ngày càng kiên cố, viên mãn thành công đủ thứ hạnh môn thù thắng.

Bấy giờ, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: 

Nguyện cho tất cả chúng sinh phát tâm đại thừa, đều được thành tựu bố thí đại thừa. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có thể thực hành hội bố thí lớn. Bố thí tất cả. Bố thí lành. Bố thí tối thắng. Bố thí vô thượng. Bố thí vô thượng nhất. Bố thí không gì bằng. Bố thí vượt hơn các thế gian. Bố thí được tất cả chư Phật khen ngợi. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm thí chủ bậc nhất. Nơi các đường ác cứu giúp chúng sinh, đều khiến cho họ được vào con đường trí huệ vô ngại. Tu đại nguyện bình đẳng căn lành như thật, tự chứng được trí huệ cảnh giới không khác biệt. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, an trụ các thiền định trí huệ vắng lặng, vào con đường bất tử, rốt ráo tất cả thần thông trí huệ. Dũng mãnh tinh tấn, đầy đủ các bậc, trang nghiêm Phật pháp, đến nơi bờ kia, vĩnh viễn không thối chuyển. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, lập hội bố thí lớn, trọn không nhàm mỏi, cứu tế chúng sinh, chẳng ngừng nghỉ, rốt ráo nhất thiết chủng trí vô thượng. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, luôn siêng gieo trồng tất cả căn lành, đến được bờ kia vô lượng công đức. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, thường được chư Phật khen ngợi, khắp vì thế gian làm đại thí chủ, công đức đầy đủ, sung mãn pháp giới, chiếu khắp mười phương, bố thí niềm vui vô thượng.

Khi Bồ Tát thành tựu hạnh thù thắng, hướng về bố thí Ba La Mật rồi, Ngài bèn đem hết thảy các căn lành tu tập, hồi hướng cho chúng sinh: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều phát tâm Bồ Tát đại thừa-đại thừa là thừa viên mãn, tức cũng là Phật thừa, Bồ Tát thừa. Bồ Tát hi vọng thành Phật, cho nên phải phát tâm đại thừa, phát tâm đại thừa độ khắp chúng sinh thoát khỏi biển sinh tử. Ðều có thể thành tựu bố thí đại thừa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều thực hành pháp hội bố thí lớn, đem hết tất cả ra bố thí, dùng tâm lành tận thiện tận mỹ để bố thí, bố thí thù thắng nhất, bố thí tốt đẹp nhất, bố thí vô thượng nhất, bố thí chẳng có gì bằng được, bố thí vượt hơn tất cả thế gian, được mười phương chư Phật tán thán khen ngợi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại thí chủ bậc nhất trên thế gian, đến bốn đường ác bố thí bình đẳng, và còn khuyên họ cải ác hướng thiện, cứu tế họ thoát khỏi các đường ác, hy vọng họ tương lai đều đắc được trí huệ viên dung vô ngại, vào Phật đạo, tu hành nguyện lớn bình đẳng, thành tựu trí huệ căn lành bình đẳng chân thật, chẳng có tâm phân biệt, tự chứng được cảnh giới trí huệ thật tu. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, an trụ trong bốn thiền tám định vắng lặng, dùng trí diệt khổ sinh tử, vào con đường Niết Bàn chấm dứt sinh tử. Ðắc được thần thông và trí huệ chân thật, dũng mãnh tinh tấn tu hành Phật đạo, viên mãn đầy đủ công đức các bậc thập địa, thành tựu quả vị thập địa Bồ Tát. Dùng căn lành tu tập để trang nghiêm Phật pháp, đến được Niết Bàn bờ kia, vĩnh viễn không thối chuyển tâm bồ đề, cũng chẳng thối lùi về địa vị phàm phu, trừ phi theo nguyện lực trở lại, vẫn còn sinh tử độ khắp chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, cũng thường lập pháp hội bố thí lớn, chẳng nhàm mỏi, luôn luôn cứu tế tất cả chúng sinh, tâm nguyện bố thí luôn luôn không ngừng nghỉ giữa chừng. Như thế niệm niệm không ngừng hành bố thí công đức, cuối cùng sẽ đắc được nhất thiết chủng trí vô thượng chân thật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, luôn luôn siêng năng gieo trồng tất cả căn lành, thời thời tài bồi căn lành, khiến cho căn lành tăng trưởng, đạt đến công đức bờ kia chẳng có hạn lượng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thường được chư Phật tán thán khen ngợi, đến khắp mười phương thế giới, làm đại thí chủ của chúng sinh, đủ thứ công đức đầy đủ viên mãn, đầy dẫy khắp hư không pháp giới, ân huệ bố thí khắp và mười phương cõi nước, ban cho chúng sinh niềm vui vô thượng.

Nguyện cho tất cả chúng sinh, lập hội bố thí lớn, rộng tích tập căn lành, bình đẳng nhiếp chúng sinh đến bờ kia. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu bố thí thù thắng nhất, khắp khiến cho chúng sinh trụ thừa đệ nhất. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, bố thí theo thời, vĩnh viễn lìa phi thời, bố thí lớn rốt ráo. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu bố thí lành, đến được bố thí bờ kên kia của Phật đại trượng phu. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, rốt ráo thường hành bố thí đại trang nghiêm, tôn hết tất cả chư Phật làm thầy, thảy đều gần gũi, cúng dường lớn. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, trụ nơi bố thí thanh tịnh, tích tập vô lượng phước đức đồng pháp giới, đến bờ bên kia. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh, nơi các thế gian làm đại thí chủ, thệ độ mọi loài, trụ bậc Như Lai. 

Ðó là hồi hướng căn lành lập hội bố thí lớn của đại Bồ Tát. Vì muốn khiến cho chúng sinh hành bố thí vô thượng, bố thí rốt ráo của Phật, thành tựu bố thí lành, bố thí không thể hoại, bố thí cúng dường chư Phật, bố thí không sân hận, bố thí cứu chúng sinh, bố thí thành nhất thiết trí, bố thí thường thấy chư Phật, bố thí khéo tinh tấn, bố thí rộng lớn thành tựu tất cả công đức trí huệ của Bồ Tát chư Phật.

Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, mở pháp hội bố thí lớn nhất, vật chất chất đống như núi, phàm là hết thảy đồ vật ở nhân gian hoặc trên trời đều có hết, tuỳ ý chúng sinh hoan hỉ, đều có thể làm mãn nguyện yêu cầu của họ, bình đẳng nhiếp thọ tất cả chúng sinh đến Niết Bàn bờ bên kia. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu sự bố thí thù thắng đặc biệt nhất, giảng Kinh thuyết pháp, khai thị các pháp môn thâm áo, chỉ dẫn chúng sinh tu Phật đạo vô thượng, khắp khiến cho chúng sinh đều trụ nơi Phật thừa bậc nhất. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, bố thí đúng thời-như đói thì bố thí cơm, khát thì bố thí nước. Ðương lúc cần gấp, thì lập tức đầy đủ nguyện vọng của họ, đó là bố thí đúng thời. Giả sử người khác không cần nữa, mà bạn vẫn bố thí, thì ngược lại làm cho họ phiền phức, cho rằng bạn là kẻ nguỵ thiện, đó là bố thì không đúng thời. Bồ Tát hy vọng chúng sinh không bố thí trái thời, đầu óc cần phải sáng suốt, biết lúc nào thích nghi sự bố thí, thì mới kết duyên hoan hỉ với chúng sinh. Pháp hội bố thí lớn, phải làm cho thực tế, phẩm vật bố thí phải tốt nhất, người chủ trì pháp hội bố thí phải khiêm cung thành khẩn, khi bố thí vật cho người thì thái độ phải cung kính. Nếu được như thế thì, người bố thí chẳng có tâm kiêu mạn, kẻ thọ nhận chẳng mặc cảm tự ti, đều hoan hỉ, thì sẽ rốt ráo viên mãn pháp hội bố thí lớn.

Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu sự bố thí thiện, đạt đến bố thí lớn của bậc đại trượng phu như Phật làm, công đức đầy đủ viên mãn, thành tựu bố thí Ba La Mật. Sự bố thí đó chỉ có Phật Bồ Tát mới làm được, vì phải xả bỏ nội ngoại tài, phàm phu chẳng đạt đến cảnh giới nầy. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, luôn luôn chân chánh bố thí lớn trang nghiêm, mười phương chư Phật đều đến làm đạo sư pháp bố thí của họ, tất cả chúng sinh cũng đều biết gần gũi chư Phật, đều phát khởi cúng dường lớn đến chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có thể dùng ba nghiệp thanh tịnh, thường thường bố thí, tích tụ vô lượng phước đức đồng với pháp giới, đến được công đức bờ bên kia. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, làm chủ bố thí trong mười phương thế giới, phát thệ nguyện lớn, nhất định muốn cứu độ khắp tất cả chúng sinh, đều đi đến cõi nước của chư Phật.

Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài mở pháp hội bố thí lớn, đem hết thảy công đức căn lành hồi hướng cho chúng sinh. Vì muốn khiến cho chúng sinh thực hành bố thí vô thượng, giống như sự bố thí chân chánh tốt đẹp của chư Phật đã làm, thành tựu nghiệp thiện bố thí, bố thí không thể bị ngoại đạo phá hoại, bố thí cúng dường mười phương ba đời chư Phật, bố thí chẳng có tâm sân hận oán giận, bình đẳng bố thí cứu giúp tất cả chúng sinh, bố thí thành tựu nhất thiết trí huệ, nhờ công đức bố thí mà có thể thường được thấy chư Phật, dũng mãnh tinh tiến bố thí siêng tu nghiệp thiện, thành tựu công đức của tất cả Bồ Tát, và trí huệ của chư Phật, bố thí rộng lớn. Vì những nguyên nhân ở trên, cho nên Bồ Tát phải tu pháp bố thí, thực hành đạo bố thí.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát bố thí tất cả vật tư sanh, tâm chẳng có tham tiếc, chẳng cầu quả báo, chẳng hy vọng phước lạc của thế gian. Lìa tâm vọng tưởng, khéo tư duy các pháp. Vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, mà quán sát thật tướng của tất cả các pháp. Tuỳ theo đủ thứ chúng sinh khác nhau, sự dùng và chỗ mong cầu thảy đều khác nhau, mà sắm sửa vô lượng đồ vật tư sanh, tất cả đều nghiêm sức, thảy đều tốt đẹp, thực hành bố thí vô biên, bố thí tất cả, bố thí hết trong ngoài.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn bố thí, Ngài bố thí các thứ đồ vật cần dùng trong cuộc sống-tiền tài, châu báu, ăn uống, thuốc men, Ngài đều không sinh tâm tham sẻn, cũng không cầu người khác báo đáp cho Ngài. Ðối với danh văn lợi dưỡng phú quý trên thế gian, Ngài chẳng có chút mong cầu gì cả. Ngài sớm đã lìa tâm vọng tưởng, lúc nào cũng tư duy các pháp. Vì Ngài muốn lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên Ngài quán sát thật tánh, thật tướng, chân tánh, của tất cả các pháp rất kỹ càng. Tuỳ theo căn tánh khác nhau của tất cả chúng sinh, chỗ dùng, chỗ mong cầu của họ thảy đều khác nhau. Bồ Tát sắm sửa vô lượng phẩm vật tư sanh, đầy đủ hết các thứ, tất cả phẩm vật đều trang nghiêm, tốt đẹp nhất hiếm có trên thế gian. Bồ Tát thực hành bố thí vô biên, bố thí tất cả, nội tài ngoại tài đều bố thí xả hết.

Khi Bồ Tát bố thí, tăng thêm sức chí nguyện, đắc được công đức lớn, thành tựu tâm báu, thường bảo hộ tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ phát sinh chí nguyện thù thắng. Bồ Tát chưa từng có tâm cầu đền đáp. Hết thảy căn lành đồng với chư Phật ba đời, đều viên mãn nhất thiết chủng trí.

Khi Bồ Tát bố thí như thế, thì Ngài rất hoan hỉ, tinh thần sung mãn, nguyện lực tăng trưởng trong vô hình, đắc được công đức lớn, đó là cảm ứng của sự không mong cầu. Chẳng những đắc được công đức vô cùng vô tận, mà còn thành tựu tâm báu trí huệ thù thắng nhất. Luôn luôn bảo hộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ cũng lập chí lớn, phát nguyện lớn. Bồ Tát từ lúc phát nguyện bố thí khắp tất cả, chưa từng có tâm hy vọng chúng sinh báo đáp. Ngài tu tập đủ thứ căn lành, đã đồng với chư Phật ba đời. Pháp môn đã tu và căn lành tích tập đều đã viên mãn, các thứ trí huệ cũng đã đầy đủ.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát đem hết thảy căn lành bố thí đó, hồi hướng cho chúng sinh: 

Nguyện cho tất cả chúng sinh thanh tịnh điều phục. Nguyện cho tất cả chúng sinh diệt trừ phiền não, nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh dùng tâm thanh tịnh, nơi một niệm đi khắp pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sinh trí huệ sung mãn hư không pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sinh được nhất thiết trí, vào khắp ba đời điều phục chúng sinh, tất cả mọi thời thường chuyển bánh xe pháp thanh tịnh bất thối. Nguyện cho tất cả chúng sinh đủ nhất thiết trí, khéo thị hiện thần thông phương tiện, lợi ích chúng sinh.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát đem vô lượng công đức căn lành của Ngài bố thí tích tập, hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh thân tâm điều thuận, sáu căn thanh tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh diệt trừ đủ thứ phiền não, dùng công đức thanh tịnh trang nghiêm cõi nước của mười phương chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh dùng tâm thanh tịnh, ở trong một niệm du hành khắp mười phương pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sinh trí huệ sung mãn tận hư không khắp pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được nhất thiết trí huệ, vào khắp ba đời, giáo hoá điều phục chúng sinh. Mọi thời gian đều có thể chuyển bánh xe pháp thanh tịnh, hoằng dương chánh pháp, vĩnh viễn không mệt mỏi, vĩnh viễn không gián đoạn, vĩnh viễn không thối chuyển. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ các thứ trí huệ, khéo vận dụng thần thông, quán căn cơ chúng sinh, tuỳ thuận phương tiện nhiếp thọ chúng sinh, lợi ích vô lượng vô biên chúng sinh.

Nguyện cho tất cả chúng sinh đều ngộ nhập vào bồ đề của chư Phật, suốt thuở kiếp vị lai trong mười phương thế giới, thường nói chánh pháp, chưa từng nghỉ ngơi, khiến cho các chúng sinh khắp được nghe biết. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh nơi vô lượng kiếp tu hạnh Bồ Tát, đều được viên mãn. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới, hoặc nhiễm, hoặc tịnh, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc thô, hoặc tế, hoặc ngửa, hoặc úp, hoặc một trang nghiêm, hoặc đủ thứ trang nghiêm, các thế giới có thể nói ra, các thế giới trong vô số thế giới, thảy đều tu hạnh Bồ Tát. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh ở trong mỗi niệm, trong ba đời thường làm tất cả Phật sự, giáo hoá chúng sinh, hướng về nhất thiết trí.

Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều khai mở trí huệ, ngộ nhập bồ đề giác đạo của chư Phật, suốt kiếp vị lai thường đến mười phương thế giới, giảng giải chánh pháp, vĩnh viễn không mệt mỏi, khắp khiến cho tất cả chúng sinh đều nghe được chánh pháp, cũng nhập vào bồ đề giác đạo. Nguyện cho tất cả chúng sinh, ở trong vô lượng kiếp, đời đời kiếp kiếp đều tu hạnh Bồ Tát-lục độ vạn hạnh, đều tu hành viên mãn. Nguyện cho tất cả chúng sinh, ở trong đủ thứ thế giới: hoặc thế giới thanh tịnh, hoặc thế giới nhiễm ô, hoặc thế giới lớn, hoặc thế giới nhỏ, hoặc thế giới thô, hoặc thế giới vi tế, hoặc thế giới úp, hoặc thế giới ngửa, hoặc thế giới một thứ trang nghiêm, hoặc thế giới nhiều thứ trang nghiêm, hoặc tên thế giới mắt có thể thấy, ở trong đủ thứ thế giới trong vô lượng thế giới, đều ở tại đó tu hạnh Bồ Tát, hành Bồ Tát đạo, chẳng có nơi nào bỏ qua, nơi nơi đều có chúng sinh phát tâm bồ đề như thế. Nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thường ở trong mỗi niệm, trong thế giới mười phương ba đời, đều làm các Phật sự-hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, hướng về con đường trí huệ thanh tịnh chân chánh tiến tới.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát tuỳ thuận tất cả chỗ mong cầu của các chúng sinh, đem A tăng kỳ đồ vật như vậy bố thí. Vì khiến cho Phật pháp tương tục không dứt. Ðại bi cứu khắp tất cả chúng sinh, an trụ nơi đại từ, tu hạnh Bồ Tát. Ðối với lời dạy trong Phật giáo, trọn không huỷ phạm. Dùng phương tiện khéo léo tu hành các điều lành. Không dứt mất tất cả giống tánh của chư Phật. Tuỳ theo chỗ mong cầu đều ban cho, mà không nhàm mỏi, tất cả đều xả bỏ, chưa từng hối tiếc. Thường siêng tu hồi hướng về đạo nhất thiết trí.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp bố thí, tuỳ thuận chỗ cần dùng của chúng sinh, dùng tâm đại hỉ đại xả, đem vô lượng đồ vật bố thí cho tất cả chúng sinh, mãn nguyện tâm mong cầu của họ. Tại sao Bồ Tát phải làm như thế ? Vì khiến cho tất cả Phật pháp, vĩnh viễn trường tồn không dứt: An trụ tâm đại bi, cứu độ khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều được an ổn, tự nhiên, phát tâm đại từ, siêng tu Bồ Tát thừa lục độ vạn hạnh. Ðối với lời chỉ dạy khai thị của chư Phật, thành tâm y giáo phụng hành, thực hành đúng đắn, chưa từng huỷ phạm. Nương vào pháp môn phương tiện khéo léo, tu hành các nghiệp lành, tức là không làm các điều ác, làm toàn các điều lành. Xa lìa ác tri thức và nghiệp ác, thành tựu căn lành giống tánh Phật, khiến cho giống tánh chư Phật không dứt. Tuỳ theo sự mong cầu của người xin, đều khiến cho họ được mãn nguyện, tuyệt đối không buồn phiền, cũng không cảm thấy họ cầu xin nhiều mà sinh tâm mệt mỏi, tất cả đều xả bỏ, cũng chưa từng hối tiếc. Luôn luôn đem căn lành của mình tích tập, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, hy vọng họ đều hướng về cầu nhất thiết trí huệ, sớm thành đạo quả.

Bấy giờ, mười phương cõi nước đủ thứ hình loại, đủ thứ cõi sinh, đủ thứ ruộng phước, đều tụ hội lại, đến chỗ Bồ Tát, cầu xin đủ thứ, Bồ Tát thấy rồi, nhiếp thọ khắp hết, tâm sinh hoan hỉ, như thấy bạn lành. Ðại bi thương xót, nghĩ tìm cách làm cho họ mãn nguyện. Tâm xả tăng trưởng, chẳng có ngừng nghỉ, cũng chẳng mệt mỏi. Tuỳ theo chỗ mong cầu, đều khiến cho họ được đầy đủ, lìa khổ bần cùng.

Lúc đó, các cõi nước trong mười phương đủ thứ hình trạng khác nhau, trong đó có đủ thứ giống loài khác nhau, chúng sinh trong sáu đường, và đủ thứ ruộng phước-Phật và Bồ Tát, bậc Thánh nhị thừa, các đại thiện tri thức trong mười phương, thật là hải hội vân tập, đều đến chỗ hội bố thí lớn của Bồ Tát, tuỳ theo tâm mong cầu, hướng về Bồ Tát hoá duyên. Bồ Tát thấy pháp hội náo nhiệt rồi, đều nhiếp thọ khắp hết những chúng sinh đó. Trong tâm Ngài hoan hỉ giống như gặp được bạn lành xa cách đã lâu năm. Dùng tâm đại bi thương xót những chúng sinh đó, nghĩ tưởng dùng phương cách tốt nhất, để làm mãn nguyện tâm nguyện của họ. Tâm đại xả tự nhiên tăng trưởng, chẳng có ngừng nghỉ, cũng chẳng cảm thấy mệt mỏi. Tuỳ theo chỗ họ cần dùng, đều khiến cho họ được đầy đủ, lìa khỏi hoàn cảnh khổ bần cùng.

Bấy giờ, những người đến xin, tâm rất vui mừng, truyền tụng khen ngợi đức hạnh của Bồ Tát. Tiếng tốt toả khắp, mọi người đều đến chỗ Bồ Tát. Bồ Tát thấy rồi, hoan hỉ vô lượng.

Lúc đó, tất cả chúng sinh hướng về Bồ Tát cầu xin, sinh tâm rất vui mừng, mà truyền tụng tán thán khen ngợi đức hạnh của Bồ Tát. Bồ Tát vì cứu khổ của chúng sinh, thà nguyện mình chịu khổ. Ðem hết thảy đồ vật ra bố thí cho chúng sinh, rồi đem công đức đắc được hồi hướng pháp giới chúng sinh, đó là tinh thần của Bồ Tát.

Do đó có thể thấy, Bồ Tát cũng hoan hỉ người khen ngợi. Song, sự hoan hỉ đó chẳng phải Bồ Tát cầu lại, là chẳng cầu mà được. Tiếng tăm tốt đó, bất luận người xa gần đều biết, cho nên đều đến sùng bái Ngài, đều đến quy y với Ngài. Bồ Tát thấy cảnh giới như vậy rồi, tâm sinh hoan hỉ vô cùng vô tận.

Giả sử, trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp thọ sự an vui của trời Ðế Thích. Vô số kiếp thọ sự an vui của trời Dạ Ma. Vô lượng kiếp thọ sự an vui của trời Ðâu Suất. Vô biên kiếp thọ sự an vui của trời Thiện Biến Hoá. Vô đẳng kiếp thọ sự an vui của trời Tha Hoá Tự Tại. Bất khả số kiếp thọ sự an vui của trời Phạm Vương. Bất khả xưng kiếp thọ sự an vui của vua Chuyển Luân Vương. Bất khả tư kiếp thọ sự an vui của trời Biến Tịnh. Bất khả thuyết kiếp thọ sự an vui của trời Tịnh Cư, đều không bằng được.

Giả sử trải qua trăm ngàn ức Na do tha số kiếp, hưởng thọ sự an vui của trời Ðế Thích. Trời Ðế Thích còn gọi là Thích Ðề Hoàn Nhơn, dịch là “năng thiên chủ”. Tức là Thiên Chúa, Thượng Đế, Ngọc Hoàng Đại Đế .v.v…của ngoại đạo. Trời Ðế Thích ở cung trời Ðao Lợi, ở đó làm thiên chúa, quản lý ba mươi hai cõi trời khác.

Trải qua vô số kiếp hưởng thọ sự an vui của trời Dạ Ma. Trời Dạ Ma dịch là “thiện thời phần”. Trời nầy tuy nhiên chẳng có ánh sáng ngày đêm, song, ngày đêm có ánh sáng tự nhiên. Vì ngày đêm chẳng phân biệt, cho nên dùng hoa sen nở khép làm tiêu chuẩn. Hoa nở làm ngày, hoa khép làm đêm, do đó gọi là thiện thời phần.

Sự an vui của trời Dạ Ma, không thể nào tả hết được, chẳng cách chi hình dung được. Tóm lại, nghĩ ăn thì có ăn, nghĩ quần áo thì có quần áo, thích hợp vừa vặn. Thức ăn không nhiều không ít, quần áo không lớn không nhỏ. Chỗ của người trời ở, hào hoa tốt đẹp hơn cung điện ở nhân gian, cảnh giới vi diệu nầy không thể nào tả được. Các vị ! Ai muốn đến cõi trời nầy hưởng thụ sự an vui, thì trước hết phải buông bỏ tình ái, bằng không thì không thể hy vọng.

Nay kể một câu chuyện về người em cùng cha khác mẹ với Ðức Phật, đó là Tôn Ðà La Nan Ðà, dịch là “diễm hỉ”. Ngài cưới một người vợ đẹp vô cùng, gọi là Tôn Ðà La. Hai người tình cảm như keo với sơn, đi đứng nằm ngồi, không rời nửa bước.

Một ngày nọ, Ðức Phật muốn độ em của Ngài xuất gia tu đạo, giải thoát sinh tử. Cố ý đến trước của nhà người em khất thực. Ngài Nan Ðà nhìn thấy anh của mình đến khất thực, nhất định muốn cúng dường thức ăn. Bèn nói với vợ rằng:

– “Anh muốn cúng dường đức Phật, lập tức sẽ trở lại ngay”.

Tôn Ðà La nghe, bèn nhổ xuống đất một bãi nước bọt, nói với Nan Ðà rằng:

– “Phải trở lại trước khi nước bọt này khô, bằng không thì không cho anh vào phòng của em”.

Ngài Nan Ðà lập tức đáp ứng điều kiện của nàng, do đó, mang cơm ra cúng dường đức Phật.

Ðức Phật dùng thần lực, khiến cho hai người cách xa khoảng hơn một thước, Ngài Nan Ðà nghĩ đem cơm bỏ vào trong bình bát của Ðức Phật, song, cũng làm không được. Phật lùi về sau, Ngài Nan Ðà tiến về trước, theo đuổi cho đến khi đến Tinh Xá Kỳ Hoàn. Phật bèn cạo tóc cho Ngài Nan Ðà xuất gia làm đệ tử. Song, Ngài Nan Ðà chẳng có tâm tu hành, lúc nào cũng nghĩ đến người vợ đẹp ở nhà. Thân ở tại Tinh Xá, mà tâm ở tại vương cung. Ðều tìm cơ hội để về nhà đoàn viên vợ chồng, hưởng thọ sự khoái lạc của nhân gian.

Một ngày nọ, đức Phật và tất cả chư Tăng đi khất thực, chỉ còn mình Ngài Nan Ðà ở lại Tinh Xá, kêu Ngài quét dọn cho sạch sẽ. Ngài Nan Ðà nghĩ đây là cơ hội đi về hoàng cung, không nên bỏ lỡ. Do đó, chẳng có tâm trí nào làm việc, tâm nghĩ:

– “Ðức Phật trở về sẽ đi con đường lớn bằng phẳng, tuyệt đối không đi con đường nhỏ hẹp. Mình đi con đường nhỏ, chắc sẽ không gặp đức Phật”.

Bèn quyết định đi con đường nhỏ, đi đến nửa đường thì từ xa thấy đức Phật, từ con đường nhỏ đi trở về. Ngài Nan Ðà lập tức chạy vào lùm cây bên đường trốn, để cho đức Phật đừng thấy.

Song, đức Phật đi đến trước lùm cây bên đường nói:

– “Nan Ðà ! Con ở đây làm gì thế ?”

Nan Ðà nói dối: “Con đến nghinh tiếp đức Thế Tôn”.

Ðức Phật nói: “Theo ta trở về !”

Ngài Nan Ðà không còn cách nào khác, cúi đầu trở về Tinh Xá Kỳ Hoàn, ngày ngày buồn rầu không vui.

Một ngày nọ, đức Phật nói với Ngài Nan Ðà rằng:

– “Nan Ðà ! Hằng ngày con buồn rầu, không biết tu hành, hôm nay ta dẫn con đi dạo”.

Do đó, hai người đi vào trong núi, nhìn thấy bầy khỉ chạy nhảy đùa giỡn, đông đảo khoảng năm trăm con. Ðức Phật hỏi Ngài Nan Ðà:

– “Nan Ðà ! Con thấy con khỉ đẹp hay là Tôn Ðà La đẹp ?”

– Ngài Nan Ðà nói: “Ðương nhiên vợ của con đẹp hơn, cô ta là người nữ đẹp nhất”.

Ðức Phật lại dẫn Ngài Nan Ðà lên trời du ngoạn. Ngài Nan Ðà nhìn thấy trong cung trời có năm trăm tiên nữ xinh đẹp đoan trang, đang quét nhà, bèn hỏi các cô tiên nữ rằng:

– “Các cô đang làm gì thế ?”

– Các cô tiên nữ cung kính đáp: “Chúng tôi đang quét dọn cung điện cho sạch sẽ, chuẩn bị đón Ngài Nan Ðà em của đức Phật đến. Hiện giờ ông ta đang xuất gia tu hành với đức Phật. Tương lai kiếp sau ông ta sẽ sinh về đây, chúng tôi năm trăm người tiên nữ sẽ hầu hạ ông ta”.

Ngài Nan Ðà nghe nói tâm rất hớn hở vui mừng-tương lai có thể hưởng thụ những tiên nữ đẹp nầy, quyết định tu hành, không muốn trở về hoàng cung nữa. Ðức Phật biết ý của Ngài, bèn hỏi:

– “Nan Ðà ! Hiện tại con cảm thấy những tiên nữ nầy đẹp, hay là Tôn Ðà La đẹp ?”

– Ngài Nan Ðà đáp: “Ðương nhiên các tiên nữ đẹp, vợ của con xấu xí cũng giống như con khỉ”. Lại nói: “Ðức Thế Tôn ! Con quyết định theo Ngài tu hành”.

Ðức Phật có tha tâm thông, biết vọng tưởng trong tâm Ngài Nan Ðà, vì muốn đến thiên cung hưởng thụ dục lạc với các tiên nữ mà tu hành.

Ðức Phật lại dẫn Ngài Nan Ðà đi xuống địa ngục dạo, khi đi đến địa ngục dầu sôi, thì thấy hai con quỷ đang ngủ bên cạnh chảo dầu sôi, lửa đã tắt. Ngài Nan Ðà thấy vậy, cảm thấy kỳ lạ, sao hai con quỷ nầy không chịu làm việc ? bèn hỏi quỷ rằng:

– “Sao các ông không chịu nấu chảo dầu nầy cho sôi mà lại ngủ ?”

– Hai con quỷ mở mắt nhìn nói: “Vì tôn giả Nan Ðà em của đức Phật, hiện tại đang theo Phật tu hành, ông ta muốn lên trời làm thiên chủ, có năm trăm cô tiên nữ vui chơi hầu hạ, chỉ hưởng phước trời khoảng năm trăm năm. Khi phước trời hưởng hết, thì sẽ đoạ lạc vào địa ngục, thọ khổ trong chảo dầu sôi. Bởi cách hiện tại thời gian năm trăm năm, cho nên chúng tôi không cần gấp nấu chảo dầu nầy cho sôi”.

– Ngài Nan Ðà nghe nói hốt hoảng run sợ, bèn hỏi quỷ: “Xin hỏi quỷ có cách gì không bị đoạ lạc vào đây chăng ?”

– Quỷ đáp: “Trừ phi tu hành thoát khỏi ba cõi, thì vượt ra khỏi sự cai quản của chúng tôi”!

Ngài Nan Ðà nghĩ, không cần sinh về cõi trời hưởng phước, thì tương lai cũng sẽ không bị đoạ lạc vào địa ngục chảo dầu sôi thọ khổ. Phải chuyên tâm nhất chí tu hành pháp xuất thế gian, đó là pháp môn gốc rễ giải quyết vấn đề sinh tử. Do đó, dũng mãnh tinh tấn tu hành, chẳng bao lâu chứng được quả A la hán, là nghi dung bậc nhất.

Chúng ta nghe câu chuyện nầy, phải giác ngộ pháp thế gian tất cả đều vô thường, tình cảm vợ chồng cũng vô thường, dùng sắc đẹp để duy trì tình cảm thì không trường cửu, ngày sau nếu gặp trai, hoặc gái đẹp hơn, thì dễ bị sa ngã luyến ái. Tại sao ? Vì tâm ích kỷ tác quái. Giống như Ngài Nan Ðà, ái tình của Ngài chẳng chuyên nhất, tư tưởng thay đổi luôn luôn. Vợ của Ngài xinh đẹp như thế, mà Ngài lại yêu thích tiên nữ, mà quên ân ái của vợ. Khi Ngài nhìn thấy sự lợi hại của chảo dầu sôi, thì sinh tâm run sợ, không còn nghĩ đến lên trời làm thiên chủ, mà quên đi tiên nữ xinh đẹp. Lần nầy trải qua, Ngài bừng tỉnh mãnh liệt, quyết tâm tu đạo, thoát khỏi ba cõi, vĩnh viễn không thọ khổ chảo dầu sôi.

Mục đích của chúng ta tu đạo, là chấm dứt sinh tử, đạt đến bờ Niết Bàn rốt ráo bên kia. Tu hành như thế nào ? Trước hết phải đoạn dục khử ái, phải nhận rõ ái dục là gốc sinh tử. Ðoạn được ái dục rồi, thì mới vĩnh viễn thoát khỏi khổ luân hồi. Tóm lại, đừng ích kỷ, đừng chuyên nghĩ về chính mình, phải đem những gì mình có bố thí cho toàn thế giới, phải phát tâm rộng lớn, dùng hư không làm lượng, dùng pháp giới làm thể. Nếu được như thế thì sớm sẽ thành Phật.

Kinh văn ở trên nói, trải qua vô lượng kiếp, hưởng thụ sự an vui của trời Ðâu Suất. Trời Ðâu Suất dịch là “trời Tri Túc”. Thiên chúng cõi trời nầy, lúc nào cũng biết đủ, chẳng có tâm tham cầu không biết chán, do đó:

“Người biết đủ thường an vui
Người hay nhẫn thường an lạc”.

Tại sao chúng ta không được an vui luôn luôn ? Vì chẳng biết đủ, cho nên tự tìm phiền não.

Nội viện của trời Ðâu Suất là chỗ ở của Bồ Tát sẽ thành Phật sau này, khi Bồ Tát muốn thành Phật, đều đến cung trời nầy ở, đợi khi nhân duyên chín mùi, thì hàng sinh xuống nhân gian thành Phật, cõi trời nầy còn gọi là trời Bổ Xứ. Hiện tại Bồ Tát Di Lặc đang ở nội viện, đợi khi Phật Thích Ca thối vị, thì Ngài sẽ thành Phật, danh hiệu là Ðương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật. Ngài chuyên tu nhẫn nhục Ba La Mật, ai không nhẫn được, Ngài nhẫn được, ai thấy sự việc nầy sinh phiền não, Ngài chẳng sinh phiền não; chẳng những không sinh phiền não, mà còn thường sinh tâm hoan hỉ. Do đó:

“Bụng to hay chứa,
Chứa việc thiên hạ khó chứa.
Mở miệng liền cười,
Cười người thế gian đáng cười”.

Bồ Tát Di Lặc vẫn đang đợi ở nội viện để thành Phật, đến lúc nào mới thành Phật ?

Tuổi thọ của con người có tám vạn bốn ngàn tuổi. Từ kiếp giảm mười tuổi bắt đầu, mỗi một trăm năm tăng lên một tuổi, thân cao thêm một tất (tuổi thọ mười tuổi, thân cao một thướt). Tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi thì ngừng, sau đó lại giảm. Cũng cứ mỗi một trăm năm giảm một tuổi, thân giảm một tất, giảm đến mười tuổi thì ngừng. Lúc nầy con người, một khi sinh ra thì có tư tưởng dâm dục, người với người tàn sát lẫn nhau, dùng cỏ lá làm vũ khí giết người. Vì tâm con người quá bại hoại, bèn có tai nạn lớn xuất hiện, hoặc là nạn nước, hoặc là nạn lửa, hoặc là nạn gió, tiêu diệt loài người gần hết, chỉ còn lại ít người có căn lành không chết. Những người đó bèn sinh tâm hổ thẹn, cùng nhau thảo luận nghiên cứu, tại sao phải chịu tai nạn như thế ? Do đó, sớm cải ác hướng thiện. Do một niệm thiện, mà tuổi thọ lại bắt đầu tăng lên.

Hiện tại là kiếp giảm hơn sáu mươi tuổi, giảm đến mười tuổi thì ngừng. Sau đó lại bắt đầu tăng lên, tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi thì ngừng. Lại bắt đầu giảm, khi giảm xuống bốn ngàn tuổi, thì thời kỳ Bồ Tát Di Lặc hàng sinh xuống nhân gian thành Phật.

Như vậy một tăng một giảm là một kiếp, một ngàn kiếp làm một tiểu kiếp, hai mươi tiểu kiếp làm một trung kiếp, bốn trung kiếp làm một đại kiếp. Ðức Phật Thích Ca tu ba đại A tăng kỳ kiếp mới thành Phật. Nếu chúng ta y theo lời dạy của đức Phật tu hành, thì không cần trải qua thời gian dài ba A tăng kỳ kiếp. Nếu nhận chân tu hành thì có thể sẽ khai ngộ, lập tức thành Phật. Tại sao dễ thành Phật như thế ? Vì đức Phật đã thế chúng ta khai thông con đường thành Phật, thành một con đường lớn quang minh bằng phẳng, chỉ cần chúng ta dung mãnh tiến về trước, y giáo phụng hành, thì sớm sẽ thành Phật, thẳng đến Niết Bàn rốt ráo bờ bên kia.

Tuổi thọ của trái đất là một đại kiếp, chia làm bốn kiếp thành, trụ, hoại, không. Kiếp thành trải qua hai mươi tiểu kiếp. Kiếp trụ trải qua hai mươi tiểu kiếp. Kiếp hoại trải qua hai mươi tiểu kiếp. Kiếp không trải qua hai mươi tiểu kiếp, do đó, cộng thành tám mươi tiểu kiếp.

Trái đất có bốn kiếp: thành, trụ, hoại, không; con người có sinh, trụ, dị, diệt bốn giai đoạn. Lúc lớn lên trải qua hai mươi năm, thời kỳ sự nghiệp trải qua hai mươi năm, thời kỳ biến dị trải qua hai mươi năm, thời kỳ tiêu diệt trải qua hai mươi năm. Tức cũng là sinh, già, bệnh, chết, bốn khổ lớn. Chúng ta ở tại thế gian, nếu muốn thoát khỏi sức lực của tạo hoá, thì phải tu hành. Tu hành mới đắc được an lạc rốt ráo, không bị thành, trụ, hoại, không, biến đổi, không bị sinh, trụ, dị, diệt, giao động.

Trải qua vô biên kiếp, hưởng thụ sự an vui của trời Thiện Biến Hoá. Thiên chúng ở cõi trời nầy, do phước báo tu hành của mình, đắc được sức thần thông tự tại, có thể biến hoá sự vui năm dục tự mình thọ dụng. Tức cũng là tâm nghĩ âm thanh gì, hoặc nhạc khúc gì, thì tự động biến hiện ra, khiến cho họ thưởng thức được an vui vô cùng vô tận.

Trải qua nhiều kiếp, hưởng thụ sự an vui của trời Tha Hoá Tự Tại. Tâm nghĩ âm nhạc gì ? Không cần tự mình biến hoá, mà cõi trời khác đem đến. Cõi trời nầy tuy an vui, nhưng là nơi ở của ma vương Ba Tuần. Ma Ba Tuần thường đến nhân gian nhiễu loan thân tâm của người tu hành, khiến cho họ thối lùi tâm bồ đề. Nếu người tu đạo định lực không đủ, nhận thức cảnh giới không rõ ràng, lấy giả làm thật, thì dễ nhập vào ma.

Lại trải qua bất khả số kiếp, hưởng thụ sự an vui của trời Ðại Phạm Thiên Vương. Thiên vương cõi trời nầy tu hạnh thanh tịnh, tên gọi là Thi Khí. Ông ta rất tin sâu chánh pháp, thuở xưa đã từng phát nguyện, phàm là có Phật hiện ra đời, ông ta là người thỉnh Phật thuyết pháp trước tiên. Khi ông ta đi đứng nằm ngồi, đều có oai đáng sợ, có nghi đáng kính. Vì không thiếu oai nghi, nên giới định huệ ba học vô lậu viên dung vô ngại, cho nên thống trị các thiên chúng Phạm Chúng Thiên và Phạm Phụ Thiên.

Trải qua bất khả xưng kiếp, hưởng thụ sự an vui của vua Chuyển Luân Thánh Vương cai trị ba ngàn đại thiên thế giới. Chuyển luân Thánh vương có bốn hang:

1. Kim luân vương: quản lý bốn thiên hạ.
2. Ngân luân vương: quản lý ba thiên hạ.
3. Ðồng luân vương: quản lý hai thiên hạ.
4. Thiết luân vương: quản lý một thiên hạ.

Những vị đó đều hưởng thụ sự an vui bảy báu. Bảy báu là gì ? Tức là: 1. Bánh xe báu. 2. Châu báu. 3. Voi báu. 4. Ngựa báu. 5. Binh báu. 6. Thần báu. 7. Nữ báu. Khi vua luân vương sắp mất, đem bảy báu giao cho thái tử, những người khác không thể nào kế thừa bảy báu được. Nếu không có thái tử, nội trong bảy ngày sẽ tự động biến mất.

Trải qua bất khả tư kiếp, hưởng thụ sự an vui của trời Biến Tịnh. Cõi trời nầy càng vui hơn, tiêu diệt tất cả tâm hoan hỉ, mà đắc được niềm vui thật thanh tịnh hoàn toàn. Cõi trời nầy tuy là an vui, nhưng hay khiến cho người tu thiền đoạ lạc, cho nên người tu thiền, không muốn ở cõi trời này vĩnh viễn, mà mau đến cõi trời Tứ Thiền ở.

Trải qua bất khả thuyết kiếp, hưởng thụ sự an vui của trời Tịnh Cư. Cõi trời này gọi là trời Ngũ Bất Hoàn. Vì người sinh về cõi trời này, chẳng bị tái sinh trở lại cõi dục giới, cho nên gọi là trời Ngũ Bất Hoàn. Thiên chúng cõi này, đã đoạn sạch tư hoặc của dục giới, chưa đoạn sạch tư hoặc của sắc giới và vô sắc giới.

Tất cả chư thiên tuy có sự an vui như thế, song, vẫn có lúc hết, do đó, chẳng bằng sự an vui của Bồ Tát. Do đó có câu:

“Lục dục chư Thiên cụ ngũ suy,
Tam thiền thiên thượng hữu phong tai,
Nhậm quân tu đáo Phi Phi Tưởng,
Bất như Tây Phương quy khứ lai”.

Ý nói là:

Sáu cõi trời dục giới có năm tướng suy,
Trời Tam Thiên có nạn gió,
Dù bạn tu đến cõi trời Phi Phi Tưởng,
Chẳng bằng đi đến cõi Tây Phương.

Sáu cõi trời dục giới tức là: Trời Tứ Thiên Vương, trời Ðao Lợi, trời Dạ Ma, trời Ðâu Suất, trời Thiện Biến Hoá, trời Tha Hoá Tự Tại. Chư thiên của sáu cõi trời này, khi hưởng hết phước báo, thì sẽ phát sinh năm tướng suy, chứng minh cái chết sắp đến. Hiện tượng năm tướng suy hiện ra rồi, nếu nghiệp thiện chín mùi thì xuống nhân gian làm vua, hoặc làm đại thần, người tôn quý .v.v…nếu nghiệp ác chín mùi, thì đoạ vào ba đường ác thọ khổ.

Năm tướng suy là gì ?

1. Hoa trên đầu héo: Mũ của người trời đội làm bằng hoa tươi đẹp, không khi nào khô héo. Khi năm tướng suy hiện, thì hoa trên đầu tự nhiên héo.
2. Quần áo dơ bẩn: Quần áo của người trời mặc, rất sạch sẽ, chẳng có dính bụi. Khi năm tướng suy hiện, thì quần áo dơ bẩn.
3. Thân toả ra mùi hôi: Người trời giữ gìn năm giới, làm mười điều lành, cho nên thân thể toả ra mùi thơm. Khi năm tướng suy hiện, thì thân toả ra mùi hôi.
4. Hai nách ra mồ hôi: Thân thể người trời rất sạch sẽ, không bao giờ ra mồ hôi. Song, khi năm tướng suy hiện, thì hai nách chảy mồ hôi.
5. Ngồi không yên: Người trời thường ngồi thiền, nhưng khi năm tướng suy hiện, thì họ đứng ngồi không yên, chẳng bao lâu họ sẽ đoạ vào trong sáu nẻo luân hồi, tuỳ theo nghiệp báo mà đi đầu thai. Hoặc trong ba đường lành, hoặc trong ba đường ác.

Ðại Bồ Tát thấy người đến xin, hoan hỉ ưa thích, vui mừng nhảy nhót. Tâm tin tăng trưởng, chí nguyện thanh tịnh, các căn điều thuận, tin hiểu thành tựu viên mãn, cho đến tăng tấn bồ đề của chư Phật.

Ðại Bồ Tát thấy có người đến chỗ Ngài hoá duyên, sinh tâm đại hoan hỉ và ưa thích, vui mừng chẳng tự chủ được mà nhảy nhót. Tâm tin của Bồ Tát tăng trưởng, chí nguyện ưa thích đều rất thanh tịnh. Sáu căn lương thiện điều thuận, tâm tin và trí huệ hiểu biết đã thành tựu viên mãn. Cho đến tăng tấn bồ đề giác đạo của tất cả chư Phật mười phương ba đời.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát đem căn lành đó, vì lợi ích tất cả chúng sinh mà hồi hướng. Vì muốn an lạc tất cả chúng sinh mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh được nghĩa lợi lớn mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh được thanh tịnh mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều cầu bồ đề mà hồi hướng.

Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, đem đủ thứ căn lành bố thí như đã nói ở trên, vì nghĩ muốn lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên mới vì chúng sinh hồi hướng. Muốn an lạc tất cả chúng sinh, cho nên mới vì chúng sinh hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đắc được lợi ích lớn, cho nên mới vì chúng sinh hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đắc được nguồn gốc thanh tịnh, cho nên mới vì chúng sinh hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm cầu bồ đề, cho nên mới vì chúng sinh mà hồi hướng.

Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều được bình đẳng mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều được tâm hiền thiện mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều vào đại thừa mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều được trí huệ hiền thiện mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đủ hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, viên mãn mười lực, hiện thành Chánh Giác mà hồi hướng.

Bồ Tát vì khiến cho tất cả chúng sinh, hoàn toàn đắc được pháp tánh bình đẳng thành Phật, cho nên mới vì chúng sinh hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, hoàn toàn đắc được tâm hiền thiện, cho nên mới vì chúng sinh hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, hoàn toàn vào pháp môn đại thừa, cho nên mới vì chúng sinh hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được trí huệ hiền thiện, cho nên mới vì chúng sinh hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đầy đủ hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, viên mãn mười lực của Phật, pháp đại thừa này sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, tức cũng là thành Phật, cho nên mới vì chúng sinh hồi hướng.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vậy, thì nghiệp thân miệng ý thảy đều giải thoát, chẳng chấp trước, chẳng ràng buộc.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, khi đem tất cả căn lành tích tập, vì chúng sinh trong pháp giới hồi hướng như vậy, thì nghiệp thân, miệng, ý của Bồ Tát đều đã thanh tịnh, thảy đều giải thoát, cũng chẳng chấp trước, cũng chẳng ràng buộc.

Không có tưởng chúng sinh. Không có tưởng thọ mạng. Không có tưởng Bổ Già La2. Không có tưởng người. Không có tưởng đồng tử. Không có tưởng kẻ sinh. Không có tưởng người làm. Không có tưởng kẻ thọ. Không có tưởng có. Không có tưởng không. Không có tưởng đời này đời sau. Không có tưởng chết đây sinh kia. Không có tưởng về thường. Không có tưởng về vô thường. Không có tưởng về ba cõi. Không có tưởng về không có ba cõi. Chẳng tưởng, chẳng không tưởng.

Bồ Tát làm gì cũng đều chẳng có nghĩ tưởng. Chẳng có nghĩ tưởng gì hết, tức là khử vọng, khử vọng tức là thật, lý thể chân thật. Cho nên chẳng có tưởng chúng sinh, chẳng có tưởng thọ mạng, chẳng có tưởng Bổ Già La (tưởng số thủ thú), chẳng có tưởng người, chẳng có tưởng đồng tử, chẳng có tưởng kẻ sinh, chẳng có tưởng kẻ làm, chẳng có tưởng kẻ thọ, chẳng có tưởng về cái có, chẳng có tưởng về cái không, chẳng có tưởng về đời này, cũng chẳng có tưởng về đời sau. Bồ Tát chẳng có tưởng chết ở đây, lại sinh về chỗ kia. Bồ Tát chẳng có tưởng về thường, cũng chẳng có tưởng về vô thường. Cũng chẳng có thường kiến, cũng chẳng có đoạn kiến, đoạn thường hai lối thấy này đều chẳng có. Chẳng có tưởng về cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Tức cũng là chẳng có cõi nào, cũng chẳng có cõi nào không. Tại sao nói như thế ? Vì muốn trừ khử chấp trước của chúng sinh. Cũng chẳng có phi tưởng, cũng chẳng có phi phi tưởng.

Như vậy, hồi hướng chẳng ràng buộc. Hồi hướng giải thoát chẳng ràng buộc. Hồi hướng chẳng phải nghiệp. Hồi hướng chẳng phải nghiệp báo. Hồi hướng chẳng phân biệt. Hồi hướng chẳng không phân biệt. Hồi hướng chẳng suy tư. Hồi hướng chẳng phải đã suy tư. Hồi hướng chẳng có tâm. Hồi hướng chẳng không tâm.

Lìa mọi sự chấp trước như vậy, thì chẳng có sự ràng buộc, cho nên hồi hướng cho chúng sinh, hồi hướng về bồ đề, hồi hướng về thật tế. Cũng chẳng phải nói không có sự ràng buộc thì được giải thoát, cũng chẳng phải như vậy. Chẳng có tất cả cảnh giới tâm, đường lời lẽ đã dứt bặc, nơi tâm hành đã diệt, mà hồi hướng cho chúng sinh. Cũng chẳng có nghiệp để hồi hướng, cũng chẳng có nghiệp báo để hồi hướng. Tại sao ? Vì “Phàm hết thảy tướng, đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai”. Do đó, quét hết tất cả các pháp, lìa hết thảy các tướng. Cũng chẳng phải có sự phân biệt để hồi hướng. Cũng chẳng phải chẳng có sự phân biệt để hồi hướng. Cũng chẳng phải suy gẫm để hồi hướng. Cũng chẳng có một tâm để hồi hướng, cũng chẳng có cái không tâm để hồi hướng. Phải ở tại chẳng có, chẳng không, chẳng đoạn, chẳng thường, như vậy để tu hành.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, thì chẳng chấp trong, chẳng chấp ngoài, chẳng chấp năng duyên, chẳng chấp sở duyên. Chẳng chấp nhân, chẳng chấp quả, chẳng chấp pháp, chẳng chấp phi pháp. Chẳng chấp tưởng, chẳng chấp phi tưởng, chẳng chấp sắc. Chẳng chấp sắc sinh, chẳng chấp sắc diệt, chẳng chấp thọ tưởng hành thức, chẳng chấp thọ tưởng hành thức sinh, chẳng chấp thọ tưởng hành thức diệt.

Các vị đệ tử của Phật: Khi đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, vì chúng sinh hồi hướng thì, cũng chẳng chấp trước bên trong, trong chẳng có thân tâm; cũng chẳng chấp trước bên ngoài, ngoài chẳng có thế giới. Chẳng chấp nơi tướng ta năng duyên, chẳng chấp nơi cảnh giới sở duyên. Chẳng chấp vào nhân, cũng chẳng chấp vào quả. Chẳng chấp trước vào pháp có thể nói, cũng chẳng chấp trước vào phi pháp có thể nói. Chẳng chấp trước sự suy gẫm, cũng chẳng chấp trước vào chẳng suy gẫm. Chẳng chấp trước vào sắc uẩn, cũng chẳng chấp trước vào sắc uẩn sinh, cũng chẳng chấp trước vào sắc uẩn diệt. Chẳng chấp trước vào thọ tưởng hành thức bốn uẩn, cũng chẳng chấp trước vào thọ tưởng hành thức bốn uẩn sinh, cũng chẳng chấp trước vào sắc thọ tưởng hành thức bốn uẩn diệt.

Phật tử ! Nếu đại Bồ Tát nơi các pháp nầy không chấp, thì chẳng ràng buộc nơi sắc, chẳng ràng buộc nơi sắc sinh, chẳng ràng buộc nơi sắc diệt. Chẳng ràng buộc nơi thọ tưởng hành thức, chẳng ràng buộc nơi thọ tưởng hành thức sinh, chẳng ràng buộc nơi thọ tưởng hành thức diệt. Nếu nơi các pháp nầy chẳng ràng buộc, thì cũng ở nơi các pháp nầy không hiểu.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, nếu đối với tất cả các pháp chẳng chấp trước, thì chẳng ràng buộc nơi sắc uẩn, cũng chẳng ràng buộc vào sắc uẩn sinh, cũng chẳng ràng buộc vào sắc uẩn diệt. Cũng chẳng ràng buộc vào thọ tưởng hành thức, cũng chẳng ràng buộc vào thọ tưởng hành thức sinh, cũng chẳng ràng buộc vào sắc thọ tưởng hành thức diệt. Nếu nơi tất cả các pháp chẳng chấp trước, thì chẳng có sự ràng buộc. Tức nhiên chẳng có sự ràng buộc, vậy đối với các pháp lại có gì có thể hiểu !

Tại sao ? Vì chẳng có chút pháp nào. Hoặc hiện sinh, hoặc đã sinh, hoặc sẽ sinh. Không có pháp nào có thể lấy. Không có pháp nào có thể chấp. Tất cả các pháp, tự tướng đều như vậy. Không có tự tánh, tự tánh tướng đều lìa.

Tại vì sao ? Vì chẳng có chút pháp nào. Hoặc hiện tại sinh, hoặc quá khứ sinh, hoặc tương lai sinh. Chẳng có pháp gì để thủ lấy, chẳng có pháp gì để chấp trước. Tướng của tất cả các pháp là không; tức nhiên là không, vậy lại có gì để chấp trước ! Chẳng có tự tánh, tự tánh tướng cũng chẳng có.

Chẳng một, chẳng hai, chẳng nhiều, chẳng vô lượng. Chẳng nhỏ, chẳng lớn, chẳng hẹp, chẳng rộng. Chẳng sâu, chẳng cạn, chẳng vắng lặng, chẳng hí luận. Chẳng nơi chốn, chẳng không nơi chốn. Chẳng phải pháp, chẳng phải không pháp. Chẳng có thể, chẳng phải không có thể. Chẳng có, chẳng phải không có.

Chẳng phải một, chẳng phải hai. Chẳng phải nhiều, chẳng phải vô lượng. Chẳng phải nhỏ, chẳng phải lớn. Chẳng phải chật hẹp, chẳng phải rộng lớn. Chẳng phải sâu, chẳng phải cạn. Ðó là quét hết tất cả các pháp, lìa hết thảy các tướng. Cũng chẳng phải vắng lặng, cũng chẳng phải hí luận. Cũng chẳng phải có xứ sở, cũng chẳng phải không xứ sở. Cũng chẳng phải có pháp, cũng chẳng phải không có pháp. Tại sao ? Vì lìa tất cả các tướng, tức tất cả các pháp. Cũng chẳng phải có thể, cũng chẳng phải không có thể. Cũng chẳng phải có, cũng chẳng phải không có.

Bồ Tát quán sát các pháp như vậy, tức là phi pháp. Ở trong ngôn ngữ, tuỳ theo thế gian mà kiến lập, phi pháp làm pháp. Chẳng dứt các nghiệp đạo, chẳng xả hạnh Bồ Tát, cầu nhất thiết trí, trọn không thối chuyển. Biết rõ tất cả nghiệp duyên như mộng, âm thanh như vang, chúng sinh như bóng, các pháp như huyễn, mà cũng chẳng hoại nhân duyên nghiệp lực. Biết rõ các nghiệp, tác dụng rộng lớn. Hiểu tất cả pháp, đều không chỗ làm. Hành đạo vô tác, chưa từng tạm bỏ.

Bồ Tát nghiên cứu rốt ráo triệt để, quán sát tất cả thật tướng các pháp, là chẳng không, chẳng có, cũng có, cũng không, chẳng đoạn, chẳng thường. Tất cả các pháp đều chẳng có tự thể, vốn là không. Do đó:

“Tướng các pháp vắng lặng,
Không thể dùng lời nói”.

Phàm là nói ra thì chẳng phải pháp. Ở trong ngôn ngữ, là tuỳ thuận tri kiến của thế gian mà kiến lập tất cả các pháp. Song, tất cả các pháp đó, phi pháp làm pháp. Vốn chẳng có, mà chúng sinh chấp trước có. Tất cả nghiệp đạo cũng chẳng đoạn, vẫn không xả lìa hạnh Bồ Tát. Tại pháp thế gian mà tu pháp xuất thế, chẳng phải lìa khỏi pháp thế gian, mà có pháp xuất thế, tức cũng là ở trong thế gian mà tu Bồ Tát đạo. Chẳng phải lìa khỏi thế gian, mà có Bồ Tát đạo.

Bồ Tát ở trong pháp thế gian, mà cầu nhất thiết trí huệ, chẳng màng cầu được, hoặc cầu không được, tuyệt đối chẳng thối chuyển. Bồ Tát thấu rõ nhân duyên của tất cả nghiệp lực giống như mộng. Tất cả âm thanh giống như vang. Tất cả chúng sinh giống như hình bóng. Tất cả các pháp giống như huyễn hoá. Biết tất cả nghiệp tác dụng rộng lớn. Ngài thấu hiểu tất cả các pháp, đều không chỗ làm. Tức là tu hành đạo vô tác, chẳng thêm tạo tác, thì tự nhiên sẽ tác dụng. Thời khắc cũng chẳng tạm xả bỏ vô công dụng đạo.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát nầy trụ nhất thiết trí. Hoặc xứ phi xứ, đều hồi hướng khắp nhất thiết trí tánh. Tất cả mọi nơi thảy đều hồi hướng, chẳng có thối chuyển.

Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát nầy, thường trụ cảnh giới nhất thiết trí. Hoặc có xứ sở, hoặc chẳng có xứ sở. Tuỳ thời tuỳ lúc đều hồi hướng khắp nhất thiết trí tánh chân thật. Bất cứ ở đâu, đều hồi hướng như vậy, chỉ có tinh tấn tiến về trước, chẳng khi nào thối lùi về sau.

Do nghĩa gì mà nói là hồi hướng ? Vĩnh viễn độ thế gian, đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng. Vĩnh viễn thoát khỏi các uẩn, đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng. Ðộ đường ngôn ngữ, đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng. Lìa đủ thứ tưởng, đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng. Vĩnh viễn đoạn trừ thân kiến, đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng.

Dùng nghĩa lý gì để nói rõ gì gọi là hồi hướng ? Ðưa ra mười ý nghĩa để nói rõ:

1. Vĩnh viễn độ sinh tử thế gian, đến bờ Niết Bàn bên kia, nên gọi là hồi hướng.
2. Vĩnh viễn thoát khỏi sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn, đến bờ Niết Bàn bên kia, nên gọi là hồi hướng.
3. Thoát khỏi tất cả lời lẽ, tức là lời lẽ dứt bặc, nghĩa là lìa lời mà nói tướng, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia, nên gọi là hồi hướng.
4. Lìa khỏi đủ thứ tưởng, tức là nơi tâm hành đã diệt, chẳng có tất cả tưởng, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia, nên gọi là hồi hướng.
5. Vĩnh viễn đoạn tuyệt thân kiến, tức cũng là ngã kiến, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia, nên gọi là hồi hướng.

Vĩnh viễn lìa nơi nương tựa, đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng. Vĩnh viễn đoạn tuyệt chỗ làm, đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng. Vĩnh viễn thoát khỏi các cõi, đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng. Vĩnh viễn xả bỏ thủ lấy, đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng. Vĩnh viễn thoát khỏi pháp thế gian, đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng.

6. Vĩnh viễn lìa khỏi tất cả nơi nương tựa, đạt đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng.
7. Vĩnh viễn đoạn tuyệt tất cả ác, đạt đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng.
8. Vĩnh viễn thoát khỏi tam giới hai mươi lăm cõi, đạt đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng.
9. Vĩnh viễn xả bỏ tất cả thủ lấy, đạt đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng.
10. Vĩnh viễn thoát khỏi pháp thế gian, đạt đến bờ bên kia, nên gọi là hồi hướng.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, tức là tuỳ thuận Phật trụ. Tuỳ thuận pháp trụ. Tuỳ thuận trí trụ. Tuỳ thuận bồ đề trụ. Tuỳ thuận nghĩa trụ. Tuỳ thuận hồi hướng trụ. Tuỳ thuận cảnh giới trụ. Tuỳ thuận hành trụ. Tuỳ thuận chân thật trụ. Tuỳ thuận thanh tịnh trụ.

Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, hồi hướng như vậy, tức là tuỳ thuận Phật mà trụ, tuỳ thuận pháp mà trụ, tuỳ thuận trí mà trụ, tuỳ thuận bồ đề mà trụ, tuỳ thuận nghĩa lý mà trụ, tuỳ thuận hồi hướng mà trụ, tuỳ thuận cảnh giới mà trụ, tuỳ thuận đức hạnh mà trụ, tuỳ thuận chân thật lý thể mà trụ, tuỳ thuận nguồn gốc thanh tịnh mà trụ.

Phật tử ! Ðại Bồ Tát hồi hướng như vậy, tức là thấu đạt tất cả các pháp, tức là thừa sự tất cả chư Phật. Chẳng có một vị Phật nào mà không thừa sự. Chẳng có một pháp nào mà không cúng dường. Chẳng có một pháp nào có thể diệt hoại. Chẳng có một pháp nào có thể trái ngược. Chẳng có một vật nào có thể tham trước. Chẳng có một pháp nào có thể nhàm lìa. Chẳng thấy trong ngoài tất cả các pháp có chút diệt hoại. Trái với nhân duyên đạo, pháp lực đầy đủ, chẳng có ngừng nghỉ.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, hồi hướng như vậy, tức là thấu rõ thông đạt tất cả các pháp thật tướng. Tức là thừa sự tất cả chư Phật mười phương ba đời, chẳng có một vị nào mà không thừa sự, chẳng có một pháp nào không cúng dường. Vì Bồ Tát đã chứng được cảnh giới vô sinh pháp nhẫn, cho nên chẳng có một pháp nào có thể diệt hoại, chẳng có một pháp nào có thể sinh khởi. Chẳng có một pháp nào cùng nhau trái ngược, đều tuỳ thuận với nhau. Bồ Tát tu hồi hướng như vậy, chẳng có sự tham cầu vật quý báu nào mà không xả bỏ bố thí được. Chẳng có một pháp nào mà nhàm não, muốn lìa khỏi nó. Tại sao ? Vì bên trong quán tâm, tâm chẳng có tâm; nên ngoài quán hình, hình chẳng có hình; ở xa quán vật, vật chẳng có vật, tất cả đều không. Chẳng có pháp nào có thể diệt hoại, cũng chẳng có chút pháp nào trái ngược với nhân duyên đạo. Tức cũng chẳng có sự không tương hợp với nhân duyên đạo lý. Pháp lực của tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều đầy đủ viên mãn, chẳng có khi nào ngừng nghỉ.

Phật tử ! Ðó là hồi hướng tất cả căn lành tuỳ thuận kiên cố thứ sáu.

Các vị đệ tử của Phật ! Ðủ thứ đạo lý ở trên vừa nói là, đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, hồi hướng tất cả căn lành tuỳ thuận kiên cố thứ sáu.

Khi đại Bồ Tát trụ nơi hồi hướng nầy, thường được chư Phật hộ niệm, kiên cố chẳng thối chuyển, vào pháp tánh thâm sâu. Tu nhất thiết trí, tuỳ thuận nghĩa của pháp, tuỳ thuận pháp tánh, tuỳ thuận tất cả căn lành kiên cố. Tuỳ thuận tất cả nguyện lớn viên mãn. Ðầy đủ pháp tuỳ thuận kiên cố. Tất cả kim cang không phá hoại được, ở trong các pháp được tự tại.

Khi đại Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát, trụ nơi hồi hướng tất cả căn lành tuỳ thuận kiên cố, thường được tất cả chư Phật mười phương ba đời bảo hộ và nghĩ nhớ. Luôn luôn gia trì, kiên cố chẳng thối tâm bồ đề. Vào trong pháp tánh thâm sâu, tu hành nhất thiết trí huệ. Tuỳ thuận nghĩa lý của tất cả các pháp, tuỳ thuận pháp tánh của tất cả các pháp, tuỳ thuận tất cả căn lành kiên cố, tuỳ thuận tất cả nguyện lớn viên mãn, đầy đủ tuỳ thuận tất cả pháp kiên cố, tất cả kim cang không thể phá hoại được pháp nầy. Ở trong tất cả các pháp, đắc được nhậm vận tự tại, chẳng có mọi sự chấp trước.

Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tràng quán sát mười phương, quán sát chúng hội, quán sát pháp giới rồi, vào nơi nghĩa của chữ câu thâm sâu, tu tập tâm vô lượng rộng lớn. Dùng tâm đại bi che khắp thế gian. Sinh trưởng giống tâm tánh Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, vào nơi công đức của tất cả chư Phật, thành tựu lực thân tự tại của chư Phật. Quán sát tâm ưa thích của các chúng sinh. Tuỳ thuận căn lành thành thục của họ, nương pháp tánh thân, vì họ hiện sắc thân. Nương thần lực của Phật, mà nói kệ rằng.  

Lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tràng quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới. Lại quán sát nhân duyên đại chúng của tất cả hải hội chư Phật trong mười phương ba đời. Lại quán sát nhân duyên của pháp giới. Quán sát rồi, vào trong tam muội chữ câu nghĩa lý thâm sâu. Tu hành học tập tâm rộng lớn vô lượng vô biên tận hư không khắp pháp giới, dùng tâm đại bi lợi vật, giải trừ khổ não của chúng sinh, che hộ khắp tất cả chúng sinh trong thế giới, sinh trưởng tâm giống tánh của chư Phật quá khứ, tâm giống tánh của chư Phật hiện tại, tâm giống tánh của chư Phật vị lai. Vào công đức của tất cả chư Phật, tức cũng là công đức của chính Bồ Tát, công đức của mình tức là công đức của chư Phật, chư Phật và Bồ Tát là hai mà không hai. Thành tựu lực thân tự tại của chư Phật có đủ sự nhậm vận tự tại. Quán sát sự ưa thích trong tâm của mỗi chúng sinh là gì ? hy vọng những gì ? tuỳ thuận căn lành của chúng sinh, nhìn xem căn lành nào thành thục thì dùng phương pháp đó để giáo hoá. Căn cứ pháp tánh thân vì họ mà thị hiện sắc thân để nói pháp cho họ nghe. Nương theo đại oai thần lực của mười phương chư Phật, vì chúng sinh mà nói bốn mươi mốt bài kệ, để giáo hoá chúng sinh có duyên.

Bồ Tát hiện thân làm ông vua
Là bậc trên hết ở trong đời
Phước đức oai quang hơn tất cả
Khắp vì quần sinh ban lợi ích.

Bồ Tát quán sát nhân duyên của chúng sinh, đáng dùng thân Phật độ được họ, thì hiện thân Phật mà vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân Bích Chi Phật độ được họ, thì hiện thân Bích Chi Phật mà vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân ông vua độ được họ, thì hiện thân ông vua mà vì họ nói pháp. Ðáng dùng thân trưởng giả độ được họ, thì hiện thân trưởng giả mà vì họ nói pháp. Tóm lại, đáng dùng thân gì độ được họ, thì hiện thân đó để vì họ nói pháp. Do đó có thể thấy, chỗ của Bồ Tát làm chẳng phải vì mình, mà vì lợi ích tất cả chúng sinh. Bồ Tát vì giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui, cam tâm tình nguyện theo chúng sinh vào đường địa ngục, hoặc đi vào đường ngạ quỷ, hoặc đi vào đường súc sinh. Ðó là tinh thần của Bồ Tát.

Bồ Tát thị hiện sắc thân, làm ông vua nước lớn, ở tại địa vị nhân gian mà nói là tôn quý bậc nhất. Tướng mạo cũng viên mãn, phước đức cũng viên mãn. Oai nghi quang hơn hết tất cả, khắp vì chúng sinh mà ban cho lợi ích. Do đó “Thương dân như con”, vì nhân dân mà làm việc công đức.

Tâm Ngài thanh tịnh không nhiễm trước
Nơi đời tự tại đều tôn kính
Hoằng dương chánh pháp dạy bảo người
Khắp khiến chúng sinh được an ổn.

Tuy Bồ Tát thị hiện làm thân ông vua, song, tâm của Ngài rất thanh tịnh, chẳng có mọi sự ô nhiễm chấp trước, chẳng ích kỷ lợi mình, tất cả hết thảy đều vì lợi ích chúng sinh. Chỉ cần chúng sinh có lợi ích, có thể khiến cho chúng sinh sinh hoan hỉ, thì dù có tan xương nát thịt cũng nguyện ý đi làm, chẳng còn tồn tại tướng ta. Tại thế gian nhậm vận tự tại, cho nên được chúng sinh tôn kính. Ngài hoằng dương chánh pháp, khiến cho chánh pháp ở lâu nơi thế gian, dùng chánh pháp dạy bảo người đời. Bồ Tát khiến cho khắp hết thảy chúng sinh đều đắc được an ổn.

Hiện sinh quý tộc lên ngôi vua
Thường nương chánh giáo chuyển pháp luân
Bẩm tính nhân từ không bạo ngược
Mười phương kính ngưỡng đều tuân theo.

Bồ Tát thị hiện sắc thân, sinh vào trong dòng quý tộc, tương lai có thể lên làm vua. Luôn luôn căn cứ vào chánh pháp nhãn tạng để chuyển đại pháp luân, giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh nghe pháp khai ngộ. Bẩm tính của Bồ Tát rất nhân từ, tâm không sân độc và tư tưởng không ngược đãi với chúng sinh, cho nên chúng sinh trong mười phương thế giới, đều cung kính ngưỡng vọng y theo sự giáo hoá của Ngài.

Trí huệ phân biệt thường sáng suốt
Sắc tướng tài năng đều đầy đủ
Lâm ngự truyền lệnh đều nghe theo
Ðiều phục ma quân không còn sót.

Tuy Bồ Tát thị hiện làm ông vua, hoặc đại thần, song, trí huệ của Ngài thường sáng suốt, chẳng hồ đồ. Khéo phân biệt tất cả đạo lý các pháp thật tướng. Bồ Tát thị hiện sắc tướng rất viên mãn, tài năng rất cao siêu, thảy đều đầy đủ. Khi làm ông vua, lâm triều chấp chánh, trị lý quốc gia, giá ngự tuần hành. Phàm là chỗ của vua thống trị, bất cứ sông hồ biển cả, Ngài đều đích thân đi quan sát. Hết thảy chúng sinh, đều nghe theo sự giáo hoá của Ngài. Ngài phá tan hàng phục được mười đại ma quân, tiêu diệt chúng hết không còn.

Giữ gìn tịnh giới không huỷ phạm
Quyết chí nhẫn nhục không lay động
Luôn nguyện diệt trừ tâm sân hận
Thường thích tu hành các Phật pháp.

Bồ Tát giữ gìn giới luật thanh tịnh, tuyệt đối không huỷ phạm. Lập chí nguyện quyết định, kham nhẫn tất cả điều người khác không thể nhẫn, gặp tất cả cảnh giới tâm không lay động. Vĩnh viễn phát nguyện diệt trừ tất cả tâm sân hận. Thường thường nguyện ý tu hành pháp của chư Phật nói.

Thức ăn uống hương man y phục
Xe kiệu giường nệm toà với đèn
Bồ Tát đều đem cho giúp người
Cùng với vật khác vô lượng thứ.

Hết thảy tất cả thức ăn uống, tất cả hương man, tất cả y phục, tất cả xe kiệu, tất cả giường báu, tất cả nệm, tất cả toà báu, tất cả đèn báu, Bồ Tát thảy đều bố thí cho những người đến xin, dùng đủ thứ phẩm vật để cứu giúp chúng sinh, cùng với vô lượng những đồ vật châu báu khác, đều đem ra bố thí, tuyệt đối không sẻn tiếc. Chúng ta cũng phải học tâm từ bi của Bồ Tát, bố thí cứu giúp kẻ bần cùng.

Vì lợi ích mà hành bố thí
Khiến họ khai mở tâm rộng lớn
Ở nơi tôn thắng và chỗ khác
Tâm đều thanh tịnh sinh hoan hỉ.

Bồ Tát vì lợi ích chúng sinh, mà tu hạnh môn bố thí, vì khiến cho chúng sinh khai mở tâm rộng lớn. Trụ nơi cung điện tôn quý thù thắng nhất, hoặc ở những chỗ khác, trong tâm ý lúc nào cũng thanh tịnh, lúc nào cũng hoan hỉ.

Bồ Tát đều chu cấp tất cả
Trong ngoài hết thảy đều xả được
Ðều khiến tâm họ luôn thanh tịnh
Chẳng khiến tạm thời sinh hẹp hòi.

Bồ Tát đem tất cả phẩm vật, đều chu cấp cho chúng sinh. Nội tài là đầu mắt tuỷ não, ngoại tài là đất nước vợ con, nội tài ngoại tài hết thảy đều bố thí hết. Trong tâm của Bồ Tát vĩnh viễn thanh tịnh, không lúc nào mà không xả bỏ được dù chỉ tạm thời, khiến cho chúng sinh không sinh tâm hẹp hòi, dù bất cứ thời khắc nào.

Hoặc bố thí đầu hoặc thí mắt
Hoặc bố thí tay hoặc thí chân
Da thịt cốt tuỷ và vật khác
Tất cả đều xả tâm không tiếc.

Bồ Tát bố thí đầu của mình, hoặc bố thí mắt của mình, hoặc bố thí tay của mình, chân của mình, hoặc bố thí da, thịt, cốt, tuỷ của mình, cùng với những phẩm vật khác, tất cả hết thảy đều bố thí hết, mà trong tâm không có tư tưởng sẻn tiếc.

Bồ Tát thân làm ông vua lớn
Chủng tộc tôn quý trong loài người
Mở miệng cắt lưỡi thí quần sinh
Tâm Ngài hoan hỉ không ưu luyến.

Bồ Tát thị hiện đủ thứ thân hình để giáo hoá chúng sinh, có lúc thị hiện thân ông vua tôn quý nhất, có lúc thị hiện thân kẻ ăn mày nghèo khổ nhất. Tuỳ thuận căn cơ của chúng sinh mà hiện thân. Bồ Tát thị hiện thân ông vua, là dòng dõi quý tộc, được mọi người cung kính. Ngài mở miệng cắt lưỡi bố thí cho chúng sinh, trong tâm rất hoan hỉ, chẳng có tư tưởng buồn rầu luyến tiếc.

Ðem công đức thí lưỡi đó
Hồi hướng tất cả các chúng sinh
Nguyện họ nhờ đây được thắng duyên
Ðược lưỡi rộng dài của Như Lai.

Bồ Tát đem công đức bố thí lưỡi, hồi hướng cho hết thảy pháp giới chúng sinh. Nguyện khắp tất cả chúng sinh, đều nhờ nhân duyên thù thắng nầy, mà được tướng lưỡi rộng dài của Phật, có thể che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, vì những chúng sinh khác rộng nói diệu pháp Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật.

Hoặc thí vợ con và ngôi vua
Hoặc thí thân mình làm tôi tớ
Tâm ý thanh tịnh thường hoan hỉ
Như vậy tất cả chẳng buồn tiếc.

Bồ Tát hoặc đem vợ con của mình, hoặc ngôi vua bố thí cho người, hoặc đem chính bản thân mình bố thí cho người khác, để làm tôi tớ cho họ. Bất cứ là nội tài, hay ngoại tài, bố thí rồi, chẳng có tâm cầu báo đáp, cho nên tâm thường thanh tịnh, luôn hoan hỉ. Bố thí tất cả như vậy cũng chẳng buồn rầu, cũng chẳng hối tiếc.

Tuỳ chỗ cầu xin đều thí cho 
Ðúng thời giúp cho không nhàm mỏi
Tất cả hết thảy đều xả bỏ
Những người đến xin đều đầy đủ.

Bồ Tát tuỳ thuận đồ vật mà chúng sinh ưa thích đều bố thí, khiến cho tâm chúng sinh được mãn nguyện. Tóm lại, chúng sinh cần gì thì Bồ Tát bố thí cái đó. Ðúng lúc chúng sinh cần thì Ngài bố thí, song, tâm của Ngài chẳng có tư tưởng nhàm mỏi phiền muộn. Hết thảy tất cả phẩm vật, đều xả bỏ bố thí cho chúng sinh. Phàm là chúng sinh đến cầu xin, chẳng làm cho họ thất vọng, đều được đồ vật mà họ mong muốn, đều đại hoan hỉ.

Vì nghe pháp nên thí thân mình
Tu các khổ hạnh cầu bồ đề
Lại vì chúng sinh xả tất cả
Cầu trí vô thượng không thối chuyển.

Bồ Tát vì nghe Phật pháp, cho nên bố thí thân của mình, tu đủ thứ khổ hạnh. Tại sao phải tu khổ hạnh ? Vì cầu đạo bồ đề, sớm thành quả Phật. Bồ Tát lại vì chúng sinh làm lợi ích, cho đến làm tất cả công đức bố thí cho chúng sinh. Vì cầu trí huệ vô thượng, cho nên vĩnh viễn không thối chuyển tâm bồ đề.

Từ chỗ đức Phật nghe chánh pháp
Tự xả thân mình làm tôi tớ
Vì muốn cứu khắp các quần sinh
Phát sinh vô lượng tâm hoan hỉ.

Bồ Tát vì ở chỗ đức Phật lắng nghe chánh pháp, cho nên đem thân thể của mình bố thí cho Phật, làm người hầu cận cho Phật. Vì muốn cứu độ khắp tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ, mới phát sinh tâm từ bi hỉ xả vô lượng, cùng với vô lượng tâm hoan hỉ.

Bồ Tát thấy Thế Tôn Ðạo Sư
Hay dùng tâm từ rộng lợi ích
Bấy giờ nhảy nhót sinh hoan hỉ
Nghe thọ vị pháp của Như Lai.

Bồ Tát thấy được Phật, hay dùng tâm từ bi rộng lợi ích tất cả chúng sinh. Lúc đó, Bồ Tát thấy Phật lợi ích chúng sinh, hoan hỉ vui mừng, không tự chủ được bèn nhảy nhót lên, lắng nghe lãnh thọ vị pháp thâm sâu của Phật.

Bồ Tát có tất cả căn lành
Ðều đem hồi hướng cho chúng sinh
Khắp đều cứu hộ không thừa sót
Luôn khiến giải thoát thường an lạc.

Bồ Tát có tất cả căn lành, hoàn toàn hồi hướng cho tất cả công đức, khắp cứu độ bảo hộ cho tất cả chúng sinh, chẳng thừa sót chúng sinh nào, mà không được lợi ích. Vĩnh viễn khiến cho tất cả chúng sinh đắc được giải thoát, đắc được an ổn khoái lạc.

Bồ Tát có tất cả quyến thuộc
Sắc tướng đoan nghiêm hay biện huệ
Hoa kế y phục và hương thoa
Các thứ trang nghiêm đều đầy đủ.

Bồ Tát có tất cả quyến thuộc, sắc tướng rất đoan chánh trang nghiêm, lại có trí huệ biện tài vô ngại. Có đủ thứ hoa kế, đủ thứ y phục, đủ thứ hương thoa, đủ thứ hương bột, đủ thứ đồ trang nghiêm, thảy đều đầy đủ.

Các quyến thuộc đó đều hi hữu
Tất cả Bồ Tát đều thí được
Chuyên cầu Chánh Giác độ quần sinh
Tâm ý như vậy không tạm xả.

Tất cả quyến thuộc đó rất ít có, song, Bồ Tát đem quyến thuộc của mình đều bố thí được. Tại sao ? Vì chuyên cầu Chánh Giác (Phật), để giáo hoá cứu độ chúng sinh. Tâm đại bồ đề đó, không có lúc nào tạm xả bỏ.

Bồ Tát suy nghĩ kỹ như vậy
Thực hành các thứ nghiệp rộng lớn
Ðều đem hồi hướng các chúng sinh
Mà chẳng sinh ra tâm chấp lấy.

Bồ Tát khéo suy gẫm như thế, khắp tu hành đủ thứ nghiệp thiện công đức rộng lớn. Ðem công đức lành đó, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, mà chẳng có tơ hào tâm chấp trước thủ lấy tướng. Bồ Tát chẳng có tư tưởng như vầy: “Hiện tại tôi bố thí, có nhiều công đức lành như vậy, công đức của tôi quá lớn”. Chẳng giống như vua Lương Võ Ðế thấy được Tổ Sư Bồ Ðề Ðạt Ma, bèn hỏi:

– “Tôi kiến tạo rất nhiều chùa to Phật lớn, độ được rất nhiều Tăng ni, như vậy có bao nhiêu công đức ?”

Tổ Sư Bồ Ðề Ðạt Ma đáp:

– “Chẳng có công đức gì hết”.
Tại sao lại nói như thế ? Vì tâm chấp trước của vua Lương Võ Ðế quá nặng, do đó, cho ông ta một gáo nước lạnh, khiến cho ông ta bừng tỉnh, đừng vì có công đức mà bố thí. Do đó, “Tam luân thể không” mới là thật bố thí.

Bồ Tát xả bỏ ngôi vua lớn
Cùng với cõi nước các thành ấp
Cung điện lầu các và vườn rừng
Tôi tớ thị vệ đều không tiếc.

Khi Bồ Tát thị hiện làm ông vua, thì hoặc đem ngôi vua xả bỏ, hoặc đem cõi nước xả bỏ, hoặc đem thành ấp xả bỏ, hoặc đem cung điện xả bỏ, hoặc đem lầu các xả bỏ, thậm chí vườn rừng, tôi tớ, thị vệ, thảy đều xả bỏ, mà không sẻn tiếc.

Ở trong vô lượng trăm ngàn kiếp
Ði khắp các nơi bố thí cho
Nhờ đó giáo hoá các chúng sinh
Ðều khiến vượt lên bờ vô thượng.

Bồ Tát ở trong vô lượng trăm ngàn kiếp về trước, Ngài du hành đến khắp tất cả cõi nước chư Phật mười phương ba đời, để bố thí tất cả căn lành mà Ngài tích tụ. Vì có nhiều công đức lành, cho nên giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều vượt lên bờ Niết Bàn vô thượng bên kia.

Vô lượng phẩm loại đều khác biệt
Mười phương thế giới hội họp đến
Bồ Tát thấy rồi tâm vui mừng
Theo chỗ họ xin khiến đầy đủ.

Có vô lượng vô biên chúng sinh, phẩm loại đều khác nhau. Mười phương thế giới chúng sinh phẩm loại khác nhau, đều hội họp đến chỗ Bồ Tát hành bố thí. Bồ Tát thấy vô lượng chúng sinh hướng về Ngài hoá duyên như vậy, trong tâm rất vui mừng, bèn tuỳ theo sự cầu xin của chúng sinh mà bố thí, khiến cho họ đều được đầy đủ.

Như hồi hướng của Phật ba đời
Bồ Tát cũng tu nghiệp như vậy
Chỗ tu hành của đấng Ðiều Ngự
Thảy đều theo học đến bờ kia.

Giống như sự hồi hướng trong quá khứ của tất cả chư Phật mười phương ba đời tu, Bồ Tát cũng tu nghiệp hồi hướng như vậy. Chư Phật tu hành những pháp môn nào, Bồ Tát đều theo Phật tu học pháp đến bờ kia. Bờ kia tức là cảnh giới không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, tức cũng là thường lạc ngã tịnh bốn đức Niết Bàn.

Bồ Tát quán sát tất cả pháp
Ai là người vào được pháp nầy 
Vào như thế nào, vào chỗ nào 
Như vậy bố thí tâm không trụ.

Bồ Tát quán sát tất cả Phật pháp, suy gẫm tất cả Phật pháp: Ai vào được pháp nầy ? Làm thế nào vào được trong pháp vắng lặng ? Tất cả các pháp đều không, lại có gì để vào ! Tức là bố thí pháp cũng là không, có gì có thể trụ ?

Bồ Tát hồi hướng trí thiện xảo
Bồ Tát hồi hướng pháp phương tiện
Bồ Tát hồi hướng nghĩa chân thật
Ở trong pháp đó không chấp trước.

Bồ Tát hồi hướng sự tu của Ngài về trí huệ thiện xảo, khiến cho chúng sinh cũng đều có trí huệ thiện xảo. Bồ Tát hồi hướng cho chúng sinh, đó là pháp phương tiện. Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, hồi hướng về lý thể chân thật, hồi hướng về thật tế, bất cứ tu pháp gì, cũng đều không chấp trước.

Tâm không phân biệt tất cả nghiệp
Cũng không nhiễm trước nơi nghiệp quả
Biết tánh bồ đề từ duyên khởi
Vào sâu pháp giới không trái nghịch.

Tâm của Bồ Tát chẳng chấp trước tất cả nghiệp thiện và nghiệp ác. Cũng chẳng có tư tưởng nhân quả báo ứng, khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Biết pháp tánh bồ đề là từ nhân duyên sinh ra, cho nên vào pháp giới thâm sâu, cũng chẳng trái nghịch với pháp thật tế lý thể.

Chẳng ở trong thân mà có nghiệp
Cũng chẳng nương trụ ở nơi tâm
Trí huệ biết rõ không tánh nghiệp
Do nhân duyên nên nghiệp không mất.

Bồ Tát chẳng nói ở trong thân mình tạo ra nghiệp gì ? cho nên chẳng chấp có nghiệp. Cũng chẳng nương trụ ở nơi tâm. Do đó, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm”. Tức là chẳng chấp trước vào tâm. Có trí huệ rồi thì sẽ thấu rõ tất cả nghiệp tánh là không, chẳng có tồn tại tánh nghiệp. Vì có các thứ nhân duyên như vậy, cho nên nghiệp lực cũng chẳng mất đi.

Tâm chẳng vọng lấy pháp quá khứ
Cũng chẳng tham cầu việc vị lai
Ở nơi hiện tại chẳng chỗ trụ
Thấu đạt ba đời đều vắng lặng.

Tâm của Bồ Tát chẳng vọng lấy pháp quá khứ, cũng chẳng tham cầu việc vị lai, hiện tại bây giờ cũng chẳng chỗ trụ. Tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng đều không, tất cả đều không chấp trước. Tại sao không chỗ trụ ? Vì thấu rõ thông đạt ba đời đều là vắng lặng.

 Bồ Tát đã đến sắc bên kia
Thọ tưởng hành thức cũng như vậy
Vượt khỏi dòng sinh tử thế gian
Tâm Ngài khiêm hạ thường thanh tịnh.

Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, hết thảy tất cả đều xả bỏ được, nhìn thấy tất cả đều không. Do đó, đối với sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn biết là vắng lặng. Vì là vắng lặng, cho nên đến được bờ bên kia sắc thọ tưởng hành thức. Tri kiến của Bồ Tát và của phàm phu hoàn toàn khác nhau, Bồ Tát vượt qua được biển khổ sinh tử của thế gian, tâm của Bồ Tát khiêm hạ thường thanh tịnh.

Quán kỹ năm uẩn mười tám giới
Mười hai xứ cùng với thân mình
Mỗi mỗi nơi đây cầu bồ đề
Thể tánh rốt ráo không thể được.

Bồ Tát quán sát kỹ sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn là không. Lại quán sát mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn và sắc thanh hương vị xúc pháp sáu trần, cùng với nhãn thức, nhĩ thức, tĩ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, hợp thành mười tám giới, cũng là không. Lại quán sát mười hai xứ (sáu căn và sáu trần) và thân mình cũng là không. Nơi năm uẩn, mười tám giới, mười hai xứ nầy cầu bồ đề giác đạo, đều không thể đắc được. Tại sao ? vì thể tính của nó đều là không.

Chẳng lấy tướng các pháp thường trụ
Nơi tướng đoạn diệt cũng chẳng chấp
Pháp tánh chẳng có cũng chẳng không
Nghiệp lý thứ lớp trọn vô tận.

Bồ Tát tu hành trung đạo liễu nghĩa, cũng chẳng thiên về không, cũng chẳng lệch về có. Lệch về có tức là chấp tướng thường-đoạ lạc thường kiến. Thiên về không tức là chấp tướng đoạn, đoạ lạc về đoạn kiến. Phật pháp chẳng phải thường, cũng chẳng phải đoạn, chẳng đoạn chẳng thường là trung đạo liễu nghĩa, cho nên nói chẳng thủ lấy tướng của các pháp thường trụ. Bồ Tát chẳng chấp trước tất cả pháp có tướng thường trụ. Vậy, chẳng có thường, có đoạn chẳng ? Tướng đoạn cũng chẳng chấp vào, cho nên chẳng chấp đoạn, chẳng chấp thường, đó mới là trung đạo liễu nghĩa. Bản tánh của pháp, cũng chẳng phải có, cũng chẳng phải không; có, không cũng là tà kiến. Tuy nhiên chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng có, chẳng không, song, lý thể của nghiệp rất có thứ lớp, vô tận chẳng hết được.

Nơi các pháp chẳng có chỗ trụ
Chẳng thấy chúng sinh và bồ đề
Trong mười phương cõi nước ba đời
Rốt ráo mà cầu không thể được.

Bồ Tát tu hành các pháp, chẳng trụ vào các pháp. Tức pháp chẳng phải pháp, chẳng chấp trước vào tướng của tất cả các pháp. Chẳng những tất cả pháp là không, mà chúng sinh và bồ đề cũng là không, vốn không nên chấp trước. Cõi nước chư Phật mười phương và chỗ trụ của chư Phật ba đời, rốt ráo mà nói thì cầu không thể được. Tại sao ? vì nó vốn là không.

Nếu quán các pháp được như vậy
Thì thấu hiểu giống như chư Phật
Tuy cầu tánh đó không thể được
Chỗ Bồ Tát hành cũng không hư.

Nếu biết các pháp vốn không, thì còn có gì để chấp trước ! Do đó:

“Các pháp từ xưa nay,
Thường là tướng vắng lặng,
Không thể dùng lời nói”.

Nếu quán được thật tướng của tất cả các pháp, thì sẽ thấu hiểu giống như chư Phật. Tuy nhiên cầu bản tánh của pháp không thể đắc được, song, công đức của Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, không thể không có. Tại sao nói không hư ? Vì “Phước không tổn hại”, tu hành thì nhất định sẽ có phước, không tu hành thì chắc chắn sẽ không có phước đức.

Bồ Tát biết pháp từ duyên có
Không trái tất cả chỗ hành đạo
Mở bày giải nói các vết nghiệp
Muốn khiến chúng sinh đều thanh tịnh.

Bồ Tát thấu rõ tất cả các pháp là từ nhân duyên sinh ra mà có. Do đó,

“Các pháp từ duyên sinh,
Các pháp từ duyên diệt”.

Lại nói:

“Nhân duyên sinh ra pháp
Ta nói tức là không
Cũng gọi là tên giả
Cũng gọi nghĩa trung đạo”.

Vì nó là tên giả, cho nên nói không cũng là giả. Chẳng trái với tất cả chỗ hành đạo, tức là trung đạo. Phàm là có sự tu hành, thì nhất định sẽ có sự thành tựu. Bồ Tát mở bày pháp môn phương tiện, thị hiện tướng chân thật, giải thích nghĩa thâm sâu, diễn nói pháp vi diệu. Mở bày giải nói đạo lý quả báo của tất cả nghiệp. Tại sao Bồ Tát không việc đi tìm việc làm ? Ở trong lời nói mà lập lời nói, đó là khiến cho chúng sinh khôi phục lại bộ mặt thật vốn có (bản lai diện mục), đắc được nguồn gốc thanh tịnh, tánh diệu chân như.

Ðó là chỗ bậc trí hành đạo
Pháp của tất cả Như Lai nói
Tuỳ thuận suy gẫm vào chánh nghĩa
Tự nhiên giác ngộ thành bồ đề.

Ðó tức là con đường tu hành của người có trí huệ, pháp của tất cả chư Phật mười phương ba đời nói ra. Nếu có thể tuỳ thuận đạo lý nầy để suy gẫm thì, sẽ nhập vào nghĩa chánh pháp, tự nhiên sẽ giác ngộ, thành tựu bồ đề giác đạo.

Các pháp không sinh cũng không diệt
Cũng lại không đến cũng không đi
Chẳng nơi nầy chết mà sinh kia
Là người ngộ hiểu các Phật pháp.

Các pháp là vắng lặng, cho nên nó không sinh cũng không diệt. Pháp thì không đến, không đi. Ở nơi nầy chết rồi, lại sinh đến nơi khác, những tư tưởng nầy đều chẳng có. Nếu người nầy hiểu ngộ được, thì đó là chánh pháp của chư Phật. Vậy, đừng chấp trước vào tất cả tướng.

Thấu đạt các pháp tánh chân thật
Mà nơi pháp tánh không phân biệt
Biết pháp không tánh không phân biệt
Người nầy khéo vào trí chư Phật.

Thấu rõ thông đạt lý thể của tất cả các pháp chân thật, đối với bản tánh của pháp chẳng có tâm phân biệt. Biết pháp tánh là không, tại nơi không chẳng sinh ra sự phân biệt. Người đó khéo khế hợp với trí huệ của chư Phật.

Pháp tánh khắp tất cả mọi nơi
Tất cả chúng sinh và cõi nước
Ba đời tồn tại không thừa sót
Cũng không hình tướng mà đắc được.

Pháp tánh đầy khắp tất cả mọi nơi, do đó “Tận hư không, khắp pháp giới”, đều có pháp tánh. Hết thảy chúng sinh và hết thảy cõi nước, pháp tánh đều tồn tại. Ba đời đều có pháp tánh tồn tại, chẳng có nơi nào mà không có pháp tánh. Tuy là tự nhiên có pháp tánh tồn tại, nhưng pháp tánh không hình tướng mà là vắng lặng, không thể đắc được. Tuy pháp tánh không hình tướng, nhưng nếu thật tu hành thì, cũng đắc được trí huệ chân chánh.

Chỗ tất cả chư Phật giác ngộ
Thảy đều nhiếp lấy không thừa sót
Tuy nói tất cả pháp ba đời
Các pháp như vậy đều chẳng có.

Tất cả chư Phật mười phương ba đời giác ngộ pháp tánh khắp tất cả mọi nơi. Pháp tánh tuy nhiên không hình tướng, mà khắp cùng tất cả mọi nơi. Ðây là đạo lý gì ? Vì nó có sức lực đó. Phật giác ngộ bản tánh của pháp, nhiếp lấy pháp tánh không thừa sót. Tuy nhiên Phật diễn nói tất cả các pháp ba đời, nhưng không chấp trước pháp tướng. Tuy nhiên pháp tánh là có, nhưng pháp tướng là không. Tất cả các pháp của Phật nói đều là không.

Như các pháp tánh khắp tất cả
Bồ Tát hồi hướng cũng như thế
Như vậy hồi hướng các chúng sinh
Thường nơi thế gian không thối chuyển.

Giống như tất cả pháp tánh khắp cùng tất cả mọi nơi, nhưng nhìn mà không thấy, lắng mà không nghe, ngửi mà không mùi. Bồ Tát tu công đức hồi hướng cũng giống như thế, tuy nhiên không có hình tướng, nhưng công đức không thể nghĩ bàn. Vì vậy, cho nên Phật tu tập tất cả công đức hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Chẳng những Ngài tu hạnh Bồ Tát một ngày, mà là ngày ngày đều tu hạnh Bồ Tát, tháng tháng đều tu, năm năm đều tu, đời đời kiếp kiếp đều tu hạnh Bồ Tát. Ðem công đức hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, thường ở tại nhân gian không thối chuyển tâm bồ đề.

Phật nói pháp chẳng có pháp nhất định, có Kinh thì nói đạo lý có, có Kinh thì nói đạo lý không. Tại sao nói có, nói không ? Vì chúng sinh chẳng chấp trước có, thì chấp trước không; chẳng chấp không thì chấp có. Kỳ thật, pháp thì chẳng không, chẳng có, chẳng đoạn, chẳng thường, cho nên Phật vì phá chấp trước của chúng sinh, mà dùng đủ thứ ví dụ để vì chúng sinh nói pháp. Song, bản tánh của chúng sinh ngu si hồ đồ, chẳng cầm cái nầy lên, thì cầm cái kia lên, cuối cùng không thể buông xả đặng. Buông xả cái nầy xuống, thì cầm cái kia lên, buông xả cái kia xuống, thì cầm cái nọ lên. Giống như vọng tưởng, vọng tưởng nầy ngừng thì vọng tưởng kia lên, vọng tưởng kia ngừng thì vọng tưởng nọ lên. Lại giống như sóng trong biển, chẳng có lúc nào ngừng. Cho nên Phật nói pháp là đối trí vọng tưởng của chúng sinh, nếu không sinh vọng tưởng tức là nguồn gốc của các pháp, lý thể chân thật. Song, chúng ta chúng sinh không thể dừng vọng tưởng lại được, cho nên chư Phật mới nói tất cả các pháp, để đối trị tất cả vọng tưởng của chúng sinh. Nếu vọng tưởng không còn nữa, thì tất cả các pháp không còn dùng nữa.

 

Hết tập 13

KỆ HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Nguyện đem công đức nầy
Trang Nghiêm cõi Phật tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi bỏ báo thân nầy
Sinh về cõi Cực Lạc.