Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VI. ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN ĐỆ NHỊ
(TT)

“Tất hoạch chư Phật vô lượng công đức, trí tuệ thánh minh bất khả tư nghị(Đều đạt được vô lượng công đức của chư Phật, trí tuệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn): Chữ “chư Phật” ở đây bao gồm tất cả ba đời mười phương chư Phật. Đoạn kinh văn này là phần tổng kết, nói rõ các Bồ Tát đầy đủ “phước trí nhị nghiêm”, “vô lượng công đức”, như phía trước đã nói, các Bồ Tát có địa vị ngang với quả vị.

Trí tuệ thánh minh, bất khả tư nghị”: Đây là trí tuệ thông đạt hết thảy mọi sự nên gọi là “thánh”. Bồ Tát Cực Lạc, mỗi mỗi đều là vạn đức, vạn năng không thể nghĩ bàn!

Trí Độ Luận viết: “Trong pháp Tiểu Thừa chẳng có việc chẳng thể nghĩ bàn, chỉ trong pháp Đại Thừa mới có (ví dụ) như (đức Phật) nói Kinh Pháp Hoa trong sáu mươi tiểu kiếp mà tưởng như trong khoảng bữa ăn”. Phàm phu chúng ta chẳng thể hiểu nổi, nên bảo là “bất khả tư” (chẳng thể nghĩ nổi), cũng chẳng thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt, mô tả, bàn luận, hình dung nổi nên nói “bất khả nghị”.

Hiện nay, trước tình trạng xã hội động loạn, bất an, không chỉ là kỳ thị chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị văn hóa, đưa đến vấn đề bạo động, chiến tranh; “trí tuệ thánh minh” trong giáo học Phật pháp giúp chúng ta giải trừ những ngăn cách, xung đột này. Tổng cương lĩnh giáo học của Phật pháp là nói rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Khi chân tướng này đã hiểu rõ rồi thì những vấn nạn của thế kỷ hai mươi mốt liền được giải quyết. Cho nên, giáo dục của Phật Đà rất quan trọng và rất tối cần thiết cho nền hòa bình của thế giới hiện nay. Nhưng, tiếc thay không có người nhận biết, không có người tuyên dương! Trái lại, còn khiến cho đại chúng xã hội sinh ra rất nhiều hiểu lầm: Phật Giáo biến thành tôn giáo!

– Biến thành tôn giáo có gì không tốt?

– Bởi tôn giáo cùng tôn giáo luôn luôn có sự bài xích lẫn nhau. Phật Giáo không phải là tôn giáo, Phật Giáo chỉ giải quyết tất cả vấn đề về giáo dục, nếu đem nó xem thành học thuật cũng được. “Thuật” là phương pháp có lý luận, đích thật giúp chúng ta giải quyết vấn đề cá nhân, vấn đề sự nghiệp, vấn đề quốc gia lẫn vấn đề của thế giới. Đây là học thuật hiện thực.

Đầu năm Dân Quốc, ở Trung Quốc, Đại Sư Âu Dương Cảnh Vô, học trò của Dương Nhân Sơn, có lần diễn giảng đề tài “Phật Giáo không phải là tôn giáo, không phải triết học mà là những điều người đời nay cần đến”. Từ đề giảng này, chúng ta thể hội được: Ông đích thật đã nhận biết, thật đã tỉnh ngộ. Rất tiếc, ông sinh vào thời đại biến loạn, tuy phát đại tâm làm giáo dục, bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp, kế tục tuệ mạng Phật, ông thành lập một Phật Học Viện ở Nam Kinh, chỉ mở được hai năm thì phải đóng cửa! Thời gian tuy ngắn, một số đại Pháp sư, đại cư sĩ đều xuất thân từ Phật Học Viện này. Nếu ông có thể làm được mười năm, hai mươi năm, tôi tin tưởng thế giới ngày nay không đến nổi có nhiều động loạn, tai hại đến như vậy!

Năm 1970, Thang Ân Tỷ, triết học gia nước Anh, tại hội nghị quốc tế, đã đưa ra bài phát biểu, trong đó đề cập đến “chân thật có thể giải quyết được vấn đề của thế kỷ hai mươi mốt, chỉ có học thuyết của Khổng, Mạnh và Phật pháp Đại Thừa”.

Tiên sinh Âu Dương Cảnh Vô đã nói vào khoảng năm 1920, còn Thang Ân Tỷ nói vào năm 1970, cách nhau nửa thế kỷ. Cách nhìn, kiến giải của họ gần như hoàn toàn giống nhau, đều khẳng định Phật pháp Đại Thừa có thể giải quyết được mọi vấn đề.

Để tránh một số danh từ, thuật ngữ trong Phật học khiến nhiều người hiểu lầm cho là mê tín, vừa nghe liền sinh ra bài xích, không thể tiếp nhận, nên lần này chúng ta giảng Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm; tổng đề mục của chúng ta là đôi liễng viết trên cây cột hai bên: “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm”. Tám chữ này, thực tế mà nói chính là toàn thể Phật pháp. Nếu hỏi nội dung của Phật pháp là gì? Tám chữ này đã nói ra hết, một chút cũng không sai, một chút cũng không miễn cưỡng.

“Sư” là gương mẫu, “Phạm” là mô phạm. Phật, Bồ Tát dạy chúng ta phải hiện thực, làm mô phạm, làm gương mẫu cho tất cả mọi người ngay từ trong gia đình, trong nghề nghiệp cho đến ngoài xã hội v.v… Hoạt động của Phật Giáo chính là công tác giáo dục xã hội. Thích Ca Mâu Ni Phật là nhân vật như vậy, suốt đời ngài hoàn toàn tận nghĩa vụ, chân thật hiển thị tấm gương “không tranh với người, không mong ở đời”; đây là chỗ vĩ đại của ngài khiến người sau vô cùng ngưỡng mộ.

– Ngài có trí tuệ vô tận, đức năng vô tận, sao ngài phải bắt đầu từ nơi công việc giáo dục?

– Vì giáo dục không chỉ là nền tảng xây dựng quốc gia mà còn là nền tảng xây dựng thế giới, kiến thiết cơ bản nhất cho tận hư không khắp pháp giới. Chư Phật, Bồ Tát đều làm công việc này, đấy là sự hy sinh phụng hiến, vì tận hư không khắp pháp giới, tất cả chúng sinh mà tạo phước, mà “huệ dĩ chân thật chi lợi” như Kinh Vô Lượng Thọ nói.

Ngày nay, chúng ta đọc phẩm kinh văn này, chí ít phải có cái nhận thức này, sau đó chính mình phải phát đạo tâm, phát Bồ Đề tâm, lập đại chí nguyện, noi gương theo Phật, Bồ Tát, nhất là các đồng tu xuất gia. Có lẽ, khi bạn xuất gia chỉ mơ mơ, hồ hồ mà xuất gia, chưa nhận biết rõ ràng sự việc. Nay xuất gia rồi, vậy xin hỏi bạn:

– Bạn có bằng lòng phát nguyện làm công tác giáo dục xã hội, tận hiến cuộc đời mình vì nghĩa vụ, vì tất cả chúng sinh, không cầu bất cứ báo đáp nào chăng?

– Không bằng lòng thì hoàn tục vẫn tốt! Nếu bằng lòng, đây là rất khó được! Việc xuất gia của bạn xem như rất tốt, bạn đã tường tận, đã thấu hiểu.

Chúng ta phải thật làm! Quyết xả bỏ danh vọng, lợi dưỡng, năm dục sáu trần, bằng lòng trải qua đời sống với mức thấp nhất. Nói là như vậy, nhưng thực tế đời sống người xuất gia hiện nay vẫn trên mức thông thường, không phải là mức thấp nhất. Bạn xem! Buổi tối, mọi người ở đây niệm Phật. Tối nay lại có ba mươi sáu giờ niệm Phật. Bên ngoài Niệm Phật Đường đã bày sẵn những thức ăn, thức uống bổ dưỡng, cúng dường rất phong phú, không phải là mức thấp nhất mà là mức cao. Nhưng phải ghi nhớ, quyết không khởi lòng tham!

– Vì sao Phật dạy chúng ta đời sống phải ở mức thấp nhất?

– Để đoạn xan tham, thành tựu “Giới-Định-Tuệ”, được đại tự tại. Trong thuận cảnh không khởi tâm tham ái, trong nghịch cảnh không có lòng sân hận. Chân thật làm đến được như Kinh Kim Cang nói: “Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng”, đây là tiêu chuẩn tuyệt đối. Nếu đạt được tiêu chuẩn này, bạn liền siêu việt mười pháp giới. Vì sao? Trong mười pháp giới, bốn tướng đều gồm đủ. Lìa khỏi bốn tướng thì mười pháp giới không còn, liền khế nhập vào pháp giới Nhất Chân, thế giới Cực Lạc như trong bổn kinh nói; hay thế giới Hoa Tạng như trên Kinh Hoa Nghiêm nói. Thực tế, Hoa Tạng cùng Cực Lạc là một không phải hai. Cực Lạc là tinh hoa của Hoa Tạng, không hề rời khỏi Hoa Tạng giống như con đường Orchard, khu vực đẹp nhất của trung tâm thành phố Singapore, không hề tách rời khỏi

Chư Phật vô lượng công đức, trí tuệ thánh minh”, còn có một tầng ý nghĩa rất sâu, đó là: Trong tự tánh chúng ta vốn sẵn đầy đủ tất cả công đức, trí tuệ. Việc này trong kinh Đại thừa Thế Tôn có nói, nhưng trong Kinh Tiểu thừa thì Phật không có đề cập.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm “xuất hiện” nói rất rõ ràng “Tất cả chúng sinh đều có trí tuệ, đức tướng của Như Lai”. “Vô lượng công đức” là đức tướng, “Trí tuệ thánh minh” là trí tuệ.

– Vì sao hiện nay chúng ta bỏ mất đi trí tuệ, công đức vô lượng này của chính mình?!

– Sự thật không phải mất; tự tánh vốn đủ làm sao mất được, có chăng là trí tuệ, công đức của chúng ta không khởi được tác dụng!

– Vì sao không khởi được tác dụng?

– Vì có chướng ngại, tuyệt nhiên không phải mất! chỉ cần đem chướng ngại đoạn dứt thì trí tuệ, đức năng sẽ hiện tiền.

– Chướng ngại đó là gì?

– Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Ba chướng ngại này trong Phật pháp gọi là phiền não. “Chấp trước” là “Kiến Tư phiền não”. “Phân biệt” là “Trần Sa phiền não”, “vọng tưởng” là “căn bản vô minh”, hay “Vô Minh phiền não”.

Phật dạy chúng ta phải đoạn trừ phiền não. Trong cuộc sống thường ngày, đối nhân xử thế tiếp vật, chân thật đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xả bỏ. Xả bỏ ở đây không phải là xả bỏ trên sự. Nếu trên sự mà xả bỏ thì mọi công việc đều buông bỏ! Bạn ngày ngày mặc áo ăn cơm; tôi không mặc áo, không ăn cơm, vậy là hiểu sai ý của Phật rồi! Hoặc nghĩ rằng: Chỉ có chết mới buông bỏ. Kỳ thật, chết cũng chưa hết!

Kinh Địa Tạng nói: Sau khi chết, trong vòng bốn mươi chín ngày, họ phải đi đầu thai, đầu thai là chưa buông bỏ. Việc này nhất định phải rõ ràng, tường tận. Lúc lâm chung, khi hơi thở chúng ta chưa dứt Phật vẫn còn cứu được, hơi thở dứt rồi thì hết cứu! Cho nên, hiện tại nhất định phải chăm chỉ, nỗ lực buông bỏ; không phải buông bỏ trên sự mà buông bỏ nơi tâm.

Cư sĩ Bàng Uẩn triều nhà Đường, ông là người tương đối giàu có, học Phật khai ngộ; trong Tông môn gọi là “minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ”. Sau khi ngộ rồi, ông đem gia sản của mình chất lên một chiếc thuyền, bơi thuyền đến giữa sông, đục một cái lỗ nhận chìm nó. Buông bỏ hết! Thảy đều xả hết!

Có người nghi vấn:

Bạch Cư Sĩ! Tài vật ông không cần nữa, sao không đem nó làm những việc từ thiện, cứu tế chúng sinh bần khổ trong xã hội?! Thực tế, việc làm của ông là bảo với mọi người: việc tốt không bằng không việc gì! Ý nghĩa câu nói này rất sâu. Nếu mỗi người đều vô sự thì thiên hạ thái bình! Vô sự, không phải tuyệt nhiên bảo bạn không làm việc mà là không nên đi phan duyên; tùy duyên thì tốt, đời sống sẽ không có vấn đề.

Bàng cư sĩ biết đan dép cỏ. Mỗi ngày đi bán dép cỏ đổi chút ít tiền mua gạo, mua rau. Đời sống trải qua rất tự tại, rất an vui. Ông không cần tiền, không cần tích chứa, cũng không phải nghĩ đến ngày mai. Trong truyện ký nói; người cả nhà ông đều rất tự tại. Một hôm, ông ngồi trong nhà tĩnh tọa, bảo cô con gái ra ngoài xem bây giờ là lúc nào rồi? Cô con gái biết cha mình muốn vãng sinh, xem thử thời gian đến chưa? Cô bèn ra ngoài lớn tiếng nói với ông: Thời gian vẫn chưa đến! Nói xong, cô đứng bên ngoài vãng sinh. Cư sĩ Bàng ra xem, thấy vậy liền nói: Ái chà! Con nhỏ này! Vốn dĩ ta muốn nó  lo hậu sự cho ta, rốt cuộc ta còn phải lo hậu sự cho nó! Nó còn lợi hại hơn ta!

Bạn xem! Sinh tử tự tại, ra đi đẹp đến như vậy! Chỉ có trong Phật pháp tu học, bạn mới có thể đạt đến loại công phu này. Rõ ràng ông và cả gia đình ông đều đã thực sự nhìn thấu, thật sự buông bỏ và thật sự giác ngộ. Không chấp trước chính là buông bỏ, có thể chân thật làm đến được tùy duyên. Tùy duyên chính là buông bỏ, phan duyên là chấp trước. Tùy duyên chính là tùy thuận cơ duyên, vui vẻ mà làm, nỗ lực mà làm, một chút miễn cưỡng cũng không có, làm được rất tự tại, rất an vui, chân thật làm đến được Pháp hỉ sung mãn.

Như thị đẳng chư đại Bồ Tát, vô lượng vô biên nhất thời lai tập(Các vị đại Bồ Tát như thế, vô lượng vô biên đồng đến Pháp hội): Đây là Pháp hội của Kinh Vô Lượng Thọ, Bồ Tát tham dự Pháp hội quá đông, phía trước đã từng giới thiệu qua. Bồ Tát xuất gia, trên kinh chỉ nêu ra ba vị. Bồ Tát tại gia nêu ra mười sáu vị. Trong mười sáu vị, phương này chỉ có một vị là Hiền Hộ Bồ Tát, mười lăm vị còn lại là từ phương khác đến. Việc này chứng minh thế giới phương khác có liên quan mật thiết với chúng ta. Người hiện tại gọi thế giới phương khác là ngoài “Thái Không”, là người ngoài hành tinh; kỳ thật chỗ này nói rộng hơn nhiều so với phạm vi ngoài hành tinh.

Ngày nay, chúng ta có thể thấy được người ngoài hành tinh cùng đồng một không gian với chúng ta. Nếu không gian khác nhau, chúng ta không thể thấy được họ, họ cũng không thấy được chúng ta. Thí dụ: Chúng ta cùng quỷ thần không đồng một không gian duy thứ, tuy cùng ở chung một nơi nhưng chúng ta cư trụ ở không gian ba độ, họ có thể ở không gian bốn độ, năm độ v.v… nên không thể thấy biết được.

Tuy cùng ở một nơi, không gian duy thứ khác nhau, cũng không hề chướng ngại nhau. Giống như chúng ta xem truyền   hình, có rất nhiều kênh đài đều ở trên một màn hình, mở bất cứ một kênh đài nào thì kênh đài đó liền xuất hiện, đều ở trong cái khung nhỏ đó. Phật nói với chúng ta tình huống của mười pháp giới cũng gần giống như vậy, là mười kênh đài.

Hiểu được đạo lý này, người xưa nói: “Tây Phương Tịnh Độ là sanh thì quyết định sanh, đi thì thật không đi”. Lời nói này chúng ta nghe qua có vẻ hồ đồ: Cái gì sanh thì quyết định sanh, đi thì lại không đi, không đi thì làm sao sanh?! Hiện tại hiểu được kênh đài của truyền hình thì liền thể hội được ý này.

– Cái khung đó là gì?

– Là “pháp giới Nhất Chân”!

“Mười pháp giới” không rời khỏi “pháp giới Nhất Chân”

– “Pháp giới Nhất Chân “là như thế nào?

– Hoàn toàn không có duy thứ của “Thời Không” đó gọi là “Pháp giới Nhất Chân”. Cho nên, có thể biết, duy thứ của “Thời Không” gọi là ba độ, bốn độ, năm độ…thậm chí đến vô hạn độ!

– Từ do đâu mà có hiện tượng này?

– Từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà ra! Đem “pháp giới Nhất Chân” biến thành rất nhiều “Thời Không” khác nhau. Nếu đem tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều buông bỏ thì hồi phục được “pháp giới Nhất Chân”. Người trong “pháp giới Nhất Chân” đối với tình hình hoạt động của chúng sinh trong duy thứ “Thời Không” vô hạn, họ đều thấu hiểu. Chúng ta không biết được họ, nhưng họ lại biết được chúng ta. Cho nên, chúng sinh có cảm; Phật, Bồ Tát liền có ứng. Cảm ứng tương thông không thể nghĩ bàn!

KINH VĂN:

Hựu hữu Tỳ kheo ni ngũ bách nhân, thanh tín sĩ thất thiên nhân, thanh tín nữ ngũ bách nhân, Dục giới thiên, Sắc giới thiên, chư thiên phạm chúng, tất cộng đại hội.

VIỆT DỊCH:

Lại có Tỳ kheo ni năm trăm người, thanh tín sĩ bảy ngàn người, thanh tín nữ năm trăm người, trời Dục giới, trời sắc giới, chư thiên Phạm chúng đều cùng đến dự đại hội.

GIẢNG:

Hựu hữu Tỳ kheo ni ngũ bách nhân(Lại có Tỳ kheo ni năm trăm người). Thời xưa, nữ chúng xuất gia ít, Tỳ kheo ni có năm trăm người.

Thanh tín sĩ thất thiên nhân(Thanh tín sĩ bảy ngàn người) “Thanh tín sĩ” là Ưu-bà-tắc (upāsaka), cũng gọi là nam cư sĩ tại gia, có bảy ngàn người.

Thanh tín nữ, ngũ bá nhân(Thanh tín nữ, năm trăm người) “Thanh tín nữ” là Ưu-bà-di (upāsika) là nữ cư sĩ tại gia, có năm trăm người. Phía trước nêu ra đại chúng dự hội: Tỳ kheo, mười hai ngàn người; tỳ kheo ni, năm trăm người; nam cư sĩ bảy ngàn người; nữ cư sĩ, năm trăm người. Tổng cộng là hai mươi ngàn người. Đây là mắt thịt chúng ta có thể xem thấy những đại chúng này.

Thử nghĩ: Vào ba ngàn năm trước, Pháp hội giảng kinh của Thích Ca Mâu Ni Phật, thính chúng có đến hai mươi ngàn người. Lúc đó không có máy phóng thanh, không có thiết bị khoa học. Đức Phật chỉ dùng một âm thanh nói pháp, tất cả chúng sinh tùy loại đều có thể nghe và hiểu. Đây là nói rõ ngôn ngữ của Phật không có chướng ngại về âm thanh, cự ly có cách xa mấy đều có thể nghe thấy  được; cũng không có chướng ngại đối với tất cả khác biệt ngôn ngữ, đây gọi là Diệu âm.

“Dục giới thiên, Sắc giới thiên, chư thiên phạm chúng tất cộng đại hội”: “Dục giới thiên” có sáu tầng trời; đối với ngũ dục: Tài, sắc, danh, thực, thùy họ vẫn chưa đoạn dứt. Thế nhưng, tầng trời càng hướng lên cao, tham ái ngũ dục của họ càng tan nhạt. Tuy có hưởng thụ nhưng họ không có tham ái, cũng chính là nói phân biệt, chấp trước của họ cũng tan nhạt, giảm nhẹ lần.

Đến trời Sắc giới, nơi đây họ đều ở trong thiền định sâu, Định lực của họ khống chế được vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nên không khởi tác dụng. Đối với năm dục, sáu trần tuy chưa đoạn dứt nhưng nhờ sức Định có thể hàng phục được nó, đây là Tứ Thiền của Sắc giới. Nên biết: “thiền” ở đây không có nghĩa là cả ngày từ sớm đến tối ngồi xếp bằng xoay mặt vào vách, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tâm, đó là thiền, vậy thì sai rồi! Thiền đó chẳng dùng vào đâu, một chút tác dụng cũng không có! Chúng ta đọc Lục Tổ Đàn Kinh.

– Đại Sư Huệ Năng có phải ở trong Định không?

– Ngài thật đang ở trong Định!

– Ngài có ngồi thiền không?

– Không có! Ngài mỗi ngày làm việc bận rộn đến không thở ra hơi lấy đâu có thời giờ ngồi thiền.

Trong Đàn Kinh giải thích ý nghĩa của hai chữ “Thiền định” như sau: “Ngoài không dính tướng gọi là Thiền, trong không động tâm gọi là Định”. Cách giải thích “Thiền định” của ngài Huệ Năng là như vậy. Thật sự, ngài chỉ nói ra từ trên Kinh Kim Cang. Trên Kinh Kim Cang nói: “Bất thủ ư tướng như như bất động”. Có thể thấy được thiền không chướng ngại sinh hoạt bạn làm việc.

Chúng ta niệm Phật, nhất định phải niệm đến “nhất tâm bất loạn”. Tâm không điên đảo chính là thiền định, Phật pháp lấy thiền định làm căn bản. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn đều tu thiền định, chỉ là cách thức tu thiền không như nhau, có tu thiền mới có thể khai trí tuệ.

Cho nên, Phật pháp tổng qui nạp là: “Giới-Định-Tuệ” Tam học. “Giới” là như pháp, tu học đúng lý đúng pháp gọi là “Giới”. Tuân thủ lời dạy của Phật trong kinh điển là “Trì giới”. Trì giới giúp chúng ta được Định, có Định mới không bị cảnh giới bên ngoài mê hoặc, trong tâm chính mình có chủ tể. Sau khi được Định liền khai trí tuệ.

Kinh Bát Nhã nói trí tuệ có hai loại:“Căn bản trí” và “hậu đắc trí”. “Căn bản trí” là trí tuệ căn bản, là trí tuệ chân thật, là thể của trí tuệ. Cái thể này là “Bát Nhã vô tri”; chỉ có “vô tri” khởi tác dụng mới là “vô sở bất tri”.

– “Vô tri” là gì?

– “Vô” là không vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, không khởi tâm động niệm. “Tri” là cái gì cũng đều biết. “Vô tri” là “căn bản trí”; “vô sở bất tri” là “Hậu đắc trí”.

Phàm phu chúng ta phân biệt là rơi vào trong ý thức. Nhưng, đối với người liễu đạo thì phân biệt diệc phi ý” (phân biệt cũng không phải là ý). Phân biệt, chấp trước của các ngài là tùy thuận phân biệt, chấp trước của chúng sinh mà phân biệt, chấp trước. Cái phân biệt, chấp trước đó không phải là ý của các ngài. Nếu không tùy thuận phân biệt, chấp trước của chúng sinh thì Đức Phật cũng không cách gì giảng kinh, vậy thì một câu Phật cũng không nói ra! Cho nên, kinh Đại Thừa nói: Phật cùng Phật gặp nhau không có lời nào. Đó là thật! đôi bên đều hiểu thì còn có gì để nói. Phật gặp Bồ Tát vẫn còn phải nói, vì Bồ Tát vẫn có chỗ chưa rõ ràng nên Phật mới nói.

– Ở “Sắc  giới  thiên”,  người  trời  Tứ  Thiền  có  sinh hoạt không?

– Có sinh hoạt, tuyệt đối không thể nói người trời Tứ Thiền ngày ngày đang ngồi thiền! Ngồi đến bao nhiêu kiếp?! Vậy thì một chút ý nghĩa cũng không có! Ai bằng lòng đến đó để làm gì! Không chỉ người trời Tứ Thiền có hoạt động, người ở “Tứ không thiên” cũng có hoạt động. Thế nhưng, trời “Tứ không thiên” không có sắc tướng nên trên kinh không nói đến họ, chỉ nói đến: “Dục giới” và “Sắc giới”, không nói đến “Vô Sắc giới”.

“Chư thiên phạm chúng tất cộng đại hội”: Đây là tổng kết chúng hội mà mắt thịt ta có thể nhìn thấy. Tuy nhiên, số thính chúng mắt thịt không nhìn thấy mới nhiều.

Trong giảng đường này của chúng ta, mắt thịt có thể nhìn thấy có hơn một ngàn người. Nhưng, thính chúng không nhìn thấy thì rất nhiều, đó là nhờ đường truyền chuyển phát đến toàn thế giới. Đồng tu ở Hoa kỳ gọi điện nói với tôi, hiện tại họ cũng đang xem, âm thanh nghe rất rõ. Chúng ta biết trên thế giới có rất nhiều khu vực đồng bộ đang xem trực tiếp trên màn hình, đây là thính chúng mà chúng ta không nhìn thấy. Ngoài ra còn có quỉ thần, chư thiên, chư Phật, Bồ Tát từ mười phương đến cũng đang niệm Phật ở “Niệm Phật Đường’ này với chúng ta.