Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

III. TẤT THÀNH CHÁNH GIÁC ĐỆ THẤT
(TT)

KINH VĂN:

Tư nguyện nhược khắc quả
Đại thiên ưng cảm động
Hư không chư thiên nhân
Đương vũ trân diệu hoa.

VIỆT DỊCH:

Nguyện ấy nếu ắt thành
Đại thiên nên cảm động
Các thiên thần trên không
Nên mưa hoa trân diệu

GIẢNG:

Sách Hội Sớ giảng chữ “khắc quả” như sau: “Khắc là khắc thành tức là chắc chắn đạt được”.

Thay vì nói “khắc quả”, ta thường nói là “quyết định thành tựu”. “Cảm” là cảm ứng, thuộc về chúng sinh; “ứng” thuộc nơi chư Phật, Bồ Tát. Đại ý của bài kệ trên đây là sau khi Pháp Tạng Bồ Tát nói ra hoằng nguyện của mình, ngài cầu thỉnh thánh chúng trong đại thiên thế giới nên ứng hiện điềm lành, chứng minh đại nguyện của ngài phát ra là chân thật bất hư.

Ngài Tịnh Ảnh bảo: “Bài kệ này cầu thỉnh chứng minh bằng cách hiện điềm lành. Nếu tôi quyết định thành tựu, cõi đại thiên nên rúng động, trời mưa xuống hoa nhiệm mầu”. Chữ “” ở đây là động từ nên có nghĩa là từ trên không trung rơi xuống.

KINH VĂN:

Phật cáo A Nan:

Pháp Tạng tỳ kheo thuyết thử tụng dĩ, ứng thời phổ địa lục chủng chấn động, thiên vũ diệu hoa, dĩ tán kỳ thượng. Tự nhiên âm nhạc không trung tán ngôn, quyết định tất thành Vô Thượng Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Phật bảo A Nan:

Pháp Tạng tỳ kheo nói bài tụng ấy xong, ngay khi ấy khắp cõi đất chấn động sáu cách, trời mưa diệu hoa rải lên trên thân ngài. Trên không trung tự nhiên (có tiếng) âm nhạc khen ngợi: “Quyết định ắt thành Vô Thượng Chánh Giác”.

GIẢNG:

Pháp Tạng tỳ kheo nói kệ vừa xong, lập tức có điềm lành ứng hiện nên bảo là “ứng thời” (ngay khi ấy). Đại địa chấn động là tướng lành hiện nơi khí thế gian. Trời đổ mưa hoa, tấu nhạc, khen ngợi là điềm lành ứng hiện nơi hữu tình thế gian, nhằm chứng minh đại nguyện của ngài Pháp Tạng nhất định thành tựu. Chữ “phổ địa” chỉ đại địa trong toàn thế giới. Về “lục chủng chấn động” (sáu thứ chấn động) có ba cách giải thích:

1. Chấn động trong sáu thời điểm, nên gọi là “lục động”, đó là khi Phật nhập thai, khi Phật xuất thai, khi Phật thành đạo, khi Phật chuyển Pháp Luân, khi thiên ma khuyến thỉnh Phật nên xả mạng, khi Phật nhập Niết Bàn.

2.Chấn động cả sáu phương nên gọi là “lục động”. Kinh Đại Phẩm Bát Nhã, quyển một chép: “Nhĩ thời Thế Tôn cố tại sư tử tòa, nhập sư tử Du Hý tam-muội, dĩ thần thông lực cảm động tam thiên đại thiên quốc độ, lục chủng chấn động. Đông dũng, Tây một, Tây dũng, Đông một, Nam dũng Bắc một, Bắc dũng Nam một, biên dũng, trung một, trung dũng, biên một, địa giai nhu nhuyễn, linh chúng sinh hòa duyệt” (Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vẫn ở trên tòa sư tử, nhập Sư Tử Du Hí tam-muội, dùng sức thần thông cảm động ba ngàn đại thiên thế giới, sáu loại chấn động (sáu loại chấn động này chỉ có Bồ Tát biết, phàm phu không biết được): Đông vọt lên,Tây chìm xuống; Tây vọt lên, Đông chìm xuống; Nam vọt lên, Bắc chìm xuống; Bắc vọt lên, Nam chìm xuống; khắp chung quanh nổi lên, chính giữa chìm xuống, chính giữa nổi lên, chung quanh chìm xuống. Cả mặt đất đều nhu nhuyễn khiến chúng sinh vui thích).

Như vậy, sáu phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung, Biên bị chấn động nên gọi là “lục động”. Đây là Phật thị hiện đại tự tại, cho nên ngài có thể giáo hóa chúng sanh khắp hư không biến pháp giới.

Chữ “dũng” tức là xuất hiện, là hiện thân, ở đâu có cảm, ở đó liền có ứng .

3. Sáu tướng chấn động: Do chấn động sáu cách nên gọi là “lục động”. Bản dịch Kinh Hoa Nghiêm đời Tấn (bộ Kinh Hoa Nghiêm này gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm, phiên dịch lần thứ nhất vào đời nhà Tấn. Phiên dịch lần thứ hai vào đời nhà Đường (Võ Tắc Thiên chấp chánh), ngài Thật Xoa Nan Đà đem đến Trung Quốc bản tiếng Phạn, phiên dịch thành tám mươi quyển gọi là Bát Thập Hoa Nghiêm cũng gọi là Đường Kinh, Võ Tắc Thiên làm Hoàng Đế chưa bao lâu, đổi quốc hiệu thành nhà Chu. Cho nên ,bộ kinh này cũng gọi là “Đại Chu Kinh”.

“Đại Chu Kinh” chính là Bát Thập Hoa Nghiêm. Lần phiên dịch thứ ba là của Đại Đường Tông, năm Trinh Nguyên, phiên dịch “Tứ Thập Hoa Nghiêm” tức là phẩm sau cùng của Kinh Hoa Nghiêm: Phẩm Nhập Pháp Giới. Tất cả tổng cộng có ba lần phiên dịch). Bản dịch kinh Hoa Nghiêm đời Tấn nói: “động, khởi, dũng, chấn, hống, giác” là “lục động”. “Động” là dao động, đong đưa trái phải, trước sau. “Khởi” là động nhô lên cao. Dũng” là động lồi lõm (lồi lên, lõm xuống). Ba loại này là hình thái của “động”. Ba loại sau là động của âm thanh. Chữ “chấn” là chấn động vang ra âm thanh nhỏ. Chữ “hống” là chấn động có âm thanh rất lớn, tiếng vang rền; “giác” là khiến cho chúng sinh có thể giác ngộ trong chấn động này.

Sáu loại chấn động trên đây, trong ba cách giải thích. Cách thứ nhất nói về thời điểm chấn động “Bát tướng thành đạo”, biểu thị hành nghi một đời của Phật Thích Ca Mâu Ni nên có điềm lành này. Hai cách giải thích sau là nói tướng chấn động. Đại Trí Độ Luận, quyển tám nói: “Vì sao Phật chấn động tam thiên đại thiên thế giới? Đáp: Vì muốn cho chúng sinh biết rằng hết thảy đều là không, vô thường. Hơn nữa, giống như người muốn nhuộm áo, trước hết phải

rũ bỏ bụi đất, đức Phật cũng giống như thế: Trước hết khiến cho chúng sinh trong tam thiên đại thiên thấy được thần lực của Phật sinh tâm kính trọng, nhu thuận; sau đấy, Phật mới thuyết pháp. Vì vậy, Phật chấn động cõi đất sáu cách”.

Hòa Thượng Tịnh Không bảo sáu loại chấn động này có thể hình dung đại địa chấn, khiến có người sẽ nghĩ:

– Pháp Tạng vừa hứa nguyện xong, liền xảy ra địa chấn! Rất có thể khiến nhiều chúng sinh bị tai nạn, đây không phải là việc tốt!

– Nghĩ vậy là “Y kinh diễn nghĩa, tam thế Phật oan!”. Thâm nghĩa chỗ này là: Chư Phật, Bồ Tát giảng kinh nói pháp, phát hoằng thệ nguyện đều chấn động lòng người, cảm động sâu sắc đối với tất cả chúng sinh. Đây không phải mặt đất chấn động mà là tâm địa chúng sinh hữu tình bị cảm động. Chỗ này nói chư thiên thần tán hoa, là ý nói họ hoan hỉ tán thán.

– Chúng sinh vô tình cũng bị cảm động, cảm động như thế nào?

– Chúng ta tuyệt nhiên không hề cảm giác được, không hề thấy dao động của địa chấn. Nhưng, trong âm thầm đã có sự biến chuyển thay đổi địa chất. Đây chính là trong kinh Phật thường nói: “Y báo tùy theo chánh báo chuyển”. Cách nói này bạn vẫn không dễ gì thể hội, tôi đổi một câu nói khác: “Phong thủy thay đổi rồi, địa lý liền biến đổi”. Cho nên có câu: “Người phước ở đất phước, đất phước người phước ở”.

Hiện tại chúng ta muốn thay đổi phong thủy đâu cần phải mời những tiên sinh xem phong thủy, chúng ta thay đổi ngay từ tâm địa của chính mình. Tâm địa chúng ta thanh tịnh, lương thiện thì hoàn cảnh cư trú liền thay đổi tốt; người nước ngoài gọi là từ trường, người Trung Quốc gọi là khí phần; ngạn ngữ gọi là “địa linh nhân kiệt”.

Người ở đây là hào kiệt thì đất liền có linh khí, chữ “chấn động” là nói cái ý này.

Thông thường nói cảm động người thì dễ hiểu; cảm động thiên địa quỉ thần cũng có thể miễn cưỡng đồng ý, vì thiên địa quỉ thần cũng là chúng sinh hữu tình, nhưng nói cảm động đến cây cối, cỏ hoa, sông, núi, đất đai thì rất khó tin! Đạo lý này sâu, nhưng tuyệt nhiên không khó hiểu! Bạn xem những người chăm sóc hoa cỏ, họ đối với những chậu hoa này đích thật là có lòng yêu thương nên hoa nở rất đẹp. Do đây có thể biết: Thực vật cũng có cảm tình, không chỉ thực vật có cảm tình mà khoáng vật cũng có cảm tình, núi sông đất đai đều có cảm tình.

Kinh Hoa Nghiêm có nói đến thần cây, thần hoa, thần sông, thần hồ, sơn thần, thủy thần v.v…; như vậy, có thể biết tất cả vạn vật thảy đều thông linh. Truy tìm nguồn cội của nó, Phật nói rất hay: “Bổn thị đồng căn sanh, giai thị duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, chúng làm sao mà không bị cảm động! Chúng ta vừa khởi tâm động niệm liền “chu biến pháp giới”, cảm ứng với mười phương hư không pháp giới tất cả chúng sinh. Cảm ứng này hiện nay khoa học gọi là hiện tượng của sóng động. Tốc độ của làn sóng tư tưởng chuyển đi rất nhanh; so với tốc độ của ánh sáng, của sóng điện từ, không biết là nhanh hơn gấp bao nhiêu lần! Ngôn ngữ âm thanh của chúng ta đều có hiện tượng sóng động; sóng động này là thuộc về vật chất, tốc độ tương đối chậm hơn làn sóng tư tưởng nhưng vẫn là tận hư không khắp pháp giới.

Ở đây, khắp cõi đất chấn động sáu cách để ứng với lời thệ nguyện của Pháp Tạng Đại Sĩ. “Đại thiên ưng cảm động” (Đại thiên nên cảm động) đồng thời cũng biểu thị: Nay Đại sĩ phát nguyện, tương lai sẽ chuyển vô thượng đại pháp luân.

Gia Tường Sớ giảng: “Đất động biểu thị hạnh nhân (hạnh nguyện là cái nhân để đắc quả), mưa hoa biểu thị ắt được chứng quả (có hoa ắt sẽ có quả). Tự nhiên có âm nhạc chứng tỏ sẽ đắc cõi vui mầu nhiệm, thuyết pháp giáo hóa chúng sinh.”

Sách Hội Sớ giảng câu: “Tán ngôn quyết định tất thành Vô Thượng Chánh Giác” (khen ngợi rằng quyết định ắt thành Vô Thượng Chánh Giác) như sau: “Chắc chắn đắc quả không còn nghi ngờ gì nữa nên nói là ‘quyết định’. Bởi đấy là sự khẳng định chắc chắn nhất trong những lời đoan chắc nên bảo là ‘tất thành’ (ắt thành). Vô Thượng Chánh Giác là Phật quả, không gì hơn nổi Phật quả nên bảo là Vô Thượng”.

– Vì sao ngay khi Pháp Tạng Đại Sĩ vừa phát nguyện xong, trên không trung liền có tiếng khen rằng: “Quyết định ắt thành Vô Thượng Chánh Giác”?

– Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận giảng điều này rất tinh xác, đại ý tóm lược như sau:

Nhất thiết Phật độ, bất ly chúng sinh nhất niệm thanh tịnh tâm nhi đắc thành lập” (Hết thảy cõi Phật chẳng thể được thành lập riêng ngoài một niệm trong cái tâm thanh tịnh của chúng sinh). Tất cả “Phật độ”, đây chính là nói mười pháp giới y chánh trang nghiêm, không lìa chúng sinh một niệm tâm thanh tịnh mà được thành lập. Cho nên mới nói “tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”.

Hiện tại, chúng ta xem truyền hình có rất nhiều kênh đài. Đây là nói rõ: Thế giới chúng ta, thế giới Cực Lạc, thế giới thiên nhiên v.v… chỉ khác nhau ở kênh đài, tất cả đều hiển hiện trên cùng một màn hình. Tâm chúng ta không thanh tịnh nên xem thấy mọi thứ xung quanh đều là uế độ của thế giới Ta Bà. Nếu hồi phục đến một niệm thanh tịnh, chúng ta liền lập tức thấy được tất cả đều là Tịnh Độ, Phật Độ.

Khoa học ngày nay phát hiện: Không gian là đa duy thứ, nên gọi là hai độ không gian, ba độ không gian, bốn độ không gian v.v… Từ trên lý luận mà nói, có vô hạn không gian duy thứ, đây là khoa học khẳng định. Nếu đột phá được tất cả những không gian duy thứ thì thế giới Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng, pháp giới Nhất Chân liền xuất hiện. Việc này thật không dễ dàng!

Khoa học hiện nay vẫn không biết dùng phương pháp gì để đột phá! Sự hình thành của không gian duy thứ họ cũng không biết! Nhưng Phật thì rất rõ ràng: Không gian duy thứ là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của tất cả chúng sinh mà hình thành. Muốn đột phá những không gian duy thứ này, phải buông xả hết tất cả những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì “một niệm tâm thanh tịnh” mới hiện tiền. Lúc bấy giờ, hư không pháp giới là Phật Độ, thế giới Hoa Tạng, thế giới Cực Lạc chính ngay trước mắt. Cho nên, người chân thật tu hành chứng quả, đích thật trong mắt họ: Thế giới này là thế giới Nhất Chân; thấy chúng sinh đại địa tất cả đều thành Phật.

Kinh Vô Lượng Thọ Khởi Tín Luận lại nói: “Pháp Tạng Đại Sĩ phát thử hoằng nguyện, kỳ vi phá trừ chúng sinh vọng chấp, khai hiển đương nhân bổn hữu tâm lượng, linh tri Tịnh Độ tức thị pháp tánh bổn nhiên, phi tùng ngoại đắc. Hà dĩ cố? –Tự Tánh không tịch ly chư ác thú” (Pháp Tạng Đại Sĩ phát ra thệ nguyện rộng sâu như vậy chỉ nhằm phá trừ vọng chấp của chúng sinh, khai hiển tâm lượng vốn có của đương cơ khiến họ biết được rằng Tịnh Độ chính là Pháp tánh vốn sẵn như vậy, chẳng phải từ cái nào khác mà được. Vì sao vậy? Tự tánh không tịch, lìa các đường ác).

Cư sĩ Bành Tế Thanh đích thật không đơn giản! Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Mấy câu nói trên đây của ông, nếu không phải là người tái sinh thì không thể nói ra được. Đây là một Bồ Tát tại gia, ông là người của thời đại Càn Long, triều nhà Thanh. Phụ thân  ông

làm quan đến chức Binh Bộ Thượng Thư của Hoàng Đế Càn Long. Dùng quan vị hiện tại mà nói là Bộ Trưởng Quốc Phòng. Cho nên, ông là con cháu của nhà quyền quí, ông rất thông minh. Chúng ta xem thấy trong truyện ký: Khoảng hai mươi tuổi ông đã đỗ tấn sĩ. Tấn sĩ là học vị cao nhất thời đó. Dùng lời hiện tại mà nói thì tương đương với học vị Tiến Sĩ hiện tại.

Con người này thiện căn sâu dày, hoàn cảnh gia đình tốt, thi đỗ Tiến sĩ nhưng không làm quan. Ông học Phật trình độ rất cao. Chú giải Kinh Vô Lượng Thọ của ông gọi là Kinh Vô Lượng Thọ Khởi Tín Luận, cũng chính là bổn tiết lục của ông từ quyển của Phan Tăng Khải rút gọn lại mà thành. Mấy câu nói này của Bành Tế Thanh rất hay: Tỳ kheo Pháp Tạng phát ra hoằng nguyện (chỉ bốn mươi tám nguyện đã nói trong phẩm thứ sáu) cho đến mười bài kệ trong phẩm này, mục đích không ngoài giúp chúng sinh phá trừ vọng chấp, khai hiển tâm lượng vốn có của đương cơ, khiến họ biết được rằng Tịnh Độ chính là pháp tánh vốn sẵn như vậy, chẳng phải từ cái nào khác mà được. Vì sao vậy? Ở đây chỉ nêu sơ lược đại ý của Bành Tế Thanh như sau:

Tự tánh không tịch ly chư ác thú (Tự tánh không tịch, lìa khỏi các đường ác). Cái “ác thú” này là nói mười pháp giới, không riêng chỉ cho ba đường ác; sáu cõi là ác thú mà mười pháp giới vẫn là ác thú. Dùng lời của khoa học gia mà nói: Tất cả không gian duy thứ đều thuộc về ác thú. Đột phá được toàn bộ không gian duy thứ mới gọi là “Nhất Chân pháp giới thanh tịnh bổn nhiên”. Trong cảnh giới này, như Phật đã nói trên tất cả kinh:

Tự tánh diệu viên, cụ chư tướng hảo (Tự tánh trọn vẹn mầu nhiệm, có đủ các tướng hảo) là nói “Như Lai Trí Tuệ đức tướng”: Trí tuệ viên mãn, đức năng viên mãn, tướng hảo viên mãn. Cho nên, Phật biết rõ ràng tường tận căn bệnh của tất cả chúng sinh ở chỗ nào? Gốc bệnh từ đâu? Chân thật là đối bệnh cho thuốc, thuốc đến thì bệnh khỏi. Giáo học trong Phật pháp rất là hữu dụng, rất là hiện thực, học rồi thì lập tức có được thọ dụng, liền được có chỗ tốt.

Đầu năm Dân Quốc, Đại Sư Âu Dương Cảnh Vô nói rất hay: “Phật pháp không phải tôn giáo, không phải triết học, mà là thứ người đời nay cần đến”. Không thể không học! Không học không thể giải quyết vấn đề! Không học không thể lìa khổ!

Tự tánh vô ngại hiện lục thần thông (hiện sáu thần thông): Chính là hồi phục năng lực, hồi phục đức năng.

Tự tánh vô trụ bất khả đoạn diệt (chẳng thể đoạn diệt).

Tự tánh vô tác, vô hữu hạn lượng (chẳng có hạn lượng).

Tự tánh vô ngoại, như phong quảng bị (tự tánh chẳng phải ở ngoài như gió thổi khắp nơi).

Tự tánh vô nội như kính phổ hiện (tự tánh chẳng ở trong, như gương soi tất cả). Đây đều thuộc về vạn đức, vạn năng của tự tánh mà chúng ta thường nói: tự tánh vốn đủ, viên mãn tròn đầy không chút kém khuyết.

Tự tánh quang minh như nhật phổ chiếu (như mặt trời chiếu khắp nơi)

Tự tánh bình đẳng như hương, phổ huân (như hương xông khắp mọi chốn).

Bồ Tát tùy thuận tâm không tịch, tâm diệu viên, tâm vô ngại, tâm vô trụ, tâm vô tác, tâm không ngoài, tâm không trong, tâm quang minh, tâm bình đẳng sẵn có trong tự tánh của chúng sinh để trang nghiêm cõi Phật. Bồ Tát thị hiện ứng thế chính là:

Tự tánh hằng thuận chúng sinh: Câu nói này nhắc nhỡ rất hay! Chữ “hằng thuận chúng sinh” không có nghĩa là chúng sinh

làm ác, chúng ta cũng làm ác theo họ. Chúng sinh ăn trộm, ta cũng giúp họ ăn trộm, vậy thì sai rồi! Đây chính là “Từ bi đa họa hại, phương tiện xuất hạ lưu”. Nhà Phật thường nói: “Từ bi vi bổn, phương tiện vi môn” (Từ bi là gốc, phương tiện là cửa).

– Vì sao lại nói họa hại, hạ lưu?

– Trong đây ý nói: Bạn tùy thuận tự tánh chúng sinh, đây là thiện, đây là gốc, đây là phương tiện. Nếu bạn tùy thuận phiền não của chúng sinh, tùy thuận ác nghiệp của chúng sinh, đây chính là “họa hại”, chính là “hạ lưu”. Việc này không thể không phân biệt rõ ràng. Tùy thuận là tùy thuận trí tuệ, tùy thuận lý tánh, không phải tùy thuận cảm tình, tùy thuận nhân tình, vậy đều là hỏng việc! Chúng ta học Phật phải hiểu rõ đạo lý này. “Tự tánh vốn đủ”, chúng ta thường nói: Tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm Chánh Giác, tâm từ bi; chúng ta phải tùy thuận những tâm này.

– Mặt trái của tâm chân thành là tâm hư ngụy.

– Mặt trái của tâm thanh tịnh là tâm ô nhiễm.

– Mặt trái của tâm bình đẳng là tâm ngạo mạn, đố kỵ

– Mặt trái của tâm Chánh Giác là tâm ngu si.

– Mặt trái của tâm từ bi là tâm tự tư tự lợi.

Những thứ đó không thể tùy thuận! Trang nghiêm quốc độ là phải tùy thuận thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi. Cho nên, tổng quan bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, mỗi nguyện chính là cái tâm sẵn có của chúng sinh. Dùng tự tâm để trang nghiêm tự tâm, trang nghiêm cõi của chính mình như nước xuôi về biển, như âm vang ứng theo tiếng. Tâm và cõi chẳng hai, nhân quả đồng thời, nên Pháp Tạng phát nguyện xong, trên không trung liền có tiếng khen ngợi: “Quyết định ắt thành Vô Thượng Chánh Giác”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không, cái tán thán này tuyệt nhiên không phải tán thán để Pháp Tạng nghe, mà cho chúng ta nghe. Chúng ta nghe rồi thể hội được phải tu hành như vậy, chắc chắn sẽ thành Vô Thượng Đạo. Lời tán thán này chính là chư Phật Như Lai, long thiên thiện thần đang khuyên chúng ta phải tu Tịnh Độ. Cái nhân không thể nghĩ bàn chắc chắn được quả không thể nghĩ bàn. Mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai. Không vị nào mà không Niệm Phật thành Phật. Chúng ta chuyên chí nơi Tịnh Độ phải nên tin nhận điều này.


IV. TÍCH CÔNG LŨY ĐỨC ĐỆ BÁT

KINH VĂN:

A Nan! Pháp Tạng tỳ kheo ư Thế Tự Tại Vương Như Lai tiền, cập chư thiên nhân đại chúng chi trung, phát tư hoằng thệ nguyện dĩ, trụ Chân Thật Tuệ, dũng mãnh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí trang nghiêm diệu độ. Sở tu Phật quốc, khai khuếch quảng đại, siêu thắng độc diệu, kiến lập thường nhiên, vô suy vô biến.

VIỆT DỊCH:

A Nan! Pháp Tạng tỳ kheo ở trước Thế Tự Tại Vương Như Lai và giữa đại chúng trời, người phát hoằng thệ nguyện ấy xong, trụ Chân Thật Tuệ, dũng mãnh tinh tấn, một dạ chuyên chí trang nghiêm cõi mầu nhiệm. Ngài tu cõi Phật bao la, rộng lớn, siêu thắng, độc diệu, kiến lập thường nhiên, chẳng suy, chẳng biến.

GIẢNG:

Pháp Tạng Bồ Tát ở trước đức Thế Tự Tại Vương Như Lai và đại chúng tuyên nói “hoằng thệ nguyện” như phần trước đã thuật. “Hoằng” là sâu rộng. Chữ “hoằng thệ nguyện” thường dùng để chỉ chung tất cả những lời thệ nguyện rộng lớn của chư Phật, Bồ Tát. Ở đây “tư hoằng thệ nguyện(hoằng thệ nguyện ấy) nhằm chỉ riêng bốn mươi tám nguyện của Pháp Tạng Bồ Tát. Trong câu đầu của phẩm này đã nói ngay: “Trụ Chân Thật Tuệ, một câu ngắn gọn này chính là căn bản của Bồ Tát tu hành chứng quả. Phẩm Đức Tuân Phổ Hiền của kinh này từng nói: “Khai hóa, hiển thị Chân Thật Tế”. Phẩm Đại Giáo Duyên Khởi nói: “Dục chửng quần manh, huệ dĩ chân thật chi lợi” (Muốn cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chân thật). Phẩm này nói: “Trụ Chân Thật Tuệ”. Ba câu tuy khác nhưng cùng một ý nghĩa.

“Chân” là Chân Như, “Thật” là Thật Tướng. Kinh Quán Phật Tam-Muội nói: “Phật địa quả đức, Chân Như Thật Tướng, Đệ Nhất Nghĩa Không”. Cội rễ cùng cực của Chân Như Thật Tướng gọi là Chân Thật Tế. “Đương lai nhất thiết hàm linh giai nhân Di Đà Nhất thừa nguyện hải, lục tự hồng danh nhi đắc độ thoát” (Hết thảy hàm linh trong đời tương lai đều do Nhất thừa nguyện hải của Phật A Di Đà, sáu chữ hồng danh mà được độ thoát), đó là Chân Thật Chi Lợi (cái lợi chân thật). Hiển thị được “Chân Thật Tế” ấy, ban cho cái lợi chân thật, ấy chính là Chân Thật Tuệ. Có thể nói: Đem tâm an trụ trong câu A Di Đà Phật, đó là “Trụ Chân Thật Tuệ”. Chân Thật Tuệ dẫn dắt chúng ta vượt thoát sáu cõi luân hồi đến thế giới Nhất Chân, cõi Tây Phương Cực Lạc. Chân Thật Tuệ cũng chính là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là thể của Chân Thật Tuệ; Chân Thật Tuệ là tác dụng của tâm thanh tịnh. Hay ngược lại: Chân Thật Tuệ là thể của tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là thọ dụng của Chân Thật Tuệ.

Nhớ lại câu chuyện của Hòa Thượng Đàm Hư kể, có ghi chép trong quyển Ảnh Trần Hồi Ức Lục. Câu chuyện kể về chùa Cực Lạc ở Cáp Nhĩ Tân, Hắc Long giang, có một người xuất gia ở chùa Cực Lạc vãng sinh, đó là Pháp Sư Tu Vô, xảy ra vào đầu năm Dân Quốc. Vị xuất gia này không biết chữ. Trước khi xuất gia, ông là thợ hồ rất khổ. Do cảm nhận nhân sinh quá khổ, sau đó ông xuất gia. Ngoài việc đảm trách công việc trong chùa, những việc mà người khác không muốn làm, ông duy nhất chỉ niệm rốt ráo một câu “A Di Đà Phật”, ngoài ra đều không biết gì cả. Lúc đó, đệ tử của Hòa Thượng Đế Nhàn là Pháp Sư Đàm Hư xây chùa Cực Lạc ở Cáp Nhĩ Tân. Khi chùa xây xong liền cung thỉnh Hòa Thượng Đế Nhàn đến truyền giới. Nhờ lần truyền giới này khiến chùa Cực Lạc nổi   tiếng khắp nơi, đạo tràng hưng thịnh. Giới đàn hình như kéo dài khoảng hai, ba tháng, rất cần người làm công quả. Sư Tu Vô liền đến tình nguyện phục vụ giới đàn. Tri sự giám viện là thầy Định Tây (sau này đến Hồng Kông) hỏi Sư Tu Vô:

– Sư có thể làm gì? Sư nói:

– Tôi có thể chăm sóc bệnh nhân.

Thầy liền giao việc này cho Sư. Suốt thời gian mở giới đàn khó tránh gặp những trường hợp giới tử bị bệnh nhẹ như cảm gió, sốt v.v…, cần có người chăm sóc; Sư Tu Vô nhận trách nhiệm này. Ở được mười mấy ngày, Sư bèn đến tìm Hòa Thượng để xin từ biệt. Pháp Sư Đàm Hư là người giảng kinh, dạy học có tu dưỡng, có học vấn, không trách cứ gì Sư, đến đi tự do, Sư có việc muốn đi thì cứ đi. Nhưng, thầy Định Tây thì không vui, bèn mắng Sư Tu Vô một trận:

–  Sao thầy không có định lực gì vậy! Giới đàn chỉ có hơn hai tháng, nay mới ở được mười mấy ngày, phát tâm đến đây, bây giờ lại muốn đi! Sư nói:

–  Bạch Hòa Thượng! Không phải con đi nơi khác mà con vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc!

Cả hai vị Hòa Thượng nghe xong ngẫn người!

– Thầy biết trước giờ chết ư?

– Thật vậy!

–  Còn khoảng bao lâu?

– Không quá mười ngày!

Nhờ chùa chuẩn bị cho Sư hai trăm cân củi để hỏa thiêu. Thầy Định Tây nghe thế, trước giờ chưa từng gặp trường hợp này, thật không đơn giản! Thật khó được! Cũng rất hoan hỉ nghĩ rằng: Đang thời kỳ mở giới đàn, có người vãng sinh thế giới Cực Lạc, biết trước giờ chết, đây là tướng lành chứng minh cho mọi người: Niệm Phật là thật không phải giả! Đến ngày thứ hai, Sư Tu Vô lại tìm đến nói với Hòa Thượng:

-Ngày mai con đi! Hôm nay xin ngài nhanh chóng chuẩn bị. Thầy Định Tây bèn giúp Sư chuẩn bị một gian phòng. Sư thỉnh cầu tìm vài người đến trợ niệm đưa Sư vãng sinh. Tin tức vừa truyền ra, liền có số người phát tâm đến trợ niệm cho Sư. Khi đi Sư rất an tường, không bệnh hoạn. Trước khi trợ niệm, mấy đồng tu này yêu cầu Sư lưu lại vài bài kệ cho họ làm kỷ niệm.

– Sư nói: Tôi xuất thân thô hèn, không được học hành, cũng không hiểu kinh giáo, không biết làm kệ, chỉ có một câu nhắn nhũ với mọi người: “Nói mà không thực hành không phải là trí tuệ chân thật”!

Câu nói này rất có đạo lý! Bạn học kinh giáo, nói rất hay, nhưng bản thân không thực hành, đây không phải là Trí tuệ chân thật. Lời Sư Tu Vô nói tương ưng với trong kinh này nói: Trí tuệ chân thật mới thật sự đem lại lợi ích.

Mọi người niệm Phật chưa đến một khắc thì Sư ra đi. Sau khi hỏa thiêu lưu lại xá lợi được thờ tại chùa. Những năm sau này, Hòa Thượng Đàm Hư sang trú ở Hồng Kông và cũng vãng sinh tại đây. Trong lúc giảng kinh hay tổ chức Phật thất, Phật sự, ngài thường nhắc đến câu chuyện này để khuyến tấn mọi người: Đây là niệm Phật thành tựu. Trong đời ngài tận mắt chứng kiến người niệm Phật vãng sinh, đều là người thật thà, rất giữ qui củ, tâm địa rất thanh tịnh, không nề hà gian khổ. Người khéo léo, nhanh nhẹn không có ai thành tựu! Cho nên: Thật thà, nghe lời, thực hành chắc chắn sẽ thành tựu. Đến chùa Cực Lạc tham quan, đừng quên đảnh lễ tháp của Sư Tu Vô.

Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển hai giảng chữ “Tuệ” như sau: “Xét theo hành phương tiện thì quán sát thông suốt là Tuệ.

Nếu luận theo Thật Đế thì Thể của chân tâm sáng tỏ, tự tánh không tăm tối thì gọi là Tuệ”. Như vậy, hiểu rõ bản tâm, thấy rõ bản tánh mới gọi là “Tuệ”.

Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển hai giảng chữ “chân thật” như sau: “Pháp tuyệt các vọng chấp là chân thật”. Như vậy “chân thật” là cái chân thật lìa khỏi vọng niệm ,tức là tự tánh thanh tịnh tâm. Bồ Tát Pháp Tạng kiến lập thế giới Tây Phương Cực Lạc, bốn mươi tám nguyện là kế hoạch, là lý tưởng của ngài. Lúc nào ngài cũng kiên trì “dõng mãnh, tinh tấn”, “chuyên chí trang nghiêm diệu độ, đây chính là “trụ Chân Thật Tuệ”. Nếu không “Trụ Chân Thật Tuệ”, cho dù ngài có tu hành đến năm kiếp cũng không thành công.

Nên nhớ “Chân Thật Tế” là Pháp Thân đức; “Chân Thật Lợi” là Giải Thoát đức; “Chân Thật Tuệ” là Bát Nhã đức. Ba điều “chân thật” này cũng chính là ba đức của Niết Bàn, như ba chấm trong chữ Y, người xưa nói: Đứng như chiếc đỉnh ba chân không hợp, không lìa, không ngang, không dọc, một tức là ba, ba tức là một. Phần trước nói về diệu hạnh, trong kinh này buông ngay một câu “Trụ Chân Thật Tuệ”, chẳng khác nào như câu “vẽ rồng điểm mắt”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Đây là đặc biệt nhắc nhỡ chúng ta phải đem trí tuệ xếp ở hàng đầu, phải khai phát trí tuệ. Chỉ có trí tuệ chân thật mới vượt qua được sóng to gió lớn, như như bất động; không có trí tuệ chân thật, chỉ một gợn sóng hay một cơn gió nhẹ cũng đủ khiến tâm ta tán loạn, tập khí phiền não liền hiện tiền, do vậy mà không thể thành tựu. Thử hỏi:

Những người không có văn hóa, không biết chữ, không biết bất cứ thứ gì, mỗi ngày từ sớm đến tối chỉ một câu “A Di Đà Phật”, họ cũng vãng sinh tướng lành hy hữu, vậy họ có trí tuệ chăng?

– Có! Họ trụ Chân Thật Tuệ, còn mạnh hơn ta!

– Chân Thật Tuệ là gì?

– Một câu “Nam mô A Di Đà Phật”, trong tâm họ chỉ có câu này, ngoài ra không nghĩ tưởng gì hết. Đây là Chân Thật Tuệ.

Chúng ta không thể so sánh với họ. Tâm chúng ta, một ngày từ sớm đến tối nghĩ tưởng xằng bậy! Chúng ta trụ trong phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Đây không phải là Chân Thật Tuệ. Cũng có thể nói: Chân Thật Tế là Phật Bảo, A Di Đà Phật làm đại biểu. Chân Thật Tuệ là Pháp Bảo: Nếu nói rộng ra, pháp tạng của tất cả mười phương chư Phật đều là Chân Thật Tuệ. Nếu nói sơ lược tức là, Kinh Đại thừa Vô Lượng Thọ. Chân Thật Lợi là Tăng Bảo. Nếu dùng người làm đại biểu thì ngài Đại Thế Chí Bồ Tát đại biểu cho Chân Thật Tuệ, ngài trụ trong một câu “A Di Đà Phật”, niệm đến cùng “đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai”, đây mới là Chân Thật Tuệ. Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát đại biểu ban cho chúng sinh Chân Thật Lợi.

Nếu từ phương diện cứu cánh mà nói: Rất nhiều kinh luận có cứu cánh nhưng không phương tiện, như Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Pháp Hoa là cứu cánh nhưng phương pháp tu hành rất phức tạp, rất khó khăn tức là không phương tiện. Có những kinh điển là phương tiện như kinh điển Tiểu thừa nhưng không phải là cứu cánh. Nói đến cứu cánh nhất và phương tiện nhất tức là ba bộ kinh: Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà. Ba bộ kinh này đều là cứu cánh phương tiện; chọn bất cứ bộ nào tu cũng đều có thành tựu.

Nếu từ trên hành môn mà nói, tức là qui đến câu danh hiệu này. Nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật là danh hiệu công đức bất khả tư nghị. Cho nên, trên kinh khuyến khích chúng ta dũng mãnh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí trang nghiêm diệu độ. Hai chữ “diệu độ” tức    là Tây Phương Tịnh Độ. Làm thế nào “trang nghiêm diệu độ”? Trụ Chân Thật Tuệ” là nhập một pháp cú, một pháp cú là “Chân thật trí tuệ, vô vi Pháp Thân”, là chân thật trang nghiêm Tịnh Độ, trang nghiêm A-Di- Đà Phật, trang nghiêm hải hội đại chúng. “Dũng mãnh tinh tấn” là không gián đoạn, không tạp loạn. “Nhất hướng chuyên chí” (Một dạ dốc chí) là tâm chí chuyên nhất. “Diệu độ” là cõi nước tinh diệu, mỹ lệ tuyệt luân chẳng thể nghĩ bàn. “Trang nghiêm”, cách nói thông thường là “chân, thiện, mỹ, tuệ”.

Trong phẩm Lễ Cúng Thính Pháp, đệ nhị thập lục của Kinh Vô Lượng Thọ, A Di Đà Phật bảo các vị Chánh Sĩ từ mười phương đến dự pháp hội rằng: “Thông đạt chư Pháp tánh, nhất thiết không, vô ngã, chuyên cầu tịnh Phật độ, tất thành như thị sát”. (Thông đạt các pháp tánh, hết thảy không, vô ngã, chuyên cầu tịnh Phật độ, ắt thành tựu được cõi nước như cõi này). Lời dạy này đã vạch trần chánh nhân Tịnh Độ, thật chẳng khác với câu “Trụ Chân Thật Tuệ” trong đoạn này, vì “Nhất thiết không, vô ngã, chuyên cầu Tịnh Độ” chính là Chân Thật Tuệ.

“Chuyên cầu Tịnh Độ”, an trụ trong “nhất thiết không” (hết thảy không) chính là chân thật trang nghiêm cõi nước. “Chung nhật độ sanh, vô sanh khả độ. Trang nghiêm Phật độ, Phật quốc ly tướng, Kiến lập đạo tràng, đại tác mộng trung Phật sự, viên tu viên chứng”. Không thấy có chúng sinh nào để độ mới là độ sanh. Trang nghiêm cõi Phật, cõi Phật ly tướng, kiến lập đạo tràng, “bóng trăng dưới nước”, làm Phật sự trong mộng, xa lìa nhị biên, khéo khế hợp Trung Đạo, viên tu, viên chứng; trong khoảng khảy móng tay liền được thành tựu trọn vẹn. Phát tâm niệm Phật như ánh sáng tỏa từ viên ngọc chiếu ngược lại hiển hiện toàn thể viên ngọc. Ánh Sáng này cũng là Trí tuệ Bát Nhã có thể chiếu soi tự tánh, đồng thời cũng chiếu soi vạn pháp. Cho nên, trong cõi nước Cực Lạc, mỗi sắc, mỗi hương đều viên minh cụ đức, mỗi mỗi đều viên viên quả hải, đều từ tự tánh tự nhiên hiển lộ, đều là Chân Thật Tế cả, hoàn toàn không có sự miễn cưỡng.

“Viên minh cụ đức”: viênlà tự tánh viên mãn, “minhlà trí tuệ viên mãn, đứclà đức năng, tướng hảo.

Theo Hoàng Niệm lão: “Do mỗi thứ trong cõi Cực Lạc đều từ Chân Tâm Đại Giác, Quả giác diệu đức của Phật A Di Đà hiển hiện; mỗi thứ cũng đều từ Như Lai trí-tuệ đức tướng sẵn có trong tự tâm mỗi người chúng ta lưu xuất; nên những gì Phật A Di Đà hiển thị cũng chính là bản tâm của chúng ta, là của báu trong nhà chúng ta, không phải có được từ bên ngoài”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích ý này như sau: Trong giáo lý Đại thừa, đức Phật thường nói:”Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm”; “tâm nghĩa là chân tâm, ở đây gọi là Chân Tâm Đại Giác. Chân tâm năng sinh, năng hiện; vạn pháp là sở sinh, sở hiện. Năng, sở là một không phải hai. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sinh đều có trí tuệ, đức tướng của Như Lai”.

Chúng ta với chư Phật Như Lai và Phật A Di Đà đích thật là nhất thể, chỉ có “mê, ngộ” bất đồng mà thôi. Thiền Sư Trung Phong khai thị trong “Hệ niệm Phật sự”: “Tâm tôi tức là Phật A Di Đà; Phật A Di Đà tức là tâm tôi”; “tâm” này là chân tâm. “Ở đây tức là Tịnh Độ; Tịnh Độ tức là ở đây”. Quả giác diệu đức của Phật A Di Đà hiện ra thế giới Cực Lạc, bản chất của nó chính là bản tâm ta, là tâm tánh của chính chúng ta, là báu vật trong nhà ta, là trí tuệ đức tướng vốn có trong tự tánh ta không phải đạt từ bên ngoài. Đây là “ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm”.

– Thế giới Cực Lạc như vậy, thế giới chúng ta thì sao?

– Cũng là như vậy! Không hai, không khác, đều là tâm hiện thức biến!

– Vì sao hai thế giới này có sự khác biệt lớn lao như vậy?!

– Khác nhau không phải ở tự tánh, không phải ở chân tâm mà khác ở vọng tâm!

Phía trước nói: Nhất niệm bất giác, trong tự tánh liền xuất hiện A-lại-da. Phải biết: A-lại-da không phải tự tánh, nhưng A-lại- da cũng không ngoài tự tánh. Chư vị Tổ Sư, đại đức của “Pháp Tướng Duy Thức Tông” nói với chúng ta: A-lại-da là “chân, vọng hòa hợp”. Thể của nó là Chân Như tự tánh, Tướng của nó là hư vọng không phải tự tánh. Vì sao? Vì tự tánh là bất sinh bất diệt, tướng là pháp sinh diệt. “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Thể tánh của tự tánh trong bốn cõi của Tịnh Tông gọi là Thường Tịnh Quang. Trong Thường Tịch Quang, cả ba loại hiện tượng: Hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên đều không có. Do “nhất niệm bất giác” mà xuất hiện huyễn tướng. Cổ nhân dùng ví dụ: Mặt trời chiếu trên thân người tạo nên chiếc bóng. Chiếc bóng này tuyệt đối không phải là thân thể, nhưng cũng không rời thân thể; như A-lại-da không phải là tự tánh nhưng cũng không rời tự tánh.

– Vì sao xuất hiện bóng này?

– Do dưới ánh mặt trời mới xuất hiện chiếc bóng này, ánh nắng là duyên.

– “Nhất niệm bất giác” từ đâu mà có? Do nguyên nhân gì?

– Đây là vấn đề lớn! Đức Phật nói với chúng ta: “nhất niệm bất giác” không có nguyên nhân, không có nguồn gốc. Nếu có nguồn gốc, nó chính là thật; không có nguồn gốc, nó là hư vọng. Cho nên, “vô minh” gọi là “vô thỉ vô minh”. “vô thỉ” là không có bắt đầu.

Chúng ta ngày nay nếu có thể tùy thuận giáo huấn của Phật, Bồ Tát, chính là “trang nghiêm diệu độ”. Nếu tùy thuận phiền não tập khí của chính mình, cũng trang nghiêm mà “trang nghiêm địa ngục”! Đây đều là chân thật không phải giả! Từ “Trụ Chân Thật Tuệ” đến “Trang nghiêm diệu độ”, mấy câu này là căn bản của Cực Lạc Tịnh Độ. Nếu có người hỏi:

– Bạn tu Tịnh Độ là tu cái gì?

– Bạn đem đoạn kinh văn này giải đáp cho họ thì chính xác! Đây là tổng cương lĩnh của mười nguyện Phổ Hiền. Trên Đại Kinh, Phật nói với chúng ta: “Bồ Tát không tu hạnh Phổ Hiền không thể viên thành Phật đạo”; có thể thấy hạnh Phổ Hiền là hạnh của Bồ Tát cứu cánh viên mãn. Pháp môn Tịnh Tông tu hạnh Phổ Hiền, kinh văn vừa mở đầu là “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền Đại Sĩ chi đức”, đây chính là “Trụ Chân Thật Tuệ”, dõng mãnh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí trang nghiêm diệu độ.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không, câu nói của A Di Đà Phật với các vị Chánh Sĩ ở phần trên rất quan trọng, có thể tóm lược hai điều:

1. Thông đạt chư pháp tánh: Đây là rõ lý, là “Trụ Chân Thật Tuệ”. Việc này đòi hỏi chúng ta phải hiếu học mới có thể thông đạt.

– A Di Đà Phật tu cách nào để thành tựu?

– Do hiếu học mà thành tựu!

Phía trước đã nói qua, ngài thân cận Thế Gian Tự Tại Vương Phật, lúc đó bản thân ngài là quốc vương; như Thích Ca Mâu Ni Phật, ngài xả bỏ vương vị theo Phật xuất gia. Trải qua thời gian rất dài nghe pháp, tu hành thành tựu đạo đức, thành tựu học vấn. Sau khi thông đạt mới biết chân tướng của vũ trụ nhân sinh là “Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh”, cho nên A Di Đà Phật nói với mọi người: “nhất thiết không, vô ngã”.

2. “Nhất thiết không, vô ngã”: Đây tuyệt nhiên, không phải tiêu cực, trái lại càng tích cực. Có “vô ngã” mới có thể vì người; có “ngã” thì không thể vì người. Chư Phật Như Lai, Pháp Thân Đại Sĩ, các ngài vô ngã, mỗi niệm đều vì lợi ích tất cả chúng sinh. Các ngài đích thật là trụ “Chân Thật Tuệ”, thấu rõ chân tướng sự thật nên lời nói, việc làm của các ngài đều chân thật, chính xác không có sai lầm. Người có trí tuệ không trụ quả báo, có phước chính mình sẽ không hưởng phước. Thế Nhiêu Vương có phước báo, trí tuệ khai rồi liền xả bỏ vương vị không hưởng phước.Thích Ca Mâu Ni Phật giác ngộ rồi cũng xả bỏ kế vị vương tử, xuất gia tu hành, chỉ tu phước không hưởng phước. Tu phước, hưởng phước là chưa giác ngộ!

– Không hưởng phước vậy tu phước để làm gì?!

– Tu phước cho mọi người hưởng! Đạo lý này mấy ai có thể tham thấu?! Chúng ta học Phật phải học loại tinh thần này của Phật, phải học loại đức hạnh này của Phật. Đây chính là trong nhà Phật ngày ngày đọc kệ hồi hướng: “Nguyện dĩ thử công đức, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”.

– Họ đọc như thế nào?

– Có miệng không có tâm! Tâm lượng thật quá nhỏ! Chỉ biết tự lợi không thể lợi tha, nếu có giúp người khác chỉ là không tự nguyện thì làm sao có thể thành tựu?! Có đồng tu nói:

– Chẳng phải tôi không bằng lòng mà tôi không có năng lực!

– Lời nói này có đạo lý không?

–  Không có đạo lý! Bạn không có năng lực thì ai có năng lực?! Nếu mỗi người đều khiêm tốn cho rằng mình không có năng lực thì Phật pháp sẽ bị đoạn tuyệt ngay thời đại này!

– Phật pháp đoạn tuyệt, bốn chúng đệ tử chúng ta đều có trách nhiệm.

– Quả báo là gì?

– Đọa đến A Tỳ địa ngục!

– Vì sao đọa vào A Tỳ địa ngục?

– Vì bạn là đệ tử Phật không chu toàn hết trách nhiệm của đệ tử Phật! Trách nhiệm lớn nhất của đệ tử Phật chính là nối dòng tuệ mạng của Phật, bạn chưa làm được! Hôm nay, đọc đoạn kinh văn này nói về quả báo của cõi Tây Phương Cực Lạc.

– Thế giới này vì sao lớn đến như vậy?

– Vì tâm lượng của Bồ Tát Pháp Tạng lớn! Chúng sinh mười phương thế giới đều có thể dung nạp hết, rộng lớn đến vô hạn cực, đây là “khai khuếch quảng đại”, chắc chắn không có nói nhân khẩu quá nhiều! Tổ sư, đại đức nói với chúng ta, đó là “Pháp Tánh Độ siêu thắng độc diệu”. Không những chỉ rộng lớn, chữ “độc diệu” còn hàm nghĩa: Mỗi mỗi đều đệ nhất, mỗi mỗi đều siêu thắng cõi nước chư Phật nên mới gọi là “độc diệu”. Cái thế giới này đích thật không thể nghĩ bàn!

– “Độc diệu” ở chỗ nào?

– Sách Hội Sớ bảo: “Siêu thắng độc diệu là ý nói: Không chỉ to lớn mà những sự trang nghiêm ấy như thân, cõi, chánh báo, y báo đều là bậc nhất, không chi sánh bằng, vượt xa các cõi Phật khác, tinh vi hơn hết nên bảo là ‘siêu thắng’. Chỉ mình cõi Phật này là bất khả tư nghị bậc nhất nên bảo là độc diệu”. Tiếp đó, sách lại nêu ra bảy “độc diệu” của cõi Cực Lạc như sau:

1. “Vị Pháp, Báo, Ứng hóa; sở xuất bổn quốc cố” (Pháp, Báo, Ứng xuất hiện trong bổn quốc). Theo Hòa Thượng Tịnh Không, ý nghĩa câu này quả là thâm diệu cùng cực, có hai cách nói:

Cách nói thứ nhất: Tam thân của Phật là Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Hóa Thân. Pháp Thân là bản thể; Báo Thân là tác dụng. Báo Thân là độ Pháp Thân Đại Sĩ. Ứng, Hóa Thân là độ Thập pháp giới hữu tình chúng sinh. “Sở xuất bổn quốc cố”, chữ “bổn quốc” là chỉ thế giới Tây Phương Cực Lạc; ý nói: Tất cả cõi nước của chư Phật Như Lai đều từ Phật A Di Đà ở cõi nước Cực Lạc hiển thị ra. Đại Sư Thiện Đạo nói: “Chư Phật sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải, ý nghĩa rất tương đương với câu này.

Cách nói thứ hai: Là nhân địa của Phật A Di Đà muốn kiến tạo một thế giới, có thể hơn hẳn các cõi nước của tất cả chư Phật. Bất luận là y báo hay chánh báo đều là “tập đại thành” y, chánh của chư Phật Như Lai, phần trước đã có nói qua; “Siêu thắng độc diệu” là như vậy.

2. “Phật thân quang, thọ siêu quá chư Phật cố” (Vì thân Phật: thọ lượng, quang minh vượt xa chư Phật): Đây vẫn là “tập đại thành”. Điều này chúng ta phải học tập, phải mở rộng tâm lượng: Lấy “sở trường” của người khác, sửa đổi lỗi lầm của mình; loại bỏ “Sở đoản” của người khác; đây tức là “siêu thắng”.

3. “Danh hiệu lợi ích, độc xuất nan tư cố”: Đây là Phật A Di Đà dùng phương tiện thiện xảo để độ chúng sinh. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn đều không thể sánh được với pháp môn Niệm Phật vãng sinh này, đúng là “siêu thắng, độc diệu”. Thánh hiệu Phật A Di Đà danh văn thập phương, chư Phật mười phương đều tán thán, khuyên mọi người niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ nên bảo là “độc xuất”. Nếu ai nghe được “Chí tâm tin ưa”, mười niệm ắt được vãng sinh. Trong đây quan trọng nhất là câu “chí tâm tín nhạo”: “Chí tâm” là tâm chí thành đến cùng tột, thâm tín không nghi; “nhạo” là hoan hỉ, yêu thích; thích thế giới Tây Phương Cực Lạc, khát ngưỡng thế giới Cực Lạc, được thân cận Phật A Di Đà, nhất tâm nhất hướng chuyên niệm, không thất, không thoái, chắc chắn được vãng sinh. Lại còn do nghe danh mà phát tâm, nghe danh được phước, nghe danh đắc Nhẫn, do nghe danh mà trụ tam-ma-địa, chứng Bất Thoái Chuyển, công đức vô lượng nên bảo là “nan tư” (khó nghĩ tưởng được).

4. “Linh Ngũ thừa tề nhập Báo độ cố” (Khiến cho Ngũ thừa cùng nhập Báo độ). Ngũ thừa là: Nhân, Thiên, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Như Lai. “Như Lai” là Pháp Thân Đại Sĩ. Trên Kinh Hoa Nghiêm: Viên giáo Sơ Trụ Bồ Tát trở lên chính là Như Lai, họ cùng đến thế giới Cực Lạc. Báo Độ là chỗ Pháp Thân Đại Sĩ ở. Nay Phật khiến cho phàm phu, Nhị Thừa, Địa Tiền Bồ Tát đều chứng được báo độ một cách trọn vẹn nên bảo là “độc diệu”. Sinh đến Tây Phương Cực Lạc là Viên Sanh Tứ Độ, đây thật sự là “độc diệu”.

Tất cả chư Phật đều có Tứ Độ. Ngày nay, chúng ta ở thế gian này là cõi Phàm thánh Đồng Cư Độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca Mâu Ni Phật cũng có Phương Tiện Hữu Dư Độ, Thật Báo Trang Nghiêm Độ và Thường Tịch Quang Tịnh Độ, nhưng chúng ta đâu thể thấy được! Không thấy được tức là ở giữa có ngăn cách, có chướng ngại. Còn Tứ Độ ở thế giới Tây Phương Cực Lạc không có chướng ngại: Người của Phàm Thánh Đồng Cư Độ cũng thấy được Phương Tiện Hữu Dư Độ, cũng thấy được Thật Báo Trang Nghiêm Độ và Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Cho nên, “nhất sanh, nhất thiết sanh”.

Chúng ta sinh đến thế giới Cực Lạc đều cùng với Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền ngày ngày cùng một nơi. Họ ở Thật Báo Trang-Nghiêm Độ, chúng ta ở trong Phàm thánh Đồng Cư Độ nhưng Tứ Độ đều cùng một nơi, đây tức là “viên sanh”, thật vô cùng hiếm có! Thời thời, khắc khắc đều không rời khỏi chư đại Bồ Tát, đây là “độc diệu”.

5. “Nhị thừa, căn khuyết, nữ nhân loại, đốn chuyển Nhất thừa Cố” (Những hàng Nhị thừa, căn khuyết, nữ nhân, nhanh chóng chuyển thành Nhất thừa): Đây cũng là “độc diệu”. Những người này chỉ cần chịu niệm Phật, phát nguyện cầu sinh đều có thể vãng sinh như nguyện. “Đốn chuyển” là lập tức chuyển. Vừa đến cõi này, tất cả đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đồng ngồi xe trâu trắng lớn “Như Lai Nhất thừa” nên bảo là nhanh chóng chuyển thành Nhất thừa. Đây là “siêu thắng độc diệu”, trong tất cả cõi nước chư Phật khác đều không có.

“Cùng ngồi xe trâu trắng lớn” là trong Kinh Pháp Hoa: Ví dụ căn nhà bị lửa đốt cháy, trẻ con trong đó vẫn cứ vui đùa. Người lớn thấy vậy đến dẫn dụ chúng ra ngoài bằng cách bảo chúng: Mau ra đây! Bên ngoài có sẵn xe dê (chỉ ngồi được một người), xe hươu (ngồi được hai người), xe trâu trắng lớn (là xe ngựa lớn có thể ngồi được nhiều người). Mau ra lấy mà tùy tiện sử dụng. Chúng ra ngoài thấy toàn là xe trâu trắng lớn, thật vui mừng khôn xiết.

Dùng xe dê để ví cho Tiểu thừa Thanh Văn, Duyên Giác; xe hươu ví cho Bồ Tát, xe trâu trắng lớn để ví cho Phật. Đây là người thuộc ba căn tánh khác nhau. Vốn nghĩ mình chỉ được xe dê, đâu ngờ lại được ngồi xe lớn. Xe lớn ví cho “Như Lai Nhất thừa. Việc này nói lên: Chỉ cần xa rời thế giới Ta Bà, vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, tất cả đều thành Phật, không phải thành A-la-hán, thành Bích Chi Phật hay thành Bồ Tát. Thật tuyệt diệu vô cùng! Thế giới Tây Phương Cực Lạc đúng là “Nhất Phật thừa” vô cùng thù thắng, “siêu thắng độc diệu.”

6. “Vãng sinh chánh nhân vị tu vị đắc cố” (Chánh nhân vãng sinh dễ tu, dễ đắc): “Phát tâm Bồ Đề, nhất hướng chuyên niệm” là “vãng sinh chánh nhân”. Bất luận nam nữ, già trẻ, trí ngu, bận rảnh v.v… đều có thể tu được, thậm chí “Ngũ Nghịch” tội nặng, lúc lâm chung bị sự khổ bức bách, tướng địa ngục hiện ra, lúc ấy quán tưởng rất khó thành, vẫn có thể xưng danh mà được vãng sinh nên bảo là “vị tu vị đắc” (dễ tu, dễ đắc). Nhờ sự “độc diệu” của pháp môn vô cùng thù thắng này chúng ta mới có hy vọng một đời này thành tựu. Quả thật là hi hữu! Chư Phật Như Lai không phải vô duyên, vô cớ tán thán Phật A Di Đà, mà đích thật Phật A Di Đà nghĩ ra phương cách để độ chúng sinh thật quá ư là tuyệt diệu!

7. “Sanh hậu đắc quả, thái đốn, thái cao cố” (Vãng sinh rồi đắc quả, thật nhanh chóng, thật cao). Quả báo đạt được sau khi vãng sinh vô cùng thù thắng và rất nhanh chóng thành tựu.

– Đạt được quả gì?

– A Duy Việt Trí Bồ Tát!

Như vậy không vi diệu ư? A Duy Việt Trí Bồ Tát, người bình thường phải tu đến vô lượng kiếp, chúng ta chỉ tu một đời là thành tựu, chẳng phải là quá nhanh chóng ư? “Ngũ Nghịch, Thập ác”, lâm chung mười niệm liền được vãng sinh, chứng ngay “Bất Thoái” nên bảo là “thái đốn” (quá nhanh). Phàm phu mang theo “Hoặc nghiệp”, một phẩm phiền não cũng chưa đoạn, “hoành sanh bỉ quốc” (sanh ngang sang cõi ấy) liền thành A Duy Việt Trí Bồ Tát, địa vị ngang bằng với bậc Bổ Xứ nên bảo là “thái cao” (quá cao). Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là “thụ sanh” không phải “hoành sanh”.

– Thế nào là “thụ sanh”?

-Như leo cầu thang, phải đi lên từng tầng đến phần cao nhất!

– “Hoành sanh” là sao?

– Không cần leo từng tầng như vậy quá mất thời gian, quá gian khổ! Chúng ta đi tắt theo đường ngang gọi là “hoành siêu”, đi ra thì vượt thoát. Phương pháp này nhanh chóng dễ dàng. Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, được bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà gia trì, công đức bốn mươi tám nguyện của Phật ta đều đầy đủ, thật không thể nghĩ bàn! Khắp mười phương không nơi nào có được nên gọi là “siêu thắng độc diệu”. Như sách Lễ Tán nói: “(Do) bốn mươi tám nguyện trang nghiêm khởi lên, siêu việt các cõi Phật, thật là tinh xảo nhất”.