Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VI. ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN ĐỆ NHỊ
(TT)

Ư chư chúng sinh, thị nhược tự kỷ(Với các chúng sinh xem như chính mình) nghĩa là “đồng thể đại bi”. Cái được người đời yêu mến nhất không gì bằng thân mình, vì xem chúng sinh như thân mình nên có thể cứu độ quần sinh không lười mỏi. Kinh Niết Bàn có câu: “Nhất thiết chúng sinh dị khổ, tất thị Như Lai nhất nhân khổ” (Tất cả chúng sinh hứng chịu các nỗi khổ khác nhau, thảy đều như chính bản thân Như Lai chịu khổ). Vì vậy, phổ nguyện:

Chửng tế phụ hà, giai độ bỉ ngạn(Cứu vớt, gánh vác cho đều vượt đến bờ kia), “chửng” là cứu giúp; “tế” là độ, làm cho hoàn thành, tạo lợi ích; “chửng tế” là cứu độ; “phụ” là gánh vác. Trên Kinh Đại Pháp Cự Đà Ra Ni, Phật dạy: “Bồ Tát đảm giả, thệ nguyện hà phụ, nhất thiết chúng sinh xuất ly thế gian” (Bồ Tát đảm trách nhiệm là thệ nguyện gánh vác hết thảy chúng sinh xuất ly thế gian).

“Độ” là đến nơi, “bỉ ngạn” là bờ kia, chính là Niết Bàn. “giai độ bỉ ngạn”: Ý nói Đại Sĩ phổ độ khiến cho tất cả chúng sinh đều chứng nhập “Vô Dư Niết Bàn” rồi chính mình mới chứng Niết Bàn.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: “Hưng đại bi, mẫn hữu tình, diễn từ biện, thọ pháp nhãn, đỗ ác thú, khai thiện môn”; sáu câu này là dạy chúng ta ngay trong cuộc sống hàng ngày tùy duyên, tùy phận tiếp dẫn chúng sinh. Phật tương lai tiếp độ chúng ta; chúng ta phải tiếp dẫn chúng sinh có duyên. Cái “duyên” này cũng là trong đời quá khứ họ có thiện căn, phước đức, đã từng học qua pháp môn này. Nhưng, đáng tiếc họ chưa gặp được duyên nên chưa tin tưởng, thiện căn chẳng thể hiện tiền. Chúng ta phải khuyên bảo, giúp họ phát huy thiện căn, công đức này sẽ rất lớn.

Muốn làm được việc này, thứ nhất bạn phải có tâm bi, “bi” là cứu khổ. Cho dù người đó bần cùng hay đại phú, hãy đưa mắt nhìn xa một chút thử xem đời này hành nghiệp tạo tác của họ ra sao? Có tạo ác nghiệp gây nhân đọa lạc vào ba đường ác hay không? Nếu có, họ là kẻ rất đáng thương! Tiền đồ của họ sẽ là một mảng tối tăm! Bồ Tát liền phát đại bi tâm thương xót họ, vận dụng trí tuệ, phương tiện khéo léo, toàn tâm toàn lực giúp đỡ, khuyên bảo họ, đây là “diễn từ biện”; “diễn” là biểu diễn”, làm ra dáng vẻ để họ xem; “biện” là nói rõ.

Phàm phu tầm nhìn nông cạn, thực tế họ chỉ lo trước mắt, lợi hại ngày mai thì không biết! Chúng ta học Phật, tầm nhìn phải xa hơn một chút, phải suy nghĩ đến đời sau, kiếp sau. Nhất là đời sau, kiếp sau có rất nhiều con đường phải chọn lựa thật chính xác, quả báo mới thù thắng. Muốn giúp chúng sinh phá mê khai ngộ, chính mình nhất định phải là tấm gương sáng cho họ, dần dà cảm hóa họ, lâu dần họ cũng sẽ giác ngộ, việc này đòi hỏi bạn phải có lòng nhẫn nại. Đối với chúng sinh căn tánh lanh lợi thì rất dễ dàng, nghe rồi họ liền có thể giác ngộ. Đối với người căn tánh trung, hạ có lúc phải trải qua rất nhiều năm họ mới quay đầu.

Tôi chính mình học Phật, tôi không phải là người căn tánh lanh lợi, tôi thuộc căn tánh trung đẳng. Đại Sư Chương Gia dạy tôi, một vị thầy tốt như vậy, bậc thầy có trí tuệ, có phương pháp dạy bảo học trò như tôi, ba năm sau tôi mới quay đầu, tương đối không dễ dàng! Tôi không phải là người mà ngài vừa dạy liền có thể tin tưởng. Có cái tôi tin, có cái tôi vẫn hoài nghi, không thể hoàn toàn tiếp nhận! Đại Sư ngài rất có lòng, chân thật thị hiện cho tôi xem.

– Thị hiện thế nào?

– Thị hiện viên tịch qua đời!

Nếu ngài không thị hiện như thế, e rằng tôi vẫn chưa hồi đầu! Không biết đến lúc nào mới quay đầu! Ngài đối với tôi rất tốt, rất thương yêu. Tôi cảm đội ân đức của ngài, nơi hỏa thiêu ngài, tôi dựng một cái lều nhỏ, ở nơi đó ba ngày ba đêm mà tư duy.

– Đại Sư dạy tôi ba năm, rốt cuộc là dạy tôi những gì?

– Nỗ lực mà phản tỉnh mới có thể thể hội được khổ tâm của ngài. Nếu ngài không thị hiện nhập diệt, chắc tôi sẽ không có phút giây nỗ lực phản tỉnh này! Tôi thân cận ngài ba năm, sâu sắc thể hội được chính ngài đang biểu diễn, làm ra tấm gương để tôi xem, để tôi ngay nơi đó mà học tập.

Thọ pháp nhãn”: “Thọ” là truyền thọ; truyền thọ không phải dùng tay để trao đưa cho bạn, mà nói pháp cho bạn nghe, khiến bạn nghe xong hoác nhiên đại ngộ, đó chính là “thọ”. Thế gian hiện tại truyền pháp chỉ là hình thức, sau đó trao cho bạn một giấy chứng minh, việc này thật không đáng tin cậy!

Người thế gian xem trọng văn bằng, Phật giáo không xem trọng văn bằng mà xem trọng thật chứng. Bạn đích thật khế nhập được cảnh giới thì mới tính, không vào được cảnh giới, tấm giấy kia chỉ là giả không thật! Nhất là hiện nay thời kỳ mạt pháp, văn bằng giả quá nhiều! Việc này chúng ta phải nên biết. “Pháp nhãn” là một trong “ngũ nhãn” của Như Lai mà trên kinh thường nói.

– Vì sao ở đây ngài không nói Phật nhãn?

– Bởi đây là giai đoạn của Bồ Tát, không nói đến thành Phật.

Thực tế mà nói, Bồ Tát cũng đầy đủ “Phật nhãn”, duy chỉ thần thông đạo lực vẫn còn kém hơn Phật một bậc. “Đắc Pháp nhãn” chính là “minh tâm kiến tánh”, được “Thanh Tịnh Pháp Thân”, được trí tuệ hiện tiền. Đối với tất cả thế, xuất thế gian pháp, chân vọng, tà chánh, phải quấy, thiện ác, lợi hại v.v… họ đều có năng lực phân biệt. Họ phân biệt rất nhanh, không cần phải trải qua suy nghĩ, vừa tiếp xúc liền thấu hiểu, đây là “Pháp nhãn”, là con mắt đạo lý.

Tóm lại: Hai câu “Hưng đại bi, mẫn hữu tình” là động cơ giúp người. “Diễn từ biện” là phương pháp để giúp người. “Thọ Pháp nhãn” là nâng cao cảnh giới của người. “Đỗ ác thú, khai thiện môn” là giúp người nhận được hiệu quả chân thật thù thắng.

Đỗ ác thú”: chữ “ác thú” này không riêng chỉ cho ba đường ác mà còn bao gồm cả Thanh Văn, Duyên Giác, quyền giáo Bồ Tát cũng là ác thú. Vì sao? Vì chưa kiến tánh! Tiêu chuẩn ở đây định ở “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” đó mới là “thiện môn”. Cho nên, tiêu chuẩn “thiện môn” ở chỗ này cao, không phải tiêu chuẩn thông thường.

Tịnh Tông là pháp môn ngay trong một đời thành tựu. Trong Mật Tông nói: “Tức thân thành Phật”. Không sai! Thế nhưng, cái “tức thân thành Phật” đó của họ là thành Phật ở đẳng cấp nào? Niệm Phật của Tịnh Độ tông được vãng sinh bất thoái thành Phật, là thành Phật ở đẳng cấp nào? Đây là việc mà chúng ta cần phải phân biệt cho rõ ràng.

Trong Văn Sao của Pháp Sư Ấn Quang nói rất tường tận, ngài nói: “Tức thân thành Phật” của Mật Tông, thông thường gọi là “Tạng giáo Phật”. “Tạng giáo Phật” chính là A-la-hán của Tiểu Thừa, chỉ có thể đến được địa vị này, còn kém xa so với “minh tâm kiến tánh” của Thiền tông. “Minh tâm kiến tánh” của Thiền tông là địa vị “Viên giáo Sơ Trụ Bồ Tát”. Phật mà trong Mật tông thành tựu, “Thiên Thai giáo” gọi là “Tạng giáo”; “Hiền Thủ giáo” gọi là “Tiểu giáo”, chưa ra khỏi mười pháp giới. Họ có năng lực siêu việt tam giới nhưng không có năng lực siêu việt mười pháp giới, cũng chính là nói “vô minh” của họ chưa đoạn, chỉ mới đoạn được “kiến tư phiền não” mà thôi. Tuy nhiên, đó cũng là thành tựu rất thù thắng, điều quan trọng họ có chân thật đạt đến cảnh giới này hay không mới là vấn đề!

Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là Kim Cang Thượng Sư, là A- Xà-lê của Mật Tông, là người thành thật không nói lời giả dối, ông nói: Học Mật phải ở trong Mật mà thành tựu, ngày nay gần như không thể nào! Học Mật Tông nếu muốn thành tựu, ông rất khẳng định mà nói: Hiện ở thế gian không có người này! Cho nên ông khuyên người niệm Phật.

Ngày trước, lão Pháp sư Đàm Hư có nói qua: Vào thời đại này, tham thiền quyết không thể có được thành tựu. Ông là người của nửa thế kỷ về trước, ông sống rất thọ, hơn chín mươi tuổi mới vãng sinh. Ông thường nói với mọi người: Suốt đời ông qua lại rất mật thiết với đại đức của Thiền Tông, chưa từng thấy qua hoặc nghe qua người “minh tâm kiến tánh”.

Trong Thiền tông, nếu không “minh tâm kiến tánh” thì không xem là thành tựu. Vì sao? Vì không ra được sáu cõi luân hồi! Đó là khẳng định của lão Pháp Sư Đàm Hư. Tuy nhiên, tham   thiền được Định thì ông đã thấy qua. Được Thiền định tương đối cũng không phải dễ dàng. Chân thật tham thiền được Định có thể sinh đến trời “Sắc giới”, còn phải xem thiền định công phu của họ sâu cạn thế nào? Sinh đến trời “Sắc giới” Nhị thiền, Tam thiền, việc này ông thấy qua. Cho dù sinh đến trời “Tứ Thiền”, đến “Tứ Không Thiền” vẫn còn kém xa so với người vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc ở cõi “Phàm Thánh Đồng Cư”, “hạ hạ phẩm vãng sinh”.

Chúng ta có thể đem những đạo lý này giải thích tường tận, khiến mọi người hiểu rõ, phát tâm tu học Phật pháp, biết chọn lựa Pháp môn Niệm Phật, chọn lựa Kinh Vô Lượng Thọ, kiên định không nghi, Đây là “Thọ Pháp nhãn”, bạn đã đem Pháp nhãn truyền thọ cho họ. Sau đó, đường ác tự nhiên đóng lại, không những họ không đọa vào đường ác, cũng không luân hồi trong sáu cõi. Họ có thể tiến thêm bước nữa là siêu việt cả mười pháp giới. Siêu việt quá khó! Nhưng niệm Phật thì dễ dàng.

Cho nên, trong vô lượng pháp môn, thông thường gọi tám vạn bốn ngàn pháp môn, (con số này đích thật là thật. Trong “Giáo Thừa Pháp Số”, hoặc “Phật Học Đại Tự Điển” bạn có thể tìm ra được), chỉ chọn lựa pháp môn này. Nếu không có “Pháp nhãn” chân thật, cho dù sự việc có bày ngay trước mắt, bạn cũng không nhận biết, sẽ để lỡ qua cơ hội!

Khai thiện môn”: Ýnghĩa của “thiện môn” rất rộng, không phải chỉ cho ba đường thiện trong cõi trời, người mà là con đường dẫn đến cứu cánh viên mãn thành Phật, Phật quả của Viên Giáo. Không luận là “Thiên Thai tông” hay “Hiền Thủ tông” (tức Hoa Nghiêm tông), quả vị cứu cánh chỉ có pháp môn Niệm Phật mới chân thật là “thiện môn”. Thế nhưng, khi tiếp dẫn người sơ cơ, chúng ta nhất định phải tỉ mỉ mà quan sát căn tánh của họ. Nếu là người sơ cơ chưa tiếp xúc qua Phật pháp, chúng ta dùng Phật pháp rất sơ cạn để giúp họ tiếp nhận. Pháp tạng thậm thâm, không phải vừa mở đầu thì họ liền có thể tiếp nhận.

Tôi tiếp nhận pháp môn Tịnh Độ là sau khi học Phật bảy năm, không phải dễ dàng! Lúc trẻ tôi ưa thích đọc sách, ưa thích học vấn, cho nên khi tiếp xúc Phật môn, thầy tuy biết niệm Phật rất tốt, nhưng nếu dạy tôi pháp môn này e rằng tôi liền lắc đầu bỏ đi, sẽ không đến học Phật nữa! Vì sao vậy? Đối với lý luận, phương pháp, cảnh giới tôi chưa hề biết chút gì về pháp môn này. Bạn có cố gắng nói, tôi cũng hoài nghi, sẽ còn có một tràng nghịch lý để tranh luận với bạn, vậy thì rất phiền phức! Cho nên thầy cao minh, thuận theo thị hiếu của tôi để dạy. Anh thích nghiên cứu? Được! Sẽ để cho anh đi nghiên cứu! Dần dần từng bước từ trong kinh luận Đại, Tiểu thừa đem tôi dẫn vào Tịnh Độ. Phương pháp này rất cao minh, phải dùng nẽo quanh co dẫn dắt tôi đến con đường Tịnh Độ, sau đó mới phát hiện pháp môn này cao.

Ban đầu mới học Phật, tiên sinh Phương Đông Mỹ dạy tôi đem Phật pháp xem thành triết học. Phật pháp có mười tông phái, trong đó Tánh tông, Tướng tông giảng đạo lý rất hay, tôi xem đó là triết học, còn đối với Tịnh Độ tông, Mật tông, tôi vẫn xem là mê tín nên không thèm xem qua kinh điển. Đến sau cùng, khi tôi giảng Kinh Hoa Nghiêm mới phát hiện trên hội Hoa-Nghiêm, từ Văn Thù, Phổ Hiền, bốn mươi mốt vị pháp Thân Đại Sĩ thảy đều niệm Phật cầu sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Việc này khiến tôi giật thót người vì chính mình không hề nghĩ đến!

Văn Thù, Phổ Hiền đại biểu cho trí tuệ đệ nhất, các ngài cũng niệm Phật cầu vãng sinh, chúng ta làm sao dám nói vãng sinh là mê tín. Nếu niệm Phật không phải chân thật là pháp môn thù thắng nhất thì Văn Thù, Phổ Hiền Bồ Tát quyết sẽ không tu pháp môn này. Quán Âm và Thế Chí Bồ Tát thì không cần phải nói, vì các ngài là người của thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Cho nên, xem qua những vị đại Bồ Tát này, không vị nào mà không ở thế giới Cực Lạc, không vị nào mà không có quan hệ mật thiết với Phật A Di Đà. Như vậy, chúng ta mới nhận thức được Tịnh độ và chân thật quay đầu. Cho nên, chỗ này “Đỗ ác thú, khai thiện môn” là chuyên chỉ Tây phương Tịnh độ, vô hình trung đã đem tất cả pháp môn Đại thừa khác đều giáng xuống thấp. Việc giáng thấp này là từ trên căn tánh của chính chúng ta mà nói. Trên kinh Phật nói: “Pháp môn bình đẳng không có cao thấp”. Thế nhưng, những pháp môn khác, thực tế chúng ta không cách gì học được có thành tựu.

Thành thật mà nói, căn tánh của tôi còn hơn thầy tôi một chút! Thầy tôi, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, ông nhận biết pháp môn này còn khó khăn hơn tôi. Trước đó, ông vẫn đi học Thiền, học Mật, học Giáo, tốn rất nhiều thời gian, đến sau cùng gặp được Pháp Sư Ấn Quang, bị lão Pháp sư quở mắng mới chịu buông bỏ, quay về Tịnh Độ! Ông thường nói với chúng tôi, chí ít ông đã lãng phí thời gian hơn hai mươi năm, thời gian tôi lãng phí mới có mười bảy năm, nên căn tánh của tôi mạnh hơn thầy một chút, đó chính là cá nhân căn tánh không như nhau, quay đầu có sớm trễ. Cho nên chúng ta tiếp xúc với quần chúng rộng lớn, nhất định phải có lòng nhẫn nại, có trí tuệ và phải có phương tiện khéo léo.

Ư chư chúng sinh, thị nhược tự kỷ”: Đây là thái độ chúng ta trong đối nhân xử thế tiếp vật phải xem tất cả chúng sinh như chính mình, xem lợi ích của người khác như lợi ích của chính mình; người khác bị hại như chính mình bị hại, đó mới là người chân thật giác ngộ. Tất cả chư Phật, Bồ Tát đều có tâm thái này. “Ư chư chúng sinh thị nhược tự kỷ”, tất cả chúng sinh và chính mình đồng một tự tánh; đồng một Pháp Thân, đồng một “Chân Như bổn tánh”.

Chữ “Chúng Sinh” có nghĩa là chúng duyên hòa hợp mà sinh khởi, cho nên không riêng chỉ chúng sinh hữu tình mà bao gồm cả chúng sinh vô tình. Vì vậy, động vật, thực vật, khoáng vật v.v… thậm chí đến tất cả hiện tượng tự nhiên đều là chúng sinh, vì tất cả đều do chúng duyên hòa hợp mà sinh khởi. Nói cách khác, chỉ cần có hình tướng đều là chúng sinh. “Chúng sinh”, cái ý này quá rộng, tận hư không khắp pháp giới là chính mình, một chút cũng không sai! Đúng như Kinh Hoa Nghiêm nói: “ Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tận hư không khắp pháp giới là chính mình “duy tâm sở hiện”; mười pháp giới y chánh trang nghiêm là chính mình “duy thức sở biến”.

– Thức là gì?

– Thức là phân biệt, từ trong phân biệt biến hiện ra trùng trùng pháp giới khác nhau. Cho nên, lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, pháp giới khác nhau sẽ không còn; không còn mới gọi là “Pháp giới Nhất Chân”. Do đây có thể biết: Người trong “ Pháp giới Nhất Chân” cùng người trong “ mười pháp giới” không như nhau. Người trong “mười pháp giới” vẫn còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Người trong “Pháp giới Nhất Chân” đã đoạn dứt vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Thế nhưng, “Pháp giới Nhất chân” cùng “mười pháp giới” không rời nhau, đồng thời tồn tại, đồng chỗ tồn tại. Việc này là không thể nghĩ bàn!

Cho nên, chư Phật cùng những Pháp Thân Đại Sĩ này thị hiện trong “mười pháp giới”, thị hiện trong sáu cõi, cùng tất cả chúng sinh “hòa quang đồng trần”; ở trong đây “hưng đại bi, mẫn hữu tình”, giúp đỡ, giáo hóa chúng sinh. Họ thị hiện giống hệt như chúng ta, cùng ở chung với mọi người, cũng có phân biệt, cũng có chấp trước, nhưng cảnh giới của họ là “Pháp giới Nhất Chân”. Tuy cùng ngồi một bàn ăn, cùng nắm tay nhau, họ ở “Pháp giới Nhất Chân”, chúng ta ở “Pháp giới người”, không như nhau! Ý nghĩa này nếu bạn không thể hội được, hãy xem trong “Đàn Kinh”, Lục Tổ Huệ Năng từng hỏi Vĩnh Gia:

– Ông có phân biệt không? (Phân biệt là phàm phu) Vĩnh Gia trả lời rất hay:

– Phân biệt diệc phi ý! (Phân biệt cũng không phải là ý!) Lục Tổ nghe rồi gật đầu nói:

– Không sai! Ông như vậy, ta cũng như vậy!

Đây chính là nói: Lục Tổ và Vĩnh Gia cùng ở trong “Pháp giới Nhất Chân”. Cho nên, chúng ta phải hiểu, khi giảng kinh nói pháp, họ cũng có phân biệt, cũng có chấp trước, nhưng họ thật sự không phải phân biệt, không phải chấp trước. Vì sao? Chúng ta dùng tám thức, năm mươi mốt tâm sở; họ dùng là bốn trí. Họ đã chuyển A-lại-da thức thành Đại Viên Cảnh Trí, chuyển Mạt na thức thành Bình Đẳng Tánh Trí, chuyển Đệ lục ý thức thành Diệu Quan Sát Trí, chuyển “tiền ngũ thức” thành Thành Sở Tác Trí. Trên hình thức hoàn toàn như nhau, trong cảnh giới hoàn toàn khác nhau. Chúng ta phân biệt, chấp trước là ô nhiễm. Họ phân biệt, chấp trước là thanh tịnh. Nói khác đi, họ tùy thuận chúng sinh phân biệt mà phân biệt; tùy chúng sinh chấp trước mà chấp trước, chính mình đích thật không phân biệt, không chấp trước. Đây chính là nói rõ: Nhất chân cùng mười pháp giới đồng thời tồn tại, không hề cách xa, không hề có trước sau, đó là chân tướng sự thật.

Chính do sự thật này mà “độ người chính là tự độ; tự độ chính là độ người”. Tự độ, độ tha là một sự việc, không phải hai việc. Đây cũng là vào “Pháp môn không hai” mà trong Phật pháp Đại Thừa thường nói. Chúng ta xem thấy là hai vì còn phân biệt, chấp   trước.

Họ xem thấy không hai nên mới “phân biệt cũng không phải là ý”. Đạo lý này chúng ta phải rất tỉ mỉ mà thể hội.

Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tối sơ phương tiện”, đây chính là chỗ vào cửa ban đầu, chúng ta nhất định phải xem lợi hại của người khác chính là lợi hại của chính mình. Người khác có khó khăn tức là chính mình có khó khăn. Người khác có phước là chính mình có phước, đó chính là “ư chư chúng sinh thị nhược tự kỷ” (đối với các chúng sinh, xem như chính mình). Nếu thể hội được điều này, lợi ích sẽ vô lượng vô biên.

Chửng tế phụ hà, giai độ bỉ ngạn(Cứu vớt, gánh vác cho đều vượt lên bờ kia): Đây là sứ mạng, trách nhiệm của người tu học Phật chúng ta. Vì sao? Vì nơi “nhân địa” bạn đã từng phát nguyện. Có người nào mà không ở trước mặt Phật xướng lên “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”, trong đó câu đầu tiên là “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”, bạn ở trước Phật xướng lên câu này. Cho dù bạn có tâm hay không có tâm, đã phát nguyện thì phải xứng hiện, không phải tùy tiện mà phát! Phải làm cho được “chửng tế phụ hà, giai độ bỉ ngạn”. Đây là mục tiêu thệ nguyện của bạn, không phải độ một, hai người mà phổ độ khắp pháp giới chúng sinh bạn đều độ hết.

– Trong nhà Phật có câu: “Phật không độ người vô duyên”. Câu này cùng với câu “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ” có mâu thuẫn chăng?

– Phải tỉ mỉ mà tư duy, hoàn toàn không có mâu thuẫn. Quyết không thể nói: Chúng sinh không có duyên thì Phật không độ họ, không hề có đạo lý này! Mà phải nói: Chúng sinh không có duyên thì độ sau, không phải không độ!

– Không duyên thì phải làm sao?

– Thì hiện tại kết duyên với họ, không kết duyên thì không được! Không có duyên thì kết duyên trước. Có duyên thì độ trước. Cho nên, không hề có xung đột.

– Những người nào có duyên?

– Người tiếp xúc Phật pháp liền sinh tâm hoan hỉ, đó là người có duyên. Bạn nói với họ, họ có thể tin tưởng, có thể tiếp nhận, có thể lý giải, đó là chúng sinh có duyên độ trước. Đối với pháp môn Tịnh Độ, họ có thể tin hiểu, chịu đến Niệm Phật Đường để niệm Phật, đó chính là duyên đã chín muồi, chúng ta nhất định phải toàn tâm, toàn lực giúp họ chóng đi làm Phật.

Thực tế mà nói, người duyên chín muồi rất ít, người duyên chưa chín muồi thì rất nhiều!

Tôi nghĩ, sự việc này các đồng tu đều thấy rất rõ. Bạn thấy Singapore, tín đồ Phật giáo có bao nhiêu? Tuyệt đối không phải chỉ có số người trong giảng đường này, quyết không phải vậy! Những người đó cũng học Phật, cũng niệm A Di Đà Phật, có miệng không tâm! Vẫn không muốn vãng sinh. Thế giới này vẫn rất tốt, vẫn đáng được lưu luyến! Các pháp môn khác cũng không tệ! Họ học giới luật, học tham thiền, học Mật chú, học giáo v.v… họ học rất nhiều thứ. Đó là gì vậy? Nửa chín, nửa không chín! Chúng ta cũng phải dùng phương tiện khéo léo mà giúp họ, xúc tiến họ thành Phật, vậy thì phải giảng kinh, nghiên giáo, khiến họ có thể thâm nhập, dần dần từng bước, họ sẽ thấu hiểu giác ngộ.

Ngày trước, có năm tôi ở miền Nam Đài Loan giảng kinh gặp ông cụ hơn tám mươi tuổi, đó là lão tiền bối học Phật. Chúng ta xuất gia, kỳ thật ông học Phật lâu hơn, so với chúng ta. Cả đời ông học Phật được mấy mươi năm, cũng tham thiền, cũng học giáo, cũng học Mật, mọi thứ đều thông đạt. Tôi giảng kinh ở miền Nam, ông cũng đến nghe. Chúng tôi quen biết nhau rất lâu; Ông nói với tôi:

– Pháp sư! Hiện tại tôi đã già rồi, những thứ đã học được từ trước, nghĩ lại đều không thể dùng được! Tôi hỏi:

– Vậy ông phải làm sao?

– Hiện tại tôi trung thực niệm Phật rồi! Mỗi ngày tôi niệm ba mươi ngàn danh hiệu Phật. Tôi nói:

– Rất tốt! Ông xem như đã quay đầu!

Hơn tám mươi tuổi mới quay đầu! Cũng được! Chỉ cần quay đầu thì có thể được độ. Tuổi tác ông lớn, mỗi ngày kinh hành niệm Phật là việc rất tốt. Ông ở dưới quê thường hay ra đường đi bộ. Ông nói: Tôi niệm một câu Phật hiệu đi một bước. Mỗi ngày niệm ba mươi ngàn danh hiệu Phật thì đi ba mươi ngàn bước. Thân thể rất khỏe mạnh, đi bộ là vận động rất tốt, đặc biệt là đối với người già.

Cho nên, Niệm Phật Đường lấy “nhiễu Phật” làm chủ. “Bát Chu tam-muội”, đó chính là nhiễu Phật gọi là “Phật lập tam-muội”. Họ không ngồi cũng không nằm. Hiện tại, Niệm Phật Đường của chúng ta không cần phải nghiêm khắc đến như vậy. Nếu nghiêm khắc, mọi người sẽ e ngại không dám đến niệm Phật! Cho nên, chúng ta phải mở rộng một chút để mọi người niệm Phật được thoải mái, an vui, ưa thích đến đây niệm Phật, đó là bước thứ nhất.

Về sau nếu chúng ta có năng lực,“ Niệm Phật Đường” phải có thêm vài người đẳng cấp không như nhau. Càng hướng lên trên thì càng nghiêm khắc hơn. Đối với người sơ học, phải mở rộng để họ cảm thấy ưa thích. Sau đó, dần dần đem cảnh giới của họ hướng lên cao, công phu cũng cao hơn, Đối với người không có duyên, chúng ta trồng hạt giống Phật cho họ. Như hiện tại, chúng ta làm rất nhiều biểu tượng trên áo, in chữ A Di Đà Phật, mặc lên người, người đi đường xem thấy danh hiệu A Di Đà Phật, hoặc nhìn thấy hình tượng Phật, xem như ta đã gieo được hạt giống Phật cho họ. Đó là bước thứ nhất, trong A-lại-da thức của họ đã có chủng tử Phật rồi, mục tiêu cũng chính là “giai độ bỉ ngạn” (đều vượt lên bờ kia).