KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

 

TẬP 11

QUYỂN HAI MƯƠI HAI

PHẨM THĂNG LÊN CUNG TRỜI ĐÂU SUẤT
THỨ HAI MƯƠI BA

 

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong Phẩm Thập Tạng tại cung trời Dạ Ma rồi, lại thăng lên cung trời Ðâu Suất, vì Thiên chúng diễn nói pháp môn Thập Hồi Hướng. Pháp nầy là pháp Bồ Tát tu tam hiền (thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng).

Một số người thăng lên, thăng lên kia mà lìa khỏi đây. Song, sự thăng lên của Ðức Phật, thăng lên kia mà chẳng lìa khỏi đây. Ðây là đạo lý gì ? Vì Phật có thần thông diệu dụng, không rời khỏi toà, mà ở trong định đến cung trời Ðâu Suất thuyết pháp.

Ðâu Suất là tiếng Phạn, dịch là “tri túc”. Người trời ở cõi trời nầy rất là biết đủ (tri túc); bất cứ những gì, vừa đủ là thôi, không cầu nhiều. Do đó:

“Kẻ biết đủ thì an vui
Người nhẫn nhịn thì yên ổn”.

Trời Ðâu Suất là tầng trời thứ tư của cõi dục giới, ở trên trời Dạ Ma, ở dưới trời Hoá Lạc. Cõi trời nầy có nội viện và ngoại viện. Nội viện là chỗ ở của các Bồ Tát bổ xứ Phật vị. Hiện tại Bồ Tát Di Lặc (Phật vị lai) ở tại nội viện. Ngoại viện là nơi Thiên chúng ở, hiện tại Bồ Tát Di Lặc vì họ diễn nói diệu pháp.

Tại sao con người chẳng biết tri túc ? Vì nhiều tham, nhiều dục, tham mà không biết chán, tham cầu không ngừng. Ban ngày tỉnh cũng tham, ban đêm trong mộng cũng tham. Tại sao phải tham ? Vì chẳng biết đủ. Nếu biết đủ, thì sẽ chẳng tham cầu. Chúng ta khởi tâm tham, là vì có dục vọng. Nếu chẳng có dục vọng, thì chẳng có tham. Không tham thì biết đủ, biết đủ thì an vui, an vui thì chẳng có phiền não. Chẳng có phiền não thì chẳng chấp trước, chẳng chấp trước thì đắc được giải thoát. Chúng ta tu đạo là tu không chấp trước. Buông xả mọi việc thì sẽ đắc được giải thoát.

Bất cứ là việc gì, đều phải nhẫn nại, không nhẫn được cũng phải nhẫn. Lúc đó, trời cũng an, chẳng hàng tai hoạ. Ðất cũng yên, chẳng làm cho chấn động. Do đó:

“Nhẫn là báu vô giá
Ai ai xử không tốt
Nếu hay dùng được nó
Mọi sự đều sẽ tốt”.

Con người có rất nhiều phiền não, là vì chẳng có công phu nhẫn nhục. Nếu học được công phu nhẫn nhục của Bồ Tát Di Lặc, thì sẽ chẳng có tai hoạ, tất cả đều bình an. Bồ Tát Di Lặc nói:

“Lão quê mặc áo vá
Cơm lạc no đầy bụng
Áo vá che giá hàn
Vạn sự hãy tuỳ duyên
Có người mắng lão quê
Lão quê chỉ nói tốt
Có người đánh lão quê
Lão quê nằm lăn ra
Khạt nhổ vào mặt lão
Ðể nó khô tự nhiên
Ta cũng chẳng nhọc sức
Họ cũng chẳng phiền não
Ðây là Ba La Mật
Là báu ở trong diệu
Nếu biết tin tức nầy
Lo gì đạo chẳng thành”.

Văn từ của bài kệ nầy, tuy nhiên rất là đơn giản, nhưng triết lý bên trong không thể nghĩ bàn. Bây giờ giải thích sơ lược như sau:

“Lão quê mặc áo vá”: Lão quê tức là lão già rất ngu xuẩn. Ngài tự cảm thấy mình rất ngu xuẩn, tại sao ? Vì Ngài có cái bụng bự, lại mặc áo vá. Áo vá tức là áo rách rưới rồi vá lại, vá rồi lại rách, trước sau đều vá đi vá lại. Biểu thị chẳng chấp vào hình tướng mặc quần áo. Quần áo tuy rách, có thể che đỡ lạnh là được rồi.

“Cơm lạc no đầy bụng”: Ngài ăn cơm rất là thanh đạm, cho đến muối cũng chẳng có. Chỉ cần no bụng là được, không cần ngon hay không ngon. Ðây là chẳng chấp vào sự ăn uống.

Chùa Kim Sơn chúng ta cũng chẳng chấp vào sự ăn uống, mỗi ngày ăn rau cải lượm từ đống rác chợ bỏ. Nhưng chúng ta vẫn có rau cải ăn. Vị lão già quê nầy, cho đến rau cải cũng chẳng có ăn, chỉ ăn thức ăn đạm bạc vô vị, nhưng vẫn ăn no bụng, do đó: “Tâm rộng thể mập”. Ngài chẳng sầu, chẳng lo, mở miệng thường cười, cho nên người sau này làm một câu đối liễn rằng:

“Bụng bự hay chứa,
Chứa việc thiên hạ khó chứa.
Mở miệng liền cười,
Cười người thế gian đáng cười”.

Thân thể của chúng ta, giống như cái máy, lúc nào cũng phải thêm chút dầu, thì nó mới làm việc. Bằng không thì phải bãi công. Thân thể của chúng ta, ăn cơm mới sống được, mới có thể làm việc. Nếu không cho nó ăn cơm, thì nó sẽ bãi công, gì cũng chẳng làm. Thậm chí nó thị oai với chủ nhân rằng: “Ôi tôi muốn chết”. Chủ nhân bị nó uy hiếp, liền đầu hàng với nó, cho nó ăn uống, để duy trì mạng sống. Bồ Tát Di Lặc rất thấu hiểu về túi da hôi thối bốn đại giả hoà hợp nầy, chẳng phải là vật tốt, cho nên cho nó ăn no là được.

“Áo vá che đỡ lạnh”: Tại sao phải vá ? Vì muốn che lạnh. Cho nên vá lại chỗ rách rưới, vá tới vá lui vẫn phải vá, chuẩn bị khi mùa đông để che mưa gió.

“Vạn sự hãy tuỳ duyên”: Vị lão già quê nầy, bất cứ gặp việc gì, cũng đều tuỳ duyên. Do đó: “Việc đến thì ứng, việc đi thì lặng”. Có tấm lòng như thế, cho nên tâm rộng thể mập. Ngài tuỳ duyên tiêu trừ nghiệp cũ, không tạo nghiệp mới. Tuy nhiên tuỳ duyên, nhưng chẳng thay đổi. Chẳng phải tuỳ duyên thì thay đổi, mà là tuỳ duyên không thay đổi. Do đó:

“Tuỳ duyên không đổi,
Không đổi tuỳ duyên”.

Ngài có tông chỉ nhất định. Là gì ? Tức là không tham.

 “Có người mắng lão quê”: Giả sử có người vô duyên cô cớ đến mắng tôi, thì tôi cũng chẳng nổi giận, coi như đang thưởng thức ca hát. Hoặc coi như họ nói tiếng ngoại quốc, nghe không hiểu, thì chẳng có phiền não.

“Lão quê chỉ nói tốt”: Gặp được cảnh giới nầy, thì lão quê nói: “Tôi phải khen ngợi bạn. Mắng rất tốt, mắng rất đúng, bạn là thiện tri thức của tôi, chỉ đạo tôi, rất cảm kích sự mắng chưởi của bạn. Tôi đáng bị bạn mắng, tôi rất vui vẻ, hy vọng bạn thường đến mắng tôi”. Giống như Bồ Tát Thường Bất Khinh, Ngài đảnh lễ người ta, còn bị người đánh mắng, chẳng những Ngài chẳng nóng giận, ngược lại còn tươi cười ha ha ! Thấy người là đảnh lễ, lễ xong thì bỏ chạy đi. Tại sao ? Sợ người sinh phiền não.

Tôi có mấy câu nầy:

“Có người huỷ báng tôi,
Như được ăn cơm no.
Ðây là thật bố thí,
Sao vui mà chẳng làm”?

Nếu như có người mắng tôi, thì tôi tuyệt đối chẳng nổi giận, mà còn nói mắng rất là đúng. Bạn ca hát, rất là êm tai, tôi rất thích nghe. Bạn đang nói tiếng Anh chăng ! Tôi nghe chẳng hiểu gì cả. Quán tưởng như vậy, thì tự nhiên sẽ sóng yên gió lặng.

“Có người đánh lão quê”: Giả sử có người vô duyên vô cớ đến đánh tôi, thì tôi tuyệt đối chẳng chống đỡ, tuỳ họ làm gì thì làm, khi họ đánh đủ thì ngừng, tôi cũng chẳng nói gì.

 “Lão quê nằm lăn ra”: Tôi một chút phiền não cũng chẳng có, tôi tự nằm ra, xin họ cứ đánh. Lúc đó, họ sẽ xuất khí, tự nhiên sẽ vô sự. Ðây là công phu thật là diệu. Các bạn ai có công phu như thế, thì sẽ thăng lên trên cung trời Ðâu Suất, lắng nghe Bồ Tát Di Lặc diễn nói diệu pháp tại pháp hội Long Hoa.

 “Khạt nhổ vào mặt lão”: Nếu có ai khạt nhổ nước bọt vào mặt tôi, thì tôi cũng chẳng đếm xỉa tới, cũng chẳng lau chùi. Tại sao ? Vì chẳng khởi phiền não, chẳng bị cảnh giới làm lay chuyển. Ngài đã tu đến trình độ như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt.

“Ðể nó tự nhiên khô”: Ðể nó tự khô lấy ! Hà tất vì nó mà bận tâm. Nước bọt ở trên mặt lại có ngại gì ? Ðừng để ý đến, thì tự nhiên sẽ vô sự. Ai ai cũng nghĩ như thế, thì làm gì thế giới chẳng thái bình !

“Tôi cũng chẳng nhọc sức”: Nếu được như thế thì chẳng lay động, coi như chẳng có chuyện gì. Tôi bớt được nhiều khí lực, không cần dùng tay để lau chùi nó.

 “Họ cũng chẳng phiền não”: Họ nhìn tôi chẳng có chuyện gì, cũng chẳng lau chùi nước bọt của họ khạt, thì họ sẽ tự nhiên tâm bình khí hoà, chẳng có phiền não. Tinh thần nhẫn nhục nầy thật là quá vĩ đại ! Chúng ta nên học tập làm cho bằng được như Bồ Tát Di Lặc.

 “Ðây là Ba La Mật”: Ðây là pháp môn Ba La Mật. Nhẫn nhục được sẽ đến được bờ bên kia, bờ bên kia tức là nơi không sinh không diệt, chỉ có các điều vui, chẳng có các sự khổ. Ai ai cũng đều biết, nhưng không làm. Tại sao ? Vì xả bỏ chẳng đặng hưởng thụ năm dục. “Ðó là báu trong diệu”: Ðây tức là diệu trong diệu, báu trong báu, báu vô giá, diệu báu chân chánh nhẫn nhục.

“Nếu biết tin tức nầy”: Nếu biết được tin tức nhẫn nhục, nếu minh bạch đạo lý nhẫn nhục. Như vậy, tất cả chẳng có chướng ngại gì cả.

“Lo gì đạo chẳng thành”: Tình hình như vậy, vạn sự hanh thông, viên dung vô ngại. Bất cứ tu đạo gì, thảy đều được thành tựu. Tại sao không thành đạo ? Ðều vì chấp trước thân thể, cho rằng đáng ưa thích, lúc nào cũng bảo vệ nó. Kỳ thật, thân thể chỉ là túi da hôi thối. Tôi thường nói: Vật ở trong bụng là đồ hôi thối nhất. Lúc ăn thì thơm, thải ra thì thối. Bất cứ ai cũng đều như vậy. Vậy, thân thể có gì đáng ưa thích ? Có gì để chấp trước ? Nếu có người mắng bạn, hoặc đánh bạn, phải nhẫn thọ, đừng nổi giận. Phải minh bạch khi chết, thì thân thể đáng ưa thích nầy lại đi đến nơi đâu ? Chúng ta tu đạo, tức là mượn giả tu thật, ngàn vạn không thể được giả quên thật. Phải trở về nguồn cội, phải bỏ mê về với giác ngộ. Tu hành được như thế, tức là biết tri túc.

Thiên chúng ở cõi trời Ðâu Suất, ít dục biết đủ. Bồ Tát ở nội viện đều đoạn dục, chẳng có mong cầu gì hết. Các Ngài đều phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo. Tất cả vì hạnh phúc của chúng sinh, vì giáo hoá chúng sinh, cải ác hướng thiện, mà không ngừng nghỉ. Tuy nhiên hạnh khổ, nhưng là an vui. Lấy việc độ chúng sinh làm trách nhiệm của mình, đây là đại nguyện của Bồ Tát.

Bạn hay biết đủ, thì bạn sẽ thăng đến cung trời Ðâu Suất. Họ hay biết đủ, thì họ cũng sẽ thăng đến cung trời Ðâu Suất. Tóm lại, Ai hay biết đủ, thì người đó được sinh về cõi trời Ðâu Suất. Phật pháp là bình đẳng, chẳng có quan niệm giai cấp, chẳng có phân biệt thân sơ, hoàn toàn phải dựa vào công đức chân thật. Ai có thuần căn lành thì sẽ thăng đi lên. Người trên thế gian, nếu thường biết đủ, thì thế giới Ta Bà nầy sẽ biến thành thế giới “Biết Ðủ”. Lúc đó, đời ác năm trược chúng ta đang ở, sẽ biến thành cõi trời Ðâu Suất an vui, chẳng sầu chẳng lo, tiêu diêu tự tại.

Hiện tại Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngồi kiết già trên toà báu kim cang dưới cội bồ đề, đã vào trong định. Nhưng Ngài đến cung trời Ðâu Suất, vì các đại Bồ Tát hậu bổ Phật vị và mười phương tất cả đại Bồ Tát, cùng với vô lượng Thiên chúng, diễn nói diệu pháp không thể nghĩ bàn.

Phẩm nầy là phẩm thứ hai mươi ba trong Kinh Hoa Nghiêm, cho nên gọi là Phẩm Thăng Lên Cung Trời Ðâu Suất Thứ Hai Mươi Ba.

Bấy giờ, do thần lực của đức Phật, mười phương tất cả thế giới, mỗi mỗi bốn thiên hạ trong cõi Diêm Phù Đề, đều thấy đức Như Lai ngồi dưới cội bồ đề, đều có Bồ Tát nương thần lực của đức Phật, mà diễn nói pháp. Ai cũng đều cho rằng mình luôn luôn ở trước đức Phật. 
Lúc đó, đức Thế Tôn lại dùng thần lực, chẳng lìa khỏi dưới cội bồ đề nầy, và đỉnh núi Tu Di, cung trời Dạ Ma, mà đi đến cung trời Đâu Suất, điện Trang Nghiêm Tất Cả Diệu Báu.

Khi Ðức Phật thắng lên cung trời Ðâu Suất, thì dùng đại thần lực, chẳng lìa khỏi toà kim cang dưới cội bồ đề, đỉnh núi Tu Di (trời Ðao Lợi), cung trời Dạ Ma, mà đến cung trời Ðâu Suất, Bảo Điện Trang Nghiêm Các Diệu Báu, vì đại chúng hải hội diễn nói diệu pháp Hoa Nghiêm.

Trong Kinh điển Phật giáo, nói Phật có đại oai thần lực. Thần lực nầy, là do ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp vun trồng tướng tốt mà thành. Vì Phật có đại oai thần lực, cho nên hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới, đều thấy Phật ngồi ở dưới cội bồ đề.

Tư tưởng của chúng ta quá hẹp hòi, chỉ biết thế giới nầy. Kỳ thật, khắp mười phương có vô lượng thế giới. Bất quá, cách xa trái đất của chúng ta quá xa, dùng mắt thịt nhìn chẳng thấy mà thôi, mà tư tưởng của một số người cũng không đạt đến cảnh giới nầy. Ba ngàn năm trước đây, Phật đã biết có tiểu thiên thế giới (một ngàn thế giới là một tiểu thiên thế giới), trung thiên thế giới (một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung Thiên thế giới), đại thiên thế giới (một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới). Tính theo nhà thiên văn hiện tại, một trái đất là một thế giới. Trong thái dương hệ có rất nhiều tinh cầu. Trong hệ ngân hà có vô số thái dương hệ. Còn ở trong hư không có vô số hệ ngân hà. Vậy thế giới rốt ráo có bao nhiêu ? Có nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết, chẳng phải số thiên văn có thể tính được. Dù máy ví tính, cũng không thể thống kê được số mục chính xác. Song, Phật nhìn một cái là biết hết thấy hết.

Chúng ta ở trong trái đất nầy, chẳng có đi đến trái đất khác, cho nên cho rằng chẳng có trái đất khác, đây là kiến giải quá hẹp hòi. Ðưa ra một thí dụ để thuyết minh: Năm trăm năm về trước, khi chưa phát hiện đại lục mới, thì ở tây bán cầu vẫn có Châu Mỹ tồn tại. Bất quá, chẳng có phát hiện ra mà thôi, không thể nói là chẳng có mảnh đất Châu Mỹ nầy. Hiện tại chúng ta chẳng đi đến trái đất khác, cũng không dùng cái thấy hẹp hòi, nói chẳng có trái đất khác. Khi Kha Luân Bố phát hiện đại lục rồi, thì lúc đó, mọi người mới tin có nước Mỹ, đất rộng vật nhiều, sinh sản phong phú, trở thành nước sung sướng trên thế gian, ai ai cũng muốn đến. Tương lai phát hiện một trái đất khác, cũng là tình hình như vậy.

Chẳng những có thế giới khác, mà còn có nhiều vô lượng vô biên, ở trong mỗi thế giới, đều có bốn đại châu. Trong mỗi Nam Diêm Phù Ðề dưới cội bồ đề, đều có Phật đang ở đó thành Chánh Giác. Trong mỗi Bồ Đề Đạo Tràng, đều có vô số Bồ Tát ở trong đó, cung kính Ðức Phật, cúng dường Phật, lắng nghe Phật tuyên nói diệu pháp Hoa Nghiêm.

Bấy giờ, vua trời Đâu Suất, ở xa thấy đức Phật đến.

Pháp thân của Phật hướng về điện Bảo Trang Nghiêm mà đến. Lúc đó, vua trời Ðâu Suất từ xa thấy Ðức Phật đến, rất là vui mừng, có thể nói vui mừng như điên. Bèn lập tức chuẩn bị tất cả đồ trang nghiêm, để chào đón Ðức Phật quang lâm.

Pháp thân của Phật là vô tại vô bất tại, Ngài muốn đến nơi nào, thì sẽ đến nơi đó, chẳng bị thời gian và không gian hạn chế. Phật là tận hư không khắp pháp giới, tuỳ thời tuỳ lúc có thể thị hiện diệu sắc thân, khiến cho hết thảy chúng sinh đều được thấy, cảm thấy mình ở trước Ðức Phật, giống như Phật chuyên vì mình nói pháp. Cũng giống như đạo lý mặt trời ở trước mình. Chỉ cần tâm nước thanh tịnh, thì có lúc sẽ thấy được Phật, do đó:

“Bồ Tát thanh lương nguyệt
Thường du tất kính không
Chúng sinh tâm cấu tịnh
Bồ đề ảnh hiện trung”.

Lập tức bày toà sư tử ma ni ở giữa điện. Toà sư tử đó dùng các diệu báu cõi trời làm thành. Do quá khứ tu hành các căn lành mà có được. Do thần lực của tất cả Như Lai hiện ra. Do vô lượng trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ căn lành sinh ra. Do tịnh pháp của tất cả Như Lai sinh khởi. Có vô biên phước lực trang nghiêm sáng chói, nghiệp báo thanh tịnh, không thể phá hoại được. Người quán sát đều vui mừng, chẳng có nhàm đủ. Là pháp xuất thế, chẳng phải pháp ô nhiễm thế gian. Tất cả chúng sinh đều đến quán sát, chẳng có ai biết hết sự tốt đẹp vi diệu của nó.

Vua trời Ðâu Suất thấy Phật đến, lập tức bày pháp toà Sư Tử Trang Nghiêm Bảo Tạng Ma Ni, ở tại Ðiện Bảo Trang Nghiêm. Toà sư tử đó, dùng tất cả diệu báu các cõi trời làm thành. Một mặt là do vua trời Ðâu Suất trong quá khứ tu hành các căn lành mà thành tựu, một mặt là do nguyện lực và thần lực của tất cả chư Phật hiện ra. Cảnh giới nầy, là do vô lượng trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ căn lành sinh ra. Cũng là diệu pháp thanh tịnh trang nghiêm của tất cả chư Phật sinh khởi. Có vô lượng vô biên sức phước đức trang nghiêm sáng chói. Nghiệp quả thanh tịnh nầy (sức phước đức và sức thần thông), chẳng phải năng lực của thiên ma ngoại đạo có thể phá hoại được.

Ai nhìn được sự trang nghiêm nầy, đều sinh tâm vui mừng. Bất cứ nhìn bao lâu, cũng chẳng có khi nào nhàm đủ. Sự trang nghiêm nầy, là do tu pháp xuất thế lục độ vạn hạnh thanh tịnh trang nghiêm, chứ chẳng phải pháp nhiễm ô thế gian trang nghiêm. Hết thảy Thiên chúng trời Ðâu Suất, đều đến quán sát Bảo Điện dùng các diệu báu trang nghiêm, cũng đến gần gũi Ðức Phật, chiêm ngưỡng Phật. Song, chẳng có ai thật sự minh bạch cảnh giới tốt đẹp không thể nghĩ bàn nầy.

Toà sư tử đó, có trăm vạn ức tầng cấp, bao bọc chung quanh, trăm vạn ức lưới vàng, trăm vạn ức trướng hoa, trăm vạn ức trướng báu, trăm vạn ức trướng man, trăm vạn ức trướng hương, giăng bày phía trên. Tràng hoa thòng rũ xuống toả hương thơm xông khắp. Có trăm vạn ức lọng man, trăm vạn ức lọng báu, chư Thiên cầm nắm. Bốn mặt thẳng hàng. Trăm vạn ức y báu, giăng bày phía trên.

Chung quanh toà sư tử đó, có trăm vạn ức tầng cấp vòng quanh bốn phía. Lại có trăm vạn ức lưới vàng, trướng hoa, trướng báu, trướng man, trướng hương, giăng che phía trên toà sư tử, để làm trang nghiêm. Tràng hoa thòng rũ xuống, hương thơm toả khắp đạo tràng pháp hội.

Trăm vạn ức đại biểu số mục rất nhiều, số mục nầy là số mục không rõ ràng. Ngoại trừ Phật Bồ Tát ra, phàm phu không thể nói ra được. Tại sao mỗi sự vật đều trăm vạn ức ? Vì biểu thị sự long trọng trang nghiêm. Sự trang nghiêm nầy, lúc tại nhân địa, tu hành lục độ vạn hạnh, trì giới thanh tịnh mà thành tựu. Tức cũng là siêng tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si, mới hiện ra đủ thứ sự trang nghiêm.

Chúng ta chúng sinh hoan hỉ mùi thơm, mà chẳng được mùi thơm. Tại sao ? Vì chẳng gìn giữ giới luật, luôn luôn phóng dật. Người trên trời, do phước đức thành tựu, cho nên trên thân toả ra phảng phất mùi thơm, khiến cho người ngửi được có cảm giác mát mẻ. Nếu người trời không toả mùi thơm, thì chứng minh họ sẽ sắp chết, lúc đó phát sinh tín hiệu, do đó: “Năm tướng suy hiện ra”. Chúng ta phàm phu không giữ giới, cho nên trên thân toả ra mùi hôi, khiến cho người ngửi, nôn mửa ba ngày. Các bà quý phái và các tiểu thư, vì trên thân toả ra mùi hôi, cho nên phải dùng nước hoa quý giá, tẩm lên quần áo và thân thể, để giảm bớt mùi hôi, đây chỉ có hiệu quả nhất thời. Thứ mùi thơm nầy là do con người làm, chứ chẳng phải là tự nhiên. Muốn thân thể toả ra mùi thơm, thì hãy mau giữ gìn giới luật. Ðây là phương pháp giải quyết căn bản.

Người trời chẳng vào cảnh giới sắc thanh hương vị xúc pháp sáu trần, cho nên hiện cảnh giới sáu trần trang nghiêm. Phàm phu thì tham cảnh giới sáu trần, nhưng chẳng có cảnh giới nầy, cho nên theo đuổi mùi thơm tránh mùi hôi. Chúng ta sống ở trong đời ác năm trược, tuy nhiên chẳng thanh tịnh, nhưng trôi theo quên quay trở lại, xả bỏ chẳng được. Thế giới Cực Lạc phương tây, chẳng có các sự khổ, chỉ hưởng các sự vui, vàng ròng làm đất, có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới La, hoan nghinh di dân đến ở, làm công dân chẳng có điều kiện. Song, chúng sinh lại kỳ quái, thế giới Cực Lạc sung sướng như thế, vẫn không muốn đi đến ở. Thế giới Ta Bà khổ não, vẫn không muốn lìa bỏ, đây thật là đáng thương xót !

Lại có trăm vạn ức lọng hoa, lọng man, lọng báu. Chư Thiên dùng tay cầm nắm các thứ lọng nầy, đứng thẳng hàng khắp bốn phương, rất là ngay thẳng, trang nghiêm. Lại có trăm vạn ức y báu, giăng bày ở phía trên toà sư tử, để làm trang nghiêm.

Trăm vạn ức lầu các chói sáng trang nghiêm. Trăm vạn ức lưới ma ni. Trăm vạn ức lưới báu giăng che phía trên. Trăm vạn ức lưới chuỗi báu, thòng rũ xuống khắp bốn phía. Trăm vạn ức lưới đồ trang nghiêm. Trăm vạn ức lưới lọng. Trăm vạn ức lưới y. Trăm vạn ức lưới trướng báu, dùng giăng ở phía trên. Trăm vạn ức lưới hoa sen báu, nở toả ra ánh sáng. Trăm vạn ức lưới hương báu, hương thơm mỹ diệu, làm vui lòng đại chúng. 

Lại có trăm vạn ức lầu các, rất là mỹ lệ, sáng chói, trang nghiêm, hùng tráng. Lại có trăm vạn ức lưới báu ma ni và trăm vạn ức lưới các thứ báu, che phủ ở phía trêm đạo tràng. Lại có trăm vạn ức lưới chuỗi báu, thòng rũ khắp bốn phía đạo tràng, năm quang mười sắc, sáng lạng chói mắt. Cảnh giới như thế thật là không thể nghĩ bàn.

Lại có trăm vạn ức lưới đồ trang nghiêm, lưới lọng báu, lưới y báu, lưới trướng báu. Những thứ lưới nầy giăng bủa ở phía trên đạo tràng, để làm trang nghiêm. Lại có trăm vạn ức lưới hoa sen báu, hoa đó đặc biệt tươi đẹp, khiến cho người thấy ưa thích ngắm nhìn. Lại có trăm vạn ức lưới hương, thứ hương nầy đặc biệt thơm tho, mỹ diệu khác thường, khiến cho người ngửi sinh tâm hoan hỉ, đắc được cảnh giới pháp hỷ sung mãn.

Trăm vạn ức trướng linh báu, linh đó lay động vang ra tiếng hoà nhã. Trăm vạn ức trướng chiên đàn báu, hương thơm xông khắp. Trăm vạn ức trướng hoa báu, hoa đó sum sê tươi tốt. Trăm vạn ức trướng y các màu sắc vi diệu, ít có trên đời. Trăm vạn ức trướng Bồ Tát. Trăm vạn ức trướng tạp sắc. Trăm vạn ức trướng vàng thật. Trăm vạn ức trướng lưu ly. Trăm vạn ức trướng đủ thứ báu, thảy đều giăng bày phía trên. Trăm vạn ức trướng tất cả báu. Báu đại ma ni, dùng làm trang nghiêm.

Lại có trăm vạn ức trướng linh báu, linh đó khi lay động thì vang ra âm thanh hoà nhã, rất là êm tai, khiến cho người nghe tỉnh thức.

Lại có trăm vạn ức trướng báu chiên đàn, mùi hương xông khắp đạo tràng. Lại có trăm vạn ức trướng hoa báu, hoa đó nở ra rất là tươi tốt xinh đẹp. Lại có trăm vạn ức trướng y các màu sắc vi diệu, y các màu sắc vi diệu đó, ở trên thế gian rất là hiếm có. Ai thấy được thứ y nầy, thì nhất định mắt nhìn chẳng tạm ngừng, sinh tâm hoan hỉ. Lại có trăm vạn ức trướng Bồ Tát, trướng tạp sắc, trướng vàng thật, trướng lưu ly, trướng đủ thứ báu, hoàn toàn giăng bày ở phía trên đạo tràng. Lại có trăm vạn ức trướng tất cả báu, dùng báu đại ma ni để trang nghiêm.

Trăm vạn ức hoa báu tốt đẹp, nghiêm sức khắp chung quanh. Trăm vạn ức trướng tần bà, xen tạp đặc thù vi diệu. Trăm vạn ức man báu. Trăm vạn ức man hương, thòng rũ bốn phía. Trăm vạn ức hương trời kiên cố, hương đó xông khắp nơi. Trăm vạn ức đồ anh lạc trời trang nghiêm. Trăm vạn ức chuỗi hoa báu. Trăm vạn ức chuỗi thắng tạng báu. Trăm vạn ức chuỗi ma ni báu. Trăm vạn ức chuỗi biển ma ni báu, dùng trang nghiêm thân toà. Trăm vạn ức tơ lụa báu đẹp, dùng treo thòng rũ xuống.

Lại có trăm vạn ức hoa báu tốt đẹp, giăng bày khắp chung quanh, nghiêm sức rất mỹ lệ. Lại có trăm vạn ức trướng tần bà. Tần bà dịch là “thân ảnh chất”, giống như hình bóng, đều có chất báu ở phía trên toả sáng ra. Cảnh giới nầy rất là thù thắng vi diệu, xen lẫn với nhau, sâm la vạn tượng, tơ hào chẳng tạp loạn. Lại có trăm vạn ức man báu và man hương, treo thòng rũ xuống khắp bốn phía, để làm nghiêm sức. Sự trang nghiêm nầy, trùng trùng vô tận. Lại có trăm vạn ức hương trời kiên cố, thứ hương nầy xông khắp trên không gian. Lại có trăm vạn ức chuỗi trời đồ trang nghiêm, chuỗi hoa báu, chuỗi thắng tạng báu, chuỗi ma ni báu, chuỗi biển ma ni báu, dùng để trang nghiêm thân toà sư tử. Chuỗi là dùng bảy báu kết thành, thòng rũ trên thân toà, để làm đồ nghiêm sức. Lại dùng trăm vạn ức tơ lụa báu đẹp, dùng treo thòng rũ xuống, để làm cho trang nghiêm.

Trăm vạn ức nhân đà la kim cang báu. Trăm vạn ức tự tại ma ni báu. Trăm vạn ức diệu sắc tạng vàng thật, dùng làm nghiêm sức. Trăm vạn ức Tỳ Lô Giá Na ma ni báu. Trăm vạn ức nhân đà la ma ni báu, quang minh chiếu sáng. Trăm vạn ức ma ni báu trời kiên cố, dùng làm cửa sổ. Trăm vạn ức thanh tịnh công đức ma ni báu, rực rỡ màu sắc vi diệu. Trăm vạn ức thanh tịnh diệu tạng báu, dùng làm cửa lớn. Trăm vạn ức báu bán nguyệt tối thắng trong đời. Trăm vạn ức tạng báu ma ni ly cấu. Trăm vạn ức sư tử diện ma ni báu, xen tạp trang nghiêm. Trăm vạn ức tâm vương ma ni báu, sở cầu như ý. Trăm vạn ức diêm phù đàn ma ni báu. Trăm vạn ức thanh tịnh tạng ma ni báu. Trăm vạn ức đế tràng ma ni báu, đều phóng quang minh, che phủ phía trên. Trăm vạn ức bạch ngân tạng ma ni báu. Trăm vạn ức Tu Di tràng ma ni báu, trang nghiêm các tạng báu.

Lại có trăm vạn ức nhân đà la kim cang báu, tự tại ma ni báu, diệu sắc chân kim tạng, làm trang sức gián thố. Lại có trăm vạn ức Tỳ Lô Giá Na (biến nhất thiết xứ) ma ni báu và nhân đà la (Thiên chủ) ma ni báu, phóng đại quang minh, chiếu sáng mười phương thế giới. Lại có trăm vạn ức ma ni báu trời kiên cố, dùng làm cửa sổ. Lại có trăm vạn ức thanh tịnh công đức ma ni báu, rực rỡ các màu sắc đẹp vi diệu. Lại có trăm vạn ức thanh tịnh diệu tạng báu, dùng làm cửa lớn. Lại có trăm vạn ức báu bán nguyệt tối thắng trong đời, tạng ma ni báu ly cấu, sư tử diện ma ni báu, dùng những báu nầy, gián thố trang nghiêm đạo tràng. Lại có trăm vạn ức tâm vương ma ni báu (châu như ý), châu báu nầy, khiến cho mọi sở cầu đều toại tâm như ý. Lại có trăm vạn ức diêm phù đàn ma ni báu, thanh tịnh tạng ma ni báu, đế tràng ma ni báu. Những báu nầy thảy đều phóng đại quang minh, che phủ phía trên, chiếu sáng khắp mười phương. Lại có trăm vạn ức bạch ngân tạng ma ni báu và Tu Di tràng ma ni báu, để trang nghiêm các tạng báu.

Trăm vạn ức chuỗi chân châu. Trăm vạn ức chuỗi lưu ly. Trăm vạn ức chuỗi báu màu đỏ. Trăm vạn ức chuỗi ma ni. Trăm vạn ức chuỗi báu quang minh. Trăm vạn ức chuỗi đủ thứ tạng ma ni. Trăm vạn ức chuỗi chân châu đỏ rất đáng ưa thấy. Trăm vạn ức chuỗi vô biên sắc tướng tạng ma ni báu. Trăm vạn ức chuỗi báu rất thanh tịnh vô tỉ. Trăm vạn ức chuỗi thắng quang minh ma ni báu, giăng bày thòng rũ khắp chung quanh, dùng để trang nghiêm. Trăm vạn ức thân ma ni thù diệu nghiêm sức. Trăm vạn ức nhân đà la diệu sắc báu.

Lại có trăm vạn ức chuỗi chân châu, chuỗi lưu ly, chuỗi báu màu đỏ, chuỗi ma ni, chuỗi báu quang minh, chuỗi đủ thứ tạng ma ni, chuỗi chân châu đỏ rất đáng ưa thấy, chuỗi vô biên sắc tướng tạng ma ni báu, chuỗi báu rất thanh tịnh vô tỉ, chuối thắng quang minh ma ni báu. Dùng mười thứ chuỗi nầy, giăng bày thòng rũ khắp bốn phía, để trang nghiêm.

Tại sao phải dùng những chuỗi giá trị để trang nghiêm đạo tràng ? Vì để biểu thị sự thù thắng, không thể nghĩ bàn. Cũng khiến cho chúng sinh tâm tham, đều nguyện ý sinh về cõi trời, được chút châu báu. Tuy nhiên chẳng đắc được, nhưng nhìn thấy, trong tâm cũng vui mừng. Phàm là chúng sinh có tâm tham, phải tu công đức phước trời (tu thập thiện giữ năm giới), khi công đức viên mãn thì sẽ được sinh về cõi trời. Do đó:

“Trước dùng câu dục móc
Sau khiến họ vào Phật trí”.

Nếu chẳng như thế, thì tại sao phải nói ra những đồ trang nghiêm ? Nhất là dùng các châu báu để trang nghiêm, vì chúng sinh có tâm tham, một khi nghe về cõi trời có châu báu, thì họ sẽ phát tâm bồ đề, nỗ lực tu đạo, tu về đến cõi trời để nhìn thấy. Những thứ châu báu có hình tướng nầy, không thể chấm dứt sinh tử. Do đó, lại tiến thêm một bước, phát tâm bồ đề, dũng mãnh tinh tấn tu hành đạo vô thượng bồ đề, thành tựu đạo quả vô thượng. Bấy giờ, sẽ thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử.

Lại có trăm vạn ức thân ma ni, thù thắng vi diệu, dùng để nghiêm sức đạo trràng. Lại có trăm vạn ức nhân đà la diệu sắc báu, dùng để nghiêm sức đạo tràng. Phật đến cung trời Ðâu Suất Ðiện Bảo Trang Nghiêm thuyết pháp, vua trời Ðâu Suất được vinh hạnh, cho nên đem hết những đồ quý giá, để trang nghiêm đạo tràng, biểu thị sự hoan nghênh Ðức Phật đến.

Trăm vạn ức hương chiên đàn đen. Trăm vạn ức hương cảnh giới không thể nghĩ bàn. Trăm vạn ức hương thập phương diệu. Trăm vạn ức hương tối thắng. Trăm vạn ức hương rất đáng ưa thích, đều toả hương thơm, xông khắp mười phương. Trăm vạn ức hương tần bà la, xông khắp mười phương. Trăm vạn ức hương tịnh quang, xông khắp chúng sinh. Trăm vạn ức hương đủ màu sắc không bờ mé, xông khắp tất cả cõi nước chư Phật, vĩnh viễn không tan mất. Trăm vạn ức hương thoa. Trăm vạn ức hương xông. Trăm vạn ức hương đốt, mùi hương toả ra, xông khắp tất cả. Trăm vạn ức hương hoa sen tạng trầm thuỷ, vang ra âm thanh lớn. Trăm vạn ức hương du hí, hay chuyển tâm của chúng sinh. Trăm vạn ức hương a lầu na, mùi thơm xông khắp, hương vị thơm ngọt. Trăm vạn ức hương hay khai ngộ, đến khắp tất cả, khiến cho ai ngửi được, các căn đều vắng lặng. Lại có trăm vạn ức hương vô tỉ hương vương, đủ thứ sự trang nghiêm.

Ở trước dùng đủ thứ lọng báu, đủ thứ trướng báu, đủ thứ chuỗi báu, để trang nghiêm đạo tràng. Hiện tại dùng đủ thứ hương, để trang nghiêm đạo tràng. Cung trời Ðâu Suất có đạo tràng như vậy, cảnh giới như vậy, đều đặc biệt thù thắng, đặc biệt trang nghiêm. Trước hết trang nghiêm đạo tràng tốt đẹp, sau đó cung kính chư Phật, diễn nói Hoa Nghiêm pháp lớn. Ðây là do thành tích rộng tu cúng dường của vua trời Ðâu Suất, cũng do Ngài tu phước đức mà thành tựu, cũng do nguyện lực của tất cả chư Phật mà thành tựu, cũng do tất cả chúng sinh cảm ứng đạo giao mà thành tựu.

Có trăm vạn ức hương chiên đàn đen, hương cảnh giới không thể nghĩ bàn, hương thập phương diệu, hương tối thắng, hương rất đáng ưa thích, những thứ hương nầy đều toả ra hương thơm ngát mũi, xông khắp mười phương thế giới. Lại có trăm vạn ức hương tần bà la, hương thơm toả khắp mười phương. Lại có trăm vạn ức hương tịnh quang, hương thơm thanh tịnh lại quang minh, xông khắp mười phương thế giới tất cả chúng sinh. Phàm là ai ngửi được hương thơm nầy, đều phát tâm bồ đề, tu đạo bồ đề vô thượng. Lại có trăm vạn ức hương đủ thứ màu sắc không bờ mé, xông khắp đến mười phương tất cả cõi nước chư Phật, hương thơm đó vĩnh viễn không tan mất.

Lại có trăm vạn ức hương thoa, hương xông, hương đốt, những thứ hương thơm nầy toả ra, xông khắp pháp giới tất cả chúng sinh. Lại có trăm vạn ức hương liên hoa tạng trầm thuỷ, thứ hương chiên đàn nầy rất nặng, bỏ vào trong nước, sẽ chìm xuống đáy, cho nên gọi là hương trầm thuỷ (chìm xuống nước). Thứ hương nầy có mùi thơm đặc biệt, đốt lên rồi, ở nơi rất xa, cũng đều ngửi được mùi thơm nầy. Lại hay vang ra âm thanh rất lớn, thật là diệu không thể tả. Lại có trăm vạn ức hương du hí, thứ hương nầy, hay chuyển tâm ô nhiễm của chúng sinh thành tâm thanh tịnh, từ ác chuyển thành thiện, mà phát tâm bồ đề. Lại có trăm vạn ức hương a lầu na (màu hồng đỏ), thứ hương nầy xông khắp tất cả pháp giới, hương vị rất là thơm ngọt. Lại có trăm vạn ức hương hay khai ngộ, toả khắp mọi nơi, hay khiến cho chúng sinh ngửi được mùi hương nầy, các căn đều vắng lặng, khai mở đại trí huệ. Lại có trăm vạn ức hương vô tỉ hương vương, làm đủ thứ sự trang nghiêm.

Nguyên liệu chế hương, đa số dùng gỗ chiên đàn, ít dùng hoa, hoặc cỏ làm hương liệu.

Mưa trăm vạn ức mây hoa trời. Mưa trăm vạn ức mây hương trời. Mưa trăm vạn ức mây hương bột trời. Mưa trăm vạn ức mây hoa trời câu tô ma. Mưa trăm vạn ức mây hoa trời ba đầu ma. Mưa trăm vạn ức mây hoa trời ưu bát la. Mưa trăm vạn ức mây hoa trời câu vật đầu. Mưa trăm vạn ức mây hoa trời phân đà lợi. Mưa trăm vạn ức mây hoa trời mạn đà la. Mưa trăm vạn ức mây tất cả hoa trời.

Giống như trời mưa xuống nhiều hàng trăm vạn ức mây hoa trời, mây hương trời, mây hương bột trời, mây hoa trời câu tô ma, mây hoa trời ba đầu ma (hoa sen đỏ), mây hoa trời ưu bát la (hoa sen xanh), mây hoa trời câu vật đầu (hoa sen vàng), mây hoa trời phân đà lợi (hoa sen trắng), mây hoa trời mạn đà la (hoa tiểu bạch), mây tất cả hoa trời. Tuy nhiên mưa đủ thứ hoa, nhưng chẳng dính đất, mà lơ lửng ở trong không gian, cho nên gọi là mây.

Mưa trăm vạn ức mây y trời. Mưa trăm vạn ức mây ma ni báu. Mưa trăm vạn ức mây lọng trời. Mưa trăm vạn ức mây phan trời. Mưa trăm vạn ức mây mũ trời. Mưa trăm vạn ức mây đồ trang nghiêm trời. Mưa trăm vạn ức mây man báu trời. Mưa trăm vạn ức mây chuỗi báu trời. Mưa trăm vạn ức mây hương chiên đàn trời. Mưa trăm vạn ức mây hương trầm thuỷ trời.

Lại mưa xuống nhiều hàng trăm vạn ức mây y trời, mây ma ni báu, mây lọng trời, mây phan trời, mây mũ trời, mây đồ trang nghiêm trời, mây man báu trời, mây chuỗi báu trời, mây hương chiên đàn trời, mây hương trầm thuỷ trời. Lại mưa mười thứ mây nầy để làm trang nghiêm.

Kiến tạo trăm vạn ức tràng báu. Treo trăm vạn ức phan báu. Thòng rũ trăm vạn ức tơ lụa báu. Đốt trăm vạn ức lò hương. Bày trăm vạn ức man báu. Cầm trăm vạn ức quạt báu. Cầm trăm vạn ức phất báu. Treo trăm vạn ức lưới linh báu, gió thổi lay động vang ra tiếng vi diệu. Trăm vạn ức lan can bao bọc chung quanh. Trăm vạn ức cây báu đa la, thứ lớp thẳng hàng. Trăm vạn ức cửa sổ báu đẹp, mỹ lệ trang nghiêm. Trăm vạn ức cây báu, che mát khắp chung quanh. Trăm vạn ức lầu các báu, nối dài nghiêm sức. Trăm vạn ức cửa báu, giăng bày chuỗi báu. Trăm vạn ức linh vàng, vang ra tiếng vi diệu. Trăm vạn ức chuỗi tướng cát tường, nghiêm tịnh rũ xuống. Trăm vạn ức báu tất để ca, hay trừ các điều ác. Trăm vạn ức tạng vàng, vàng tơ thêu thành. Trăm vạn ức lọng báu, do các thứ báu làm cán, cầm giữ thẳng hàng. Trăm vạn ức lưới đồ tất cả báu trang nghiêm, thảy đều trang nghiêm xen kẽ với nhau. 

Kiến lập trăm vạn ức tràng báu, treo trăm vạn ức phan báu, thòng rũ xuống trăm vạn ức tơ lụa báu, đốt lên trăm vạn ức lư hương, giăng bày trăm vạn ức man báu, tay cầm trăm vạn ức quạt báu, tay cầm trăm vạn ức phất báu, phía trên treo giăng trăm vạn ức lưới linh báu, khi gió thổi lay động linh báu, sẽ vang ra tiếng hay vi diệu, rất là êm tai. Có trăm vạn ức lan can, bao bọc khắp chung quanh.

Có trăm vạn ức cây đa la báu, cây nầy cao lớn, khoảng hơn bảy mươi thước, quả của nó ăn được. Dịch ra là “cây ngạn”, hàng lối ngay thẳng, nhìn trái nhìn phải đều thẳng hàng. Ðây là biểu thị tu hành phải tu đủ thứ hạnh môn. Tu hành đủ thứ hạnh môn thành tựu, đạt đến cảnh giới viên mãn, cũng gọi là thứ lớp thẳng hàng. Lại có trăm vạn ức cửa sổ lớn nhỏ, dùng báu đẹp tạo thành, chẳng những mỹ lệ, mà còn trang nghiêm.

Có trăm vạn ức cây báu che mát khắp chung quanh, cành lá sum sê, che lấp ánh sáng mặt trời, khiến cho có cảm giác mát mẻ. Có trăm vạn ức lầu các báu, lầu thêm lầu, các thêm các, nối tiếp không ngừng, rất là nghiêm sức. Có trăm vạn ức cửa báu, mỗi cửa đều giăng treo chuỗi, thòng rũ xuống. Có trăm vạn ức linh vàng, treo ở mỗi góc lầu các, khi gió thổi lay động, vang ra các thứ tiếng âm nhạc, đồng thời hoà tấu, vang ra tiếng hay tuyệt vời. Có trăm vạn ức chuỗi tướng cát tường, trang nghiêm thanh tịnh thòng rũ xuống. Có trăm vạn ức báu tất để ca, hay trừ diệt được các điều ác. Thấy được tất cả sự trang nghiêm đạo tràng, đều có cảm giác sung sướng an lạc, trừ sạch tất cả tham sân si trong tâm, và tám vạn bốn ngàn phiền não. Tại sao chúng ta có phiền não ? Vì chẳng nhìn thấy được cảnh giới trang nghiêm tướng tốt đẹp của cung trời Ðâu Suất Ðiện Bảo Trang Nghiêm, cho nên mỗi ngày xem phiền não như ăn cơm.

Có trăm vạn ức tạng vàng (bằng vải), dùng vàng thêu thành. Có trăm vạn ức lọng báu, đều dùng bảy báu làm thành. Cán lọng báu, dùng các thứ báu làm thành. Người trời cầm giữ lọng báu, tất cả đều ngay hàng thẳng lối, ngang dọc đều ngăn nắp, chẳng có lộn xộn. Có trăm vạn ức lưới đồ tất cả báu trang nghiêm, thảy đều trang nghiêm xen kẽ đạo tràng.

Trăm vạn ức quang minh báu, phóng ra đủ thứ ánh sáng. Trăm vạn ức quang minh, chiếu sáng khắp mọi nơi. Trăm vạn ức nhật tạng luân. Trăm vạn ức nguyệt tạng luân, đều do vô lượng sắc báu tập thành. Trăm vạn ức hương lửa ngọn, ánh sáng chiếu triệt. Trăm vạn ức tạng hoa sen, đua nở tươi tốt. Trăm vạn ức lưới báu. Trăm vạn ức lưới hoa. Trăm vạn ức lưới hương, che phủ phía trên.

Có trăm vạn ức quang minh báu, những kỳ trân dị báu nầy, phóng ra đủ thứ ánh sáng, chiếu sáng đạo tràng. Lại có trăm vạn ức quang minh, chiếu sáng khắp tất cả mọi nơi. Lại có trăm vạn ức nhật tạng luân và nguyệt tạng luân, đều dùng vô lượng sắc báu tích tập mà thành. Lại có trăm vạn ức hương lửa ngọn, ánh sáng của nó chiếu triệt hư không pháp giới. Lại có trăm vạn ức tạng hoa sen, hàng lối ngay thẳng, hoa nở ra rất tươi tốt, xinh đẹp. Lại có trăm vạn ức lưới báu, lưới hoa, lưới hương, thảy đều che phủ ở phía trên.

Trăm vạn ức y báu trời. Trăm vạn ức y trời màu xanh. Trăm vạn ức y trời màu vàng. Trăm vạn ức y trời màu đỏ. Trăm vạn ức y trời màu kỳ diệu. Trăm vạn ức y trời đủ thứ báu kỳ diệu. Trăm vạn ức y đủ thứ hương xông. Trăm vạn ức y tất cả báu làm thành. Trăm vạn ức y tươi trắng, thảy đều khéo giăng bày, ai thấy cũng hoan hỉ.

Có trăm vạn ức y báu trời, y trời màu xanh, y trời màu vàng, y trời màu đỏ, y trời màu kỳ diệu, y trời đủ thứ báu kỳ diệu, y đủ thứ hương xông, y tất cả báu làm thành, y tươi trắng. Những y trời nầy là y phục của người trời mặc, dùng các thứ báu làm thành. Thứ y phục nầy nhẹ ấm lại tốt đẹp, chẳng cần may vá, do đó: “y trời không may”, tự nhiên mà có. Cũng chẳng giặt dũ, vì người trời chẳng có bụi bặm. Phước trời tức là nghĩ thức ăn, thì thức ăn đến, nghĩ quần áo thì quần áo đến, chẳng có phiền não về ăn uống, quần áo, chỗ ở, thường chuyên tâm ngồi thiền. Những thứ y phục nầy khéo giăng bày ở trong đạo tràng, bất cứ ai nhìn thấy được những y phục nầy, đều sinh tâm đại hoan hỉ.

Trăm vạn ức tràng linh trời. Trăm vạn ức tràng lưới vàng, vang ra âm thanh vi diệu. Trăm vạn ức tràng trời thêu, các tia đầy đủ. Trăm vạn ức tràng hương, giăng bày lưới hương. Trăm vạn ức tràng hoa, mưa xuống tất cả hoa. Trăm vạn ức tràng y trời, treo giăng y đẹp. Trăm vạn ức tràng báu ma ni trời, do các thứ báu trang nghiêm. Trăm vạn ức tràng đồ trang nghiêm trời, các thứ đồ trang sức. Trăm vạn ức tràng man trời, đủ thứ các hoa man, bày hàng khắp bốn phía. Trăm vạn ức tràng lọng trời, linh báu hoà kêu, nghe được đều hoan hỉ.

Có trăm vạn ức tràng linh trời và tràng lưới vàng, khi gió thổi lay động, vang ra tiếng hay vô cùng, rất êm tai. Có trăm vạn ức tràng trời thêu, các tia đều đầy đủ. Có trăm vạn ức tràng hương, giăng bày lưới hương, đề làm nghiêm sức. Có trăm vạn ức tràng hoa, mưa xuống tất cả các hoa báu, do đó: “Trời mưa hoa báu, lát đát rơi xuống”, để trang nghiêm tu sức đạo tràng. Có trăm vạn ức tràng y trời, treo giăng tất cả y đẹp. Có trăm vạn ức tràng báu ma ni trời, dùng các thứ báu trang nghiêm. Có trăm vạn ức tràng đồ trang nghiêm, dùng hết thảy đồ để nghiêm sức. Có trăm vạn ức tràng man trời, đủ thứ hoa man, từng hàng từng hàng khắp bốn phía. Có trăm vạn ức tràng lọng trời, trên tràng có linh báu cùng nhau hoà kêu, mà chẳng tạp loạn, rất là thứ tự, khiến cho người nghe đều sinh tâm hoan hỉ, chẳng có phiền não. Chỗ diệu là tại chỗ nầy.

Trăm vạn ức loa trời, vang ra âm thanh vi diệu. Trăm vạn ức trống trời, vang ra âm thanh lớn. Trăm vạn ức không hầu trời, vang ra âm thanh vi diệu. Trăm vạn ức mâu ni la trời, vang ra âm thanh lớn vi diệu. Trăm vạn ức các tạp nhạc trời, đồng thời đều tấu lên. Trăm vạn ức nhạc trời tự tại, vang ra âm thanh vi diệu, âm thanh đó vang đến khắp tất cả cõi Phật. Trăm vạn ức nhạc trời biến hoá, âm thanh như tiếng vang, ứng khắp tất cả. Trăm vạn ức trống trời, do đánh mà vang ra âm thanh vi diệu. Trăm vạn ức nhạc trời như ý, tự nhiên vang ra tiếng, âm tiết hoà với nhau. Trăm vạn ức các tạp nhạc trời, vang ra âm thanh vi diệu, diệt trừ các phiền não.

Có trăm vạn ức loa trời, dùng miệng thổi kêu lên, vang ra âm thanh vi diệu. Có trăm vạn ức trống trời, trống trời không đánh mà tự kêu, vang ra âm thanh rất lớn. Âm thanh đó diệu không thể tả, kẻ điết nghe được tiếng trống, kẻ mù nhìn thấy được hình trống. Có trăm vạn ức không hầu trời (đồ nhạc xưa), vang ra âm thanh vi diệu. Có trăm vạn ức mâu ni la trời (trống phong), vang ra âm thanh lớn. Nhạc trời trước khi chưa tấu, nó tự động kêu lên trước, khiến cho tất cả người trời đều nghe được. Có trăm vạn ức các tạp nhạc trời, đồng thời đều tấu lên, rất là êm tai. Có trăm vạn ức nhạc trời tự tại, hoà tấu vang ra âm thanh vi diệu rất êm tai, truyền đến khắp mười phương tất cả cõi nước chư Phật. Có trăm vạn ức nhạc trời biến hoá, vốn là diệu âm của các thứ nhạc, nhưng có thể biến hoá âm thanh vô cùng. Một âm có thế biến hoá làm vô lượng âm, vô lượng âm vang ra một thứ âm, sự biến hoá nầy không thể nghĩ bàn. Thứ âm thanh nầy, giống như tiếng vang, ứng khắp tất cả căn cơ của chúng sinh, khiến cho họ thanh tâm quả dục, chẳng có mọi sự phiền não.

Mỗi ngày chúng ta nghiên cứu Kinh điển, thì nhất định chẳng có phiền não và chẳng có nóng giận mới đúng. Làm thế nào mới có thể không có ? Thì phải tu hành pháp môn lục độ vạn hạnh; tức cũng là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Mỗi người đều phải đặc biệt chú ý đạo lý lục độ. Nghiên cứu Kinh điển, phải tin, hiểu, hành, chứng, phải chiểu theo Kinh điển mà thực hành, chẳng phải dùng đầu miệng niệm một niệm, làm tam muội đầu miệng cho là xong việc, mà phải cung hành thực tiễn thực hành, mới đạt đến mục tiêu mong muốn.

Người tu đạo, gặp mọi cảnh giới, phải nhận thức rõ ràng. Bất cứ là thật hay giả, là thuận hay nghịch, đều đừng chấp trước, chẳng động tâm, như vậy thì chẳng bị cảnh giới lay chuyển, mà chuyển được cảnh giới. Bằng không, chẳng có định lực, chẳng phân thật giả, chấp trước cảnh giới, sẽ bị cảnh giới lay chuyển, dễ làm quyến thuộc của ma vương, cho nên không thể không cẩn thận. Tốt nhất là nên nghiên cứu tỉ mỉ về năm mươi thứ ấm ma nói ở trong Kinh Lăng Nghiêm. Hiểu rõ rồi thì chẳng bị hiểm kế của ma vương.

Các vị ! Có muốn nghe âm nhạc ở trên trời chăng ? Vậy thì phải tu pháp môn nhẫn nhục, đừng nóng giận, đừng mắng chưởi người. Khi công phu tu hành nhẫn nhục viên mãn rồi, thì sẽ chứng được thiên nhĩ thông, có thể nghe được âm nhạc ở trên trời. Ðại khái là tình hình như vậy, tin hay không do bạn.

Có trăm vạn ức trống trời, do đánh mà vang ra âm thanh vi diệu. Có trăm vạn ức nhạc trời như ý, thứ nhạc nầy, toại tâm như ý, tự nhiên diễn tấu, âm thanh và tiết tấu phối hợp với nhau, khiến cho người càng nghe càng thích thú. Có trăm vạn ức các tạp nhạc trời, thứ tạp nhạc nầy âm thanh vang ra rất là vi diệu, không thể nghĩ bàn, muốn nghe tiếng lớn, thì tiếng sẽ lớn. Muốn nghe tiếng nhỏ, thì tiếng sẽ nhỏ. Muốn nghe tiếng dài, thì tiếng sẽ dài. Muốn nghe tiếng ngắn, thì tiếng sẽ ngắn. Khiến cho tâm của bạn vừa ý, sinh đại hoan hỉ. Có tâm hoan hỉ, thì tất cả phiền não sẽ tiêu trừ sạch. Lúc đó, căn lành tăng trưởng, tâm ác chẳng sinh.

Trăm vạn ức tiếng vừa ý, khen ngợi cúng dường. Trăm vạn ức tiếng rộng lớn, khen ngợi thừa sự. Trăm vạn ức tiếng thâm sâu, khen ngợi tu hành. Trăm vạn ức các tiếng hay, khen nghiệp quả của Phật. Trăm vạn ức tiếng vi tế, khen lý như thật. Trăm vạn ức tiếng chân thật không chướng ngại, khen hạnh xưa của Phật. Trăm vạn ức tiếng thanh tịnh, khen ngợi quá khứ cúng dường chư Phật. Trăm vạn ức tiếng pháp môn, khen ngợi sự vô uý tối thắng của chư Phật. Trăm vạn ức tiếng vô lượng, khen công đức vô tận của các Bồ Tát. Trăm vạn ức tiếng Bồ Tát địa, khen ngợi khai thị hạnh tương ưng của tất cả Bồ Tát địa. Trăm vạn ức tiếng không đoạn tuyệt, khen công đức của Phật chẳng có đoạn tuyệt. 

Có trăm vạn ức tiếng pháp vừa ý, bất cứ loại chúng sinh nào, nghe được tiếng nầy, đều sinh tâm hoan hỉ vui mừng. Ở trong tiếng nầy nói pháp, khen ngợi sự cúng dường chư Phật, có công đức gì ? Cúng dường Tam Bảo, xả một được vạn, rộng gieo trồng ruộng phước, thì tăng trưởng căn lành bồ đề. Có trăm vạn ức tiếng pháp rộng lớn, trong tiếng nầy nói pháp, khen ngợi thừa sự chư Phật. Có trăm vạn ức tiếng pháp thâm sâu, ở trong tiếng nầy nói pháp, khen ngợi lợi ích của sự tu hành. Tu tất cả pháp, đắc được tất cả quả vị. Do đó:

“Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc,
Ai tu nấy đắc, không tu không đắc”.

Ðây là danh ngôn rất chí lý. Lại có trăm vạn ức các tiếng hay, tiếng pháp hay nầy, khen ngợi hạnh nghiệp tu hành lục độ vạn hạnh của chư Phật trong quá khứ, mới chứng được quả giác vô thượng bồ đề. Lại có trăm vạn ức tiếng vi tế, tiếng pháp vi tế nầy khen ngợi lý thể chân như thật tướng. Lại có trăm vạn ức tiếng chân thật không chướng ngại, khen ngợi Phật thuở xưa tu hành đủ thứ hạnh môn. Lại có trăm vạn ức tiếng thanh tịnh, khen ngợi khi Phật tại quá khứ tu hành đạo Bồ Tát, thì cúng dường chư Phật như thế nào. Lại có trăm vạn ức tiếng pháp môn, khen ngợi mười phương chư Phật chứng được pháp môn vô sở uý tối thù thắng. Lại có trăm vạn ức tiếng vô lượng, khen ngợi công đức tu hành lục độ vạn hạnh của các Bồ Tát, là chẳng có cùng tận. Lại có trăm vạn ức tiếng Bồ Tát địa, khen ngợi khai thị thập địa Bồ Tát, tu hành như thế nào, thành tựu như thế nào, hạnh môn tương ưng ra sao. Lại có trăm vạn ức tiếng không đoạn tuyệt, khen ngợi hết thảy công đức của mười phương chư Phật, chẳng có khi nào đoạn tuyệt.

Trăm vạn ức tiếng tuỳ thuận, tán thán khen ngợi hạnh thấy Phật. Trăm vạn ức tiếng pháp thâm sâu, khen ngợi tất cả pháp vô ngại trí lý tương ưng. Trăm vạn ức tiếng rộng lớn, tiếng đó sung mãn tất cả cõi Phật. Trăm vạn ức tiếng vô ngại thanh tịnh, tuỳ tâm ưa thích, đều khiến cho họ hoan hỉ. Trăm vạn ức tiếng chẳng trụ ba cõi, khiến cho người nghe vào sâu pháp tánh. Trăm vạn ức tiếng hoan hỉ, khiến cho người nghe tâm chẳng chướng ngại, tin sâu cung kính. Trăm vạn ức tiếng cảnh giới Phật, tuỳ sự phát ra, thảy đều khai ngộ tất cả pháp nghĩa. Trăm vạn ức tiếng đà la ni, khéo diễn nói tất cả câu pháp khác nhau, quyết rõ tạng bí mật của Như Lai. Trăm vạn ức tiếng tất cả pháp, tiếng đó hoà xướng, khắc hoà các thứ nhạc.

Có trăm vạn ức tiếng tuỳ thuận, tuỳ thuận căn tánh của chúng sinh, mà nói pháp âm, tán thán khen ngợi tu hành như thế nào, mới có thể được thấy Phật nghe pháp, sau đó thành Phật. Lại có trăm vạn ức tiếng pháp thâm sâu, thứ pháp âm vi diệu thâm sâu vô thượng nầy, tán thán tất cả pháp, và lý vô ngại trí huệ tương ưng. Tức cũng là tu pháp gì, thì khế quả vị đó. Có trí huệ thanh tịnh, thì sẽ minh bạch tất cả đạo lý tương ưng. Lại có trăm vạn ức tiếng rộng lớn, thứ pháp âm nầy có thể truyền đến khắp mười phương tất cả cõi Phật. Lại có trăm vạn ức tiếng thanh tịnh vô ngại, thứ pháp âm viên dung vô chướng ngại nầy, chẳng những thanh tịnh, mà còn tuỳ thuận tâm ưa thích của chúng sinh, thảy đều khiến cho họ hoan hỉ. Lại có trăm vạn ức tiếng chẳng trụ ba cõi, khiến cho chúng sinh nghe được tiếng pháp nầy, thì vào sâu pháp tánh, trí huệ vô ngại. Lại có trăm vạn ức tiếng cảnh giới Phật, tuỳ thuận âm thanh vi diệu của Phật nói, hay khai thị tất cả nghĩa lý của diệu pháp, vô cùng vô tận. Lại có trăm vạn ức tiếng Ðà la ni, tiếng nầy khéo diễn nói hết thảy tất cả câu pháp khác nhau. Tức là mỗi câu, mỗi chữ đều có vô lượng nghĩa lý bao hàm ở trong Ðà la ni. Lại hay diễn xướng tất cả diệu pháp, ở trong tất cả pháp, lại tụng trì trăm vạn ức tiếng Ðà la ni, biến hoá vô cùng, nghĩa lý vô cùng, có đủ thứ sự phân biệt. Quyết định thấu rõ tạng bí mật của Phật nói, tức cũng là pháp môn mật tông. Pháp môn nầy vì kia nói, đây chẳng biết, vì đây nói, kia chẳng biết, cùng nhau chẳng biết, cho nên là pháp mật. Lại có trăm vạn ức tiếng tất cả pháp, ở trong hư không, tự nhiên có pháp âm tuyên lưu, đây là pháp âm do Phật biến hoá làm ra. Pháp âm nầy hoà mỹ mà diễn xướng, tất cả chúng sinh đều nghe được, tương ưng với tất cả âm nhạc.

Hôm nay (ngày 9/4/1976) bắt đầu thất Ðại Bi. Buổi tối sau khi sái tịnh rồi, thì bắt đầu tụng trì Thần Chú Ðại Bi. Chú Ðại Bi nầy là Thần Chú quá khứ chín mươi chín ức Hằng hà sa số Ðức Phật đã nói. Bồ Tát Quán Thế Âm vì thương xót tất cả chúng sinh, mà phát tâm đại bi, trở lại con thuyền từ bi, đến thế giới Ta Bà nầy, để độ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ, đắc được giải thoát. Do đó:

“Biển khổ không bờ, hồi đầu là bến”.

Chỉ cần kiền thành trì tụng Chú Ðại Bi, thì sẽ có cảm ứng không thể nghĩ bàn.

Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong vô lượng kiếp về trước, nghe được Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, vì Ngài diễn nói pháp Ðại Bi Thần Chú, dùng tay sắc vàng rờ đầu. Nghe pháp rồi, liền vượt qua bậc Bát Ðịa Bồ Tát, tâm sinh đại hoan hỉ, lập tức phát tâm bồ đề: “Nếu tôi có thể lợi ích tất cả chúng sinh, thì khiến cho tôi tức thời sinh ngàn tay ngàn mắt”. Phát nguyện rồi, hốt nhiên đại địa chấn động, quang minh của mười phương chư Phật, chiếu đến thân Ngài, lúc đó sinh ra tướng trang nghiêm ngàn tay ngàn mắt. Tay có sức đề bạt, mắt dùng để chiếu sáng. Ngàn tay ngàn mắt biểu thị có ngàn thứ thần thông và trí huệ.

Ý nghĩa của Chú Ðại Bi là: “Bi hay cứu khổ”, bất cứ có khốn khổ hoạn nạn gì, nếu có thể thành tâm khẩn thiết tụng niệm Chú Ðại Bi, thì đều đắc được bình an, gặp hung hoá cát. Bồ Tát Quán Thế Âm nói với Phật: “Nếu chúng sinh tụng trì Chú Ðại Bi, mà không thể mãn nguyện, thì thề không thành Chánh Giác, trừ phi kẻ bất thiện hoặc không chí thành”.

Tụng trì Chú Ðại Bi, chẳng những đắc được tự tại, mà còn sở cầu đều mãn nguyện. Có thể lìa khỏi khổ nạn, mà đắc được khoái lạc. Qua khỏi được nguy hiểm, mà đắc được sự bình an. Làm thế nào lìa được khổ nạn ? Là phải tụng Chú Ðại Bi. Làm thế nào để thoát nguy hiểm ? Thì phải tụng trì Chú Ðại Bi. Ðừng xem Chú Ðại Bi đơn giản bình thường. Tôi nói cho bạn biết, nếu trong quá khứ, hiện tại, chẳng có căn lành, thì cho đến tên của Chú Ðại Bi cũng chẳng được nghe qua, hà huống là tụng trì ! Hiện tại chẳng những nghe được tên của Chú Ðại Bi, mà còn chí thành trì tụng Chú Ðại Bi, đây là cơ hội trăm ngàn kiếp khó gặp được, lại có bậc thiện tri thức chỉ đạo, tụng trì như thế nào, thọ trì ra sao, tu trì như thế nào, có thể thấy đây là bạn xem trọng. Tóm lại, Chú Ðại Bi có sự lợi ích không thể nghĩ bàn.

Nội trong bảy ngày nầy, phải thành tâm thành ý, tất cung tất kính tụng trì Chú Ðại Bi. Tụng đến cực điểm, thì tâm chẳng vọng tưởng. Lúc đó, tâm địa thanh tịnh, hoặc có người thấy hào quang, hoặc có người thấy hoa. Hoặc có người được Bồ Tát Quán Âm rờ đầu, gia trì để khai mở trí huệ. Hoặc có người ngửi được hương thơm lạ. Nhưng cũng có nhiều người tuy nhiên chí thành khẩn thiết tụng trì Chú Ðại Bi, nhưng chẳng gặp được cảnh giới gì. Bạn đừng buồn, phải tiếp tục tụng trì. Ðến lúc, nhất định sẽ có cảnh giới cảm ứng đạo giao, hiện ra ở trước mặt bạn.

Bất cứ thấy được cảnh giới, hoặc chẳng thấy được cảnh giới, đều phải tinh tấn tụng trì. Thấy người tướng đoan chánh, đừng chấp trước vào tướng đoan chánh. Chẳng thấy được người tướng đoan chánh, cũng đừng sinh tâm tự ti mặc cảm: “Ôi ! Tôi chẳng có căn lành, tại sao tôi chẳng thấy được Bồ Tát ?” Căn lành thành thục có khi sớm, có khi muộn. Nếu cảm giác căn lành của mình chưa thành thục, thì nên tài bồi căn lành, làm nhiều việc công đức. Do đó:

“Chưa trồng căn lành,
Thì khiến cho trồng căn lành.
Ðã trồng căn lành,
Thì khiến cho tăng trưởng.
Ðã tăng trưởng thì khiến cho thành thục.
Ðã thành thục thì khiến cho được giải thoát”.

Các vị lần đầu tiên đến Chùa Kim Sơn, nghiên cứu Phật pháp, tu tập Phật pháp, phải đem tâm thành ra học tập, chẳng sợ khổ, chẳng sợ khó. Trong bảy ngày phải dũng mãnh tinh tấn, đừng khởi vọng tưởng. Nếu một mặt tu hành, một mặt khởi vọng tưởng, thì công phu sẽ chẳng chuyên nhất. Chẳng chuyên nhất thì chẳng đắc được sự cảm ứng. Do đó:

“Chuyên nhất thì linh,
Phân chia thì tán”.

Chuyên nhất tâm niệm, thì sẽ linh cảm. Nếu tạp niệm lăn xăn thì chẳng có sự cảm ứng. Ðiểm nầy các vị phải đặc biệt chú ý.

Tụng trì Chú Ðại Bi, đắc được sự lợi ích, dù suốt thuở vị lai nói cũng không hết được. Phàm là người tụng trì Chú Ðại Bi, tuyệt đối chẳng đoạ vào ba đường ác. Nếu đoạ vào ba đường ác, thì Bồ Tát Quán Thế Âm Ngài cũng không thành Phật. Người tụng trì Chú Ðại Bi, thì tất cả sự ngu si, nếu không biến thành trí huệ, thì Bồ Tát Quán Thế Âm Ngài không thành Phật. Chú Ðại Bi trị được tám vạn bốn ngàn thứ bệnh của thế gian. Nếu có bệnh tật, thậm chí bác sĩ đông tây cũng bó tay, nếu bạn kiền thành tụng trì Chú Ðại Bi, thì nhất định không thuốc mà khỏi bệnh. Tức có thần hiệu không thể nghĩ bàn như thế.

Ở Chùa Kim Sơn có người đã được cảm ứng như thế. Chứng bệnh rất là khó chữa trị, tụng Chú Ðại Bi làm cho tuyệt chứng hết bệnh. Thần lực của Chú Ðại Bi diệu không thể tả. Chỉ xem công phu của các vị trong bảy ngày nầy như thế nào, ai có tâm thành thì người đó sẽ có cảm ứng, đắc được sự lợi ích. Người có bệnh, thì bệnh sẽ khỏi. Người không bệnh, thì sẽ khai mở trí huệ. Cầu gì thì được nấy. Cho nên Chú Ðại Bi là bất khả tư nghì Quảng Đại Linh Cảm Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Ðà la ni dịch là “tổng trì”, “Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa”. Tức cũng là Chú, hoặc là chân ngôn, là lời bí mật.

Chú có bốn nghĩa:

1. Trong Chú có tên của vua quỷ thần, tiểu quỷ nghe đến tên vua, thì chẳng dám làm càn, đều phải giữ quy cụ.
2. Như khẩu lệnh trong quân đội. Tương ưng thì vô sự, không tương ưng thì trị tội.
3. Chú hay bí mật tiêu mất tội nghiệp của bạn, khiến cho người không biết.
4. Chú là lời lẽ bí mật của chư Phật, chỉ có Phật mới biết đạo lý của Chú.

Các vị lần nầy đến tham gia pháp hội thất Ðại Bi, đều là căn lành đầy đủ, có đức hạnh, nhân duyên thành thục, mới đến Chùa Kim Sơn. Hy vọng các vị đã vào trong núi báu thì không thể tay không ra về. Phải đắc được châu báu, thọ dụng vô cùng. Gì là châu báu ? Tức là Chú Ðại Bi. Chú Ðại Bi có thể trị bệnh, có thể hàng ma, có thể khai mở trí huệ, có thể bảo hộ bình an. Tóm lại, cầu gì thì được nấy, nhất định toại tâm mãn nguyện.

Pháp hội thất Ðại Bi lần nầy, là pháp hội rất đặc biệt. Ở Trung Quốc cũng rất ít niệm Chú Ðại Bi, niệm kỷ lục liên tục trong bảy ngày. Ở các nước khác có niệm bảy ngày hay không, thì tôi không biết. Song, ở nước Mỹ, tôi tin đây là lần đầu tiên. Cho nên hy vọng các vị đem tâm chân thành ra để tụng trì Chú Ðại Bi, công đức vô lượng.

Hiện tại chúng ta đang đả thất Ðại Bi, niệm Chú Ðại Bi, tức cũng là trăm vạn ức tiếng Ðà la ni. Hiện tại đang niệm Ðại Bi Ðà la ni thần diệu chương cú. Mỗi người niệm mấy ngàn vạn lần, hiện tại mấy mươi người niệm, cũng gọi là trăm vạn ức tiếng Ðà la ni.

Tại cung trời Ðâu Suất, có rất nhiều Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn và tất cả Thánh chúng, đang tụng trì Chú Ðại Bi, hoặc tụng Chú Lăng Nghiêm, hoặc tụng mười Chú nhỏ, cho nên có trăm vạn ức tiếng Ðà la ni. Chú Ðại Bi tại tất cả mọi nơi, tất cả mọi thời, đều có thể tụng trì. Tóm lại, đi đứng nằm ngồi, đều có thể trì tụng. Khi tụng Chú Lăng Nghiêm, thì tốt nhất là tụng trì vào bốn giờ sáng sớm. Vì hư không thanh tịnh, hay hoạch được cảm ứng. Lúc đó, trên không các Thần Thánh đi qua chỗ đó, một khi nghe tiếng của Chú, thì liền chấp tay đứng hầu. Ðứng hầu niệm Chú xong rồi, mới có thể hành động. Ðây là chứng minh công đức của việc tụng Chú. Cho nên tụng trì lời Chú, phải cung kính vạn phần, trịnh trọng để tụng, không thể cẩu thả, phô diễn sự việc. Nơi tụng Chú tốt nhất là chánh điện, nơi thờ Phật, nơi yên tĩnh cũng được. Nhưng phải là nơi trang nghiêm thanh tịnh.

Có trăm vạn ức Bồ Tát sơ phát tâm, hốt nhiên thấy toà sư tử, càng thêm tăng trưởng tất cả trí tâm. Trăm vạn ức Bồ Tát trị địa, tâm thanh tịnh hoan hỉ. Trăm vạn ức Bồ Tát tu hành, ngộ hiểu thanh tịnh. Trăm vạn ức Bồ Tát sinh quý trụ, trụ thắng chí lạc. Trăm vạn ức Bồ Tát phương tiện đầy đủ, khởi hạnh đại thừa. Trăm vạn ức Bồ Tát chánh tâm trụ, siêng tu tất cả đạo Bồ Tát. Trăm vạn ức Bồ Tát bất thoái, tịnh tu tất cả bậc Bồ Tát. Trăm vạn ức Bồ Tát đồng chân, được tất cả tam muội quang minh của Bồ Tát. Trăm vạn ức Bồ Tát pháp vương tử, vào cảnh giới chư Phật không thể nghĩ bàn. Trăm vạn ức Bồ Tát quán đảnh, hiện được thập lực của vô lượng Như Lai.

Có trăm vạn ức Bồ Tát sơ phát tâm, hốt nhiên nhìn thấy được toà sư tử, càng tăng trưởng thêm tất cả tâm trí huệ. Ðó là giảm bớt vô minh, chẳng có điên đảo vọng tưởng. Lại có trăm vạn ức Bồ Tát trị địa trụ, chẳng có điên đảo, chẳng có vọng tưởng, đã đắc được thanh tịnh. Vì trong ngoài thân tâm đều thanh tịnh, cho nên sinh đại hoan hỉ. Lại có trăm vạn ức Bồ Tát tu hành trụ, tâm thanh tịnh hoan hỉ rồi, bèn khai ngộ đắc được đại giải thoát, chẳng còn tất cả mọi phiền não, đây là ngộ hiểu thanh tịnh. Lại có trăm vạn ức Bồ Tát sinh quý trụ, trụ nơi thắng chí lạc, phát tâm đại bồ đề, dũng mãnh tinh tấn, chẳng thoái lùi chí nguyện đã phát, thời thời sinh tâm hoan hỉ vui mừng, chẳng có tâm lo sầu. Lại có trăm vạn ức Bồ Tát phương tiện cụ túc trụ, các Ngài thuở xưa tuy nhiên phát tâm bồ đề, nhưng đối với chí nguyện đại thừa vẫn không kiên cố, khi đắc được bậc nầy rồi, thì bèn sinh khởi hạnh môn tu hành đại thừa. Lại có trăm vạn ức Bồ Tát chánh tâm trụ, siêng năng tinh tấn tu hành tất cả hạnh môn của Bồ Tát. Lại có trăm vạn ức Bồ Tát bất thoái trụ, thanh tịnh tu hành hạnh môn của thập địa Bồ Tát tu. Bất thối tức là ba bất thối:

1. Vị bất thối: Chẳng thối lùi về bậc nhị thừa.
2. Niệm bất thối: Chẳng thối lùi hạnh môn của Bồ Tát tu.
3. Hạnh bất thối: Tu hành Bồ Tát đạo chẳng thối lùi.

Lại có trăm vạn ức Bồ Tát đồng chân trụ, đắc được chánh định chánh thọ và trí huệ quang minh của tất cả Bồ Tát. Lại có trăm vạn ức Bồ Tát Pháp Vương tử trụ, các ngài tuy nhiên chưa chứng được quả vị Phật, nhưng đều vào được cảnh giới không thể nghĩ bàn của chư Phật, tức cũng là có thần thông diệu dụng của chư Phật. Lại có trăm vạn ức Bồ Tát quán đảnh trụ, các Ngài biến hoá toại tâm như ý, mà hiện ra thập lực trí huệ và thần thông của Phật.

Trăm vạn ức Bồ Tát được thần thông tự tại. Trăm vạn ức Bồ Tát sinh ra sự hiểu biết thanh tịnh. Trăm vạn ức Bồ Tát tâm sinh ưa thích. Trăm vạn ức Bồ Tát tin sâu chẳng hoại. Trăm vạn ức Bồ Tát thế lực rộng lớn. Trăm vạn ức Bồ Tát tiếng đồn tăng trưởng. Trăm vạn ức Bồ Tát diễn nói pháp nghĩa, khiến cho trí huệ quyết định. Trăm vạn ức Bồ Tát chánh niệm chẳng loạn. Trăm vạn ức Bồ Tát sinh trí huệ quyết định. Trăm vạn ức Bồ Tát được sức nghe thọ trì, thọ trì tất cả Phật pháp. Trăm vạn ức Bồ Tát sinh ra vô lượng giác ngộ hiểu biết rộng lớn. Trăm vạn ức Bồ Tát an trụ tín căn.

Có trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được thần thông tự tại, không cần tác ý và quán sát, lập tức biết nhân duyên của tất cả cảnh giới. Nhưng A la hán phải tác ý (nghĩ tưởng) và quán sát (nhập định), sau đó mới biết nhân duyên của tất cả cảnh giới. Có trăm vạn ức Bồ Tát, sinh ra trí huệ thanh tịnh, khéo hiểu tất cả các pháp. Có trăm vạn ức Bồ Tát, nơi pháp trong tâm sinh ra ưa thích, tức cũng là lấy pháp làm vui.

Có trăm vạn ức Bồ Tát, đối với tất cả Phật pháp, sinh ra tâm tin kiên cố, chẳng bị bàng môn tả đạo phá hoại. Bồ Tát phát tâm, tin sâu chẳng nghi, ý chí kiên cố. Do đó:

“Tin là nguồn đạo mẹ công đức
Dưỡng lớn tất cả các pháp lành”.

Có tâm tin kiên cố rồi, mới không hoại tâm bồ đề. Có trăm vạn ức Bồ Tát, thế lực của các Ngài rất là rộng lớn. Tại sao Bồ Tát vẫn phải có thế lực ? Vì có thế lực lớn, mới hàng phục được Thiên ma ngoại đạo. Giống như Bồ Tát Ðại Thế Chí, một khi Ngài dơ tay cất chân lên, thì đại địa có sáu thứ chấn động. Thiên ma ngoại đạo từ xa trông thấy mà bỏ chạy, do đó: “Nghe danh mất vía”. Vì vậy, cho nên Bồ Tát có thế lực rộng lớn. Chẳng phải dùng thế lực đi đàn áp người, mà là dùng thế lực đi cứu người. Có trăm vạn ức Bồ Tát, danh đồn của các Ngài càng ngày càng tăng trưởng. Bồ Tát chẳng cầu danh, chẳng cầu lợi. Tại sao danh đồn vẫn tăng trưởng ? Vì Bồ Tát có danh đồn, có thể khiến cho chúng sinh nghe danh, mà phát tâm bồ đề. Giống như danh đồn của bốn vị đại Bồ Tát (Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Ðịa Tạng), ai ai nghe cũng đều sinh tâm tín ngưỡng, do tin mà phát tâm tu đạo. Lại khiến cho tất cả thiên ma ngoại đạo nghe danh mà khiếp sợ, chẳng dám tác quái. Vì vậy cho nên Bồ Tát phải danh đồn tăng trưởng. Nhưng Bồ Tát chẳng chấp vào danh.

Có trăm vạn ức Bồ Tát, thời khắc diễn nói nghĩa lý tất cả diệu pháp. Ở trong một nghĩa lý, có thể diễn nói vô lượng nghĩa lý; vô lượng nghĩa lý, chẳng lìa khỏi một nghĩa lý. Do đó:

“Một làm vô lượng,
Vô lượng làm một”.

Chẳng những khiến cho trí huệ của mình, mà cũng khiến cho chúng sinh nghe được các pháp yếu nghĩa, thì trí huệ có thể quyết định, đoạn trừ tất cả nghi hoặc. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài đắc được chánh niệm, chánh định, chánh tư duy. Có chánh niệm rồi, thì chánh định hiện tiền. Chánh định hiện tiền, thì chẳng tán loạn. Lại có trăm vạn ức Bồ Tát, trí huệ quang minh của các Ngài rất nhạy bén, đối với tất cả các pháp chẳng có hoài nghi, sinh ra trí huệ quyết định. Lại có trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được nghe mà thọ trì, trì mà tu, tu mà huệ, nghe huệ hiện tiền. Do đó: “Một khi lọt vào tai, vĩnh viễn là hạt giống đạo”, không thể biến đổi, đây là sức nghe trì, cũng không thể quên mất, đây là biểu hiện nghe huệ. Có trí huệ rồi, sự lý chẳng rõ, nghĩ đến sẽ biết ngay. Biết rồi, vẫn phải tu hành. Tu hành mới thành tựu tất cả hạnh môn, đây là tu huệ thành tựu. Cho nên phải y pháp tu hành. Chẳng tu hành mà có trí huệ, thì chẳng có chuyện ấy, giống như đếm châu báu thế cho người khác, cuối cùng mình chẳng có gì cả. Có trăm vạn ức Bồ Tát, sinh ra vô lượng vô biên giác ngộ và kiến giải rộng lớn. Có trăm vạn ức Bồ Tát, an trụ nơi tín căn, đối với Phật pháp tơ hào chẳng hoài nghi. Do tin, tấn, niệm, định, huệ năm căn, mà sinh ra tin, tấn, niệm, định, huệ, năm lực. Có năm lực nầy tài bồi, thì tín căn tăng trưởng, tấn căn tăng trưởng, niệm căn tăng trưởng, định căn tăng trưởng, huệ căn tăng trưởng. Có trí huệ rồi, thì chuyên tâm tu hành, môn nào cũng đều thông, Do đó:

“Một thông tất cả thông”.

Trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được bố thí Ba La Mật, hay bố thí tất cả. Trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được trì giới Ba La Mật, giữ đầy đủ các giới. Trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được nhẫn nhục Ba La Mật, tâm chẳng vọng động, thảy đều nhẫn thọ được tất cả Phật pháp. Trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được tinh tấn Ba La Mật, hay thực hành vô lượng tinh tấn xuất ly. Trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được thiền Ba La Mật, đầy đủ vô lượng thiền định quang minh. Trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được Bát Nhã Ba La Mật, trí huệ quang minh, chiếu sáng khắp. Trăm vạn ức Bồ Tát, thành tựu đại nguyện, thảy đều thanh tịnh. Trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được đèn trí huệ, chiếu rõ pháp môn. Trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được pháp quang của mười phương chư Phật chiếu soi. Trăm vạn ức Bồ Tát, đến khắp mười phương, diễn nói pháp lìa ngu si.

Có trăm vạn ức Bồ Tát, chứng được bố thí Ba La Mật. Ba La Mật dịch là “đến bờ kia”. Hay bố thí mới đến được bờ kia. Bố thí có ba:

1. Tài thí: Phân ra có nội tài và ngoại tài. Nội tài tức là đầu mắt tuỷ não, ngoại tài tức là đất nước vợ con. Phải bố thí tất cả cho người cần.

2. Pháp thí: Tức là giảng Kinh thuyết pháp, hoặc ấn tống phát hành Kinh, hoặc dịch Kinh chú giải, thậm chí hiến thân cho Phật giáo, dùng công sức làm việc công đức, đều thuộc về phạm vi bố thí pháp.

3. Vô uý thí: Nếu có người gặp việc sợ sệt, thì phải tìm cách giải cứu, hoặc an ủi họ, khiến cho họ được bình an.

Nếu Bồ Tát chẳng đắc được tinh tấn Ba La Mật, thì chẳng muốn bố thí. Chẳng những chẳng bố thí cho người, mà ngược lại dạy người bố thí cho mình. Nếu chẳng hướng ngoại bố thí, ngược lại do ngoài hướng nội bố thí, đây chẳng nói đến được sự bố thí, mà là tham. Bố thí tất cả, tức là trong ngoài đều thí xả cho người khác. Không thể nói tôi bố thí những tài vật gì ? Tôi làm những việc tốt nào ? Tôi có những công đức gì ? Có những tư tưởng như thế, tức là chấp tướng. Nếu chấp tướng, thì chỉ có phước báu sinh về cõi trời. Giống như ngửa bắn cung lên trời, sức lực hết thì vẫn rơi xuống đất. Cho nên hưởng phước trời hết, sẽ sinh xuống nhân gian, hoặc thọ khổ, hoặc hưởng phước, chiêu đến đời sau chẳng được như ý.

Các bạn hãy xem những người giàu trên thế gian, đa số họ từ trên trời hưởng phước hết rồi, lại sinh xuống nhân gian, hoặc làm phú ông, hoặc làm kẻ bần cùng, có người được như ý, có người chẳng được như ý. Nếu chẳng chấp trước tướng, sẽ là bố thí rốt ráo. Ðem công đức bố thí nầy, hồi hướng nơi Phật đạo, thì tương lai sẽ thành Phật.

Lại có trăm vạn ức Bồ Tát, chứng được trì giới Ba La Mật. Phải giữ gìn giới luật, thì mới đạt đến được bờ bên kia. Giới có nhiều loại. Tại gia có năm giới, tám giới, và giới Bồ Tát. Xuất gia Sa Di có mười giới, Tỳ Kheo có hai trăm năm mươi giới, Tỳ Kheo Ni có ba trăm bốn mươi tám giới. Còn thọ giới Bồ Tát mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh. Năm giới là giới lớn căn bản. Phàm là Phật giáo đồ, nhất định phải giữ đừng phạm. Ai ai cũng giữ được năm giới, thì gia đình mỹ mãn, xã hội an ninh, quốc gia giàu mạnh, thế giới hoà bình.

Lại có trăm vạn ức Bồ Tát, chứng được nhẫn nhục Ba La Mật. Hay tu pháp môn nhẫn nhục, tu đến lúc viên mãn, thì sẽ đạt đến được bờ bên kia. Tu hành hạnh nhẫn nhục chẳng dễ dàng. Có thể nhẫn được một lần, hai lần, tối đa là ba lần, nhẫn đến lần thứ tư, thì chẳng nhẫn được nữa. Thậm chí một lần cũng không nhẫn được. Phải biết, không nhẫn được, thì chẳng đến được bờ bên kia.

Tại sao không thể nhẫn được ? Vì chẳng có định lực, lý trí chẳng khống chế được tình cảm, tình cảm lay động thì nhẫn chẳng được. Người tu đạo tức là tu nhẫn. Tu pháp như thế nào ? Trước hết phải giữ giới, đề phòng được nghiệp ác thân miệng ý. Do giới sinh định, do định sinh huệ. Do đó:

“Mắt thấy hình sắc trong chẳng có,
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay”.

Ðối cảnh vô tâm, tức là nhẫn. Cổ Ðức có nói:

“Niệm động trăm việc có,
Niệm ngừng vạn việc không”.

Khí thế gian (sơn hà đại địa) và hữu tình thế gian, đều do một niệm vô minh tạo thành. Nếu phá được một niệm vô minh, thì tất cả đều không.

Nhẫn có sinh nhẫn, pháp nhẫn, vô sinh pháp nhẫn. Có người tôn kính bạn, mà bạn chẳng sinh tâm kiêu ngạo. Có người phỉ báng bạn, mà bạn chẳng sinh tâm sân hận, đây là sinh nhẫn. Phải nhẫn lạnh nóng đói khát, phải an tường nhẫn thọ, chẳng khởi lo sầu, đây là pháp nhẫn. Bồ Tát đã chứng được vô sinh pháp nhẫn, chẳng thấy có chút pháp sinh, cũng chẳng thấy có chút pháp diệt, tức là nhẫn trong tâm. Các pháp không tướng sinh, các pháp không tướng diệt. Phật pháp như biển cả, nhưng đừng nhìn mà thở dài, mà phải có tâm ưa thích, đây cũng là nhẫn. Nhẫn ở nơi tâm, chẳng phải thấy được Phật pháp mà sinh tâm thối lùi. Phật pháp quá nhiều, cũng nhẫn thọ được. Phật pháp thâm sâu, cũng nhẫn thọ được. Phật pháp quá diệu, cũng nhẫn thọ được. Tóm lại, đều nhẫn thọ được. Ðây tức là nhẫn nhục Ba La Mật. Bất cứ như thế nào, tâm cũng chẳng vọng động, nhẫn thọ được tất cả Phật pháp.

Lại có trăm vạn ức Bồ Tát, chứng được tinh tấn Ba La Mật. Tinh tấn có hai: Một là thân tinh tấn, hai là tâm tinh tấn. Siêng tu pháp lành là thân tinh tấn, siêng tu thiện đạo là tâm tinh tấn. Hay tinh tấn, thì sẽ thoát khỏi ba cõi, vượt qua sáu nẻo, chấm dứt sinh tử, chứng được Phật đạo. Tu như thế nào ? Ðừng phóng dật, đừng giải đãi. Dũng mãnh tinh tấn, chẳng có pháp thứ hai nào khác.

Lại có trăm vạn ức Bồ Tát, chứng được thiền Ba La Mật. Thiền tức là thiền na, dịch là “tĩnh lự”. Nghĩa là quét trừ tất cả vọng tưởng, chuyên tâm một chánh niệm. Như vậy sẽ đầy đủ vô lượng thiền định quang minh. Vì có tam muội, sẽ có trí huệ quang minh hiện tiền. Do đó: “Trí huệ giải thoát”. Thứ trí huệ nầy là trí huệ căn bản, tức cũng là thành tựu bốn thứ trí (thành sở tác trí, diệu quán sát trí, bình đẳng tánh trí, đại viên cảnh trí).

Lại có trăm vạn ức Bồ Tát, chứng được Bát Nhã Ba La Mật. Bát Nhã dịch là “trí huệ”. Bát Nhã có ba thứ:

1. Văn tự Bát Nhã.
2. Quán chiếu Bát Nhã.
3. Thật tướng Bát Nhã.

Thứ trí huệ quang minh nầy, hay chiếu sáng tận hư không khắp pháp giới. Trí huệ nầy ở trong thiền định sinh ra. Do đó:

“Thông suốt các pháp là trí
Dứt hoặc chứng lý là huệ”.

Lại có trăm vạn ức Bồ Tát, thành tựu đại nguyện lực đã phát ra thuở xưa, thảy đều thanh tịnh. Nguyện có hai:

– Một là cầu bồ đề nguyện: Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh.

– Hai là lợi lạc tha nguyện: Tức là tự giác giác tha, tự độ độ tha, tự lợi lợi tha. Tu hành chẳng phát nguyện, cũng giống như cây nở hoa mà chẳng kết trái.

Lại có trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được tất cả đèn trí huệ, quang minh chiếu sáng tất cả pháp môn, tức cũng là chiếu rõ các pháp thật tướng. Thứ trí huệ nầy có phân ra thật trí và vọng trí. Gặp được cảnh giới, chẳng suy nghĩ mà biết là thật trí. Nếu suy gẫm nghiên cứu là vọng trí.

Lại có trăm vạn ức Bồ Tát, được pháp quang của mười phương chư Phật chiếu sáng. Do đó: “Phật quang phổ chiếu”, chiếu sáng tất cả chúng sinh. Phàm là được Phật quang chiếu đến, thì nhất định sẽ khai mở trí huệ. Làm thế nào để được Phật quang chiếu đến ? Thì phải siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si. Khi nào tu được công đức viên mãn, thì lúc đó được pháp quang của chư Phật chiếu đến.

Lại có trăm vạn ức Bồ Tát, đến khắp mười phương thế giới, vì tất cả chúng sinh diễn nói phương pháp lìa ngu si. Tức cũng là diễn nói pháp môn đắc được trí huệ. Có trí huệ rồi, thì biết rõ thiện ác, chẳng làm chuyện điên đảo. Tức cũng là chẳng khởi hoặc, chẳng tạo nghiệp ác, thì tương lai chẳng thọ quả báo. Lìa ngu si, chứng trí huệ, đây là mục đích học Phật.

Tại sao chúng ta có phiền não ? Là vì ngu si. Tại sao có vô minh ? Vì ngu si. Tại sao có sự nóng giận ? Vì ngu si. Tại sao có điên đảo ? Vì ngu si. Tất cả hết thảy đều vì ngu si mà tạo thành. Tạo ra nghiệp điên đảo, không thể thoát khỏi ba cõi. Muốn thoát khỏi ba cõi, thì trước hết phải học Phật pháp chẳng có ngu si. Siêng học Bát Nhã, siêng tu Bát Nhã, mới có thể lìa khỏi ngu si, mới có thể không có điên đảo. Ðây là pháp môn cơ bản.

Trăm vạn ức Bồ Tát, vào khắp tất cả cõi nước chư Phật. Trăm vạn ức Bồ Tát, pháp thân tuỳ thời đến tất cả cõi nước chư Phật. Trăm vạn ức Bồ Tát, được âm thanh của Phật, hay rộng khai ngộ. Trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được sinh ra tất cả trí phương tiện. Trăm vạn ức Bồ Tát, đắc được thành tựu tất cả pháp môn. Trăm vạn ức Bồ Tát, thành tựu pháp trí, giống như thật tràng, hay hiển bày khắp tất cả Phật pháp. Trăm vạn ức Bồ Tát, thị hiện được cảnh giới của Như Lai.

Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài vào được khắp tất cả cõi nước chư Phật, giúp Phật hoằng pháp, giáo hoá chúng sinh. Có trăm vạn ức Bồ Tát, pháp thân của các Ngài, tuỳ thời tuỳ lúc đến tất cả cõi nước chư Phật, diễn nói diệu pháp, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài nghe được âm thanh của chư Phật nói pháp, mà rộng khai ngộ, cũng khiến cho chúng sinh khai ngộ, đây là tinh thần từ bi của Bồ Tát. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài đắc được pháp phương tiện nhất thiết trí, dùng pháp phương tiện này, để giáo hoá chúng sinh. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài chứng được hết thảy tất cả pháp môn, đều đã thành tựu, tức cũng là tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn môn đều tu thành công. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài đã thành tựu trí huệ pháp, giống như tràng báu, hay hiển bày khắp tất cả Phật pháp, khiến cho tất cả chúng sinh, cũng thấu rõ được nghĩa chân thật của Phật pháp. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài đều thị hiện được tất cả cảnh giới của Như Lai.

Trăm vạn ức các Thiên tử, cung kính lễ bái. Trăm vạn ức Long Vương, quán sát không nhàm mỏi. Trăm vạn ức Dạ Xoa Vương, chắp tay trên đỉnh đầu. Trăm vạn ức Càn Thát Bà Vương, khởi tâm tin thanh tịnh. Trăm vạn ức A Tu La Vương, dứt tâm kiêu mạn. Trăm vạn ức Ca Lâu La Vương, miệng ngậm vải lụa. Trăm vạn ức Khẩn Na La Vương, hoan hỉ nhảy nhót. Trăm vạn ức Ma Hầu La Già Vương, hoan hỉ chiêm ngưỡng. Trăm vạn ức chủ thế gian, cuối đầu làm lễ. Trăm vạn ức Đao Lợi Thiên Vương, chiêm ngưỡng không nháy mắt. Trăm vạn ức Dạ Ma Thiên Vương, hoan hỉ khen ngợi. Trăm vạn ức Đâu Suất Thiên Vương, trải thân làm lễ. Trăm vạn ức Hoá Lạc Thiên Vương, đỉnh đầu lễ kính. Trăm vạn ức Tha Hoá Thiên Vương, cung kính chắp tay. Trăm vạn ức Phạm Thiên Vương, một lòng quán sát. Trăm vạn ức Ma Hê Thủ La Thiên Vương, cung kính cúng dường. Trăm vạn ức Bồ Tát, phát tiếng khen ngợi.

Có trăm vạn ức các Thiên Vương, các Ngài đồng thời ở trong Ðiện Bảo Trang Nghiêm, cung kính lễ bái Ðức Phật. Có trăm vạn ức Long Vương, các Ngài đồng thời ở trong Ðiện Phổ Trang Nghiêm, quán sát lắng nghe Phật nói diệu pháp, nhờ cơ duyên nầy chiêm ngưỡng Ðức Phật, mà không nhàm mỏi. Nguyên nhân gì rồng lại làm rồng ? Vì trong quá khứ tu hành pháp đại thừa rất là tinh tấn, nhưng chẳng giữ giới luật, do đó: “Thừa cấp giới hoãn”. Vì thừa cấp, cho nên có thần thông. Vì giới hoãn, cho nên làm súc sinh. Rồng có thể biến lớn hoá nhỏ, biến hoá vô cùng, có thể bay trong hư không, có thể đi trong nước, có thể đi trên đất, cho nên nói thần thông quảng đại. Khi biến thân lớn, thì đầy khắp hư không; khi biến thân nhỏ, thì như hạt bụi. Tuy rồng có thần thông, nhưng có rất nhiều trùng ở trong thân ăn thịt uống máu. Tại sao phải thọ quả báo như thế ? Vì rồng rất nóng giận, thường phun chất độc hại chúng sinh, cho nên thọ quả báo trùng rúc rỉa thân.

Tại Chùa Nam Hoa tỉnh Quảng Ðông, có đầm rồng ác. Trong đó có con rồng độc, thường phun khí độc, khiến cho Tăng chúng ở Chùa Nam Hoa chẳng được an ninh, thậm chí sinh ra đủ thứ bệnh tật. Một ngày nọ, rồng lại xuất hiện ở trong đầm, giơ nanh múa vuốt, rất là oai phong. Bấy giờ, Lục Tổ Huệ Năng đi đến bên đầm, và nói với rồng rằng: “Bản lãnh nhà ngươi không nhỏ ! Ngươi có thể biến lớn như thế, nhưng ngươi không thể biến nhỏ”.

– Rồng độc nghe nói, lập tức thu thân lớn thành thân nhỏ, dài khoảng bảy tám tấc, bơi tới bơi lui ở trong đầm, rất là tự tại.

– Lục Tổ Huệ Năng lại nói với nó: “Ngươi có chút bản lãnh, từ thân lớn biến thành thân nhỏ, nhưng ngươi không dám nhảy vào trong bát của ta”.

– Rồng độc nghe nói, liền nhảy vào trong bát của Lục Tổ.

Lúc đó, Lục Tổ bèn vì rồng thuyết pháp, siêu độ nó vãng sinh, hiện ở tại Chùa Nam Hoa vẫn còn giữ thi thể con rồng ở trong tháp.

Có trăm vạn ức Dạ Xoa Thiên Vương, các Ngài chắp tay ở trên đỉnh đầu, giống như mật tông chắp tay. Dạ Xoa dịch là “quỷ tốc tật”, có ba thứ:

– Một là quỷ đi trên không

– Hai là quỷ đi trên trời.

– Ba là quỷ đi dưới đất, đi như bay, rất là nhanh chóng, cho nên gọi là tốc tật quỷ.

Dạ Xoa là một trong Thiên long bát bộ, cũng là thần hộ pháp. Dạ Xoa hoan hỉ đội mũ cao, có người vái xá, khen ngợi chúng, thì chúng rất cao hứng, trong tâm rất thoải mái. Ai thích đội mũ cao, thì tương lai nhất định làm quỷ Dạ Xoa.

Có trăm vạn ức Càn Thát Bà Vương, chúng ở trong Ðiện Bảo Trang Nghiêm, lắng nghe Phật nói Pháp, sinh khởi tâm tín ngưỡng thanh tịnh, cung kính Ðức Phật, cúng dường Phật. Nhưng tâm tham rất lớn, chẳng chịu bố thí, do đó: “Thừa cấp thí hoãn”. Càn Thát Bà dịch là “thần ngửi hương”, rất thích ngửi mùi hương. Nơi nào có mùi hương, thì chúng ngửi mùi hương mà đến. Cho nên khi Ngọc Hoàng muốn thưởng thức âm nhạc, bèn đốt một thứ hương đặc biệt lên, chúng sẽ ngửi mùi hương sẽ đến cung điện của Trời Ðế Thích, vì Ngọc Hoàng diễn tấu ca khúc. Diện mạo của chúng tuy xấu xí, nhưng âm nhạc rất êm tai, khiến cho người thích nghe, cho nên gọi là thần nhạc.

Có trăm vạn ức A Tu La Vương , chúng đều đã dứt trừ tư tưởng kiêu ngạo và ngã mạn. A tu la dịch là “không đoan chánh”, vì ngũ quan của chúng chẳng đoan chánh, rất là xấu xí. Tại sao tướng mạo rất là khó coi ? Vì tánh nóng giận của chúng rất lớn. Các vị nhìn xem ! Mặt mũi của người nổi giận như thế nào ? Nghĩ thì sẽ biết. Ai muốn có mặt mũi tốt đẹp, thì đừng nổi giận. Chẳng những đối với sư trưởng không nổi giận, mà đối với bạn đạo cùng tu, sư huynh sư đệ, cũng đừng nổi giận, mọi người hoà mục tương xứ. Nếu như nhẫn chẳng được mà nổi giận, thì tương lai nhất định sẽ làm “xú bát quái”, so với “trư bát giới” còn xấu hơn rất nhiều. Ai muốn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, thì thứ nhất đừng có nóng giận. Một khi nóng giận, thì biến thành giống như A tu la.

Cá tánh của A tu la rất thích đấu tranh, ưa tìm người làm phiền nhiễu loạn. Ở trên trời có A tu la, ở nhân gian cũng có A tu la, trong súc sinh cũng có A tu la, trong ngạ quỷ cũng có A tu la. Phàm là chướng ngại sự tự do của kẻ khác tức là A tu la.

Hiện tại là thời đại đấu tranh kiên cố, chính là lúc A tu la hoành hành thiên hạ, cho nên người với người đấu tranh, nhà với nhà đấu tranh, nước này với nước nọ đấu tranh. Tương lai địa cầu với tinh cầu đấu tranh. Nếu ai ai cũng chẳng có tâm kiêu ngạo, chẳng có tâm ngã mạn, được như vậy thì mọi người sẽ sống trong hoà bình, thế giới sẽ vô sự.

Có trăm vạn ức Ca Lâu La Vương, trong miệng ngậm vải lụa, làm trang nghiêm. Ca Lâu La dịch là “chim đại bàng cánh vàng”, chúng chuyên bắt rồng ăn. Lượng ăn của chúng rất lớn, mỗi ngày phải ăn một con rồng lớn và năm trăm con rồng nhỏ, là khắc tinh với rồng. Phàm là rồng sắp chết, thì sẽ bị chúng bắt ăn.

Có trăm vạn ức Khẩn Na La Vương, chúng rất vui mừng nhảy nhót, tức cũng là múa chân múa tay. Khẩn Na La dịch là “nghi thần”, vì trên đầu của chúng sinh ra một cái sừng. Chẳng biết là người hay là thần, chúng cũng là thần nhạc của Ngọc Hoàng, chuyên tấu khúc nhạc trang nghiêm, khiến cho người nghe sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng Tam Bảo. Chúng múa rất trang nghiêm, tướng mạo rất xinh đẹp, đều là thần ca hay khéo múa, cũng là thần hộ pháp.

Có trăm vạn ức Ma Hầu La Già Vương, chúng hoan hỉ chiêm ngưỡng Phật, mắt chẳng tạm nháy, không lúc nào nhàm chán. Ma Hầu La Già dịch là “thần mãng xà”, còn gọi là đại phục hành, còn gọi là địa long, nhưng chẳng có thần thông. Vì chúng chẳng tu pháp đại thừa, cũng chẳng giữ giới luật. Tâm đố kị lại rất nặng, lại thường hay phun khí độc hại người, cho nên chiêu cảm làm loài nầy. Về sau được Phật pháp cảm hoá, mà làm thần hộ pháp.

Có trăm vạn ức chủ thế gian, tức cũng là Chuyển Luân Thánh Vương. Họ hướng về Phật đảnh lễ, rất là cung kính. Có trăm vạn ức Ðao Lợi Thiên Vương, tức cũng là Thích Ðề Hoàn Nhân, hoặc là Ngọc Hoàng Ðại Ðế, hoặc là Thiên Chủ, hoặc là Thượng Ðế. Tóm lại, chỉ có một người mà thôi. Họ chiêm ngưỡng Phật, mắt chẳng nhấp nháy. Có trăm vạn ức Dạ Ma Thiên Vương, họ hoan hỉ khen ngợi Phật, ca tụng Phật. Có trăm vạn ức Ðâu Xuất Thiên Vương, họ trải thân làm lễ, tức là nằm xuống đất, thỉnh Phật đi trên thân thể của họ, làm lễ pháp cung kính Phật. Có trăm vạn ức Hoá Lạc Thiên Vương, họ năm thể xuống đất, đảnh lễ Ðức Phật. Có trăm vạn ức Tha Hoá Thiên Vương, họ cung kính chắp tay, hướng về Phật. Có trăm vạn ức Phạm Thiên Vương, họ một lòng một dạ quán sát Ðức Phật, giống như nhập định an tĩnh. Họ phát nguyện, bất cứ vị Phật nào thành Chánh Giác, thì làm người thỉnh pháp đầu tiên. Có trăm vạn ức Ma Hê Thủ La Thiên Vương (Trời Ðại Tự Tại), họ cung kính Phật, cúng dường Phật. Dung nhan của họ, ba mắt tám tay, tay cầm bạch phất trần, cỡi trâu trắng lớn, rất là tự tại. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài khen ngợi Phật, thừa sự nơi Phật.

Trăm vạn ức Thiên nữ, chuyên tâm cúng dường. Trăm vạn ức trời đồng nguyện, nhảy nhót hoan hỉ. Trăm vạn ức trời thuở xưa cùng ở, khen ngợi tiếng hay. Trăm vạn ức trời Phạm Thân, bày thân kính lễ. Trăm vạn ức trời Phạm Phụ, chắp tay trên đỉnh. Trăm vạn ức trời Phạm Chúng, vây quanh hầu hạ. Trăm vạn ức trời Đại Phạm, khen ngợi tán thán vô lượng công đức.

Có trăm vạn ức Thiên nữ, chuyên tâm rộng tu cúng dường. Có trăm vạn ức trời đồng nguyện, Thiên chúng cõi trời này, thuở xưa cùng phát nguyện sinh về trời, sẽ được gặp Phật, hoan hỉ như cuồng, cao hứng đến cực điểm, tình chẳng tự chủ, bèn nhảy nhót lên, quên mất chính mình. Có trăm vạn ức trời cùng ở, Thiên chúng cõi trời này, thuở xưa cùng phát nguyện, sinh về cõi trời, mọi người cùng ở với nhau. Họ đồng thời phát ra âm thanh rất hay, khen ngợi Ðức Phật. Có trăm vạn ức Trời Phạm Thân, Thiên chúng cõi trời này, họ tu pháp môn hạnh thanh tịnh, mà được thân thanh tịnh. Họ bày thân ra để cung kính lễ bái Ðức Phật. Có trăm vạn ức Trời Phạm Phụ, Thiên chúng cõi trời này, họ chắp tay trên đầu, cung kính hoan nghênh đức Phật. Có trăm vạn ức Trời Phạm Chúng, Thiên chúng cõi trời này, họ vây quanh bốn phía đạo tràng, ủng hộ đạo tràng, khiến cho đạo tràng an tĩnh, không có sự ồn ào. Có trăm vạn ức trời Ðại Phạm, Thiên chúng cõi trời này, họ khen ngợi Phật, tán thán Phật có vô lượng vô biên công đức, công đức này suốt thuở vị lai cũng nói không hết được. Trong Phẩm Vào Pháp Giới của Kinh này có nói:

“Hạt bụi tâm niệm đếm biết được
Nước trong biển cả uống hết được
Hư không lường được gió buộc được
Không thể nói hết công đức Phật”.

Trăm vạn ức trời Thiên Quang, năm thể sát đất. Trăm vạn ức trời Thiểu Quang, tuyên dương khen ngợi Phật ra đời khó gặp được. Trăm vạn ức trời Vô Lượng Quang, từ xa hướng về đức Phật làm lễ. Trăm vạn ức trời Quang Âm, khen ngợi Như Lai rất khó gặp được. Trăm vạn ức trời Tịnh, với cung điện đều đi đến đây. Trăm vạn ức trời Thiểu Tịnh, dùng tâm thanh tịnh, cuối đầu làm lễ. Trăm vạn ức trời Vô Lượng Tịnh, nguyện muốn gặp Phật, nằm dài dưới đất. Trăm vạn ức trời Biến Tịnh, cung kính tôn trọng, gần gũi cúng dường.

Có trăm vạn ức trời Quang Thiên, Thiên chúng cõi trời nầy rất tôn kính Phật. Năm thể sát đất, đảnh lễ Ðức Phật, biểu thị rất hoan nghênh Phật vì Thiên chúng nói Pháp. Có trăm vạn ức trời Thiểu Quang, Thiên chúng cõi trời nầy tuyên dương công đức và thần thông của Phật, khen ngợi Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Khi Phật còn ở đời, khó gặp khó thấy, chẳng dễ gì thấy được kim dung của Phật, chẳng dễ gì nghe được Phật nói Pháp. Có trăm vạn ức trời Vô Lượng Quang, Thiên chúng cõi trời nầy, từ xa hướng về Ðức Phật đảnh lễ bái lạy. Ðại sư Trí Giả, nghe nói ở Ấn Ðộ có bộ Kinh Lăng Nghiêm, đáng tiếc chưa được truyền sang Trung Quốc, Ngài bèn hướng về phương tây nam lễ bái mười tám năm, cũng không thấy được Kinh Lăng Nghiêm. Ðây tức là “vọng bái” (từ xa lễ lạy). Có trăm vạn ức trời Quang Âm, Thiên chúng cõi trời nầy, khen ngợi tướng tốt quang minh của Phật, oai đức trang nghiêm, rất khó được gặp. Không sinh ra trước Phật, thì sinh ra sau Phật, trăm ngàn vạn ức kiếp khó gặp Phật. Có trăm vạn ức trời Tịnh Thiên, Thiên chúng cõi trời nầy, chẳng những thân thanh tịnh, mà tâm cũng thanh tịnh, họ với cung điện của họ ở cùng nhau đến nơi nầy (Trời Ðâu Suất). Có trăm vạn ức trời Thiểu Tịnh, Thiên chúng ở cõi trời nầy, họ muốn thấy được Phật, nằm dài dưới đất làm lễ. Có trăm vạn ức trời Biến Tịnh, Thiên chúng cõi trời nầy, cung kính Ðức Phật, tôn trọng Ðức Phật, gần gũi Phật, cúng dường Phật, biểu thị sự lễ bái chí thành đối với Phật.

Trăm vạn ức trời Quảng Thiên, nhớ lại căn lành thuở xưa. Trăm vạn ức trời Thiểu Quảng, ở chỗ Như Lai, sinh nghĩ tưởng hy hữu. Trăm vạn ức trời Vô Lượng Quảng, quyết định tôn trọng, sinh các nghiệp lành. Trăm vạn ức trời Quảng Quả, cúi mình cung kính. Trăm vạn ức trời Vô Não, tín căn kiên cố, cung kính lễ bái. Trăm vạn ức trời Vô Nhiệt, chắp tay niệm Phật, chẳng khi nào nhàm đủ. Trăm vạn ức trời Thiện Kiến, đầu mặt làm lễ. Trăm vạn ức trời Thiện Hiện, niệm cúng dường Phật, tâm chẳng giải đãi. Trăm vạn ức trời Sắc Cứu Cánh, cung kính đảnh lễ. Trăm vạn ức đủ thứ các vị trời, đều đại hoan hỉ, phát tiếng khen ngợi. Trăm vạn ức chư Thiên, ai nấy đều tư duy để làm sự trang nghiêm.

Có trăm vạn ức trời Quảng Thiên, Thiên chúng cõi nầy, họ đắc được túc mạng thông, nghĩ nhớ lại căn lành và tất cả nhân duyên đã tạo trong quá khứ. Có trăm vạn ức trời Thiểu Quảng, Thiên chúng cõi nầy, họ ở tại chỗ Ðức Phật, thấy Phật nghe pháp, nhận rằng đây là cơ hội hiếm có. Họ nghĩ tưởng như thế. Có trăm vạn ức trời Vô Lượng Quảng, Thiên chúng cõi nầy, thuở xưa họ chẳng tôn trọng Phật. Hiện tại họ gặp được Phật, mới quyết định tôn trọng “Không làm điều ác, làm các điều lành”, sinh trưởng tất cả căn lành. Có trăm vạn ức trời Quảng Quả, Thiên chúng cõi nầy, họ cúi mình cung kính Phật, hoan nghênh Phật đến nói diệu pháp, để khai mở đại trí huệ.

Có trăm vạn ức trời Vô Phiền, Thiên chúng cõi nầy, rất là mát mẻ, chẳng có phiền não, lắng nghe Phật nói Hoa Nghiêm Pháp lớn, tín căn rất kiên cố, cung kính Phật, lễ bái Phật. Có trăm vạn ức trời Vô Nhiệt, Thiên chúng cõi nầy, chẳng có nhiệt phiền não, thấy Phật đến nói Pháp, bèn chắp tay lại niệm “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”. Họ khẩn thiết chí thành, chẳng lúc nào nhàm đủ. Có trăm vạn ức trời Thiện Kiến, Thiên chúng cõi trời nầy, niệm Phật, cúng dường Phật, rất kiền thành ! Tâm chẳng có lúc nào giải đãi nghỉ ngơi. Có trăm vạn ức trời Sắc Cứu Cánh (tầng trời thứ mười tám thuộc sắc giới). Thiên chúng cõi nầy, thấy Phật đến nghe pháp, cung kính đảnh lễ Phật. Có trăm vạn ức các vị trời, những Thiên chúng nầy đều đại hoan hỉ, khác miệng cùng lời khen ngợi Phật. Có trăm vạn ức chư Thiên, tức là cõi dục sáu cõi trời, cõi sắc mười tám cõi trời, cõi vô sắc bốn cõi trời, tổng cộng có hai mươi tám cõi trời. Thiên chúng những cõi trời nầy, ai nấy đều tư duy để trang nghiêm, hộ trì đạo tràng nầy.

Trăm vạn ức Bồ Tát Thiên, hộ trì Phật toà, trang nghiêm chẳng đoạn tuyệt. Trăm vạn ức Hoa Thủ Bồ Tát, mưa xuống tất cả hoa. Trăm vạn ức Hương Thủ Bồ Tát, mưa xuống tất cả hương. Trăm vạn ức Man Thủ Bồ Tát, mưa xuống tất cả man. Trăm vạn ức Mạt Hương Thủ Bồ Tát, mưa xuống tất cả hương bột. Trăm vạn ức Đồ Hương Thủ Bồ Tát, mưa xuống tất cả hương thoa. Trăm vạn ức Y Thủ Bồ Tát, mưa xuống tất cả y. Trăm vạn ức Cái Thủ Bồ Tát, mưa xuống tất cả lọng. Trăm vạn ức Tràng Thủ Bồ Tát, mưa xuống tất cả tràng. Trăm vạn ức Phan Thủ Bồ Tát, mưa xuống tất cả phan. Trăm vạn ức Bảo Thủ Bồ Tát, mưa xuống tất cả châu báu. Trăm vạn ức Trang Nghiêm Thủ Bồ Tát, mưa xuống tất cả đồ trang nghiêm.

Có trăm vạn ức Bồ Tát Thiên, đó là Thiên hành Bồ Tát đạo. Ở tại đây hộ trì Phật toà, dùng đủ thứ đồ trang nghiêm để trang nghiêm đạo tràng, mà chẳng đoạn tuyệt. Có trăm vạn ức Hoa Thủ Bồ Tát, các Ngài mưa xuống tất cả hương hoa, để trang nghiêm đạo tràng Hoa Nghiêm Pháp Hội. Hoa Thủ Bồ Tát, thuở xưa rộng tu cúng dường, dùng đủ thứ hương hoa để cúng dường Phật, cho nên tay của các Ngài có thể mưa xuống tất cả hoa quý. Có trăm vạn ức Hương Thủ Bồ Tát, các Ngài trong quá khứ tu hành Bồ Tát đạo, thì đã từng dùng hương để cúng dường Phật Pháp Tăng Tam Bảo, cho nên đắc được hương thủ, có thể mưa xuống tất cả hương để trang nghiêm đạo tràng. Có trăm vạn ức Man Thủ Bồ Tát, trong quá khứ, các Ngài ở trước Phật dùng đủ thứ tràng hoa để trang nghiêm đạo tràng, cho nên đắc được man thủ, có thể mưa xuống tất cả tràng hoa để trang nghiêm đạo tràng. Có trăm vạn ức Mạt Hương thủ Bồ Tát, trong quá khứ, các Ngài ở trước Phật cúng dường hương bột, cho nên đắc được mạt hương thủ, có thể mưa xuống tất cả hương bột để trang nghiêm đạo tràng. Có trăm vạn ức Ðồ Hương Thủ Bồ Tát, trong quá khứ, khi tu hành Bồ Tát đạo, dùng hương thoa cúng dường Tam Bảo, cho nên đắc được đồ hương thủ, có thể mưa xuống tất cả hương thoa để trang nghiêm đạo tràng. Có trăm vạn ức Y Thủ Bồ Tát, trong quá khứ, dùng đủ thứ y phục cúng dường Tam Bảo, cho nên đắc được y thủ, có thể mưa xuống tất cả báu để trang nghiêm đạo tràng.

Trăm vạn ức các Thiên Tử, từ thiên cung đi đến chỗ toà của đức Phật. Trăm vạn ức các Thiên Tử, dùng tâm tin thanh tịnh, và cung điện cùng nhau đi đến. Trăm vạn ức sinh quý Thiên Tử, dùng thân giữ toà. Trăm vạn ức quán đảnh Thiên Tử, dùng toàn thân giữ toà.

Có trăm vạn ức các Thiên Tử, tức cũng là con vua trời. Họ từ cung điện chỗ ở, đi đến chỗ toà của Ðức Phật. Có trăm vạn ức các Thiên Tử, dùng tâm tin thanh tịnh và cung điện chỗ ở, cùng đến đạo tràng. Có trăm vạn ức sinh quý Thiên Tử, dùng thân thể của họ để giữ gìn pháp toà của Phật. Có trăm vạn ức quán đảnh Thiên Tử, dùng toàn thân của họ, để giữ gìn pháp toà của Phật.

Trăm vạn ức tư duy Bồ Tát, cung kính tư duy. Trăm vạn ức sinh quý Bồ Tát, phát tâm thanh tịnh. Trăm vạn ức Bồ Tát, các căn vui mừng. Trăm vạn ức Bồ Tát, tâm thanh tịnh thâm sâu. Trăm vạn ức Bồ Tát, tin hiểu thanh tịnh. Trăm vạn ức Bồ Tát, các nghiệp thanh tịnh. Trăm vạn ức Bồ Tát, thọ sinh tự tại. Trăm vạn ức Bồ Tát, pháp quang chiếu sáng. Trăm vạn ức Bồ Tát, thành tựu các bậc. Trăm vạn ức Bồ Tát, khéo giáo hoá tất cả chúng sinh.

Có trăm vạn ức tư duy Bồ Tát, các Ngài cung kính Phật, tư duy về Phật, vào tư duy tam muội. Có trăm vạn ức sinh quý Bồ Tát, các Ngài phát tâm thanh tịnh, đã lìa tất cả nhiễm ô. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài sáu căn đều thanh tịnh, rất là vui mừng. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài tâm thanh tịnh thâm sâu, chẳng có bất cứ sự hoài nghi gì. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài tin cũng thanh tịnh, hiểu cũng thanh tịnh. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài thân miệng ý ba nghiệp, thảy đều thanh tịnh. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài tuỳ ý thọ sinh, rất là tự tại, bất cứ ở trong loài chúng sinh nào, tuyệt đối chẳng phiền não. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài thường vì chúng sinh nói pháp, trí huệ quang minh, chiếu khắp tất cả mọi nơi. Chúng sinh được quang minh nầy chiếu đến, đều lìa khổ được vui. Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài đều thành tựu quả vị thập địa (pháp vân địa). Có trăm vạn ức Bồ Tát, các Ngài khéo dùng pháp môn phương tiện quyền xảo, để giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng.

Trăm vạn ức căn lành sinh ra. Trăm vạn ức chư Phật hộ trì. Trăm vạn ức phước đức viên mãn. Trăm vạn ức tâm thù thắng thanh tịnh. Trăm vạn ức đại nguyện nghiêm khiết. Trăm vạn ức thiện hạnh sinh khởi. Trăm vạn ức pháp lành kiên cố. Trăm vạn ức thần lực thị hiện. Trăm vạn ức công đức thành tựu. Trăm vạn ức pháp khen ngợi dùng để khen ngợi.

Do trăm vạn ức căn lành của chư Phật Bồ Tát, sinh ra đủ thứ sự trang nghiêm đạo tràng. Có trăm vạn ức chư Phật Bồ Tát, đồng thời đến hộ trì đạo tràng nầy, do trăm vạn ức phước đức của chư Phật Bồ Tát tu hành, mà viên mãn thành tựu đạo tràng nầy. Có trăm vạn ức chư Phật Bồ Tát tâm thù thắng, đến thanh tịnh trang nghiêm đạo tràng nầy, do trăm vạn ức đại nguyện của chư Phật Bồ Tát đã phát ra trong quá khứ, mà nghiêm khiết đạo tràng nầy. Có trăm vạn ức chư Phật Bồ Tát thuở xưa tu pháp lành, đến kiên cố đạo tràng nầy, do trăm vạn ức thần lực của chư Phật Bồ Tát, thị hiện đủ thứ sự trang nghiêm trong đạo tràng. Có trăm vạn ức công đức của chư Phật Bồ Tát, thành tựu trang nghiêm đạo tràng nầy. Có trăm vạn ức chư Phật Bồ Tát dùng pháp khen ngợi để khen ngợi Phật, khen ngợi đạo tràng, và khen ngợi hết thảy cảnh giới.

Như Đâu Suất Thiên Vương ở thế giới nầy, vì Như Lai mà trang trí toà cao. Các Đâu Suất Thiên Vương của tất cả thế giới, cũng đều vì đức Phật, trang trí toà báu. Trang nghiêm như vậy. Nghi thức như vậy. Tin vui thích như vậy. Tâm thanh tịnh như vậy. Vui mừng như vậy. Hoan hỉ như vậy. Tôn trọng như vậy. Sinh nghĩ tưởng hy hữu như vậy. Nhảy nhót như vậy. Khát ngưỡng như vậy, thảy đều giống nhau.

Giống như Ðâu Suất Thiên Vương ở thế giới Ta Bà nầy, vì cúng dường Phật, mà trang trí chưng bày toà cao, thỉnh Phật vì tất cả chúng sinh thuyết pháp. Ðâu Suất Thiên Vương ở trong mười phương tất cả thế giới, cũng giống hoàn toàn như vậy, thỉnh Phật thuyết pháp, vì Phật mà chưng bày trang trí toà báu. Ðâu Suất Thiên Vương ở thế giới Ta Bà, trang nghiêm đạo tràng như vậy. Dùng đủ thứ báu, hương, hoa, lọng, tràng, phan .v.v…Để nghiêm sức pháp hội. Nghi thức pháp tắc như vậy, thấy Phật từ xa đến, đảnh lễ bái lạy, thỉnh Phật thăng lên toà thuyết pháp. Tín ngưỡng vui mừng như vậy, sinh ra tâm thanh tịnh, sinh ra tâm hoan hỉ. Cung kính Phật như vậy, tôn trong Phật, khen ngợi Phật, tán thán Phật. Sinh ra nghĩ tưởng hy hữu, nói Phật trăm ngàn kiếp khó gặp được. Nhảy nhót như vậy, khát ngưỡng như vậy. Trong mỗi thế giới khắp mười phương, mỗi vị Ðâu Suất Thiên Vương, đều giống như tình hình ở thế giới Ta Bà nầy.

Bấy giờ, Đâu Suất Thiên Vương, vì Như Lai trang bày toà rồi, tâm sinh tôn trọng, với mười vạn ức A tăng kỳ Thiên tử Đâu Suất, phụng nghênh đức Như Lai.

Lúc đó, Ðâu Suất Thiên Vương vì Phật trang trí chưng bày toà sư tử rồi, trong tâm rất vui mừng mà sinh tâm tôn trọng, cùng với mười vạn ức A tăng kỳ Ðâu Suất Thiên tử, chí thành khẩn thiết đến nghênh tiếp Ðức Phật, thỉnh Ðức Phật tiến vào Ðiện Bảo Trang Nghiêm, vì đại chúng khai thị.

Dùng tâm thanh tịnh, mưa xuống mây hoa màu sắc nhiều A tăng kỳ. Mưa mây hương màu sắc không nghĩ bàn. Mưa mây man đủ thứ màu sắc. Mưa mây chiên đàn rộng lớn thanh tịnh. Mưa vô lượng đủ thứ mây lọng. Mưa mây y trời đẹp mịn. Mưa vô biên mây báu đẹp. Mưa mây đồ trang nghiêm trời. Mưa vô lượng đủ thứ mây hương đốt. Mưa tất cả mây hương bột chiên đàn trầm thuỷ kiên cố. Các chúng Thiên tử, ai nấy đều từ trong thân phóng ra các thứ mây đó rồi. 

Bấy giờ, trăm ngàn ức A tăng kỳ Đâu Suất Thiên tử, cùng với các chúng Thiên tử khác trong pháp hội, tâm đại hoan hỉ, cung kính đảnh lễ. A tăng kỳ Thiên nữ, nhảy nhót reo mừng, nhìn kỹ đức Như Lai.

Mười vạn A tăng kỳ Ðâu Suất Thiên Tử, dùng tâm thuần nhất thanh tịnh, mưa xuống mây hoa nhiều màu sắc A tăng kỳ. Lại mưa mây hương màu sắc không thể nghĩ bàn. Lại mưa mây man đủ thứ màu sắc. Lại mưa mây chiên đàn rộng lớn thanh tịnh. Lại mưa vô lượng đủ thứ mây lọng. Lại mưa mây y trời rất đẹp mịn màng. Lại mưa vô lượng đủ thứ mây các báu đẹp. Lại mưa vô lượng số mây đồ trang nghiêm trời. Lại mưa vô lượng đủ thứ mây hương đốt. Lại mưa tất cả mây hương bột chiên đàn trầm thuỷ kiên cố. Dùng đủ thứ những mây báu đó, để cúng dường Ðức Phật, biểu thị sự cung kính. Tất cả các chúng Thiên Tử, ai nấy từ trong thân phóng ra đủ thứ mây rồi.

Bấy giờ, có trăm ngàn ức A tăng kỳ Thiên Tử, cùng với các chúng Thiên Tử khác trong pháp hội, trong tâm đều đại hoan hỉ, cung kính Phật, đảnh lễ Phật. Lại có A tăng kỳ các Thiên nữ, vui mừng tột độ, nhảy nhót, reo mừng ngưỡng mộ Ðức Phật, chiêm ngưỡng Ðức Phật rất kỹ.

Trong cung trời Đâu Suất, có các chúng Bồ Tát nhiều bất khả thuyết. Trụ ở trong hư không, chuyên tâm cúng dường đức Phật, nhiều hơn đồ cúng dường của các Thiên tử. Cung kính làm lễ rồi, có A tăng kỳ âm nhạc, đồng thời hoà tấu lên.

Ở trong cung trời Ðâu Suất, Ðiện Bảo Trang Nghiêm, có đại chúng Bồ Tát nhiều bất khả thuyết, trụ ở trong hư không, chuyên tâm hướng về Ðức Phật cúng dường. Những đồ cúng dường đó, rất đặc biệt thù thắng, hơn hẳn đồ cúng dường của các Thiên Tử. Các Ngài cung kính Phật, đảnh lễ Phật. Lại có A tăng kỳ âm nhạc, đồng thời hoà tấu lên, để cúng dường Ðức Phật.

Bấy giờ, do oai thần lực của Như Lai. Do căn lành thuở xưa. Do sức tự tại không thể nghĩ bàn. Tất cả chư Thiên và các Thiên nữ trong cung Đâu Suất, từ xa đều thấy đức Phật, như ở trước mắt. Đồng thời nghĩ rằng: Đức Như Lai ra đời, khó có thể gặp được. Tôi nay được thấy bậc đủ nhất thiết trí, bậc Chánh Đẳng Giác nơi pháp vô ngại. Tư duy như vậy, quán sát như vậy. Với các chúng hội, thảy đều cùng nhau đồng thời nghênh tiếp đức Như Lai.

Lúc đó, do đại oai thần lực của Ðức Phật, sức đại từ bi, sức đại nguyện. Do căn lành thuở xưa. Vì quá khứ tu hành đủ thứ hạnh môn, đắc được sức tự tại không thể nghĩ bàn, nên có sức lực nầy. Do có những nguyên nhân nầy, cho nên trong cung trời Ðâu Suất, tất cả chư Thiên, các Thiên nữ, thảy đều từ xa nhìn thấy Ðức Phật, như ở trước mắt mình mà đến. Họ đồng thời cùng nghĩ như vầy: “Phật xuất hiện ra đời, rất khó được gặp. Nay tôi gặp được Phật ra đời, lại thấy được Phật. Phật là Thánh nhân đầy đủ nhất thiết trí huệ, nơi pháp đắc được tự tại, viên dung vô ngại, đã chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Tư duy như vậy, quán sát như vậy, mọi người đồng thời cùng nhau nghênh tiếp được Phật, năm thể sát đất kính thỉnh Ðức Phật lên pháp toà.

Ai nấy dùng y trời đựng tất cả hoa. Đựng tất cả hương. Đựng tất cả báu. Đựng tất cả đồ trang nghiêm. Đựng tất cả hương bột chiên đàn trời. Đựng tất cả hương trầm thuỷ trời. Đựng tất cả hương bột báu trời vi diệu. Đựng tất cả hương hoa trời. Đựng tất cả hoa trời mạn đà la, thảy đều rải lên cúng dường đức Phật.

Các chư Thiên, các Thiên tử, các Thiên nữ, ai nấy đều dùng y trời để đựng tất cả các hoa, đựng tất cả hương, đựng tất cả châu báu, đựng tất cả đồ trang nghiêm, đựng tất cả hương trầm thuỷ trời, đựng tất cả hương bột báu trời vi diệu, đựng tất cả hương hoa trời, đựng tất cả hoa mạn đà la trời. Dùng đủ thứ hương hoa rải lên phía trên Ðức Phật để cúng dường Phật.

Trăm vạn ức Na do tha A tăng kỳ Thiên tử trời Đâu Suất, trụ ở trong hư không, đều ở chỗ đức Phật, khởi tâm trí huệ cảnh giới. Đốt tất cả hương, khói hương kết thành mây, trang nghiêm hư không. Lại ở chỗ đức Phật, khởi tâm hoan hỉ, mưa tất cả mây hoa trời, trang nghiêm hư không. Lại ở chỗ đức Phật, khởi tâm tôn trọng, mưa tất cả mây lọng trời, trang nghiêm hư không. Lại ở chỗ đức Phật, khởi tâm cúng dường, rải tất cả mây man trời, trang nghiêm hư không.

Có trăm vạn ức Na do tha A tăng kỳ Thiên tử trời Ðâu Suất, dùng sức căn lành đã tu trong quá khứ, có đại thần thông, do đó mà có thể trụ ở trong hư không. Họ thuở xưa cũng có tham sân si, vì có tham sân si, cho nên chẳng có trí huệ. Hiện tại họ đều đến chỗ Ðức Phật, nhờ đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật, họ đều sinh ra tâm trí huệ cảnh giới. Họ đốt lên đủ thứ tất cả hương thơm, để cúng dường Phật, khói hương toả lên trên bầu trời Ðâu Suất, kết thành mây báu, để trang nghiêm hư không.

Những vị Thiên tử nầy, lại ở chỗ Ðức Phật, sinh khởi tâm hoan hỉ. Vì họ thuở xưa cũng có phiền não. Tại sao ? Vì chẳng có trí huệ. Phàm là người thích nóng giận, đa số là ngu si, vô minh quá nặng, chẳng có công phu hàm dưỡng. Nếu chẳng có vô minh, thì chẳng có phiền não, chẳng có phiền não, thì luôn luôn sinh tâm hoan hỉ. Do đó:

“Từ xưa thần tiên chẳng pháp nào khác
Rộng sinh hoan hỉ chẳng sinh sầu”.

Hiện tại Phật đến cung trời Ðâu Suất ảnh hưởng tâm tham của họ cũng bớt đi, đều sinh tâm hoan hỉ, mà mưa xuống tất cả mây hoa trời, để trang nghiêm hư không, thanh tịnh hư không.

Những vị Thiên tử nầy, lại ở chỗ Ðức Phật, sinh khởi tâm tôn trọng Phật, mà mưa xuống mây lọng trời, để trang nghiêm hư không, thanh tịnh hư không.

Những vị Thiên tử nầy, lại ở chỗ Ðức Phật, sinh khởi tâm cúng dường Phật, mà rải xuống mây man trời, để trang nghiêm hư không, thanh tịnh hư không.

Lại ở chỗ đức Phật, sinh tâm tin hiểu, giăng bày A tăng kỳ lưới vàng, che phủ hư không. Tất cả linh báu, thường vang ra tiếng vi diệu. Lại ở chỗ đức Phật, sinh tâm ruộng phước tối thắng, dùng A tăng kỳ trướng, trang nghiêm hư không, mưa tất cả mây chuỗi, chẳng có đoạn tuyệt. Lại ở chỗ đức Phật, sinh tâm tin thâm sâu, dùng A tăng kỳ các cung điện trời, trang nghiêm hư không. Tất cả nhạc trời vang ra âm thanh vi diệu.

Có trăm vạn ức A tăng kỳ Thiên tử Ðâu Suất, lại ở chỗ Ðức Phật, sinh ra tâm tin hiểu. Thuở xưa họ tín căn không đầy đủ, chẳng có sinh ra tâm tin. Hiện tại nghe Phật nói pháp, bèn sinh ra tâm tin. Do đó:

“Phật pháp như biển,
Tin mới vào được”.

Có tâm tin, mới vào được trong biển cả Phật pháp. Vào trong biển Phật pháp, mới minh bạch Phật pháp triệt để. Họ giăng bày vô lượng số lưới vàng, che phủ trong hư không. Trên lưới vàng lại treo rất nhiều linh báu. Khi gió thổi, linh báu sẽ vang ra tiếng hay vi diệu, trong tiếng đó diễn nói diệu pháp, để giáo hoá tất cả chúng sinh.

Vô lượng số những Thiên tử đó, lại ở chỗ Ðức Phật, sinh ra tâm ruộng phước tối thắng, nói Phật là ruộng phước thù thắng nhất. Nếu chúng sinh muốn gieo trồng ruộng phước, thì phải cúng dường Tam Bảo. Do đó:

“Hiền Thánh phước điền Tăng”.

Họ dùng vô lượng số trướng báu, trang nghiêm trong hư không. Lại mưa tất cả mây chuỗi. Thứ mây đó nhìn rất đẹp và trang nghiêm, chẳng có lúc nào gián đoạn. Thời thời trang nghiêm đạo tràng, thời thời thanh tịnh đạo tràng, thỉnh Phật diễn xướng Hoa Nghiêm đại pháp, khiến cho người nghe khai mở đại trí huệ.

Vô lượng số những Thiên tử nầy, lại ở chỗ Ðức Phật, sinh khởi tâm tin thâm sâu. Tin thâm sâu tức là kiên cố không nghi ngờ. Dùng vô lượng số các cung điện trời để trang nghiêm hư không. Ở trong mỗi cung điện, vang ra hết thảy tiếng nhạc trời. Trong tiếng nhạc đó, lại vang ra tiếng hay vi diệu, rất là êm tai. Khiến cho người nghe được tiếng nầy, thì tất cả phiền não đều quét sạch.

Lại ở chỗ đức Phật, sinh tâm tối thắng khó gặp. Dùng A tăng kỳ mây y trời đủ thứ màu sắc, trang nghiêm hư không. Mưa xuống đủ thứ diệu y không gì sánh bằng. Lại ở chỗ đức Phật, sinh tâm vô lượng hoan hỉ nhảy nhót. Dùng A tăng kỳ các mũ báu trời, trang nghiêm hư không, mưa xuống vô lượng mũ trời, rộng lớn kết thành mây. Lại ở chỗ đức Phật, sinh tâm hoan hỉ. Dùng A tăng kỳ châu báu đủ thứ màu sắc, trang nghiêm hư không. Mưa xuống tất cả mây chuỗi, không có đoạn tuyệt.

Vô lượng số các Thiên tử đó, lại ở chỗ Ðức Phật, sinh ra tâm tối thù thắng khó gặp nhất. Vì Phật xuất hiện ra đời, phải trải qua bao nhiêu năm, mới thị hiện một lần. Hiện tại gặp Phật đến thuyết pháp, thật là cơ hội tốt ngàn năm khó gặp. Cho nên dùng vô lượng mây y trời nhiều màu sắc, để trang nghiêm hư không. Từ trong mây y trời, mưa xuống đủ thứ y đẹp không thể sánh.

Vô lượng số các Thiên tử đó, lại ở chỗ Ðức Phật, sinh ra tâm hoan hỉ vô lượng vô biên, tình chẳng tự chủ được, mà nhảy nhót lên, phần khởi như được châu báu. Dùng vô lượng số các mũ báu trời, để trang nghiêm hư không. Từ trong mũ báu, lại mưa xuống vô lượng mũ trời, đủ thứ sự biến hoá, kết thành mây mũ báu trời.

Vô lượng số các Thiên tử đó, lại ở chỗ Ðức Phật, sinh ra tâm hoan hỉ. Sự hoan hỉ nầy là vì cầu pháp mà hoan hỉ, chứ chẳng phải vì cầu dục mà hoan hỉ. Cho nên dùng vô lượng số châu báu đủ thứ màu sắc, để trang nghiêm hư không. Từ trong sắc báu, mưa xuống tất cả mây chuỗi, luôn luôn trang nghiêm đạo tràng, chẳng có lúc nào gián đoạn.

Trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ Thiên tử, đều ở chỗ đức Phật, sinh tâm tin thanh tịnh, rải vô số hoa trời đủ thứ màu sắc, đốt lên vô số hương trời đủ thứ màu sắc, để cúng dường Như Lai. Lại ở chỗ đức Phật, khởi tâm đại trang nghiêm biến hoá, cầm vô số hương bột chiên đàn trời đủ thứ màu sắc, rải lên Như Lai để cúng dường. Lại ở chỗ đức Phật, khởi tâm hoan hỉ nhảy nhót, cầm vô lượng lọng đủ thứ màu sắc, đi theo Như Lai. Lại ở chỗ đức Phật, khởi tâm tăng thượng, cầm vô số y báu trời đủ thứ màu sắc, trải trên đường để cúng dường Như Lai. Lại ở chỗ đức Phật, khởi tâm thanh tịnh, cầm vô số tràng báu trời đủ thứ màu sắc, để nghênh tiếp cúng dường Như Lai.

Có trăm vạn ức A tăng kỳ các Thiên tử, đều ở chỗ Ðức Phật sinh tâm tin thanh tịnh. Rải khắp vô lượng số hoa trời đủ thứ màu sắc, đốt lên vô số lượng hương trời đủ thứ màu sắc, để cúng dường Ðức Phật.

Lại ở chỗ Ðức Phật, sinh khởi tâm đại trang nghiêm biến hoá, tận hư không khắp pháp giới, thảy đều trang nghiêm. Tại sao lại có cảnh giới như thế ? Vì có thần thông biến hoá. Ở thế giới Ta Bà trang nghiêm như vậy, trong mười phương thế giới, cũng đều trang nghiêm như vậy. Do đó: “Biến hoá khó dò”, là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Họ cầm vô số lượng hương bột chiên đàn trời đủ thứ màu sắc, rải lên trên Ðức Phật, để cúng dường Ðức Phật.

Lại ở chỗ Ðức Phật, sinh khởi tâm hoan hỉ và nhảy nhót. Tại sao ? Vì thấy Phật nghe pháp, đây là cơ hội ngàn năm một thuở, cho nên hoan hỉ như cuồng, chẳng tự chủ được, nên tay múa chân nhảy. Ðây là sự vui mừng đến cực điểm, mới có sự biểu hiện nầy. Họ cầm vô số lượng lọng báu đủ thứ màu sắc, đi theo Ðức Phật. Phật đến đâu thì họ cầm lọng báu đi theo Phật đến đó.

Lại ở chỗ Ðức Phật, sinh khởi tâm tăng thượng, tức cũng là dũng mãnh tinh tấn, chẳng có tơ hào tư tưởng giải đãi. Họ cầm vô số lượng y báu trời đủ thứ màu sắc. Thứ y phục nầy, giống như thảm trải đường, trải ở trên đường. (hiện tại khi nghênh tiếp các nguyên thủ quốc gia, tại phi trường, đều trải thảm đỏ, biểu thị sự nghênh tiếp). Trong Kinh văn nói các chư Thiên thỉnh Ðức Phật đi trên y trời, đây là biểu thị sự cung kính với Phật. Ðây là một thứ đồ cúng dường, dâng lên cúng dường Ðức Phật.

Lại ở chỗ Ðức Phật, sinh khởi tâm thanh tịnh, thanh tịnh như gương sáng, chẳng có bụi bặm dính. Họ cầm vô số lượng tràng báu trời đủ thứ màu sắc, cúng dường nghênh tiếp Ðức Phật. Ðây là biểu thị sự trang nghiêm và giao tiếp, khiến cho người thấy, phát tâm khởi kính, hướng Phật đảnh lễ.

Lại ở chỗ đức Phật, khởi tâm tăng thượng hoan hỉ, cầm vô số đồ trang nghiêm trời đủ thứ màu sắc, cúng dường Như Lai. Lại ở chỗ đức Phật, sinh tâm tin bất hoại, cầm vô số man báu trời, cúng dường Như Lai. Lại ở chỗ đức Phật, sinh tâm hoan hỉ vô tỉ. Cầm vô số phan báu trời đủ thứ màu sắc, cúng dường Như Lai. Trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ các Thiên tử, dùng tâm điều thuận tịch tĩnh không phóng dật, cầm vô số nhạc trời đủ thứ màu sắc, vang ra âm thanh vi diệu, cúng dường Như Lai.

Trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ các Thiên tử, lại ở chỗ Ðức Phật, sinh khởi tâm tăng thượng hoan hỉ. Tức cũng là hoan hỉ lại tăng thêm hoan hỉ. Họ cầm vô số lượng đồ trang nghiêm trời đủ thứ màu sắc, tức cũng là các thứ đồ trang nghiêm, để cúng dường Ðức Phật.

Lại ở chỗ Ðức Phật, sinh tâm tin bất hoại. Thứ tâm tin nầy rất kiên cố, không dễ gì phá hoại được. Có thể nói có đủ trí huệ chánh tri chánh kiến, không thể bị tà tri tà kiến phá hoại. Họ cầm vô số lượng man báu trời đủ thứ màu sắc. Thứ man báu này là dùng hoa trời kết thành, không những tươi tốt mà còn vĩnh viễn không héo tàn, dùng để cúng dường Ðức Phật.

Lại ở chỗ Ðức Phật, sinh tâm hoan hỉ vô tỉ. Tâm hoan hỉ nầy là do pháp hoan hỉ sung mãn mà có được, cho nên chẳng có sự vui nào sánh bằng. Họ cầm vô số lượng phan báu trời đủ thứ màu sắc, để cúng dường Ðức Phật. Dùng phan nầy để trang nghiêm đạo tràng, cung thỉnh Phật nói Hoa Nghiêm pháp lớn.

Có trăm vạn ức Na do tha A tăng kỳ các Thiên tử, dùng tâm điều thuận tịch tĩnh chẳng có phóng dật: Ðiều là điều hoà, thuận là nhu thuận. Tánh tình nhu hoà, thuận thọ nơi tâm, mà đắc được tự tại. Tịch là tịch nhiên bất động, Do đó: “Tĩnh cực quang thông đạt”. Tịch tĩnh đến cực điểm, sẽ sinh ra trí huệ quang minh. Ðắc được cảnh giới nầy, thì thời thời khắc khắc sẽ chẳng phóng dật. Phóng dật tức là không giữ quy cụ, Do đó: “Vô quy cụ bất thành phương viên”. Nghĩa là không có quy cụ thì không thể thành vuông tròn được”. Chúng ta người tu đạo, nhất định phải giữ gìn quy cụ mà tu hành, không được giải đãi (lười biếng), không được phóng dật (tuỳ tiện). Họ cầm vô số lượng khí nhạc trời đủ thứ màu sắc, diễn tấu đủ thứ âm thanh vi diệu, khen ngợi công đức của Phật, tán thán công đức của Phật, dùng sự trang nghiêm nầy để cúng dường Ðức Phật.

Ở trước dùng đủ thứ sắc trần để cúng dường Phật. Dùng đủ thứ thanh trần để cúng dường Phật. Dùng đủ thứ hương trần để cúng dường Phật. Dùng đủ thứ vị trần để cúng dường Phật. Dùng đủ thứ đồ trang nghiêm để cúng dường Phật. Hiện tại dùng đủ thứ âm nhạc để cúng dường Phật. Những vị Thiên tử nầy, phát đại nguyện rộng tu cúng dường, tận hết khả năng của họ để cúng dường Phật.

Trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết các chúng Bồ Tát, ở trước cung trời Đâu Suất. Dùng pháp sinh ra vượt qua từ ba cõi. Hành sinh ra lìa các phiền não. Tâm sinh ra khắp cùng vô ngại. Pháp sinh ra phương tiện thâm sâu. Trí sinh ra rộng lớn vô lượng. Niềm tin thanh tịnh kiên cố tăng trưởng. Căn lành không nghĩ bàn sinh ra. A tăng kỳ thiện xảo biến hoá thành tựu. Tâm cúng dường Phật hiện ra. Ấn pháp môn vô tác, các đồ cúng dường vượt hơn chư Thiên, để cúng dường đức Phật.

Có trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết các chúng Bồ Tát, ở trước cung trời Ðâu Suất, họ dùng pháp sinh ra vượt qua từ ba cõi (lục độ vạn hạnh). Hành sinh ra từ lìa khỏi tất cả phiền não (phá trừ vô minh). Tâm sinh ra từ khắp cùng vô ngại. Pháp sinh ra từ phương tiện thâm sâu. Trí huệ rộng lớn vô lượng sinh ra. Tâm tin thanh tịnh kiên cố tăng trưởng. Căn lành không thể nghĩ bàn sinh khởi. A tăng kỳ thiện xảo biến hoá thành tựu. Tâm cúng dường Phật hiện ra. Pháp môn ấn chứng từ vô tác (không tu không chứng). Ðồ cúng dường vượt hơn chư Thiên, để cúng dường Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Dùng tất cả lọng báu từ Ba La Mật sinh ra. Tất cả trướng hoa từ nơi hiểu thanh tịnh tất cả cảnh giới Phật sinh ra. Tất cả y từ vô sinh pháp nhẫn sinh ra. Tất cả lưới linh vào pháp kim cang tâm vô ngại sinh ra. Tất cả hương kiên cố, từ tâm hiểu tất cả pháp như huyễn sinh ra. Tất cả Phật chúng toà diệu báu, từ tâm khắp cùng tất cả Phật cảnh giới Như Lai toà sinh ra. Tất cả tràng báu, từ cúng dường Phật tâm không giải đãi sinh ra. Tất cả cung điện báu chỗ Phật ở, từ sự hiểu các pháp như mộng tâm hoan hỉ sinh ra.

Dùng tất cả lọng báu từ Ba La Mật sinh ra, tất cả trướng hoa từ hiểu thanh tịnh tất cả cảnh giới Phật sinh ra. Tất cả y trời từ vô sinh pháp nhẫn sinh ra. Tất cả lưới linh từ vào pháp kim cang tâm vô ngại sinh ra. Tất cả hương kiên cố, từ tâm hiểu rõ tất cả pháp như huyễn sinh ra. Tất cả Phật chúng toà báu diệu, từ tâm khắp cùng tất cả Phật cảnh giới Như Lai toà sinh ra. Tất cả tràng báu, từ sự cúng dường Phật tâm không giải đãi sinh ra. Tất cả cung điện báu chỗ Phật ở, do sự thấu hiểu các pháp như mộng tâm hoan hỉ sinh ra.

Không chấp trước căn lành, không sinh căn lành, sinh ra tất cả mây hoa sen báu. Tất cả mây hương kiên cố. Tất cả mây hoa vô biên sắc. Tất cả mây y đủ thứ sắc đẹp. Tất cả mây hương chiên đàn thanh tịnh vô biên. Tất cả mây lọng báu đẹp trang nghiêm. Tất cả mây hương đốt. Tất cả mây man đẹp. Tất cả mây đồ trang nghiêm thanh tịnh, đều khắp pháp giới, vượt hơn đồ các chư Thiên cúng dường, để cúng dường Phật.

Căn lành do không có sự chấp trước và căn lành không sinh không diệt, sinh ra tất cả mây hoa sen báu. Tất cả mây hương kiên cố. Tất cả mây hoa vô biên màu sắc. Tất cả mây y đủ thứ sắc đẹp. Tất cả mây hương chiên đàn vô biên thanh tịnh. Tất cả mây mây lọng báu đẹp trang nghiêm. Tất cả mây hương hốt. Tất cả mây man đẹp. Tất cả mây đồ trang nghiêm thanh tịnh. Hết thảy những thứ mây nầy, đều khắp cùng pháp giới, vượt hơn đồ cúng dướng của chư Thiên, đều đem cúng dường Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Trên mỗi thân của các Bồ Tát đó, đều hiện ra bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha Bồ Tát, thảy đều đầy khắp pháp giới hư không giới. Tâm của các ngài đồng với ba đời chư Phật. Dùng pháp từ không điên đảo khởi lên, sức gia trì của vô lượng Như Lai, khai thị chúng sinh đạo an ổn. Đầy đủ bất khả thuyết danh vị cú. Vào khắp vô lượng pháp, trong tất cả Đà la ni, sinh ra tạng biện tài không thể cùng tận. Tâm chẳng sợ hãi. Sinh đại hoan hỉ, dùng bất khả thuyết vô lượng vô tận, như thật khen ngợi pháp, khen ngợi Như Lai, chẳng có nhàm đủ.

Các Bồ Tát xuất hiện từ cung trời Ðâu Suất, trên thân của mỗi vị Bồ Tát, lại hoá hiện ra bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha các Bồ Tát. Những hoá thân Bồ Tát đó, đều đầy khắp pháp giới, đầy khắp hư không giới. Tâm của Bồ Tát đồng với mười phương ba đời tất cả chư Phật, tức cũng là hợp mà làm một. Là từ pháp không điên đảo sinh ra, được sức gia bị của mười phương vô lượng chư Phật. Các Ngài khai thị đạo an ổn cho tất cả chúng sinh, tức là làm thế nào thoát khỏi ba cõi, làm thế nào đắc được an vui. Các Ngài lại đầy đủ đạo lý bất khả thuyết danh vị cú, vào khắp trong vô lượng pháp. Trong tất cả các môn tổng trì, sinh ra pháp tạng biện tài không thể cùng tận. Bồ Tát đắc được sự gia trì của chư Phật, nên trong tâm chẳng có tư tưởng sợ hãi sinh tử, do đó nương thuyền từ bi trở lại, thường đến nhân gian, hiện ra các thứ thân hình, để giáo hoá chúng sinh. Vì có tâm từ bi, chẳng phân oán thân, đều xem như nhau, cho nên sinh đại hoan hỉ. Các Ngài độ hoá chúng sinh chẳng có lúc nào nhàm chán. Dùng bất khả thuyết vô lượng vô tận như thật khen ngợi pháp, khen ngợi công đức của Phật. Bất cứ lúc nào, cũng chẳng cảm thấy nhàm mỏi và biết đủ.

Bấy giờ, tất cả chư Thiên, và các chúng Bồ Tát, thấy Ðức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, không thể nghĩ bàn, đại anh hùng trong loài người.

Lúc đó, hết thảy tất cả chư Thiên, hết thảy tất cả Bồ Tát, họ thấy được cảnh giới của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, biết là không thể nghĩ bàn. Phật là bậc đại anh hùng trong loài người, cho nên các Chùa đều có ghi câu “đại hùng bảo điện”.

Thân Phật vô lượng, không thể tính đếm. Hiện đủ thứ thần biến không thể nghĩ bàn. Khiến cho vô số chúng sinh, tâm đại hoan hỉ. Khắp cùng tất cả hư không giới tất cả pháp giới. Dùng sự trang nghiêm của Phật mà trang nghiêm cho mình, khiến cho tất cả chúng sinh an trụ nơi căn lành. Thị hiện vô lượng thần lực của chư Phật, vượt qua tất cả các đường lời lẽ. Các đại Bồ Tát cùng khâm phục kính ngưỡng. Tuỳ sự ứng hoá, đều khiến cho họ hoan hỉ. Trụ nơi thân rộng lớn của chư Phật. Công đức căn lành đều đã thanh tịnh, sắc tướng bậc nhất, chẳng có ai hơn được.

Hoá thân của Phật thị hiện vô lượng vô biên, không thể nào tính đếm được. Lại hiện ra đủ thứ thần thông biến hoá không thể nghĩ bàn, khiến cho tất cả chúng sinh, thấy được cảnh giới của Phật, đều đại hoan hỉ. Pháp thân của Phật sung mãn khắp cùng tất cả hư không giới, lại sung mãn khắp tất cả pháp giới. Do đó: “Tận hư không, khắp pháp giới”. Những vị đại Bồ Tát nầy, dùng sự trang nghiêm của Phật, làm trang nghiêm của mình. Khiến cho tất cả chúng sinh đều an trụ vào căn lành của họ đã gieo trồng, đắc được sức tinh tấn không thối chuyển. Thị hiện vô lượng sức thần thông của chư Phật, vượt qua tất cả sự hình dung của lời nói. Vì tất cả các đại Bồ Tát cùng nhau khâm phục và kính ngưỡng. Tuỳ chúng sinh được giáo hoá, đều khiến cho họ đắc được đại hoan hỉ, trụ nơi thân rộng lớn của chư Phật. Pháp thân của Phật đầy khắp mọi nơi, công đức của Phật rốt ráo thanh tịnh viên mãn, căn lành của Phật hoàn toàn thanh tịnh mà thành thục. Sắc tướng của Phật đều bậc nhất, có ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp. Chẳng có ai có thể vượt hơn cảnh giới của Phật.

Cảnh giới trí huệ không thể cùng tận, từ trong tam muội vô tỉ sinh ra. Thân Phật chẳng có bờ mé, trụ khắp ở trong tất cả thân chúng sinh. Khiến cho vô lượng chúng sinh đều đại hoan hỉ, khiến cho tất cả chủng tánh trí huệ không đoạn tuyệt.

Cảnh giới trí huệ của Phật không thể cùng tận, là từ trong tam muội không thể so sánh sinh ra. Pháp thân của Phật chẳng có bờ mé, trụ khắp ở trong tất cả thân chúng sinh, khiến cho vô lượng chúng sinh đều đại hoan hỉ. Khiến cho chủng tánh nhất thiết trí huệ vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt.

Chúng ta chúng sinh với chư Phật, có quan hệ không thể phân ly, chư Phật đã thành Phật, chúng sinh chưa thành Phật. Pháp thân của Phật trụ khắp trong thân chúng sinh chưa thành Phật. Do đó:

“Nay con đều hiểu các Như Lai,
Như Lai với con không khác biệt.
Như Lai thường ở trong thân con,
Như Lai tức là ngã chân như”.

Chư Phật chẳng lìa khỏi thân của chúng ta, cho nên đừng đi khắp nơi tìm Phật. Chỉ cần quay đầu lại, thì có thể sẽ thấy được Phật. Do đó:

“Biển khổ không bờ
Quay đầu là bến”.

Nếu bạn giác ngộ tất cả các pháp, tức là trở về nguồn cội, cũng là rõ tâm thấy tánh, nghĩa là chứng được bản thể của Như Lai.

Chúng ta chúng sinh đều đang sống ở trong pháp thân Như Lai, nếu chẳng phải ở trong pháp thân Như Lai, thì chúng sinh cũng đều chết. Giống như trong thân thể của mỗi người chúng ta, đều có vô lượng vi khuẩn. Những vi khuẩn nầy, nương thân người mà tồn tại. Con người chết đi, thì vi khuẩn cũng chết. Pháp thân Như Lai ví như thân thể con người, chúng sinh ví như vi khuẩn. Chúng ta tồn tại ở trong pháp thân Như Lai, cũng giống như vi khuẩn tồn tại ở trong thân người, cùng một đạo lý. Pháp thân của Như Lai không thể nào chết, mà chúng ta ở trong luân hồi chuyển lại chuyển đi, sinh tồn ở trong luân hồi. Bản tánh của chúng ta tức là Phật tánh. Do đó:

“Tất cả chúng sinh,
Ðều sẽ thành Phật”.

Ðáng tiếc chúng ta không biết tu hành, cho nên chưa có thể thành Phật.

Bồ Tát trụ nơi chỗ trụ rốt ráo của chư Phật. Sinh vào nhà của ba đời chư Phật. Khiến cho các chúng sinh nhiều không thể tính đếm, sinh niềm tin hiểu biết thanh tịnh. Khiến cho trí huệ của tất cả Bồ Tát đều thành tựu. Các căn vui thích. Mây pháp che khắp hư không pháp giới. Giáo hoá điều phục chúng sinh không sót thừa. Tuỳ tâm chúng sinh, đều khiến cho họ được đầy đủ. Khiến cho họ an trụ nơi trí huệ không phân biệt, vượt qua trên tất cả chúng sinh.

Bồ Tát trụ nơi chỗ trụ rốt ráo của chư Phật, tức là Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, tức cũng là quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Bồ Tát sinh vào trong nhà của mười phương ba đời tất cả chư Phật, tức cũng là trí huệ rốt ráo thanh tịnh. Thường ở chung với Phật, nghe pháp nghe Kinh, sớm sẽ thành Phật. Phật là cha lành của chúng ta, thương xót chúng ta, giáo hoá chúng ta, khiến cho chúng ta tu hành, chứng đạo, khổ nhọc dạy dỗ, khuyên chỉ dạy không biết chán.

Phật có thể khiến cho chúng sinh nhiều bất khả số, tin sâu pháp thanh tịnh, tức là siêng tu giới định huệ, để diệt trừ pháp nhiễm ô, tức là tiêu diệt tham sân si. Phật có thể khiến cho trí huệ của tất cả Bồ Tát, đều có thể thành tựu, đắc được đại viên cảnh trí. Bồ Tát tự giác cũng viên mãn, giác tha cũng viên mãn. Trí huệ nầy sẽ thành tựu đạo quả của chính mình. Sáu căn vui thích: Tức là bên ngoài hiện ra hiện tượng hoan hỉ, bên trong cũng có tâm hoan hỉ. Mây pháp giáo hoá chúng sinh, che phủ khắp tất cả mọi nơi, tức cũng là tận hư không biến pháp giới. Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh. Tuy nhiên chúng sinh ở trong thế giới Ta Bà, khó điều khó phục, nhưng hết thảy chúng sinh cang cường, đều bị điều phục, chẳng có một chúng sinh nào chẳng bị điều phục. Bồ Tát tuỳ thuận tâm nguyện của chúng sinh, khiến cho họ được đầy đủ. Muốn cầu gì thì khiến cho họ được cái đó; hy vọng việc gì, thì khiến cho họ thành công việc đó. Khiến cho tất cả chúng sinh, an trụ nơi trí huệ không có sự phân biệt, vượt qua trên tất cả chúng sinh.

Đắc được nhất thiết trí, phóng đại quang minh. Căn lành đời trước đều khiến cho hiển hiện. Khắp khiến cho tất cả chúng sinh, phát tâm đại nguyện. Khiến cho họ an trụ nơi trí huệ Phổ Hiền không thể hoại. Trụ khắp tất cả cõi nước chúng sinh. Từ trong chánh pháp bất thối mà sinh ra. Trụ nơi tất cả pháp giới bình đẳng. Biết rõ cơ nghi tâm của chúng sinh. Hiện bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ thân Như Lai khác nhau. Chẳng phải lời lẽ thế gian có thể khen ngợi hết được. Hay khiến cho tất cả chúng sinh thường nhớ niệm Phật. Đầy khắp pháp giới, rộng độ quần sinh. Tuỳ người sơ pháp tâm muốn được lợi ích, mà dùng pháp bố thí, khiến cho họ được điều phục. Tin hiểu thanh tịnh, thị hiện sắc thân, không thể nghĩ bàn.

Khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được nhất thiết trí huệ, phóng ra đại quang minh, chiếu khắp mười phương thế giới. Khiến cho tất cả chúng sinh, thuở xưa đã tạo tất cả nghiệp thiện, gieo trồng tất cả căn lành, đều khiến cho hiển hiện ra. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều biết rõ căn lành của mình trong đời trước như thế nào. Khắp khiến cho tất cả chúng sinh, phát tâm rộng lớn.

Giống như chúng ta lần nầy đả thất Ðại Bi, Quả Ðình (Thầy Hằng Triều) tự biết đời trước của mình (vua Lương Võ Ðế tái sinh), cho nên pháp danh là Quả Ðình, hiệu là Hằng Triều. Nghĩa là triều đình. Anh ta biết đời nầy và hiện tại phải làm gì, nên quy y Tam Bảo, biết rồi, anh ta phát tâm rộng lớn, cũng ảnh hưởng đến rất nhiều người phát tâm rộng lớn. (Ghi chú: Tháng 5/1977, Thầy Hằng Thật vì cầu cho thế giới hoà bình, mà phát tâm “Tam bộ nhất bái”, từ Chùa Kim Luân ở Los Angeles lạy đến Vạn Phật Thánh Thành, dài khoảng hơn bảy trăm dặm. Dùng hành động để cảm hoá người đời, cải ác hướng thiện. Thầy Hằng Triều thọ sự cảm động, bèn phát tâm làm hộ pháp cho Thầy Hằng Thật, chiếu cố Thầy Hằng Thật.

Khiến cho tất cả chúng sinh, an trụ trong trí huệ Phổ Hiền Bồ Tát, kiên cố xâu xa không thể hoại. Bồ Tát khắp trụ ở trong cõi nước của tất cả chúng sinh. Từ trong chánh pháp bất thối chuyển sinh ra. Thường trụ trong tất cả pháp giới bình đẳng. Thấu suốt biết rõ mọi sự mong muốn trong tâm của tất cả chúng sinh. Hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ thân Như Lai khác nhau. Chẳng phải lời lẽ và văn từ thế gian có thể khen ngợi hết được. Chư Phật Bồ Tát dùng sức thần thông cảm ứng đạo giao, khiến cho hết thảy tất cả chúng sinh, thường nhớ niệm Phật, thường nghĩ tưởng đến Phật, thì tương lai nhất định sẽ gặp Phật. Thân Như Lai hiện ra sung mãn pháp giới, và tất cả cõi Phật, hay rộng độ tất cả chúng sinh. Tuỳ thuận những người ban đầu phát tâm mong cầu, đều khiến cho họ đắc được lợi ích. Tức cũng là, ai muốn cầu thành Phật mà phát tâm, thì khiến cho họ đều thành Phật. Ai cầu thần thông mà phát tâm, thì khiến cho họ đắc được thần thông. Dùng Phật pháp để bố thí cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh cang cường, đều được điều phục, đắc được sự tin hiểu, đắc được thanh tịnh. Thị hiện vô lượng sắc thân, đây thật là cảnh giới không thể nghĩ bàn.

Bình đẳng quán sát chúng sinh, tâm không chấp trước, trụ nơi vô ngại. Đắc được mười lực của Phật, không có chướng ngại. Tâm thường ở trong định, chưa từng tán loạn, trụ nhất thiết trí.

Bồ Tát bình đẳng quán sát tất cả chúng sinh, chẳng có tâm phân biệt, chẳng có tâm chấp trước, trụ nơi cảnh giới viên dung vô ngại, đắc được mười thứ lực của Phật. Chẳng có mọi sự chướng ngại, nhậm vận vô ngại. Tâm chư Phật Bồ Tát, thường ở trong định, chưa từng tán loạn, trụ nơi nhất thiết trí huệ.

Khéo khai thị diễn nói đủ thứ câu văn nghĩa lý chân thật. Vào được biển trí huệ thâm sâu không bờ. Sinh ra vô lượng công đức trí huệ tạng.

Bồ Tát khéo khai thị diễn nói đủ thứ lời lẽ, đủ thứ câu văn, đủ thứ diệu pháp, đều là nghĩa lý chân thật, hoàn toàn vào sâu được tạng Kinh, đắc được trí huệ không bờ bến, như biển cả. Hay sinh ra vô lượng công đức trí huệ tạng.

Luôn luôn dùng Phật nhựt, chiếu khắp pháp giới. Tuỳ theo nguyện lực thuở xưa, thường hiện không ẩn mất. Luôn luôn trụ nơi pháp giới, trụ chỗ Phật trụ, chẳng có biến đổi. Nơi cái ta và của ta đều chẳng chấp trước. Trụ nơi pháp xuất thế gian, chẳng nhiễm pháp thế gian.

Bồ Tát luôn luôn dùng Phật nhựt, chiếu sáng khắp thế giới. Tuỳ theo nguyện lực thuở xưa đã phát, thường xuất hiện ra đời, mà chẳng vào Niết Bàn. Luôn luôn trụ nơi pháp giới, trụ ở chỗ Phật trụ, chẳng có lúc nào biến đổi. Ðối với cái ta và của ta đều chẳng chấp trước. Chúng ta chúng sinh đối với cái ta và của ta, hai sự việc nầy nhìn chẳng thấu được, buông bỏ chẳng đặng, có sự chấp trước, đây là thân thể của ta, phải thương yêu nó, phải bảo vệ nuôi dưỡng nó, phải lo cho nó. Cho nên suốt ngày vì nó mà phải bận rộn, tức nhiên có cái ta, thì sinh ra tư tưởng sở hữu của ta: Ðây là thuộc về ta, kia là sở hữu của ta. Nói rộng ra, đây là đất nước của ta, đây là nhà của ta, đây là tài sản của ta. Có cái ta rồi thì có sở hữu của ta-đây tức là ích kỷ, tự lợi. Nếu chẳng ích kỷ, thì chẳng có cái ta. Nếu chẳng có tự lợi, thì chẳng có sở hữu của ta. Vậy, cái ta không có, của ta không có, đây tức là pháp xuất thế gian. Khi tu đến trình độ nầy thì đắc được giải thoát, tất cả đều tự tại. Tuy trụ tại pháp xuất thế, nhưng đối với pháp thế gian chẳng nhiễm trước. Tóm lại, không bị pháp thế gian làm giao động, không bị cảnh giới chuyển biến, đây là yếu tố của pháp xuất thế gian.

Nơi tất cả thế gian, kiến lập tràng trí huệ. Trí huệ đó rộng lớn, vượt khỏi thế gian. Không nhiễm trước, cứu các chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi bùn lầy, để nơi trí huệ tối thượng. Hết thảy phước đức, lợi ích chúng sinh, mà không hết được. Biết rõ trí huệ của tất cả Bồ Tát, tin và xu hướng quyết định, sẽ thành Chánh Giác. Dùng đại từ bi, hiện bất khả thuyết vô lượng thân Phật, đủ thứ sự trang nghiêm. Dùng âm thanh vi diệu, để diễn nói vô lượng pháp. Tuỳ theo ý của chúng sinh, đều khiến cho họ được đầy đủ.

Ở trong tất cả thế gian, kiến lập tràng trí huệ. Tràng là hình tướng vuông tròn, biểu thị dùng trí huệ quang minh chiếu khắp tất cả chúng sinh. Thứ trí huệ nầy rộng lớn không thể sánh, vượt qua pháp thế gian, chẳng có nhiễm trước. Ðã lìa khỏi sự chấp trước cái ta và của ta, thì còn gì để chấp trước ? Có thể cứu độ khổ não của tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh thoát khỏi bùn lầy, để họ ở nơi trí huệ vô thượng, tức cũng là đạt đến quả vị Phật.

Chúng ta chúng sinh ở trong bùn lầy như huyễn, như hoá, mà chẳng tự giác, vẫn đang nằm mộng, mê mê hồ hồ, nhiễm khổ làm vui. Ðối với thị phi thiện ác chẳng phân rõ ràng, dùng phải làm trái, dùng trái làm phải, dùng thiện làm ác, dùng ác làm thiện. Ðiên điên, đảo đảo, phải trái chẳng phân rõ ràng, thiện ác chẳng rõ. Nói chung, cong thẳng không biết, trắng đen chẳng rõ, đây cũng giống như ở trong bùn lầy.

Tại sao chúng ta ở trong bùn lầy ? Vì ngu si. Con người luôn luôn quay lưng với giác ngộ mà hợp với trần lao, mà chẳng quay lưng với trần lao để hợp với giác ngộ, đây tức là ở trong bùn. Lúc chẳng minh bạch, lúc chẳng thoát khỏi ba cõi, vì đó là bị bùn lầy vô minh phiền não làm nhiễm trước. Vậy làm thế nào mới thoát khỏi được bùn lầy ? Tức là phải học Phật pháp. Phật pháp là phương hướng chỉ bày đường mê, là hải đăng của biển cả, chiếu sáng khắp nơi, khiến cho người mê mất phương hướng, đi trên con đường chân chánh.

Bồ Tát dùng đủ thứ phước đức đã tu trong quá khứ, để lợi ích chúng sinh, khiến cho họ đắc được sự lợi ích, thường thường làm như vậy chẳng có khi nào hết được. Các Ngài minh bạch trí huệ của tất cả Bồ Tát, là thâm sâu vô thượng, tâm tin nguyện và tâm hồi tiểu hướng đại, quyết định rồi, thì tương lai chắc chắn sẽ thành Phật.

Dùng tâm đại từ đại bi, hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng thân Phật, tức cũng là hoá thân. Dùng đủ thứ công đức và trí huệ để trang nghiêm. Dùng đủ thứ âm thanh vi diệu, để diễn nói vô lượng pháp, tức cũng là từ một pháp mà diễn nói vô lượng pháp, vô lượng pháp quy về một pháp. Do đó:

“Một làm vô lượng
Vô lượng làm một”.

Ðây là pháp viên dung vô ngại. Tuỳ thuận tâm ý của chúng sinh, khiến cho dục vọng của họ đều được đầy đủ, tức cũng là nguyện vọng thành Phật, làm tổ, chứ chẳng phải tham luyến vui năm dục.

Tại quá khứ vị lai hiện tại, tâm thường thanh tịnh, khiến cho các chúng sinh, chẳng chấp trước cảnh giới. Luôn thọ ký cho tất cả các Bồ Tát, khiến cho các Ngài đều vào trong chủng tánh của Phật. Sinh tại nhà Phật, được Phật quán đảnh.

Bồ Tát trong quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời, tâm luôn luôn thanh tịnh, một niệm không sinh, một bụi trần không nhiễm. Bồ Tát chẳng những tự mình chẳng chấp trước cái ta và của ta, mà cũng khiến cho tất cả chúng sinh, chẳng chấp trước vào cảnh giới cái ta và của ta. Thường thường vì chúng sinh thọ ký cho tất cả các Bồ Tát, khiến cho tất cả chúng sinh, đều vào trong chủng tánh của Phật, sinh tại nhà của Phật (tức cũng là cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ), sẽ đắc được mười phương chư Phật quán đảnh thọ ký thành Phật.

Thường du hành mười phương, chưa từng ngừng nghỉ, mà nơi tất cả chẳng vui thích chấp trước. Pháp giới cõi Phật, thảy đều đi đến. Tâm của các chúng sinh, thảy đều biết rõ. Hết thảy phước đức xuất thế thanh tịnh, chẳng trụ sinh tử, mà nơi thế gian như hình ảnh hiện khắp.

Bồ Tát thường du hành mười phương thế giới, đi giáo hoá tất cả chúng sinh, chưa từng lúc nào ngừng nghỉ. Chư Phật Bồ Tát giáo hoá chúng sinh không ngừng nghỉ, chúng ta học tập Phật pháp, thì thường ngừng nghỉ. Tập khí của chúng sinh và tập khí của chư Phật Bồ Tát hoàn toàn khác nhau. Chư Phật Bồ Tát đối với tất cả cảnh giới năm dục sáu trần, chẳng chấp trước, chẳng sinh tâm tham. Song, chúng sinh thì ngược lại, tham vui năm dục, ưa thích cảnh sáu trần.

 Bất cứ pháp giới cõi Phật nào, Bồ Tát đều có thể tuỳ ý đi đến, du hành vô ngại, chẳng bị hạn chế. Bồ Tát đối với tâm niệm của tất cả chúng sinh, đều thấu suốt biết rõ. Tôi cũng biết tâm chúng sinh, đều có tham sân si, suốt ngày đến tối bị ba độc mê hoặc, chẳng có lúc nào tỉnh táo. Nếu chẳng có tham sân si, thì sẽ siêng tu giới định huệ.

Hết thảy phước đức của Bồ Tát, đều do xuất ly thế gian mà được thanh tịnh, chẳng tham trước nơi sinh tử, cũng chẳng trụ nơi Niết Bàn. Tuy sinh mà không sinh, tuy chết mà không chết. Do đó:

“Sinh tử tức Niết Bàn
Phiền não tức bồ đề”.

Bồ Tát tại thế gian, giống như hình ảnh, hay hiện khắp trong tâm của chúng sinh.

Dùng trí huệ mặt trăng, chiếu khắp pháp giới. Thông đạt tất cả, thảy đều không có chỗ được. Luôn dùng trí huệ, biết các thế gian như huyễn, như hình ảnh, như mộng, như biến hoá. Tất cả đều lấy tâm làm tự tánh. Như vậy mà trụ.

Bồ Tát dùng ánh sáng trí huệ mặt trăng, chiếu khắp pháp giới tâm của tất cả chúng sinh, khiến cho họ thấu rõ thông đạt tất cả hết thảy thế gian, như huyễn, như hoá, đều không thể đắc được. Tại sao ? Vì đều hư vọng không thật thể, cho nên chẳng chấp trước. Bồ Tát dùng trí huệ chân thật, biết tất cả pháp thế gian, đều là huyễn hoá, giống như nằm mộng, đều là biến hoá. Hư vọng không thật, chẳng chấp trước. Ðời người giống như diễn phim, trên màng ảnh có đủ thứ cảnh giới hiện ra, nhìn xem tựa như thật, kỳ thật là giả. Song, vẫn dẫn dụ chúng sinh làm cho điên điên đảo đảo, chuyển theo cảnh giới, mà không chuyển được cảnh giới.

Bồ Tát biết tất cả hết thảy, đều dùng tâm làm tự tánh (tâm là có sự phân biệt, là hữu vi; tánh là không phân biệt, là vô vi). Cho nên như vậy mà trụ. Tánh của chúng sinh là Phật tánh, tâm của chúng sinh là vọng tâm, cho nên chẳng thành Phật. Người tu đạo tức là tu tâm, biến vọng tâm thành chân tâm. Chân tâm tức là tánh Như Lai tạng, tức cũng là đại quang minh tạng.

Tuỳ theo các chúng sinh nghiệp báo khác nhau. Tâm ưa thích khác nhau. Các căn đều khác nhau, mà thị hiện thân Phật. Như Lai luôn dùng vô số chúng sinh, mà vì họ sở duyên, để vì họ nói thế gian đều do duyên khởi. Biết các pháp tướng, thảy đều vô tướng, chỉ là một tướng, gốc của trí huệ. Muốn khiến cho chúng sinh lìa khỏi sự chấp trước các tướng, nên thị hiện tất cả tánh và tướng của thế gian, mà hành nơi thế gian, vì họ khai thị vô thượng bồ đề.

Tuỳ thuận nghiệp báo khác nhau của chúng sinh, tâm ưa thích khác nhau, các căn khác nhau, mà thị hiện thân Phật. Phật thường dùng vô số chúng sinh vì sở duyên, cho nên thường muốn độ chúng sinh, thoát khỏi biển khổ, vì chúng sinh nói tất cả pháp thế gian, đều từ đạo lý duyên khởi, Do đó: “Duyên sinh vô tánh”. Phật biết tất cả pháp là vô tướng, nhưng vì chúng sinh có tâm phân biệt, cho nên có pháp tướng, kỳ thật rốt ráo là vô tướng, mà vô tướng nầy là gốc rễ của trí huệ, vì tất cả pháp đều từ trí huệ sinh ra. Trí huệ là như thế nào ? Là vô tướng ! Cho nên nói “Chỉ là một tướng, gốc của trí huệ”. Trong Ðại Trí Ðộ Luận có nói:

“Pháp do nhân duyên sinh
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa trung đạo”.

Ðây là nói rõ đạo lý duyên khởi. Chư Phật Bồ Tát muốn khiến cho tất cả chúng sinh, lìa khỏi sự chấp trước tất cả các tướng, cho nên thị hiện tánh và tướng của tất cả thế gian, mà đến thế gian giáo hoá chúng sinh, vì hết thảy chúng sinh, mà khai thị giác đạo vô thượng.

Vì muốn cứu hộ tất cả chúng sinh, nên xuất hiện nơi thế gian. Khai thị Phật đạo, khiến cho họ được thấy thân tướng của Như Lai. Phan duyên nghĩ nhớ, siêng năng tu tập, để diệt trừ tướng phiền não của thế gian. Tu hạnh bồ đề, tâm chẳng tán loạn lay động. Nơi môn đại thừa, đều đắc được viên mãn, thành tựu nghĩa lợi của tất cả chư Phật.

Chư Phật Bồ Tát, vì muốn cứu hộ tất cả chúng sinh, cho nên xuất hiện nơi thế gian, khai thị chánh đạo của chư Phật tu hành, tức cũng là khiến cho chúng sinh thành tựu Phật đạo. Khiến cho chúng sinh thấy được 32 tướng và 80 vẻ đẹp của Phật, bèn sinh ra tâm phan duyên, nghĩ nhớ thân tướng tốt trang nghiêm của Như Lai, mà siêng năng tu tập, để diệt trừ tướng tất cả phiền não của thế gian, chuyên tâm tu tập hạnh bồ đề, tâm chẳng tán loạn giao động, thời thời ở trong định. Ðối với pháp môn đại thừa, thảy đều tu tập viên mãn. Thành tựu nghĩa lợi của mười phương ba đời tất cả chư Phật, tức cũng là đắc được quả bồ đề viên mãn.

Đều có thể quán sát căn lành của chúng sinh, mà không hoại diệt nghiệp báo thanh tịnh. Trí huệ thấu rõ, vào khắp ba đời.

Chư Phật Bồ Tát có thể quán sát căn lành của tất cả chúng sinh, khiến cho nghiệp báo thanh tịnh của tất cả chúng sinh, đều được thành tựu. Chúng sinh có trí huệ chân chánh, thấu rõ tất cả Phật pháp, sẽ vào khắp ba đời.

Vĩnh viễn lìa khỏi sự phân biệt của tất cả thế gian, phóng lưới quang minh, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới, chẳng có nơi nào mà không chiếu đến. Sắc thân tốt đẹp, ai thấy được cũng đều không nhàm. Dùng đại công đức trí huệ thần thông, sinh ra đủ thứ các hạnh Bồ Tát. Các căn cảnh giới, tự tại viên mãn, làm các Phật sự, làm xong liền chẳng còn nữa.

Phật Bồ Tát vĩnh viễn lìa khỏi tâm phân biệt tất cả thế gian, phóng lưới đại trí huệ quang minh, chiếu soi khắp mười phương tất cả thế giới, chẳng có nơi nào mà không sung mãn. Sắc thân của Phật tốt đẹp trang nghiêm, tất cả chúng sinh thấy được sắc thân tốt đẹp nầy, mắt chiêm ngưỡng đều không tạm rời, chẳng có lúc nào nhàm chán. Dùng đại công đức, đại trí huệ, đại thần thông, sinh ra đủ thứ lục độ vạn hạnh của Bồ Tát tu, cảnh giới các căn đều tự tại viên mãn, cho nên những việc làm, đều làm tất cả mọi Phật sự. Làm xong Phật sự, thì chẳng còn nữa. Bồ Tát chẳng chấp trước vào làm Phật sự. Do đó: “Làm mà không làm, hành mà không hành”. Cho nên mới nói “Làm xong chẳng còn nữa”.

Khéo hay khai thị nhất thiết trí đạo quá khứ hiện tại vị lai. Vì các Bồ Tát, khắp mưa vô lượng pháp vũ Đà la ni, khiến cho họ phát khởi sự ưa muốn vui thích rộng lớn, mà thọ trì tu tập.

Chư Phật Bồ Tát khéo dùng thiện xảo phương tiện để khai thị ngộ nhập, khiến cho tất cả chúng sinh đều minh bạch đạo nhất thiết trí huệ quá khứ hiện tại và vị lai. Vì hết thảy Bồ Tát khắp mưa vô lượng pháp vũ Ðà la ni, khiến cho họ phát khởi tâm bồ đề rộng lớn, tu trì tâm bồ đề rộng lớn, dùng tâm bồ đề làm sự ưa thích, thọ trì pháp tổng trì nầy, tu tập pháp tổng trì nầy.

Thành tựu công đức của tất cả chư Phật, viên mãn mạnh mẽ, vô biên sắc đẹp trang nghiêm thân. Tất cả thế gian chẳng có đâu mà không thấy. Vĩnh viễn lìa khỏi tất cả pháp chướng ngại. Nơi tất cả pháp nghĩa chân thật, đã được thanh tịnh. Nơi pháp công đức đắc được tự tại. 

Bồ Tát thành tựu công đức của tất cả chư Phật đã thành tựu, công đức cũng viên mãn, trí huệ cũng viên mãn, quang minh cũng viên mãn. Chẳng những viên mãn, mà còn mạnh mẽ, tức cũng là quang minh chiếu khắp. Có vô biên diệu sắc để trang nghiêm thân. Ở trong mười phương tất cả cõi nước chư Phật, chẳng có ai mà không thấy thân tướng tốt trang nghiêm đó. Và vĩnh viễn lìa khỏi tất cả pháp chướng ngại.

Gì là pháp chướng ngại ? Nói đơn giản đó là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, sáu thứ gốc rễ phiền não. Sáu thứ phiền não nầy hay nhiễu loạn tâm thanh tịnh của mình và kẻ khác. Do đó: “Phiền thân não tâm”.

Chúng ta tu đạo, tu đến trình độ chẳng còn phiền não, thì sẽ thoát khỏi ba cõi. Do đó:

“Ðừng sinh phiền não tâm chớ nghi
Ðều phải lo mình bớt lo người
Nhẫn nhiều chẳng phải bớt tranh lý
An nhiên thanh tịnh trí huệ sinh”.

Cũng chẳng có phiền não, cũng chẳng có hoài nghi, thường lo cho mình, đừng lo việc của người ta. Do đó:

“Hay lo việc nhàn rỗi,
Tự chuốt lấy khổ não”.

Thường nhận rằng mình không phải, đừng tranh luận với người. Lúc đó, rất an nhiên, rất thanh tịnh, trí huệ sẽ hiện ra.

“Rõ tâm chẳng có việc ngại khó
Thấy tánh chẳng có tâm sầu lo
Phật quang chẳng phải chẳng chiếu khắp
Lo nghĩ hận oán tâm loạn mê”.

Người thấy rõ tâm, thì chẳng có việc chướng ngại khó khăn. Người thấy tánh, chẳng có tâm lo nghĩ sầu buồn. Quang minh của Phật chiếu khắp tất cả, giống như ánh sáng mặt trời, mà tại sao chúng ta không thấy quang minh của Phật ? Vì có sầu lo và oán hận, cho nên tâm loạn mê, do đó, trí huệ quang minh không thể hiện tiền.

Tôi thường nói:

“Tâm thanh thuỷ hiện nguyệt,
Ý định thiên vô vân”.

Nghĩa là:

Tâm tịnh nước hiện trăng
Ý lặng trời không mây.

“Tâm bình bách nạn tán,
Ý định vạn sự cát”.

Nghĩa là:

Tâm bình trăm nạn tiêu tan
Ý định vạn sự cát tường.

“Tâm chỉ niệm tuyệt chân phú quý,
Tư dục đoạn tận chân phước điền”.

Nghĩa là:

Tâm niệm ngừng bặt giàu sang thật
Dục niệm dứt sạch ruộng phước thật.

“Một thời thanh tịnh,
Một thời tại núi Linh Sơn.
Thời thời thanh tịnh
Thời thời tại núi Linh Sơn”.

“Một niệm không sinh toàn thể hiện,
Lục căn hốt động bị vân giá”.

Nghĩa là:

Một niệm không sinh toàn thể hiện ra
Sáu căn giao động bị mây che lấp.

Những câu nầy đều là châm ngôn. Ðối với tất cả đạo lý pháp chân thật, đã đắc được thanh tịnh, tức cũng là đã minh bạch bản thể của pháp là vắng lặng thanh tịnh, cho nên chẳng có sự chấp trước. Bồ Tát thì tức tướng lìa tướng, tức pháp phi pháp, chẳng có sự chấp trước, cho nên thanh tịnh. Nếu có những sự chấp trước, thì chẳng đắc được thanh tịnh. Ðối với pháp công đức lành tu hành của mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều đắc được tự tại viên mãn.

Làm đại Pháp Vương, như mặt trời chiếu khắp. Làm ruộng phước thế gian, đủ đại oai đức. Nơi tất cả thế gian, khắp hiện hoá thân, phóng quang minh trí huệ, đều khiến cho họ khai ngộ. Muốn khiến cho chúng sinh, biết Phật đầy đủ vô biên công đức. Dùng tơ lụa vô ngại, vấng đảnh thọ ngôi. Tuỳ thuận thế gian, phương tiện khai đạo. Dùng tay trí huệ, an ủi chúng sinh. Làm đại y vương, khéo chữa các bệnh.

Ðức Phật làm đại Pháp Vương, giống như mặt trời chiếu khắp đại địa vạn vật, làm ruộng phước của thế gian, đầy đủ đại oai đức. Ðối với tất cả chúng sinh phát tâm từ bi, cho nên tại tất cả thế gian, khắp hiện hoá thân, phóng quang minh trí huệ, chiếu phá đen tối. Khiến cho chúng sinh được quang minh của Phật chiếu đến, liền được khai ngộ. Muốn khiến cho chúng sinh biết Phật có đầy đủ vô biên công đức. Dùng vải tơ lụa vô ngại, vấng trên đảnh thọ ngôi Pháp Vương. Tuỳ thuận pháp thế gian, phương tiện để khai đạo chúng sinh. Dùng tay trí huệ để xoa đảnh đầu chúng sinh; dùng tiếng nói từ bi, để an ủi tâm chúng sinh. Làm đại y vương chữa trị tất cả bệnh tật của chúng sinh. Vì chúng sinh có tám vạn bốn ngàn bệnh phiền não, cho nên Phật dùng tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị.

Tam Bảo là ruộng phước của chúng sinh, tại sao phải cúng dường Tam Bảo ? Vì muốn gieo trồng ruộng phước. Nhưng một số người không nhận thức được chân tướng, chẳng minh bạch chân lý, cho nên chẳng muốn gieo trồng ruộng phước trước Tam Bảo. Có người ở trước Tam Bảo cầu xin phước báo, hy vọng có điều gì linh cảm, hy vọng có cảnh giới gì đó, những tư tưởng nầy là sai lầm. Có người ở trước Tam Bảo cầu xin con cái, cầu phát tài, cầu mạnh khoẻ, cầu cát tường, đây là không đúng. Vậy tại sao phải cúng dường Tam Bảo ? Vì muốn tu phước, muốn tu huệ. Phước huệ viên mãn, thì sẽ thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử, và sẽ không còn ở trong thế giới Ta Bà chịu đủ thứ khổ nữa, có thể đến thế giới Cực Lạc hưởng thọ sự sung sướng.

Gieo trồng ruộng phước trước Tam Bảo, đừng có tâm phân biệt. Rằng chỗ nầy có Phật chăng ? Có Tăng chăng ? Nếu có tâm phân biệt như thế, thì chẳng có công đức, sẽ chẳng đắc được ruộng phước. Phải biết:

“Rồng bùn tuy không thể mưa xuống,
Cầu mưa phải cầu rồng bùn.
Phàm Tăng tuy không thể ban phước,
Trồng phước phải cầu nơi phàm Tăng”.

Cho nên nói “Thành Hiền phước điền Tăng”. Thành tâm cúng dường Tam Bảo, phước tự nhiên trồng xuống, thì chắc chắn sẽ đắc được sự giàu sang mai sau, cúng dường không chấp trước, thì mới là thật cúng dường. Nếu có sự xí đồ, thì là giả cúng dường. Do đó: “Tam luân thể không”, thì công đức sẽ vô lượng.

Tất cả thế gian vô lượng cõi nước, thảy đều đi đến, chưa từng ngừng nghỉ. Thanh tịnh huệ nhãn, lìa khỏi các chướng lòa, sẽ được thấy rõ. Chúng sinh làm nghiệp ác không thiện, có đủ thứ sự điều phục, khiến cho họ vào đạo. Khéo nắm lấy thời cơ, không có ngừng nghỉ.

Trong hết thảy tất cả thế gian, có vô lượng vô biên cõi nước, Bồ Tát thảy đều đi đến tất cả cõi nước để giáo hoá chúng sinh, chẳng có lúc nào ngừng nghỉ. Bồ Tát thanh tịnh huệ nhãn, đã lìa khỏi tất cả chướng loà, thảy đều thấy rõ tất cả tâm tánh của chúng sinh. Trong Kinh Kim Cang có nói:

“Chúng sinh có bao nhiêu thứ tâm,
Như Lai đều biết đều thấy”.

Ðối với chúng sinh làm nghiệp ác chẳng thiện, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để điều phục những chúng sinh cang cường đó, khiến cho họ cải ác hướng thiện, phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng. Bồ Tát khéo léo nắm lấy thời cơ, chẳng ngừng nghỉ để giáo hoá.

Ðối với chúng sinh nghiệp thiện, thì khiến cho nghiệp thiện của họ tăng trưởng. Ðối với chúng sinh nghiệp bất thiện, thì khiến cho họ tài bồi nghiệp thiện, chẳng tạo nghiệp ác. Ðối với chúng sinh chẳng thiện chẳng ác, thì khiến cho họ biết gieo trồng căn lành, làm công đức nghiệp thiện. Vì chúng sinh nói pháp, lựa chọn thời cơ, chẳng để bỏ lỡ cơ hội. Tóm lại, khi chúng sinh nầy được độ, đáng tiếp thọ pháp thì vì họ nói pháp. Do đó: “Quán cơ đầu giáo, vì người nói pháp”. Người nào cơ duyên thành thục thì vì họ nói pháp, người nào cơ duyên chưa thành thục thì đợi thời cơ, sẽ vì họ nói pháp. Ðây gọi là “khéo nắm lấy thời cơ”. Thời cơ tức là lúc nói pháp hợp thời. Do đó:

“Thời nhiên hậu ngôn
Lạc nhiên hậu tiếu
Nghĩa nhiên hậu thủ”.

Nghĩa là: Ðến lúc đáng nói mới nói. Lúc vui vẻ, sau đó mới cười. Việc hợp với nghĩa, mới có thể lấy, nếu vật không hợp nghĩa, thì tuyệt đói không lấy.

Nếu các chúng sinh khởi tâm bình đẳng, tức là hoá hiện nghiệp báo bình đẳng. Tuỳ theo tâm ưa thích của họ, tuỳ theo nghiệp quả của họ, mà hiện thân Phật đủ thứ thần thông biến hoá, để vì họ nói pháp, khiến cho họ ngộ hiểu. Đắc được pháp trí huệ, tâm đại hoan hỉ, các căn hớn hở, thấy vô lượng Phật. Khởi niềm tin thâm sâu. Sinh ra các căn lành, vĩnh viễn không thối chuyển.

Giả sử tất cả chúng sinh, sinh khởi tâm bình đẳng, chẳng có tâm phân biệt, chẳng có tâm thương ghét, chẳng có tâm thân sơ, chẳng có tâm cao thấp, đều là tâm bình đẳng, tức là hoá hiện nghiệp báo bình đẳng.

Tuỳ thuận việc chúng sinh ưa thích, tuỳ thuận nghiệp của chúng sinh tạo ra, tuỳ thuận báo của chúng sinh thọ, mà thị hiện thân Phật. Dùng đủ thứ thần thông biến hoá, mà vì họ nói pháp, khiến cho họ khai ngộ, đắc được Phật pháp, trí huệ, giải thoát. Thấu rõ tất cả rồi, thì tâm sinh đại hoan hỉ, tứ chi hớn hở nhảy nhót, do đó: “Tình chẳng tự chủ, tay múa chân nhảy”. Lại thấy được mười phương ba đời tất cả vô lượng chư Phật, sinh khởi tâm tin thâm sâu, sinh trưởng tất cả căn lành, vĩnh viễn chẳng thối chuyển, dũng mãnh tinh tấn tiến về trước.

Tất cả chúng sinh, tuỳ theo nghiệp ràng buộc, ngủ mãi trong sinh tử. Như Lai ra đời, giác ngộ cho họ, an ủi tâm của họ, khiến cho họ không lo sợ. Nếu người thấy được Như Lai, đều khiến cho họ chứng nhập trí vô y nghĩa. Trí huệ thiện xảo thông đạt cảnh giới. Trang nghiêm tốt đẹp, không gì chói sáng lấn được. Núi trí huệ mầm pháp đều đã thanh tịnh. Hoặc hiện thân Phật, hoặc hiện thân Bồ Tát, khiến cho các chúng sinh đến nơi không hoạn nạn. Vô số công đức trang nghiêm, nghiệp hạnh thành tựu, hiện nơi thế gian. Tất cả chư Phật trang nghiêm thanh tịnh, thảy đều dùng tất cả trí nghiệp để thành tựu.

Hết thảy tất cả chúng sinh, đều khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Khởi hoặc tức là một niệm vô minh. Vì không minh bạch, cho nên mê hoặc. Vì mê hoặc cho nên tạo ra nghiệp điên đảo. Có nghiệp điên đảo, thì phải thọ quả báo ở trong luân hồi sinh tử. Do đó:

“Trồng thiện kết quả thiện
Trồng ác kết quả ác”.

Nếu nhân không thiện không ác, thì đương nhiên sẽ kết quả không thiện không ác. Ðây là định luật từ ngàn xưa không thay đổi. Cho nên tất cả chúng sinh, do nghiệp ràng buộc, bị nghiệp vây khốn. Nghiệp do mình tạo, và chính mình phải thọ quả báo, luân chuyển ở trong luân hồi, giống như ngủ ở trong luân hồi, thuỷ chung mê mộng không tỉnh, không thể chấm dứt sinh tử. Do đó:

“Danh lợi việc nhỏ người người ham,
Sinh tử việc lớn chẳng ai màng”.

Con người đối với việc lớn sinh tử chẳng thấu hiểu, cứu kính sinh ra như thế nào ? Chết rồi sẽ đi về đâu ? Chẳng ai nghiên cứu ! Cứu kính từ đâu đến ? Sẽ đi về đâu ? Chẳng biết ! Con người đều là hồ đồ sinh ra, hồ đồ chết đi. Do đó: “Tuý sinh mộng tử”. Nghĩa là: “Sinh say chết mộng”. Khi sinh thì giống như say rượu, khi chết thì giống như xuân mộng. Suốt ngày hồ đồ điên đảo, vô dụng giống như người chết sống lại.

Phật quán sát tất cả nhân duyên, mới xuất hiện ra thế gian. Phật là ứng duyên của chúng sinh, mà xuất hiện ra đời, khiến cho chúng sinh giác ngộ, phát tâm bồ đề, bỏ mê về với giác ngộ, chấm dứt sinh tử. Dùng lời tốt an ủi chúng sinh, khiến cho họ không sầu lo sợ hãi, xa lìa điên đảo mộng tưởng. Nếu có chúng sinh gặp được Phật, đều có thể chứng nhập trí huệ vô y nghĩa, tức cũng là bốn trí (Thành sở tác trí, diệu quán sát trí, bình đẳng tánh trí, đại viên cảnh trí). Có trí huệ rồi, sẽ sử dụng pháp môn phương tiện khéo léo, để giáo hoá tất cả chúng sinh. Do đó:

“Vào sâu tạng Kinh,
Trí huệ như biển”.

Có trí huệ như biển, thì mới có thể giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ được giải thoát, khiến cho họ thấu hiểu cảnh giới. Nhận thức cảnh giới rồi, thì sẽ chẳng bị cảnh giới lay chuyển, chẳng bị cảnh giới mê hoặc. Do đó:

“Người chuyển được cảnh giới
Cảnh giới không chuyển được người”.

Tất cả cảnh giới hiện tiền, nếu như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt, thì sẽ chuyển được cảnh giới.

Thân Phật thanh tịnh trang nghiêm, quang minh tốt đẹp, chẳng có gì trang nghiêm tốt đẹp hơn được, cho nên không có gì chói sáng lấn được. Núi trí huệ, mầm diệu pháp, đều đã thanh tịnh viên mãn. Hoặc hiện thân Bồ Tát, vì chúng sinh nói pháp. Hoặc hiện thân Phật, vì chúng sinh nói pháp. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều chẳng có chỗ hoạn nạn. Tức cũng là phá tan vô minh, hiển pháp tánh. Ðây tức là nơi không hoạn nạn. Tóm lại, chấm dứt sinh tử, tức là nơi không hoạn nạn. Nơi chẳng có hoạn nạn, tức là thế giới Cực Lạc.

Phật dùng vô lượng công đức tu hành, cùng nhau để trang nghiêm. Thế giới nầy vì tu nghiệp hạnh thành tựu, mới xuất hiện nơi thế gian. Dùng sự trang nghiêm của tất cả chư Phật, để tự trang nghiêm cho chính mình; dùng sự thanh tịnh của tất cả chư Phật, để thanh tịnh cho chính mình. Sự trang nghiêm thanh tịnh nầy, đều do nhất thiết trí nghiệp tu hành thuở xưa thành tựu.

Thường giữ nguyện xưa, chẳng xả bỏ thế gian. Làm bạn lành kiên cố của các chúng sinh, thanh tịnh bậc nhất. Lìa cấu quang minh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều được hiện thấy.

Bồ Tát thường giữ nguyện xưa, chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh thế gian, nguyện làm bạn lành kiên cố của tất cả chúng sinh, dùng nguyện lực chí thành khẩn thiết, để giáo hoá bạn bè (chúng sinh) kiên cố. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được viên mãn diệu quả bồ đề, có thể phá được một phần sinh tướng vô minh cuối cùng, đây tức là thanh tịnh bậc nhất. Thanh tịnh bậc nhất là chứng được quả vị Phật Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Như vậy sẽ lìa khỏi kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc, đây tức là lìa cấu. Lìa khỏi trần cấu, thì trí huệ quang minh tự nhiên sẽ hiện tiền. Quang minh chiếu khắp, khiến cho chúng sinh có cảnh giới cảm ứng đạo giao, đều đắc được hiện thấy.

Chúng sinh trong sáu nẻo, vô lượng vô biên. Phật dùng thần lực, thường tuỳ theo không xả bỏ. Nếu có người thuở xưa cùng gieo trồng căn lành, thì đều khiến cho họ thanh tịnh. mà nơi tất cả chúng sinh trong sáu nẻo, không xả bỏ nguyện xưa, chẳng khi dối, thảy đều dùng pháp lành, phương tiện nhiếp lấy, khiến cho họ tu tập nghiệp thanh tịnh, phá tan sự đấu tranh của tất cả các ma.

Chúng sinh ở trong sáu nẻo, có nhiều vô lượng vô biên. Chúng sinh giống như hạt bụi, lúc trên trời, lúc ở dưới đất, lúc làm súc sinh, lúc làm ngạ quỷ, lúc làm A tu la, lúc làm người. Trong sáu nẻo luân hồi, cùng nhau biến hoá, chẳng có lúc nào ngừng nghỉ. Phật dùng sức thần thông, luôn luôn tuỳ theo chúng sinh trong sáu nẻo, mà chẳng xả bỏ, thị hiện thân họ, để giáo hoá chúng sinh.

Giả xử thuở xưa, có người cùng nhau phát tâm, cùng nhau gieo trồng căn lành, đều khiến cho căn lành tăng trưởng, chín mùi, giải thoát, sau đó thanh tịnh. Mà đối với tất cả chúng sinh trong sáu nẻo, chẳng xả bỏ nguyện xưa, đối với chúng sinh không khi dối. Dùng lời chân thật để giáo hoá chúng sinh, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo để nhiếp lấy. Khiến cho hết thảy chúng sinh tu tập nghiệp thanh tịnh, siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si. Khiến cho nghiệp thân miệng ý thanh tịnh: Thân chẳng giết hại, trộm cắp, tà dâm ba nghiệp ác. Miệng không nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chưởi mắng bốn nghiệp ác. Ý không tham, sân, si, ba nghiệp ác. Nếu dứt trừ mười điều ác, tức là tu mười điều lành.

Giới định huệ ba học vô lậu, khi tu hành viên mãn, thì sẽ hàng phục được sự đấu tranh của tất cả các ma, phá hoại được sự đấu tranh của tất cả các ma. Ma là gì ? Phàm là đối với cảnh giới không nhận thức được, đều gọi là ma. Ma có nhiều thứ, một lối nói gồm có: Thiên ma, địa ma, người mà, quỷ ma, thần ma, phiền não ma, chúng sinh ma, bệnh ma, tâm ma .v.v… Ma khó phá nhất, tức là phiền não ma và tâm ma. Nếu chẳng có trí huệ chân chánh, thì không thể phá được những thứ ma nầy.

Việc ma hoan hỉ nhất là đấu tranh, do đó: “Chỉ sợ thiên hạ chẳng loạn”. Thế giới càng tệ hại thì càng loạn, ma sẽ rất vui mừng. Tại sao ? Vì tâm lý đố kị chướng ngại tác quái. Phàm là ai có tư tưởng như thế, tức là ma, ma chẳng có tâm từ bi, bất cứ ai cũng đều muốn tranh luận, lấy sự đấu tranh làm sự nghiệp.

Hiện tại là thời đại mạc pháp, là thời kỳ đấu tranh kiến cố. Ai ai cũng thích đấu tranh, ma cũng hoan hỉ đấu tranh. A tu la trên trời, A tu la ở nhân gian, A tu la trong loài súc sinh, A tu la trong loài ngạ quỷ, chúng suốt ngày tới tối đều đấu tranh. Cho nên A tu la thuộc về các loài ma. Nói đơn giản, phàm là kẻ ưa thích đấu tranh tức là A tu la.

A tu la trên trời, vì có phước trời, mà chẳng có đức trời, cho nên thường đấu tranh với trời Ðế Thích, để tranh giành ngôi Thiên chủ. A tu la ở nhân gian thì tranh danh đoạt lợi. A tu la trong loài súc sinh thì uy hiếp kẻ yếu. Do đó: “ngựa hại bầy”, biểu thị tác phong của loài A tu la. A tu la trong loài ngạ quỷ, thì ưa thích giành thức ăn, ích kỷ lợi mình, chẳng có đạo nghĩa. Tóm lại, chướng ngại sự tự do của kẻ khác, đều là A tu la.

Sự nóng giận của A tu la lớn nhất, phiền não nhiều nhất. Vì vậy cho nên tướng mạo của A tu la rất xấu xí vô cùng (Nam A tu la rất xấu xí, nhưng nữ A tu la rất đẹp). Xấu xí đại biểu cho phiền não, nóng giận.

Con người bây giờ, tại sao vẫn còn đấu tranh, vẫn thích đấu tranh ? Vì A tu la đang làm sóng làm gió, chỉ dẫn đấu tranh, chỉ huy đấu tranh. Phàm là những người tham gia đấu tranh, đều là hoá thân của A tu la.

Từ nơi vô ngại, sinh ra sức lực rộng lớn, nhật tạng tối thắng, chẳng có chướng ngại. Nơi tịnh tâm giới, hiện ra hình bóng, tất cả thế gian, thảy đều thấy được. Dùng đủ thứ pháp, rộng bố thí cho chúng sinh. Phật là tạng vô biên quang minh. Các lực trí huệ, thảy đều viên mãn. Luôn dùng đại quang minh chiếu khắp chúng sinh. Tuỳ theo nguyện của họ, đều khiến cho họ được đầy đủ. Lìa khỏi các oán địch.

Từ nơi viên dung vô ngại, sinh ra sức lực trí huệ rộng lớn, hàng phục tất cả thiên ma ngoại đạo. Thứ trí huệ nầy thù thắng nhất, giống như ánh sáng mặt trời, phá tan tất cả đen tối, chẳng có mọi sự chướng ngại. Trong thanh tịnh tâm giới, hiện ra tất cả hình bóng. Do đó:

“Phật như thanh lương nguyệt
Thường du tất kính không
Chúng sinh tâm cấu tịnh
Bồ đề ảnh hiện trung”.

Hết thảy tất cả chúng sinh thế gian, đều nhìn thấy được Phật. Phật dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, rộng bố thí cho chúng sinh. Do đó: “Trong các sự bố thí, bố thí pháp là hơn hết”. Dùng pháp bố thí, công đức lớn nhất. Chúng sinh y theo pháp tu hành, tương lai sẽ thành tựu quả Phật. Pháp tức là mẫu thể của chư Phật. Tất cả chư Phật đều từ trong pháp sinh ra.

Có người khởi vọng tưởng: “Pháp là Phật nói, Phật y Phật pháp để tu hành. Vậy trước hết có Phật, hay là trước hết có pháp ? Nếu nói trước hết có Phật, chẳng có ai nói pháp, làm sao Phật y pháp tu hành ? Làm sao có thể thành Phật ? Nếu nói trước hết có pháp, vậy pháp từ đâu đến ? Pháp là do Phật nói, nếu chẳng có Phật nói, làm thế nào có pháp ?” Nghiên cứu như vậy thì có nhiều vấn đề ! Có thể hỏi một câu: “Trước có gà, hay trước có trứng ? Nếu chẳng có gà, gà là từ trong trứng nở ra, chẳng có trứng làm sao có gà ? Nếu nói trước hết có trứng sau có gà, trứng là do gà đẻ ra, chẳng có gà làm sao có trứng ?” Ðạo lý như thế nói không hết được !

Phật là tạng quang minh vô lượng, có trí huệ mười lực, đều tu hành được thanh tịnh viên mãn, thường dùng đại trí huệ quang minh, chiếu soi khắp chúng sinh. Tuỳ thuận nguyện lực của chúng sinh, đều khiến cho họ được đầy đủ, toại tâm như ý, lìa khỏi tất cả oán địch.

Người tu đạo, phải lấy đức báo oán, hoá kẻ địch làm bạn, đừng có kẻ oán hận. Có người đối với mình không tốt, thì mình càng đối với họ tốt. Dùng đạo để khuyến hoá họ, dùng đức để cảm hoá họ, không thể dùng thế lực để đàn áp người, không thể dùng vũ lực để uy hiếp người. Mạnh Tử có nói:

“Kẻ dùng lực đối đãi người
Tâm họ chẳng phục vậy
Lực chẳng cấp giúp vậy.
Kẻ dùng đức đối đãi người
Trong tâm vui mà thành phục vậy”.

Ðây tức là lìa khỏi oán địch. Ðối với bất cứ ai đừng có thù địch, dùng đức để cảm hoá họ, đừng dùng thế lực để đàn áp. Nếu dùng lực để chinh phục người, đó là khẩu phục mà tâm chẳng phục. Giống như nước lớn dùng quân lực để chinh phục nước nhỏ, tuy nhiên nước nhỏ đầu hàng, nhưng tâm chẳng đầu hàng, đó là tình hình bất đắc dĩ, mới đầu hàng xưng thần. Ðợi đến lúc có cơ hội phản công, thì họ nhất định sẽ phục thù. Song, nếu dùng đức để đối đãi người, thì khiến cho đối phương khẩu phục tâm phục. Khẩn thiết sùng bái bạn, chân thành bội phục bạn.

Là phước điền tối thượng. Tất cả chúng sinh cùng nhau nương nhờ. Phàm là có sự bố thí, đều khiến cho thanh tịnh. Tu chút hạnh lành, thọ vô lượng phước, đều khiến cho được vào vô tận trí địa. Là chủ của tất cả chúng sinh gieo trồng căn lành tâm tịnh. Là ruộng tốt tối thượng của tất cả chúng sinh phát sinh phước đức. Trí huệ thâm sâu, phương tiện khéo léo, hay cứu tất cả khổ ba đường ác.

Bồ Tát là ruộng phước tối thượng của chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh có đại trí huệ, sinh đại căn lành, phát tâm bồ đề, thành vô thượng đạo. Hết thảy chúng sinh ngưỡng vọng Bồ Tát làm chỗ nương nhờ, tức cũng là người bảo hộ. Tất cả chúng sinh, phàm có sự bố thí, đều khiến cho thanh tịnh. Dù bố thí nhỏ như một sợi lông, cũng sẽ gieo trồng vô lượng căn lành. Khi bố thí, chẳng những là tài thí và pháp thí, mà còn có tinh thần vô uý thí. Khi người gặp lúc hoảng sợ bối rối, phải dùng lời lẽ để an ủi, để khai đạo, khiến cho họ chẳng sợ hãi, thậm chí dùng hành động để giải quyết sự khó khăn của họ. Tóm lại, cứu họ lìa khổ được vui, tình nguyện hy sinh chính mình, dù có nhảy vào dầu sôi lửa bỏng, cũng không từ nan, đó mới là hành vi thực hành Bồ Tát đạo.

Khi Phật còn ở đời, có người lão già 88 tuổi, cảm thấy đời người vô thường, muốn xuất gia tu hành. Do đó, bèn đến Tịnh Xá Kỳ Viên, xin Phật cho ông ta xuống tóc xuất gia, thu làm đệ tử. Lúc ấy, Phật chẳng có ở Tịnh Xá, đi ra ngoài hoằng pháp. Tôn giả Xá Lợi Phất (trí huệ bậc nhất) là thượng toà, tiếp đãi ông lão già đó. Hỏi rõ ý định đến, bèn ở trong định quán sát nhân duyên của vị lão già đó. Trong tám vạn đại kiếp, tìm không ra tơ hào căn lành của vị lão già nọ, ông ta cũng chẳng có công đức bố thí, cho nên chẳng có tư cách làm Tỳ Kheo.

– Tôn giả Xá Lợi Phất bèn nói với ông lão: “Ông không thể xuất gia ! Vì thuở xưa ông chưa gieo trồng căn lành nào, chưa từng bố thí, xin ông hãy trở về !”

– Ông già nghe Tôn giả Xá Lợi Phất nói chẳng cho mình xuất gia, thì rất là thất vọng đi ra khỏi Tịnh Xá.

Cổ đức đã từng nói:

“Mạc đạo xuất gia dung dịch đắc
Giai nhân luỹ thế chủng bồ đề”.

Nghĩa là:

Xuất gia chẳng phải việc dễ dàng
Đều do nhiều đời gieo giống bồ đề.

Do thuở xưa nhiều đời nhiều kiếp, đã từng giao trồng căn lành, mới có cơ hội xuất gia tu đạo. Bằng không, dù có tâm xuất gia, cũng chẳng tìm đến cửa Chùa. Do đó: “Chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, chẳng gặp Tăng”. Hôm nay các vị có thể học Phật pháp, là do thuở xưa đã gieo trồng căn lành lớn, mới có hoàn cảnh nầy, được nghe pháp lớn Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật. Người chẳng có căn lành, thì dù tên của bộ Kinh nầy cũng chẳng được nghe, làm gì nói đến nghiên cứu ! Hy vọng các vị ! Tụ tinh hội thần để nghe Kinh, chuyên tâm để nghiên cứu, đây là cơ hội khó gặp được. Không thể vào núi báu mà tay không ra về, cuối cùng chẳng được gì hết, thật là đáng tiếc.

Vị lão già đó cuối đầu buồn bã đi ra khỏi Tịnh Xá, vừa đi vừa nghĩ: “Mình là kẻ lão già nghèo khổ, không có con cái, độc thân một mình, đời sống khốn khổ, từ nay về sau sinh sống như thế nào ? Cảm thấy tiền đồ thật là hoang mang, chẳng có chỗ nương tựa tá túc”. Ông ta đã đi đến đường cùng, bèn khởi lên ý niệm muốn tự tử. Do đó đi đến bên vực thẳm, quyết tâm nhảy xuống sông tự tử. Lúc đang nhảy xuống sông, thì cảm thấy có người vịn vai lại, quay đầu lại nhìn, là vị Tỳ Kheo già, bèn hỏi:

– “Tại sao ông kéo tôi lại, cản trở tôi quyên sinh ?”

– Vị Tỳ Kheo già hỏi: “Tại sao ông muốn nhảy xuống sông, có phải có vấn đề không thể giải quyết được chăng ?”

– Lão già đáp: “Tôi muốn xuất gia tu đạo, vừa mới đến chỗ đức Phật, xin Phật từ bi, thu nhận tôi làm đệ tử. Bất hạnh Phật không có ở Tịnh Xá, có vị Tỳ Kheo lớn chẳng thu nạp tôi, nói tôi trong tám vạn đại kiếp chẳng gieo trồng căn lành gì, cho nên tôi cảm thấy sống chẳng còn ý nghĩa gì nữa, chẳng bằng tự tử cho xong”.

– Vị Tỳ Kheo già nói: “Ông muốn xuất gia, thì hãy theo tôi đi xuất gia”.

– Lão già nói: “Ngài là ai ?”

– Lão Tỳ Kheo nói: “Ta là Phật Thích Ca Mâu Ni”.

Lão già nghe nói, rất là vui mừng, hướng về đức Phật đảnh lễ. Theo Phật về Tịnh Xá, Phật liền cử hành lễ xuống tóc xuất gia, trong miệng nói: “Thiện lai Tỳ Kheo, đầu tóc tự rụng, mặc áo Cà Sa”. Nói xong rồi, lão già bèn hiện ra tướng Tỳ Kheo. Phật vì ông ta nói pháp, khai thị một phen, lão già nghe pháp khai ngộ, liền chứng được Sơ quả. Các vị Tỳ Kheo lớn tại đạo tràng, đều sinh ra hoài nghi, trong tâm nghĩ: “Vị lão già nầy, vốn chẳng có căn lành, tại sao Phật cho ông ta xuất gia ? Còn vì ông ta nói pháp, mà chứng được Sơ quả, đây là nhân duyên gì ?”

– Tôn giả Xá Lợi Phất bèn thỉnh Phật khai thị: ” Đức Thế Tôn ! Vị lão già này có căn lành gì mà được xuất gia ? Lại chứng được Sơ quả ? Con đối với nhân quả nầy thật không rõ, xin đức Thế Tôn từ bi, khai thị cho con được rõ”.

– Phật bèn nói: “Xá Lợi Phất ! Con chỉ quán sát được nhân duyên trong tám vạn đại kiếp, mà không thể quán được nhân duyên ngoài tám vạn đại kiếp, cho nên con không biết nhân duyên của vị lão già nầy”.

Phật rất hoà mục tươi cười nói nhân duyên xuất gia của vị lão già nầy: “Cách đây khoảng chín vạn đại kiếp, ông ta là một người tiều phu đốn củi, ngày ngày lên núi hái củi, gánh ra chợ bán đổi gạo về ăn, để duy trì đời sống của gia đình.

Một ngày nọ, đang lúc đi hái củi thì gặp một con cọp dữ, nhe nanh múa vuốt chạy về phía ông ta, muốn ăn thịt ông ta. Vị tiều phu đó trong lúc nguy hiểm bèn trèo lên trên cây, nhưng cọp chẳng chịu buông tha, dùng nanh vuốt cắn cào thân cây, khiến cho cây muốn ngã, vị tiều phu ở trên cây rất hoảng sợ, bèn thốt lên: “Nam Mô Phật”! Cọp dữ nghe, giống như tiếng sấm, bèn bỏ chạy đi xa, vị tiều phu thoát hiểm, mạng sống được an toàn. Thuở xưa chỉ niệm một tiếng Phật, mà đời nầy có căn lành được xuất gia”. Tôn giả Xá Lợi Phật và các vị Tỳ Kheo nghe Phật khai thị, không nói gì mà lui đi.

Tại sao sao hôm nay (01/05/1976) tôi nói câu chuyện nầy ? Vì đã mấy ngày qua, tức là ngày mồng tám tháng tư (ngày Phật Ðản). Tại Chùa Kim Sơn Viện Dịch Kinh (San Francisco), có vị lão cư sĩ họ Ngô muốn xuất gia. Ðã lựa chọn ngày này cho xuất gia. Vị lão cư sĩ nầy trong tám vạn đại kiếp, đã từng gieo trồng căn lành, đời này nhân duyên chín mùi, nên thành tựu nguyện vọng.

Chỉ cần niệm một câu “Nam Mô Phật”, thì có vô lượng công đức, gieo xuống nhân duyên xuất gia. Xuất gia thì thanh tịnh, cho nên nói thanh tịnh phước điền Tăng. Xuất gia rồi, dù tu hạnh lành rất nhỏ, nhưng có vô lượng phước báu, sẽ đắc được vô lượng trí địa.

Phật Bồ Tát vì tất cả chúng sinh, rộng gieo trồng căn lành, trở thành chủ của tịnh tâm, tức cũng là thành Phật. Phật Bồ Tát là ruộng phước tốt tối thượng của chúng sinh, cho nên khiến cho chúng sinh chẳng có phước đức, phát sinh phước đức, gieo trồng phước đức, tăng trưởng phước đức, đắc được ruộng phước tốt. Phật Bồ Tát đều đắc được trí huệ thâm sâu, hay xử dụng pháp môn phương tiện khéo léo, để giáo hoá chúng sinh, hay cứu tất cả chúng sinh trong ba đường ác, thoát khỏi biển khổ, đắc được giải thoát.

Chúng sinh trong ba đường ác, vì tham sân si quá nặng, cho nên đoạ lạc vào trong ba đường ác thọ khổ. Dùng phương pháp gì cứu họ lìa khổ, khiến cho họ được an vui ? Chỉ có một phương pháp, đó là khiến cho họ tin ngưỡng Phật pháp, siêng tu pháp môn giới định huệ. Chúng sinh có tâm tham, thì không còn tham nữa, chúng sinh có tâm sân, thì không còn sân nữa, chúng sinh có tâm si, thì không còn si nữa. Không tham, không sân, không si, là biện pháp tốt nhất để lìa khỏi ba đường ác.

Ở trong ba đường ác, mỗi đường ác có vô lượng vô biên chúng sinh. Mỗi chúng sinh đều có vô số vô tận tội nghiệp. Phật Bồ Tát từ bi, vì tất cả chúng sinh thọ khổ mà nói pháp, một mặt cứu chúng sinh thoát khỏi biển khổ, một mặt tiêu diệt tội chướng của tất cả chúng sinh, nghiệp chướng tiêu diệt, thì khổ sẽ chấm dứt, khổ ba đường ác tiêu sạch, thì lìa khổ được vui. Tu đạo phải siêng tu giới định huệ, tu đến lúc viên mãn, thì tự nhiên sẽ tiêu diệt tham sân si, tham sân si không khởi tác dụng, thì tự nhiên sẽ giải thoát. Giải thoát tức là mục tiêu tiến tới của sự tu đạo.

Tin hiểu như vậy. Quán sát như vậy. Vào trí huệ thâm sâu như vậy. Ngao du nơi biển công đức như vậy. Đến khắp nơi trí huệ hư không như vậy. Biết phước điền của chúng sinh như vậy. Chánh niệm hiện tiền quán sát như vậy. Quán các nghiệp tướng tốt của Phật như vậy. Quán sự hiện khắp thế gian của Phật như vậy. Quán thần thông tự tại của Phật như vậy.

Ðạo lý ở trên vừa nói, là nên tin như vậy, nên hiểu như vậy. Cảnh giới ở trên vừa nói, là nên quán sát như vậy, nên tin thọ như vậy. Nếu như có thể y pháp tu hành, thì sẽ chứng nhập được trí huệ thâm sâu. Nếu có thể y chiếu pháp Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, để tu vạn hạnh, thì sẽ có thể ngao du nơi biển cả công đức. Hay tu hành như vậy, thì chẳng có mọi sự chấp trước, phá trừ tất cả sự chấp trước, như có thể liễu ngộ tự tánh, giống như hư không, thì chứng được trí huệ hư không, chẳng có tham sân si phiền não.

Quán sát như vậy, thì sẽ biết được làm thế nào khiến cho chúng sinh gieo trồng phước điền, làm thế nào khiến cho chúng sinh tăng thêm phước điền. Quán sát như vậy, phải có chánh tri chánh kiến, không tồn tại tà tri tà kiến. Lúc đó chánh niệm sẽ hiện tiền, có thể quán sát tất cả đạo lý. Do đó:

“Người chánh tu pháp tà,
Pháp tà cũng thành chánh.
Người tà tu pháp chánh,
Pháp chánh cũng thành tà”.

Chánh pháp hiện tiền, thì tà pháp tiêu diệt; tà pháp hiện tiền, thì chánh pháp ẩn mất. Cho nên chánh tà không đứng cả hai. Thế nào là chánh ? Tức là chẳng có tham. Thế nào là tà ? Tức là có tham. Tóm lại, phàm là có sự mong cầu, tức là bất chánh, chẳng có tâm phan duyên, tức là chánh.

Dùng chánh niệm để quán sát tất cả nhân quả, tất cả nghiệp báo, đều có tuần hoàn báo ứng. Do đó: “Nhân thế nào, thì quả thế ấy”, tơ hào không sai, thiên cổ không thay đổi. Người học Phật, trước hết phải tin sâu nhân quả, đừng có bát không có nhân quả, càng không thể bán tín bán nghi. Tư tưởng như vậy thì không thể được, cũng giống như đá cột chân sự tu đạo. Không cẩn thận thì sẽ bị trở ngại giữa chừng, không dễ gì bò lên được (thối lùi tâm tu đạo), tức là dậm chân tại chỗ, cũng lãng phí mất rất nhiều thời gian. Nếu có lối nghĩ như thế, thì hãy mau phát tâm rộng lớn, vượt qua đầu sào. Bằng không, thì sẽ cách Phật đạo mười vạn tám ngàn dặm.

Quán sát tất cả nghiệp của chư Phật như vậy, đều là thanh tịnh, tướng tốt trang nghiêm. Quán sát pháp thân của chư Phật như vậy, là tận hư không khắp pháp giới, tức cũng là đầy khắp tất cả mọi nơi. Quán sát thần thông của chư Phật như vậy, tự tại diệu dụng, có cảnh giới không thể nghĩ bàn. Minh bạch đạo lý nầy rồi, sẽ siêng tu lục độ vạn hạnh, siêng hành Bồ Tát đạo, tương lai công đức viên mãn, thì chắc chắn sẽ thành Phật.

Bấy giờ, đại chúng đó thấy mỗi lỗ chân lông của Như Lai, đều phóng ra trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ quang minh. Mỗi quang minh, có A tăng kỳ màu sắc, A tăng kỳ sự thanh tịnh, A tăng kỳ sự chiếu sáng, khiến cho A tăng kỳ chúng sinh quán sát, A tăng kỳ chúng sinh hoan hỉ, A tăng kỳ chúng sinh tin sâu tăng trưởng, A tăng kỳ chúng sinh ý chí ưa thích thanh tịnh, A tăng kỳ chúng sinh các căn mát mẻ, A tăng kỳ chúng sinh cung kính tôn trọng.

Lúc đó, pháp hội Hoa Nghiêm tại Ðiện Bảo Trang Nghiêm ở cung trời Ðâu Suất, hết thảy đại chúng (Bồ Tát, Thiên Vương, Thiên tử, Thiên nữ, Thiên chúng), đều thấy trong mỗi chân lông trên thân của Ðức Phật Thích Ca, phóng ra trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ (vô lượng số) quang minh. Trong mỗi thứ quang minh lại có vô lượng số màu sắc, vô lượng số sự thanh tịnh, vô lượng số chiếu sáng, đầy khắp pháp giới. Khiến cho vô lượng số chúng sinh đều quán sát quang minh đó. Khiến cho vô lượng số chúng sinh đều đại hoan hỉ, tin thọ phụng hành. Khiến cho vô lượng số chúng sinh đều đại khoái lạc, y pháp tu hành. Khiến cho vô lượng số chúng sinh tâm tin tăng trưởng, từ không tin mà tin, từ tin mà tin sâu. Khiến cho vô lượng số chúng sinh, chí nguyện tu hành hạnh thanh tịnh, thành tựu quả thanh tịnh, đắc được trí huệ thanh tịnh. Khiến cho vô lượng số chúng sinh, sáu căn thanh tịnh, đắc được tự tại mát mẻ. Khiến cho vô lượng số chúng sinh, sinh tâm cung kính Ðức Phật, sinh tâm tôn trọng pháp. Ba nghiệp thanh tịnh tức là cung kính tôn trọng.

Bấy giờ, đại chúng đều thấy thân Phật, phóng ra trăm ngàn ức Na do tha bất tư nghì đại quang minh. Mỗi quang minh đều có nhiều màu sắc không nghĩ bàn, nhiều quang minh không nghĩ bàn, chiếu đến vô biên pháp giới không nghĩ bàn.

Lúc đó, đại chúng trong pháp hội, đều thấy được trên thân tướng tốt trang nghiêm của Ðức Phật, phóng ra trăm ngàn ức Na do tha đại quang minh không nghĩ bàn. Trong mỗi luồng quang minh, đều có nhiều màu sắc không thể nghĩ bàn, lại có nhiều quang minh không thể nghĩ bàn. Quang minh đó chiếu khắp vô biên pháp giới không thể nghĩ bàn, tức cũng là tận hư không biến pháp giới, chiếu khắp mọi nơi.

Do thần lực của Phật, vang ra âm thanh lớn vi diệu. Âm thanh đó diễn xướng trăm ngàn ức Na do tha bài kệ không thể nghĩ bàn, vượt hơn hết thảy lời lẽ của các thế gian. Do tu căn lành xuất thế gian mà thành tựu.

Nhờ sức thần thông biến hoá của Ðức Phật, ở trong quang minh có hoá Phật, có Bồ Tát, lại vang ra âm thanh lớn vi diệu, âm thanh vi diệu đó, truyền đến khắp mười phương, hết thảy chúng sinh thảy đều nghe được, trong âm thanh vi diệu đó, diễn xướng trăm ngàn ức Na do tha bài kệ không thể nghĩ bàn, đều là bài kệ tán thán khen ngợi công đức của Phật. Những bài kệ đó, vượt hơn hết thảy lời lẽ của thế gian. Ðây là lúc Phật tại nhân địa, tu hành pháp xuất thế gian, pháp vượt qua ba cõi, do căn lành đó mà thành tựu âm thanh lớn vi diệu.

Lại hiện ra trăm ngàn ức Na do tha sự trang nghiêm vi diệu không thể nghĩ bàn. Trong trăm ngàn ức Na do tha kiếp không thể nghĩ bàn, khen ngợi không thể hết được. Đều từ vô tận tự tại của Như Lai sinh ra.

Ở trong quang minh, lại hiện ra trăm ngàn ức Na do tha sự trang nghiêm vi diệu không thể nghĩ bàn. Trong trăm ngàn ức Na do tha kiếp không thể nghĩ bàn, để tán thán khen ngợi công đức của Phật, cũng không thể hết được. Do đó:

“Sát trần tâm niệm khả sổ tri
Ðại hải trung thuỷ khả ẩm tận
Hư không khả lượng phong khả khế
Vô năng tận thuyết Phật công đức”.

Nghĩa là:

Hạt bụi tâm niệm đếm biết được
Nước trong biển cả uống hết được
Hư không lường được, gió buộc được
Không thể nói hết công đức Phật.

Ðây là trong quá khứ Phật tu đủ thứ pháp môn vô tận, mới có sự trang nghiêm vi diệu không thể nghĩ bàn như thế, đây là từ cảnh giới vô tận tự tại sinh ra.

Lại hiện ra bất khả thuyết chư Phật Như Lai xuất hiện ra đời, khiến cho các chúng sinh vào môn trí huệ, hiểu rõ nghĩa thâm sâu.

Ở trong quang minh, lại hiện ra bất khả thuyết chư Phật xuất hiện ra đời, khiến cho tất cả chúng sinh, vào xâu môn trí huệ, thấu hiểu nghĩa thâm sâu, tức cũng là minh bạch nghĩa chân thật pháp môn Bát Nhã do chư Phật nói.

Lại hiện ra bất khả thuyết hết thảy sự biến hoá của chư Phật Như Lai. Tận pháp giới hư không giới, khiến cho tất cả thế gian bình đẳng thanh tịnh. Đó là do từ chỗ trụ vô chướng ngại nhất thiết trí của Như Lai sinh ra, cũng từ sự tu hành đức hạnh thù thắng không thể nghĩ bàn của Như Lai sinh ra.

Ở trong quang minh lại hiện ra bất khả thuyết hết thảy thần thông biến hoá của chư Phật, tận hư không khắp pháp giới, đều có biến hoá của chư Phật. Khiến cho tất cả thế gian, đều bình đẳng thanh tịnh. Cảnh giới đó, đều từ chỗ trụ vô chướng ngại nhất thiết trí của Phật sinh ra, cũng từ sự tu hành đức hạnh thù thắng không thể nghĩ bàn của Như Lai sinh ra.

Lại hiện ra trăm ngàn ức Na do tha quang minh báu sáng chói vi diệu, từ căn lành đại nguyện xưa phát sinh. Nhờ đã từng cúng dường vô lượng Như Lai, tu hạnh thanh tịnh, không phóng dật. Tâm Tát bà nhạ 1chẳng có chướng ngại, vì sinh ra căn lành.

Ở trong quang minh lại hiện ra trăm ngàn ức Na do tha quang minh báu sáng chói vi diệu không thể nghĩ bàn. Quang minh đó, là từ căn lành đại nguyện xưa phát sinh ra. Chúng ta người tu đạo, phải phát đại nguyện kiên cố như kim cang. Biển có thể cạn, đá có thể mòn, nhưng đại nguyện đó không thể thay đổi. Chẳng những phát nguyện, mà hằng ngày còn phải nghĩ nhớ, giống như việc tụng Kinh, hằng ngày phải y theo lời nguyện đã phát mà thực hành. Bằng không thì, giống như hoa dại nở, chẳng có ích gì.

Những vị Bồ Tát đó, đã từng cúng dường mười phương tất cả chư Phật, thời thời tu hành pháp môn thanh tịnh giới định huệ, khiến cho thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, chẳng còn tơ hào tạp niệm. Do đó:

“Sai một li, đi ngàn dặm”.

Tại sao chúng ta tu hành chẳng thành tựu ? Vì chẳng có tu hạnh thanh tịnh.

Gì là hạnh thanh tịnh ? Tức là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không lợi mình, không nói dối (sáu tông chỉ của Vạn Phật Thành). Cũng có thể nói không tham, không sân, không si. Hạnh thanh tịnh, chẳng phải là pháp môn đặc biệt vi diệu, mà là dạy người trừ khử tâm tham, sân, si, ba độc. Nếu trừ khử sạch tâm ba độc, đó là tu hạnh thanh tịnh. Tóm lại, hạnh thanh tịnh tức là chẳng có tư tưởng và hành vi ô nhiễm. Bạn có tham dục, sân hận, ngu si, thì chẳng thanh tịnh. Nếu bạn chẳng có nóng giận, phiền não, vô minh, tức là thanh tịnh. Người tu hạnh thanh tịnh tuyệt đối chẳng phóng dật.

Phóng dật là gì ? Nói đơn giản đó là chẳng giữ quy cụ. Giống như đệ tử Phật, đã giữ năm giới, là không giết hại, nhưng họ làm cho kiến và côn trùng chết. Không trộm cắp, nhưng lại lấy đồ người khác chưa cho phép. Không tà dâm, nhưng lại đi tìm người khác giới, phát sinh quan hệ nhục thể. Không nói dối, nhưng chuyên nói lời không thật, hoặc nói thị phi. Không uống rượu, nhưng lại đi đến quán rượu mua rượu uống, hoặc hút thuốt, hoặc hút độc. Biết rõ là tập quán không tốt, hoặc có hại cho thân tâm, nhưng cố ý đi làm, đó tức là phóng dật.

Trong bài kệ cảnh chúng của Bồ Tát Phổ Hiền rằng:

“Ngày đã qua rồi
Mạng sống cũng giảm dần.
Như cá thiếu nước
Nào có vui gì ?
Ðại chúng !
Hãy siêng tinh tấn
Như cứu đầu lửa cháy.
Chỉ nhớ vô thường
Ðừng có phóng dật”!

Nghĩa là: Một ngày đã trôi qua, thì tánh mạng cũng theo thời gian mà tiêu giảm một chút. Giống như cá thiếu nước, càng ngày càng giảm bớt nước, còn có gì để vui ? Các vị phải biết ! Nên siêng năng mà tu hành, hãy dũng mãnh tiến về trước. Sự tinh tấn cũng giống như cứu lửa cấp bách đang cháy trên đầu của mình, một phút một giây không thể đợi chờ, mà lúc nào cũng nghĩ: Vô thường chẳng bao lâu sẽ đến, thời gian không còn nhiều, phải cố gắng tinh tấn, đừng có phóng dật. Phải luôn luôn giữ quy cụ, đi đứng nằm ngồi đừng phạm giới luật, đó mới là bổn phận của người tu đạo.

Vì không phóng dật, cho nên tâm Tát Bà Nhạ (nhất thiết trí) hiện tiền, thì chẳng có tất cả chướng ngại, sẽ sinh ra căn lành. Có căn lành, thì tất cả sẽ được giải thoát. Do đó: “Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu kính Niết Bàn”. Nghĩa là: Vì không quái ngại, nên chẳng có sợ hãi, xa lìa điên đảo mộng tưởng, rốt ráo Niết Bàn. Ðây là nơi trở về cuối cùng của người tu đạo.

Vì hiển Như Lai lực rộng khắp, vì dứt trừ nghi hoặc của tất cả chúng sinh, vì khiến cho đều được thấy Như Lai, vì khiến cho vô lượng chúng sinh trụ nơi căn lành. Vì hiển bày sức thần thông của Như Lai, không ai chiếu sáng lấn được. Vì muốn khiến cho chúng sinh khắp được vào nơi biển rốt ráo. Vì khiến cho đại chúng Bồ Tát của tất cả cõi nước chư Phật, đều đến tụ tập. Vì muốn khai thị môn Phật pháp không thể nghĩ bàn.

Vì hiển bày thập lực của Phật, nên rộng lớn khắp tất cả. Vì dứt trừ nghi hoặc của tất cả chúng sinh. Vì khiến cho vô lượng chúng sinh được thấy Phật. Vì khiến cho vô lượng chúng sinh tu hành pháp lành, kiên cố trụ nơi căn lành. Vì hiển bày sức thần thông của Phật, nên thiên ma ngoại đạo không thể chiếu sáng lấn được. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh khắp vào biển trí huệ rốt ráo. Vì khiến cho tất cả các Bồ Tát trong tất cả cõi nước chư Phật, đều vân tập đến cung trời Ðâu Suất. Vì khai thị tất cả chúng sinh, tu pháp môn của Phật không thể nghĩ bàn, thành tựu quả giác không thể nghĩ bàn. Cho nên trước khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, phải phóng ra đủ thứ quang minh, hiện ra đủ thứ màu sắc, chiếu sáng vô lượng thế giới, tại sao ? Vì đủ thứ nguyên nhân ở trên mà phóng quang minh. Lại có một thứ nguyên nhân, dùng quang sắc nầy, thỉnh các đại Bồ Tát đến tham gia pháp hội, hoặc làm đương chúng cơ, hoặc làm ảnh hưởng chúng.

Bấy giờ, Như Lai dùng tâm bi che khắp, hiển bày nhất thiết trí, trang nghiêm tất cả. Muốn khiến cho chúng sinh trong thế giới nhiều bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ, người chưa tin thì tin, người tin rồi thì tăng trưởng, người đã tăng trưởng thì khiến cho thanh tịnh. Người đã thanh tịnh thì khiến cho thành thục. Người đã thành thục thì khiến cho tâm được điều phục.

Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng tâm đại bi, che phủ hộ khắp tất cả chúng sinh, hiển rõ chỉ bày nhất thiết trí huệ trang nghiêm hết thảy, tức cũng là biểu hiện trí huệ. Trí huệ của Phật, chúng sinh vốn cũng đầy đủ. Bất quá, chúng sinh không thể dùng mà thôi, cho nên chẳng có trang nghiêm. Nếu dùng được, cũng sẽ có sự trang nghiêm.

Phật muốn khiến cho hết thảy chúng sinh trong thế giới nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ, người chẳng tin Phật, khiến cho họ phát tâm bồ đề, sinh ra căn tin. Người đã có căn tin, thì khiến cho tăng trưởng. Người căn lành và tâm tin đã tăng trưởng, thì khiến cho được thanh tịnh (chẳng có tham sân si, chỉ có giới định huệ). Người đã tu hành hạnh thanh tịnh, thì khiến cho họ căn lành thành thục. Người căn lành đã thành thục, thì khiến cho họ tâm được điều phục, chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Quán sát pháp thâm sâu. Đầy đủ vô lượng trí huệ quang minh. Phát sinh tâm rộng lớn vô lượng. Tâm Tát bà nhạ chẳng có thối chuyển, chẳng trái với pháp tánh, chẳng sợ thật tế. Chứng được lý chân thật, đầy đủ tất cả hạnh Ba La Mật. Sinh ra căn lành xuất thế, thảy đều thanh tịnh. Như Bồ Tát Phổ Hiền, đắc được tự tại của Phật.

Quán sát diệu pháp thâm sâu vô thượng, sau đó mới đầy đủ vô lượng trí huệ quang minh, phát sinh tâm bồ đề rộng lớn vô lượng, tâm Tát bà nhạ (nhất thiết trí). Trong trí huệ nầy lại hiện trí huệ, trí huệ nầy vô cùng vô tận, chỉ có tăng trưởng, chẳng có thối lùi. Nó chẳng trái với pháp tánh chân thật. Pháp tánh chân thật tức là không. Phật phóng quang gia bị chúng sinh, khiến cho họ không thể vì pháp tánh chân thật và hư không đồng thể, mà sinh ra lý thể chân thật sợ hãi. Chúng sinh nghe nói lý thể chân thật, trên thật tế gì cũng chẳng có, càng sinh ra sợ hãi mà thối lùi về sau. Nếu chẳng sợ hãi thật tế, thì sẽ chứng được lý thể chân thật. Nếu sợ hãi thì không thể chứng được. Tại sao ? Vì sắp chứng được, mà bị tâm sợ hãi che lấp.

Ðầy đủ tất cả hạnh Ba La Mật (mười Ba La Mật), thì đắc được căn lành xuất thế, thảy đều thanh tịnh. Giống như Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, tu hành Phổ Hiền hạnh nguyện, mà đắc được sức thần thông tự tại của Phật.

Mười Ba La Mật tức là pháp môn thập độ, pháp môn tu hành của Bồ Tát. Nay giải thích sơ lược một phen. Người đã nghe qua đừng ngại nghe thêm lần nữa, Do đó: “Ôn cố mà tri tân”. Biết cái mới là do từ biết cái cũ diễn biến mà ra. Nghe thêm lần nữa, thì sẽ có lợi ích. Ai chưa nghe qua, thì phải chú ý nghe, nghiên cứu tỉ mỉ, thì chắc chắn sẽ đắc được diệu dụng không thể nghĩ bàn.

Những gì là mười Ba La Mật ? Ba La Mật dịch là “đáo bỉ ngạn” (đến bờ kia). Bờ kia tức là Niết Bàn không sinh không diệt. Hiện tại chúng ta trụ ở trong thế giới Ta Bà, tức là bờ bên này. Thế giới Cực Lạc là bờ bên kia. Chúng ta phải đi qua dòng sông phiền não, thì sẽ đến bờ bên kia. Bờ này có các thứ khổ, bờ kia có các thứ vui. Làm thế nào để đến được bờ bên kia ? Tức là phải học tập Phật pháp, Phật pháp tức là “bảo phiệt”, có thể đưa chúng ta từ bờ sinh tử bên này, đi qua biển sinh tử, đạt đến bờ kia không còn sinh tử. Mục đích chúng ta học Phật pháp là phải chấm dứt sinh tử. Ðức Phật Thích Ca vì muốn cầu chấm dứt sinh tử, mà từ bỏ ngôi vua, đến núi Tuyết nghiên cứu đại pháp chấm dứt sinh tử, ở dưới cội bồ đề chứng được pháp chấm dứt sinh tử – pháp mười hai nhân duyên. Phật từ bi chúng sinh, đem pháp đã chứng được, lưu truyền cho đời sau không thiếu một chữ. Chúng ta rất được may mắn, gặp được kim chỉ nam của Phật pháp – Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật. Kinh nầy là vua trong các Kinh. Nghĩa lý nói về Kinh nầy, là vì Bồ Tát mà diễn nói tu hành Bồ Tát đạo như thế nào, cứu chúng sinh lìa khổ được vui như thế nào, hoàn toàn vì người chẳng vì mình. Muốn khiến cho pháp đại thừa tồn tại, thì phải đọc tụng Hoa Nghiêm, lễ Hoa Nghiêm, tu trì Hoa Nghiêm, ấn tống lưu truyền Hoa Nghiêm. Như vậy mới khiến cho chánh pháp trụ thế lâu dài. Bằng không, tức là thời đại mạt pháp. Nay giải thích thập độ Ba La Mật như sau:

– Thứ nhất là bố thí Ba La Mật: Bố thí có tài thí, pháp thí, vô uý thí. Ba sự bố thí nầy, tu đến lúc viên mãn, thì đều đến được bờ kia.

 – Thứ hai là trì giới Ba La Mật: Trì giới chủ yếu là: “Ðừng làm các điều ác, hãy làm các điều lành”, tu thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh.

– Thứ ba là nhẫn nhục Ba La Mật: Nhẫn có sinh nhẫn, pháp nhẫn, vô sinh pháp nhẫn ba thứ nhẫn, tức cũng là không thể nhẫn cũng phải nhẫn, nhẫn không được cũng phải nhẫn. Tóm lại, nhẫn ! Nhẫn ! Nhẫn ! Nhẫn đến chỗ cùng cực, sẽ chứng được cảnh giới vô sinh pháp nhẫn. Chẳng thấy có chút pháp sinh, cũng chẳng thấy có chút pháp diệt, nhẫn thọ nơi tâm. Nghĩ muốn nói cảnh giới nầy, nhưng cũng nói không ra, nghĩ muốn suy tư cảnh giới nầy cũng không suy tư ra được.

– Thứ tư là tinh tấn Ba La Mật: Chẳng những ngày tinh tấn đêm tinh tấn, còn phải thân tinh tấn tâm tinh tấn. Tinh tấn phải có kiên, thành, hằng, ba yếu tố, tinh tấn tâm kiên cố, tâm chí thành, tâm hằng thường.

– Thứ năm là thiền định Ba La Mật: Tiếng Phạn là thiền na, dịch là “tư duy tu”, chẳng những phải tư duy, mà còn phải tu trì. Nếu chỉ có tư duy, mà không thể tu trì, thì cũng giống “khẩu đầu thiền” (thiền ngoài miệng). Hay tu mà không tư duy, thì cũng giống như mù luyện đui, dễ bị tẩu hoả nhập ma, cho nên phải có cả tư duy và tu, mới có sự thành công. Thiền na còn dịch là “tĩnh lự”. Tĩnh là thanh tịnh, lự là tư lự, tư lự thanh tịnh tâm thức. Tĩnh đến cực điểm sẽ hiện ra trí huệ. Do đó:

“Tĩnh cực quang thông đạt”.

– Thứ sáu là Bát Nhã Ba La Mật: Bát Nhã dịch là “trí huệ”. Bát Nhã có văn tự Bát Nhã, quán chiếu Bát Nhã, và thật tướng Bát Nhã. Do văn tự Bát Nhã mà khởi quán chiếu Bát Nhã, do quán chiếu Bát Nhã mà đạt được thật tướng Bát Nhã.

 – Thứ bảy là phương tiện Ba La Mật: Dùng đủ thứ phương tiện, như đại từ phương tiện, đại bi phương tiện, giác ngộ phương tiện, pháp luân phương tiện .v.v… cũng có thể đạt đến bờ kia.

Thứ tám là nguyện Ba La Mật: Phát nguyện siêng tu giới định huệ, phát nguyện tiêu diệt tham sân si, phát nguyện tu trì các hạnh của chư Phật, phát nguyện thành tựu quả vị của chư Phật, phát nguyện hành Bồ Tát đạo, phát nguyện tu các pháp môn. Tu hành không phát nguyện, cũng giống như hoa nở không kết quả.

– Thức chín là lực Ba La Mật: Phải có sức lực để tu trì Phật pháp. Lực gì ? Tư trạch lực, tu tập lực, biến hoá lực .v.v…

– Thứ mười là trí Ba La Mật: Trí huệ nầy là trí huệ xuất thế, chẳng phải trí huệ thế trí biện thông. Bất cứ tu trì pháp môn nào, nếu chẳng có trí huệ, thì không thể có sự thành tựu. Mười thứ Ba La Mật nầy, là pháp môn Bồ Tát phải tu, tức cũng là giáo nghĩa cơ bản của pháp đại thừa.

Lìa khỏi cảnh giới ma, vào cảnh giới của chư Phật. Biết rõ pháp thâm sâu. Đắc được trí huệ khó nghĩ bàn. Thệ nguyện đại thừa, vĩnh viễn không thối chuyển. Thường thấy chư Phật, chưa từng xả lìa. Thành tựu chứng đắc trí huệ, chứng được vô lượng pháp, đầy đủ tạng lực vô biên phước đức. Phát tâm hoan hỉ, vào bậc vô nghi hoặc, lìa ác thanh tịnh, y chiếu nhất thiết trí, thấy pháp chẳng động. Được vào tất cả chúng hội Bồ Tát. Thường sinh vào nhà các Như Lai ba đời.

Ðã lìa khỏi tất cả cảnh giới ma, chứng vào cảnh giới của chư Phật, thấu rõ biết được diệu pháp thâm sâu, hoạch được trí huệ không thể nghĩ bàn. Lại phát thệ nguyện đại thừa:

“Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

Vĩnh viễn tinh tấn, chẳng thối chuyển. Nếu hay tu hành như thế, thì sẽ thấy được mười phương chư Phật đến gia trì, chẳng có lúc nào xả lìa. Do đó mà thành tựu nhất thiết trí, chứng được tất cả pháp, đầy đủ tạng lực vô biên phước đức. Phát tâm đại hoan hỉ, đã vào bậc không nghi hoặc, tức cũng là phá được vô minh, hiển bày pháp tánh vốn có. Lìa khỏi ba đường ác, đắc được thanh tịnh, y chiếu nhất thiết trí huệ để quán sát, đối với các pháp, vắng lặng chẳng động. Ðược vào trong tất cả chúng hội của Bồ Tát, làm bạn lành với Bồ Tát. Thường ở trong nhà của mười phương ba đời chư Phật, làm con của đấng Pháp Vương.

Đức Thế Tôn hiện ra sự trang nghiêm như vậy, đều do quá khứ tích tập các căn lành mà thành tựu. Vì muốn điều phục các chúng sinh.

Phật thị hiện ra đủ thứ cảnh giới trang nghiêm như vậy, đều do thuở quá khứ, đời đời kiếp kiếp tu đủ thứ căn lành, tích tập mà thành tựu. Tại sao phải thị hiện những cảnh giới như vậy ? Vì chúng sinh ở thế giới Ta Bà, rất là cang cường, khó điều khó phục. Vì chẳng dễ gì điều phục, cho nên Phật vẫn muốn điều phục. Những chúng sinh đó, giống như ngựa hoang, chẳng dễ gì điều phục, nhưng Phật Bồ Tát dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, để điều phục họ, khiến cho họ phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng. Chúng sinh giống như các em học sinh nhỏ bướng bỉnh, chẳng nghe thầy cô dạy. Song, thầy cô dùng hết khả năng, tìm biện pháp để dạy dỗ, không thể vì họ khó dạy mà không giáo dục. Phật Bồ Tát đối với chúng sinh cũng giống như thế, tuy chúng sinh cang cường, không nghe lời Phật Bồ Tát, không tin chân lý, nhưng Phật Bồ Tát vẫn cố gắng tìm cách khuyên nói, giáo hoá không mệt mỏi, khiến cho chúng sinh khó điều khó phục, y pháp phụng hành.

Vì khai thị đại oai đức của Như Lai. Vì chiếu rõ tạng trí huệ vô ngại. Vì thị hiện vô biên thắng đức của Như Lai, rất dũng mãnh. Vì hiển bày đại thần thông không thể nghĩ bàn của Như Lai. Dùng sức thần thông, nơi tất cả cõi, hiện ra thân Phật. Vì thị hiện thần thông biến hoá của Như Lai không bờ mé. Vì chí nguyện xưa thảy đều thành tựu viên mãn. Vì hiển bày trí huệ dũng mãnh của Như Lai, có thể đến khắp tất cả. Vì nơi pháp tự tại, thành đấng Pháp Vương. Vì sinh ra môn nhất thiết trí huệ. Vì thị hiện thân thanh tịnh của Như Lai. Vì lại hiện thân tối thù thắng vi diệu. Vì hiển bày chứng được pháp bình đẳng của chư Phật ba đời. Vì khai thị tạng căn lành thanh tịnh. Vì hiển bày sắc đẹp thế gian không gì sánh bằng. Vì hiển bày tướng đầy đủ thập lực, khiến cho người thấy được không nhàm đủ. Vì làm mặt trời thế gian, chiếu soi ba đời.

Vì chúng sinh không biết đại oai đức của Phật, cho nên Bồ Tát muốn khai thị đại oai đức của Phật, tức cũng là vô sở uý của Phật. Phật có bốn đại vô sở uý:

1. Nhất thiết trí vô sở uý.
2. Lậu tận vô sở uý.
3. Thuyết chướng đạo vô sở uý.
4. Thuyết tận khổ đạo vô sở uý.

Chẳng có người nào có oai đức hơn Phật, Phật là bậc Thánh nhân có oai đức nhất. Trí huệ quang minh của Phật, chiếu sáng tạng trí huệ vô ngại. Thị hiện vô biên thắng đức của Phật, giống như lúc lửa ngọn hừng hực. Hiển bày đại thần thông và đại biến hoá không thể nghĩ bàn, dùng sức đại thần thông, ở trong sáu nẻo thị hiện thân của tất cả chư Phật. Lại thị hiện thần thông biến hoá của Phật, chẳng có lúc nào hết được.

Bồ Tát trong quá khứ phát nguyện lực, đều toại tâm mãn nguyện. Tóm lại, phát nguyện thành Phật, sẽ mãn nguyện thành Phật. Phát nguyện thành Bồ Tát, sẽ thành Bồ Tát. Phát nguyện thành chúng sinh, sẽ thành chúng sinh. Hiển bày trí huệ dũng mãnh của Phật, tức cũng là thần thông diệu dụng. Trí huệ nầy, có thể đi đến khắp mười phương thế giới, để giáo hoá tất cả chúng sinh. Thần thông và trí huệ của Phật, đều viên dung vô ngại, đối với tất cả các pháp, rất là tự tại, chứng được nhất thiết trí huệ, chiếu rõ các pháp thật tướng, cho nên trở thành đấng Pháp Vương. Sinh ra môn nhất thiết trí huệ. Phật đầy đủ nhất thiết trí, chúng ta phải y theo tạng Phật pháp, mới có thể vào được môn trí huệ. Thị hiện pháp thân thanh tịnh của Phật, thị hiện diệu thân thù thắng của Phật. Pháp thân là vô tướng, là tận hư không khắp pháp giới, đầy khắp mọi nơi. Diệu thân là có tướng, tức là thân trang nghiêm ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Hiển bày chỉ thị chúng sinh, chứng được pháp bình đẳng của chư Phật ba đời. Do đó: “Là pháp bình đẳng, chẳng có cao thấp, gọi là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề”. Tức cũng là chứng được pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Khai thị chúng sinh, đều có căn lành thành Phật, đều có bản tánh thanh tịnh tạng. Hiển bày sắc thân tốt đẹp nhất, mà trong thế gian không gì sánh bằng, sắc thân đẹp của chư Phật không thể nghĩ bàn. Hiển bày chúng sinh biết Phật đầy đủ tướng mười lực, khiến cho hết thảy chúng sinh, thấy được tướng tốt trang nghiêm của Phật, nhìn mãi không nhàm, chẳng có lúc nào biết đủ nhàm mỏi. Phật là mặt trời của thế gian, chiếu sáng ba đời. Kỳ thật, mặt trời chỉ có thể chiếu một mặt, không thể chiếu mặt sau. Nhưng quang minh của Phật chẳng những chiếu sáng vạn vật, còn có thể chiếu sáng tâm thức.

Tự tại Pháp Vương tất cả công đức, đều từ căn lành thuở xưa hiện ra. Tất cả Bồ Tát nơi tất cả kiếp, tán thán khen ngợi, không thể hết được.

Tại sao tự tại Pháp Vương thành Phật ? Vì có tất cả công đức. Những công đức đó, đều từ lúc tại nhân địa tu Bồ Tát đạo, tích tập căn lành, thành tựu mà hiện ra. Tất cả Bồ Tát, ở trong vô lượng kiếp khen ngợi công đức của chư Phật, chẳng khi nào hết được.

Bấy giờ, Đâu Suất Đà Thiên Vương dâng lên cúng dường Như Lai, các thứ đồ trang nghiêm như vậy rồi, cùng với trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ Thiên tử Đâu Suất, hướng về đức Phật chắp tay, bạch Phật rằng: Thiện lai Thế Tôn ! Thiện lai Thiện Thệ ! Thiện lai Như Lai ! Ứng Chánh Đẳng Giác, xin thương xót mà ngự nơi cung điện nầy.

Lúc đó, Ðâu Suất Thiên Vương, dâng cúng Ðức Phật đủ thứ đồ cúng dường, rất trang nghiêm. Ông ta chuẩn bị hết thảy đồ trang nghiêm rồi, bèn cùng với trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ Thiên tử Ðâu Suất, hướng về Ðức Phật cung kính chắp tay, biểu thị thân nghiệp thanh tịnh. Ðối với Phật mà nói, là biểu thị khẩu nghiệp thanh tịnh, bèn nói: “Thiện lai Ðức Thế Tôn ! Ngài đến thật là đúng thời. Thiện lai Ðấng Thiện Thệ ! Nơi Ngài đến cũng là nơi tốt đẹp. Thiện lai Ðức Như Lai ! (Thừa đạo như thật, Lai thành chánh giác). Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ðó là mười hiệu của Phật. Chúng con chỉ cầu khẩn Ðức Phật, thương xót chúng con ! Ai mẫn chúng con ! Từ bi chúng con ! Mong Phật tiếp thọ sự cúng dường của chúng con, vào ngự trong cung điện của chúng con, vì chúng con nói pháp”.

Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng sự trang nghiêm của Phật mà tự trang nghiêm. Đầy đủ đại oai đức. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, sinh đại hoan hỉ. Vì Tất cả Bồ Tát phát sinh tâm ngộ hiểu thâm sâu. Vì tất cả Thiên tử Đâu Suất Đà tăng thêm lợi ích dục lạc. Vì Thiên Vương Đâu Suất Đà cúng dường thừa sự không nhàm đủ. Vì vô lượng chúng sinh, duyên niệm Phật mà phát tâm. Vì vô lượng chúng sinh, gieo trồng căn lành thấy Phật, phước đức vô tận. Vì hay phát khởi niềm tin thanh tịnh. Vì thấy Phật cúng dường không mong cầu. Vì hết thảy chí nguyện đều thanh tịnh. Vì siêng tích tập căn lành, không giải đãi. Vì phát đại thệ nguyện, cầu nhất thiết trí. Nhận sự thỉnh cầu của Thiên Vương, đức Phật bèn vào Điện Tất Cả Báu Trang Nghiêm. Như ở thế giới nầy, mười phương hết thảy tất cả thế giới, cũng đều như vậy.

Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng sự trang nghiêm của mười phương chư Phật, làm sự trang nghiêm của chính mình, đầy đủ thần lực đại oai đức. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, sinh ra đại hoan hỉ. Vì khiến cho tất cả Bồ Tát, phát tâm tin ngộ hiểu thâm sâu. Vì khiến cho tất cả Thiên Tử Trời Ðâu Suất tăng thêm khoái lạc. Vì khiến cho Thiên Vương Ðâu Suất cúng dường Phật, thừa sự Phật, chẳng nhàm đủ. Vì khiến cho vô lượng chúng sinh trong tâm niệm Phật, tuỳ thuận sự giáo hoá của Phật, mà phát tâm bồ đề. Vì khiến cho vô lượng chúng sinh gieo trồng căn lành gặp Phật, đắc được phước đức vô lượng.

Phật khiến cho tất cả chúng sinh, gieo trồng căn lành, tức là cơ sở thành Phật. Thường phát tâm tin thanh tịnh, cầu đạo vô thượng, thì tương lai sẽ thành tựu quả giác bồ đề. Chúng sinh tu đạo bồ đề, thường thường cúng Phật, thường thường thấy Phật. Tuy nhiên cúng dường Phật, nhưng phải đừng mong cầu gì. Bồ Tát phát nguyện lớn:

“Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

Phát chí nguyện kiên cố nầy, đều đắc được thanh tịnh. Vì cầu vô thượng bồ đề giác đạo, và chân Phật nguồn gốc thanh tịnh của tự tánh. Bồ Tát tu công đức, siêng tích tập căn lành, không màng việc thiện lớn nhỏ đều đi làm, chẳng có lúc nào giải đãi. Do đó:

“Ðừng cho rằng việc thiện nhỏ mà không làm
Ðừng cho rằng việc ác nhỏ mà làm”.

Phải biết việc thiện nhiều, là do việc thiện ít tích tập mà thành, việc ác lớn là do việc ác nhỏ tích tập mà thành.

Người tu đạo, cần tích tập căn lành, thấu triệt thuỷ chung, phải biết căn lành do ít mà thành nhiều. Do đó: “Thái sơn là do các hạt bụi, nên thành lớn; biển cả là do từng giọt nước, nên thành rộng sâu”. Bất cứ tu pháp môn nào, nếu chân thật mà tu hành, khi công phu đến nhà, tự nhiên sẽ thành tựu. Tu hành tối kị nhất là một nóng mười lạnh (tu một ngày nghỉ mười ngày), hoặc chẳng chuyên nhất. Ví như, hôm nay tu hiển giáo, ngày mai tu mật giáo, kết quả không thành tựu gì cả. Nếu chuyên tu một pháp môn, hoặc niệm danh hiệu Phật, hoặc tụng trì Kinh điển, hoặc tham thiền đả toạ, công đáo tự nhiên thành. Phải phát đủ thứ đại thệ nguyện. Tại sao ? Vì cầu nhất thiết trí huệ.

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nhận lời thành tâm thỉnh cầu của Thiên Vương Ðâu Suất, đến cung điện Tất Cả Báu Trang Nghiêm, vì các Thiên chúng, diễn nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật, pháp vi diệu thâm sâu vô thượng. Tình hình ở thế giới Ta Bà là như vậy, trong mười phương hết thảy tất cả thế giới cũng như vậy. Cảnh giới đó thật là không thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, điện Tất Cả Báu Trang Nghiêm, tự nhiên có sự tốt đẹp trang nghiêm vi diệu. Vượt hơn sự trang nghiêm của chư Thiên. Tất cả lưới báu giăng bày che phủ chung quanh. Khắp mưa tất cả mây báu thượng diệu. Khắp mưa tất cả mây đồ trang nghiêm. Khắp mưa tất cả mây y báu. Khắp mưa tất cả mây hương chiên đàn. Khắp mưa tất cả mây hương kiên cố. Khắp mưa tất cả mây lọng báu trang nghiêm. Khắp mưa mây hoa tụ không thể nghĩ bàn. Khắp vang ra âm thanh kĩ nhạc không thể nghĩ bàn. Khen ngợi nhất thiết chủng trí của Như Lai. Và diệu pháp cùng tương ưng. Tất cả các đồ cúng dường như vậy, đều vượt hơn sự cúng dường của chư Thiên.

Lúc đó, cung Trời Ðâu Suất dùng tất cả báu trang nghiêm cung điện. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đến rồi, thì bảo điện tự nhiên hiện ra tất cả sự tốt đẹp trang nghiêm vi diệu. Sự trang nghiêm đó, vượt hơn sự trang nghiêm của tất cả chư Thiên. Có tất cả lưới báu giăng bày che phủ phía trên cung điện. Khắp mưa tất cả mây diệu báu tối thượng. Khắp mưa tất cả mây đồ trang nghiêm. Khắp mưa tất cả mây y báu. Khắp mưa tất cả mây hương chiên đàn, thứ hương nầy đốt lên, hương thơm toả ra khoảng bốn mươi do tuần. Khắp mưa tất cả mây hương kiên cố, thứ hương nầy đốt lên thời gian rất dài, hương thơm toả khắp tận hư không biến pháp giới. Lại khắp mưa tất cả mây lọng báu trang nghiêm. Khắp mưa hoa tụ không thể nghĩ bàn. Khắp vang ra âm thanh kĩ nhạc không thể nghĩ bàn, khen ngợi tán thán nhất thiết chủng trí của Phật, và diệu pháp hoàn toàn tương ưng. Ðủ thứ cảnh giới ở trên, đều do công đức trong quá khứ Phật tích tụ mà thành tựu. Dùng đủ thứ sự cúng dường nầy, để trang nghiêm đạo tràng pháp hội, vượt hơn đồ cúng dường trang nghiêm của chư Thiên.

Bấy giờ, trong cung điện Đâu Suất, kỹ nhạc ca hát vang lên không ngừng. Nhờ thần lực của Phật, khiến cho Thiên Vương Đâu Suất tâm chẳng động loạn, căn lành thuở xưa đều được viên mãn. Vô lượng pháp lành tăng thêm kiên cố, tăng trưởng niềm tin thanh tịnh, khởi đại tinh tấn, sinh đại hoan hỉ. Chí thích thanh tịnh thâm sâu, phát tâm bồ đề, niệm pháp không dứt, tổng trì không quên.

Lúc đó, trong cung điện Trời Ðâu Suất, có đủ thứ kĩ nhạc, âm nhạc, ca hát diễn tấu, đủ thứ tiết mục, trình diễn không ngừng nghỉ. Nhờ sự gia trì của Ðức Phật, khiến cho Thiên Vương Ðâu Suất hân thưởng cảnh giới nầy, tâm có định lực, chẳng có động loạn. Tức cũng là chẳng bị cảnh giới làm lay chuyển. Căn lành quá khứ của Vua Trời Ðâu Suất tu hành, đã viên mãn thành thục, cho nên cảm ứng được Phật đến vì họ nói pháp.

Các vị ! Các vị đến Chùa Kim Sơn nghe Kinh, nghe pháp, cũng là nhờ quá khứ đã gieo trồng căn lành, hiện tại đã thành thục, cho nên đến được Chùa Kim Sơn. Nếu căn lành chẳng thành thục, thì muốn đến Chùa Kim Sơn cũng đến không được. Tại sao ? Vì chưa thành thục ! Căn lành chẳng đầy đủ ! Giống như trước đây mấy hôm, có vị Thầy đến, ông ta có đệ tử bị bệnh ung thư. Muốn đến Chùa Kim Sơn thọ giới Tỳ Kheo, thỉnh đại chúng trợ giúp ông ta hoàn thành tâm nguyện. Bất hạnh thay tối hôm qua đã qua đời, đáng tiếc chưa thọ được giới Cụ Túc. Do đó có thế chứng minh, người căn lành chưa thành thục, thì chẳng vào được cửa Chùa Kim Sơn.

Thiên Vương Ðâu Suất đối với tám vạn bốn ngàn pháp lành, đều sinh tâm kiên cố, niềm tin thanh tịnh tăng trưởng. Sinh tâm đại tinh tấn, sinh tâm đại hoan hỉ, phát chí nguyện thanh tịnh thâm sâu, đắc được khoái lạc vô thượng. Phát đại tâm bồ đề kiên cố, cầu được giác đạo vô thượng. Tâm niệm pháp, vĩnh viễn không gián đoạn. Tâm tổng trì vĩnh viễn không quên.

Chúng ta người tu đạo, thời thời tinh tấn, khắc khắc dụng công, một thời một khắc cũng không giải đãi, không thể “Một ngày nóng, mười ngày lạnh”. Nếu như tinh tấn một ngày, nghỉ mười ngày, thì không thể nào thành tựu. Quan trọng nhất là phải nhẫn chịu. Nhẫn chịu tức là nhẫn đói, nhẫn khát, nhẫn lạnh, nhẫn nóng, chịu gió, chịu mưa .v.v… Tóm lại, phải nhẫn chịu những gì người khác không nhẫn chịu được. Không nhẫn chịu được thì không thể qua cửa ải được, công phu tham thiền đả toạ sẽ chẳng tương ưng, trí huệ cũng chẳng hiện tiền. Cho nên nhẫn là pháp môn quan trọng nhất, chẳng có tâm nhẫn thì không thể thành đạo.

Các vị ! Nên nhớ điểm nầy, sự nóng giận nổi lên thì phải nhẫn. Phiền não nổi lên cũng phải nhẫn. Nhẫn chịu được thì chẳng có vô minh. Do đó, tất cả mọi thời, tất cả mọi nơi, đều phải nhẫn. Cổ nhân có nói:

“Nhỏ không nhẫn thì đại mưu loạn”.

Bao nhiêu người không có công phu hàm dưỡng (nhẫn), thì trở thành thiên hạ đại loạn. Do đó:

“Nhẫn được một lúc
Tránh được một ngày buồn”.

Ðây là nói về sự kinh nghiệm, có thể làm châm ngôn.

Bấy giờ, Thiên Vương Đâu Suất Đà, nương oai lực của đức Phật, liền tự nhớ lại căn lành đã gieo trồng trong quá khứ ở chỗ các đức Phật, mà nói kệ rằng:

Lúc đó, Thiên Vương Ðâu Suất, nương đại oai thần lực gia trì của chư Phật, lập tức nhớ lại trong quá khứ, ở trong đạo tràng của chư Phật, đã gieo trồng căn lành. Ðã từng cúng dường vị Phật đó, thậm chí cúng dường vị Phật ở thế giới đó, thảy đều nghĩ nhớ lại hết. Vị Phật nào đã từng đến cung trời Ðâu Suất thuyết pháp, đều nhớ lại hết. Lúc đó, Thiên Vương Ðâu Suất dùng kệ, để nói rõ danh hiệu của chư Phật đến thuyết pháp.

Xưa có Như Lai Vô Ngại Nguyệt
Trong những cát tường thù thắng nhất
Phật từng vào điện Trang Nghiêm nầy
Cho nên chốn nầy cát tường nhất.

Trong quá khứ có vị Phật, danh hiệu là Phật Vô Ngại Nguyệt. Vị Phật đó, trong những sự cát tường, thì Phật cát tường thù thắng nhất. Vị Phật đó, đã từng vào cung điện Trang Nghiêm nầy, vì đại chúng nói diệu pháp Hoa Nghiêm. Do nguyên nhân đó, cho nên điện Trang Nghiêm nầy, là đạo tràng cát tường nhất trong những sự cát tường.

Tôi nhớ tại Hương Cảng núi Ðại Tự, kiến lập Từ Hưng Thiền Tự, khi khoá lễ lạc thành (ngày 16 tháng 03 âm lịch) khai quang tượng Bổn Sư Thích Ca, lại lạy ba ngày Sám Ðại Bi, chuẩn bị một trăm dãy bàn (mỗi bàn mười hai vị) để chiêu đãi thiện nam tín nữ, nhưng thời tiết chẳng tốt, ngày nào trời cũng mưa, đi đứng chẳng phương tiện.

Buổi tối ngày 15/03, có người nói với tôi:

– “Sư Phụ ! Trời mưa to, ngày mai sẽ chẳng có đông người đến, Thầy chuẩn bị bàn nhiều như thế, biết làm sao ?”

– Tôi nói với anh ta: “Ðừng lo, tự có người đến tham gia, đừng lo dư bàn”. Vừa nói dứt lời, một lát sau trời hết mưa, nhìn thấy đất ngập nước chẳng bao lâu sẽ khô.

Sáng ngày sau (ngày 16/03), tượng Phật khai quang, trời tuy âm u nhưng không mưa. Tín đồ Hương Cảng từ sáng sớm ngồi thuyền đến núi Ðại Tự, tham gia pháp hội, khi đúng giờ trưa, ước có hơn một ngàn người đến, một trăm dãy bàn đã chuẩn bị, đã ngồi hết chín mươi sáu dãy bàn. Còn dư lại bốn dãy bàn, ngày sau những người ở trong Chùa đông đảo, đều dùng hết sạch thức ăn, chẳng còn gì thừa lại. Tại sao ? Vì tôi đã tự tay làm việc nầy, không cho thức ăn thừa lại. Cho nên có sự cảm ứng như thế.

Tại sao hôm nay tôi nói việc nầy ? Vì hôm qua là ngày Phật Ðản, các vị làm thức ăn quá nhiều, chẳng ăn hết, vứt nó vào thùng rác, đó là tổn phước. Nếu tôi làm việc nầy, thì sẽ không thừa nhiều như thế, có thể không nhiều không ít, rất vừa đủ, thảy đều hoan hỉ. Do đó, hôm nay nhớ đến việc ở núi Ðại Tự, nói cho các vị nghe.

Xưa có Như Lai hiệu Quảng Trí
Trong những cát tường thù thắng nhất
Phật từng vào điện Sắc Vàng nầy
Cho nên chốn nầy cát tường nhất.

Thuở xưa có vị Phật, danh hiệu là Phật Quảng Trí. Vị Phật đó, ở trong những sự cát tường, thì Phật cát tường thù thắng nhất. Vị Phật đó đã từng đến điện Sắc Vàng nầy, vì đại chúng nói diệu pháp Hoa Nghiêm. Bởi nhân duyên đó, cho nên điện nầy là đạo tràng cát tường nhất.

Xưa có Như Lai hiệu Phổ Nhãn
Trong những cát tường thù thắng nhất
Phật từng vào điện Liên Hoa nầy
Cho nên chốn nầy cát tường nhất.

Thuở xưa có vị Phật, danh hiệu là Phật Phổ Nhãn. Vị Phật đó, trong những sự cát tường, thì Phật cát tường thù thắng nhất. Vị Phật đó, đã từng đến điện Liên Hoa nầy, vì đại chúng diễn nói diệu pháp Hoa Nghiêm. Bởi nhân duyên đó, cho nên điện nầy là đạo tràng cát tường nhất.

Xưa có Như Lai hiệu San Hô
Trong những cát tường thù thắng nhất
Phật từng vào điện Bảo Tạng nầy
Cho nên chốn nầy cát tường nhất.

Thuở xưa có vị Phật, danh hiệu là Phật San Hô. Vị Phật đó, trong những sự cát tường, thì Phật cát tường thù thắng nhất. Vị Phật đó, đã từng đến điện Bảo Tạng nầy, vì đại chúng diễn nói diệu pháp Hoa Nghiêm. Bởi nhân duyên đó, cho nên điện nầy là đạo tràng cát tường nhất.

Xưa có Như Lai Luân Sư Tử
Trong những cát tường thù thắng nhất
Phật từng vào điện Sơn Vương nầy
Cho nên chốn nầy cát tường nhất.

Thuở xưa có vị Phật, danh hiệu là Phật Luân Sư Tử. Vị Phật đó, trong những sự cát tường, thì Phật cát tường thù thắng nhất. Vị Phật đó, đã từng đến điện Sơn Vương nầy, vì đại chúng diễn nói diệu pháp Hoa Nghiêm. Bởi nhân duyên đó, cho nên điện nầy là đạo tràng cát tường nhất.

Xưa có Như Lai hiệu Nhựt Chiếu
Trong những cát tường thù thắng nhất
Phật từng vào điện Chúng Hoa nầy
Cho nên chốn nầy cát tường nhất.

Thuở xưa có vị Phật, danh hiệu là Phật Nhựt Chiếu. Vị Phật đó, trong những sự cát tường, thì Phật cát tường thù thắng nhất. Vị Phật đó, đã từng đến điện Chúng Hoa nầy, vì đại chúng diễn nói diệu pháp Hoa Nghiêm. Bởi nhân duyên đó, cho nên điện nầy là đạo tràng cát tường nhất.

Xưa có Như Lai Vô Biên Quang
Trong những cát tường thù thắng nhất
Phật từng vào điện Thụ Nghiêm nầy
Cho nên chốn nầy cát tường nhất.

Thuở xưa có vị Phật, danh hiệu là Phật Vô Biên Quang. Vị Phật đó, trong những sự cát tường, thì Phật cát tường thù thắng nhất. Vị Phật đó, đã từng đến điện Thụ Nghiêm nầy, vì đại chúng diễn nói diệu pháp Hoa Nghiêm. Bởi nhân duyên đó, cho nên điện nầy là đạo tràng cát tường nhất.

Xưa có Như Lai hiệu Pháp Tràng
Trong những cát tường thù thắng nhất
Phật từng vào điện Bảo Cung nầy
Cho nên chốn nầy cát tường nhất.

Thuở xưa có vị Phật, danh hiệu là Phật Pháp Tràng. Vị Phật đó, trong những sự cát tường, thì Phật cát tường thù thắng nhất. Vị Phật đó, đã từng đến điện Bảo Cung nầy, vì đại chúng diễn nói diệu pháp Hoa Nghiêm. Bởi nhân duyên đó, cho nên điện nầy là đạo tràng cát tường nhất.

Xưa có Như Lai hiệu Trí Đăng
Trong những cát tường thù thắng nhất
Phật từng vào điện Hương Sơn nầy
Cho nên chốn nầy cát tường nhất.

Thuở xưa có vị Phật, danh hiệu là Phật Trí Ðăng. Vị Phật đó, trong những sự cát tường, thì Phật cát tường thù thắng nhất. Vị Phật đó, đã từng đến điện Hương Sơn nầy, vì đại chúng diễn nói diệu pháp Hoa Nghiêm. Bởi nhân duyên đó, cho nên điện nầy là đạo tràng cát tường nhất.

Xưa có Như Lai Công Đức Quang
Trong những cát tường thù thắng nhất
Phật từng vào điện Ma Ni nầy
Cho nên chốn nầy cát tường nhất.

Thuở xưa có vị Phật, danh hiệu là Phật Công Ðức Quang. Vị Phật đó, trong những sự cát tường, thì Phật cát tường thù thắng nhất. Vị Phật đó, đã từng đến điện Ma Ni nầy, vì đại chúng diễn nói diệu pháp Hoa Nghiêm. Bởi nhân duyên đó, cho nên điện nầy là đạo tràng cát tường nhất.

Như ở thế giới nầy, Thiên Vương Ðâu Suất nương thần lực của đức Phật, dùng kệ khen ngợi chư Phật quá khứ. Các Thiên Vương Đâu Suất trong mười phương tất cả thế giới, cũng đều khen ngợi công đức của Phật như vậy.

Giống như ở thế giới Ta Bà, Thiên Vương Ðâu Suất, nương đại oai thần lực gia trì của đức Phật, dùng kệ để tán thán khen ngợi chư Phật quá khứ, ở tại điện Bảo Trang Nghiêm nầy nói pháp. Ở trong mười phương tất cả thế giới, hết thảy Thiên Vương Ðâu Suất, cũng đều cúng dường Phật, thừa sự nơi Phật, khen ngợi công đức của Phật.

Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại điện Tất Cả Báu Trang Nghiêm, ngồi kiết già trên toà sư tử Ma Ni Bảo Tạng.

Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong điện Tất Cả Báu Trang Nghiêm, ngồi kiết già trên Toà Sư Tử Ma Ni Bảo Tạng. Tướng ngồi kiết già, hay hàng phục được ma, rất dễ nhập định, sinh ra tất cả sức tam muội. Khi chư Phật nói pháp thì đều ngồi kiết già, còn gọi là ngồi tư thế cát tường.

Pháp thân thanh tịnh, diệu dụng tự tại, đồng một cảnh giới với chư Phật ba đời. Cùng vào một tánh với tất cả chư Phật. Mắt Phật thấu suốt, thấy tất cả pháp, đều không chướng ngại. Có oai lực rất lớn, du khắp pháp giới, chưa từng ngừng nghỉ. Đầy đủ đại thần thông, tuỳ theo nơi nào có chúng sinh có thể hoá độ được, thảy đều đi đến. Dùng sự trang nghiêm vô ngại của tất cả chư Phật, mà trang nghiêm thân mình, khéo biết thời cơ, vì chúng sinh nói pháp.

Pháp thân của Phật, rất thanh tịnh như hư không. Tất cả thần thông diệu dụng nhậm vận tự tại, đồng với ba đời chư Phật, đồng một cảnh giới, trụ nơi bậc nhất thiết trí huệ, để giáo hoá chúng sinh. Cùng vào một Phật tánh với tất cả chư Phật. Do đó:

“Ba đời mười phương Phật
Đều cùng một pháp thân”.

Tất cả chư Phật tức là một vị Phật, một vị Phật tức là tất cả chư Phật. Tại sao ? Vì Phật Phật đồng thể, Phật Phật đạo đồng, Phật Phật bình đẳng. Mắt Phật như ngàn mặt trời, thấu rõ thật tướng lý thể của tất cả các pháp, cho nên thấy tất cả pháp đều chẳng có chướng ngại.

Chúng ta chúng sinh cũng đầy đủ ngũ nhãn (Thiên nhãn, nhục nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, Phật nhãn). Nhưng vì bị vô minh phiền não che đậy, cho nên chẳng hiện. Nếu chân thật tu hành, mới có thể chứng được cảnh giới ngũ nhãn. Người khai mở ngũ nhãn cũng còn phiền não: Trên thì thấy sự sung sướng của chư Thiên, dưới thì thấy sự khổ sở dưới địa ngục. Nếu người không đủ định lực, thì dễ bị cảnh giới làm tâm giao động, mất đi thời gian tu đạo.

Có bài kệ nói về ngũ nhãn như sau:

“Thiên nhãn thông phi ngại
Nhục nhãn ngại phi thông
Pháp nhãn duy quán tục
Huệ nhãn liễu chân không
Phật nhãn như Thiên nhật
Chiếu dị thể hoàn đồng
Viên minh pháp giới cảnh
Vô xứ bất hàm dung”.

Cho nên nói mắt Phật thấu rõ, giống như ánh sáng ngàn mặt trời. Chỗ chiếu đến tuy khác nhau, nhưng bản thể là một. Khai mở mắt trí huệ của Phật, sẽ thấy được tất cả các pháp, đều chẳng có chướng ngại. Người khai mở pháp nhãn, sẽ quán sát được tất cả mọi nơi, Tam Tạng mười hai bộ Kinh điển, nhìn một cái sẽ biết rõ. Phật tụng Kinh của Phật, Bồ Tát tụng Kinh của Bồ Tát, Duyên Giác tụng Kinh của Duyên Giác, Thanh Văn tụng Kinh của Thanh Văn. Mỗi người đều đều có sở tu, đều có sở học. Chẳng phải nói đến được quả vị Phật, thì không tu không chứng. Phật vẫn thường tụng Kinh, bất quá phương pháp tụng Kinh của Phật với chúng ta khác nhau. Phật dùng mắt Phật xem, thì lập tức từ “Như thị ngã văn”, tụng đến “Tín thọ phụng hành”. Thời gian nháy mắt sẽ tụng xong một bộ kinh điển.

Chư Phật đầy đủ sức đại oai đức, hay du khắp pháp giới, tại sao ? Vì phải cứu chúng sinh trong biển khổ. Phật có tâm thương xót, cho nên chẳng có lúc nào ngừng nghỉ. Phật Bồ Tát đều dùng sức thần thông biến hoá, thảy đều đi đến khắp mọi nơi, khiến cho chúng sinh được độ lìa khổ được vui.

Bồ Tát dùng sự trang nghiêm vô ngại của chư Phật, để tự trang nghiêm thân mình. Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, khéo quán sát thời cơ, khéo biết thời cơ, khéo dùng thời cơ, không bỏ lỡ cơ hội nói pháp. Tức cũng là quán sát căn cơ, vì người nói pháp. Thấy người căn tánh đại thừa, thì nói pháp đại thừa, lục độ vạn hạnh. Thấy người căn tánh tiểu thừa, thì vì họ nói pháp tiểu thừa, pháp bốn Diệu Ðế, hoặc pháp Mười Hai Nhân Duyên. Ba thứ pháp nầy là tu đạo cơ bản, giống như kiền ba chân, không thể thiếu một. Tu đạo không thể dụng sự cảm tình, càng không thể dụng sự ý khí. Ðều là kim khẩu của Phật nói, hà tất phân ra đại thừa tiểu thừa. Tu đạo phải lựa chọn pháp hợp với mình để tu, đừng phân biệt đó đây, như thế sẽ mất đi chân tinh thần của sự tu đạo, cầu trí huệ của Phật, nối tiếp huệ mạng của Phật.

Bất khả thuyết các chúng Bồ Tát, đều từ các phương khác, đủ thứ cõi nước cùng nhau tụ tập. Chúng hội thanh tịnh. Pháp thân không hai. Không chỗ y chỉ, mà có thể tự tại sinh khởi hạnh môn của Phật.

Có bất khả thuyết bất khả thuyết các chúng Bồ Tát, mỗi vị Bồ Tát, đều từ phương khác đủ thứ cõi nước khác nhau, mà đến thế giới Ta Bà cung trời Ðâu Suất, tụ tập với nhau tại pháp hội Hoa Nghiêm, lắng nghe Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn nói pháp lớn Hoa Nghiêm. Ðại chúng pháp hội rất thanh tịnh. Pháp thân không hai, đồng một thể với Phật. Không chỗ nương tựa, mà được tự tại, sinh khởi tất cả hạnh môn của Phật tu.

Đức Phật ngự trên toà sư tử rồi, ở trong cung điện tự nhiên có vô lượng vô số sự thù thắng đặc biệt tốt đẹp hiện ra, vượt hơn đồ cúng dường của chư Thiên. Đó là: Hoa, tràng hoa, y phục, hương thoa, hương bột, lọng báu, tràng phan, kỹ nhạc, ca tán. Những việc như vậy, mỗi mỗi đều nhiều không thể tính đếm được. Dùng tâm rộng lớn, cung kính tôn trọng, cúng dường đức Phật.

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngự trên toà sư tử rồi, ở trong Ðiện Bảo Trang Nghiêm, tự nhiên có vô lượng vô số đồ cúng dường thù thắng đặc biệt tốt đẹp. Những đồ cúng dường đó hơn hẳn đồ cúng dường của chư Thiên. Đó là: Hoa báu, man báu, y phục báu, hương thoa, hương bột, lọng báu, tràng báu, phan báu, kỹ nhạc, ca tụng, tán thán .v.v… Ðủ thứ những sự như thế, đều rất nhiều nói không hết được. Mỗi chúng sinh dùng tâm rộng lớn, cung kính Ðức Phật, tôn trọng Ðức Phật, cúng dường Ðức Phật.

Tất cả trời Đâu Suất trong mười phương, cũng đều như thế.

Chẳng những Ðiện Bảo Trang Nghiêm cõi trời Ðâu Suất ở thế giới Ta Bà, là như thế, mà tất cả Ðiện Bảo Trang Nghiêm cõi trời Ðâu Suất trong mười phương, cũng tình hình như vậy, rất trang nghiêm, rất thanh tịnh.