Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

 III. TẤT THÀNH CHÁNH GIÁC ĐỆ THẤT

KINH VĂN:

Phật cáo A Nan: – Nhĩ thời Pháp Tạng tỳ kheo thuyết thử nguyện dĩ, dĩ kệ tụng viết:

Ngã kiến siêu thế chí
Tất chí vô thượng đạo
Tư nguyện bất mãn túc
Thệ bất thành Đẳng Giác
Phục vi đại thí chủ
Phổ tế chư cùng khổ
Linh bỉ chư quần sanh,
Trường dạ vô ưu não,
Xuất sanh chúng thiện căn,
Thành tựu Bồ Đề quả.
Ngã nhược thành Chánh Giác
Lập danh Vô Lượng Thọ
Chúng sinh văn thử hiệu,
Câu lai ngã sát trung,
Như Phật kim sắc thân,
Diệu tướng tất viên mãn.
Diệc dĩ đại bi tâm,
Lợi ích chư quần phẩm, 
Ly dục thâm chánh niệm,
Tịnh tuệ tu phạm hạnh.

VIỆT DỊCH:

Đức Phật bảo A Nan: – Khi ấy, tỳ kheo Pháp Tạng nói lời nguyện ấy xong, dùng kệ tụng rằng:

Con lập chí siêu thế
Ắt đạt vô thượng đạo
Chẳng trọn vẹn nguyện ấy
Thề chẳng thành Đẳng Giác
Lại làm đại thí chủ
Phổ tế các cùng khổ
Khiến các quần sanh ấy
Đêm dài chẳng ưu não
Xuất sanh các thiện căn
Thành tựu Bồ Đề quả
Nếu con thành Chánh Giác
Lấy hiệu Vô Lượng Thọ
Chúng sinh nghe hiệu ấy
Đều sinh trong nước con
Thân sắc vàng như Phật
Diệu tướng đều viên mãn
Cũng dùng tâm đại bi
Lợi ích các quần phẩm 
Ly dục, chánh niệm sâu
Tịnh tuệ tu phạm hạnh

GIẢNG:

Tỳ kheo Pháp Tạng ở chỗ Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai phát bốn mươi tám nguyện xong liền ở trước Phật nói Kệ tụng, nhắc lại các hạnh nguyện của mình và thỉnh Phật chứng minh. Do đại nguyện của ngài chân thành, sâu rộng nên ứng thời cảm đắc mưa hoa, đất chấn động, trên không trung có tiếng khen rằng: “Nhất định thành Phật”. Đây là nội dung của phẩm thứ bảy này.

Nhĩ thờilà lúc ấy; “Kiến” là kiến lập; “siêu thế chí”: Chữ “chí” là chí nguyện; chí nguyện của ngài kiến lập ra siêu thế. Đại đức xưa, đối với hai chữ “siêu thế” này có vài cách nói khác nhau: Như vào thời đại nhà Tùy có Pháp sư Huệ viễn (Tịnh Tông Sơ Tổ chúng ta là Đại Sư Huệ Viễn, vào thời Đông Tấn. Tên gọi của hai ngài giống nhau nên lịch sử gọi Pháp Sư Huệ Viễn triều nhà Tùy là tiểu Huệ Viễn). Ngài có chú giải Kinh Vô Lượng Thọ gọi là Tịnh Ảnh Sớ, Tịnh Ảnh là tên chùa lúc đó ngài ở. Người đời sau tôn kính ngài, không gọi danh xưng mà gọi tên chùa của ngài, gọi ngài là Tịnh Ảnh Đại Sư. Ngài dùng bản Ngụy dịch, tức bản của Khương Tăng Khải (lưu thông rất thịnh hành ở Trung Quốc) cho rằng các nguyện: Quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng và chư Phật khen ngợi ghi trong bản Ngụy dịch là những nguyện thuộc về Pháp Thân, nguyện cõi nước thanh tịnh và nguyện cõi nước trang nghiêm là Tịnh Độ nguyện. Ngài Tịnh Ảnh chỉ coi năm nguyện này là siêu xuất thế gian. Ngài Cảnh Hưng cũng nghĩ như vậy. Các vị Nghĩa Tịch, Vọng Tây lại cho rằng cả bốn mươi tám nguyện đều là nguyện siêu thế. Thuyết sau rất đúng.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Thực tế, có vị Bồ Tát nào mà không cầu Pháp Thân, không cầu sinh Tịnh Độ? Sở dĩ ngài Pháp Tạng chỗ này nói phát nguyện của ngài là “siêu thế”, bởi Bồ Tát phát nguyện tu hành cho dù chứng được quả vị Viên Giáo Sơ Trụ, còn phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp mới có thể chứng được Pháp Thân viên mãn. Thế nhưng, đối với pháp môn Tịnh Độ, người được vãng sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc chỉ trong thời gian rất ngắn thì viên mãn nguyện vọng: Pháp Thân, Tịnh Độ đều hiện tiền, so với Bồ Tát Viên Giáo Sơ Trụ thì Tịnh Độ thù thắng hơn nhiều. Cho nên, hai chữ “siêu thế” này chính là tán thán Tây Phương Tịnh Độ, tán thán “Đới nghiệp vãng sinh”, tán thán “bình đẳng thành Phật”. Phương pháp của A Di Đà Phật là bình đẳng, quả đức cũng bình đẳng, thật không thể nghĩ bàn!

Cho nên, thời xưa rất nhiều đại đức như ngài Nghĩa Tịch, ngài Vọng Tây v.v… cho rằng tỳ kheo Pháp Tạng phát ra bốn mươi tám nguyện, thảy đều là “siêu thế nguyện”, mỗi nguyện đều phổ độ pháp giới tất cả chúng sinh. Thuyết này rất có đạo lý!

Sách Bình Giải nhận xét:

Sư Tổ chúng ta (chỉ ngài Thiện Đạo) bảo bốn mươi tám nguyện chẳng thể nghĩ bàn, cũng gọi là thệ nguyện vô ngại. Người đời cho rằng bốn mươi tám nguyện ấy mỗi nguyện riêng rẽ giống như những trái dẻ, trái hồng đặt cạnh nhau, đấy đều là những kiến giải hạn hẹp chẳng dung thông mà thôi! Chẳng phải như vậy! Ví như một bức gấm Tứ Xuyên khéo dệt thành hoa, quả, cành, lá giống như là có rễ, thân, cành lá sai khác, nhưng thật sự chỉ là một bức gấm mà thôi. Phật nguyện cũng vậy, tuy có đến bốn mươi tám nguyện, nhưng chỉ là do một trí Chánh Giác thiện xảo trang nghiêm nên gọi là thệ nguyện vô ngại. Bốn mươi tám nguyện còn được gọi là nguyện chẳng thể nghĩ bàn, vì mỗi nguyện trong bốn mươi tám nguyện  đều đầy đủ công đức chẳng thể nghĩ bàn. Các nguyện dung nhập lẫn nhau, không bị chướng cách, nên gọi là vô ngại”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Có thể nói bốn mươi tám nguyện cùng với Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một là tất cả, tất cả là một”, trùng trùng vô tận, là một ý nghĩa. Việc này giống như ráp đồ hình, thiếu một miếng thì không viên mãn. Cho nên, bốn mươi tám nguyện đích thật là hỗ tương lẫn nhau, mỗi nguyện đều là hoằng nguyện siêu thế.

Trong Vãng Sanh Luận nói: “Tam chủng trang nghiêm, nhập nhất pháp cú. Nhất pháp cú giả chân thật trí tuệ vô vi Pháp Thân” (Ba thứ trang nghiêm vào trong một pháp cú, một pháp cú là “chân thật trí tuệ vô vi Pháp Thân”). Bốn mươi tám nguyện đích thật là tròn đầy viên mãn, hàm nhiếp ba loại trang nghiêm: Đạo sư trang nghiêm, đồng học trang nghiêm, hoàn cảnh y báo trang nghiêm. Đạo sư là A Di Đà Phật; đồng học là người của mười phương thế giới vãng sinh; bốn độ ba bậc chín phẩm, người của mỗi phẩm vị vãng sinh đều không thể nghĩ bàn! Nói theo cách hiện tại: Thầy giáo trang nghiêm, học trò trang nghiêm, trường học trang nghiêm. Chữ “trang nghiêm” ở đây có nghĩa là hoàn mỹ, không có một mảy mai khiếm khuyết.

Trong quyển Pháp Sự Tán, Tổ Thiện Đạo còn bảo: “Tuy hoằng nguyện nhiều đến bốn mươi tám nguyện, nhưng chỉ để nói lên Niệm Phật là việc thiết yếu nhất”. Hơn nữa: “Tiếng, chữ đều là thật Tướng”, nên một câu danh hiệu “Nam mô A Di Đà Phật” chính là bản thể của Pháp Thân, chính là viên viên quả hải, bao gồm cả đức hiệu Pháp Thân của mười phương ba đời tất cả chư Phật, gồm cả chúng ta.

Hoàng Niệm lão nêu ra nhận xét:”Bốn mươi tám nguyện chỉ nhằm đề cao Niệm Phật. Nguyện nào cũng bao hàm quả đức của Phật, nguyện nào cũng phơi bày trọn vẹn vô vi Pháp Thân, có thể nói nguyện nào cũng là nguyện Pháp Thân cả. Các nguyện dung nhập lẫn nhau không bị cách ngại, nguyện nào cũng chứa đựng vô lượng nguyện, thù thắng vô thượng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng hề có hạn lượng. Nói cách khác, cái được gọi là “bốn mươi tám nguyện” ở đây cũng chỉ là giả danh nhằm tùy thuận chúng sinh, chớ thật ra bổn nguyện vô lượng. Hơn nữa, bổn nguyện tuy số đến vô lượng nhưng rốt ráo chỉ là một pháp cú mà thôi”.

Hòa Thượng Tịnh Không nói: Niệm A Di Đà Phật chính là niệm tánh đức viên mãn, tu đức viên mãn; tánh, tu không hai.

– Ngày nay chúng ta niệm Phật có hàm nhiếp tánh đức, tu đức viên mãn tròn đầy hay không?

-Nếu không thể, cho dù niệm Phật cũng không thể vãng sinh. Nếu đích thật viên mãn hàm nhiếp, vậy thì chắc chắn được vãng sinh Tịnh Độ.

– Thế nào là hàm nhiếp? Thế nào là không hàm nhiếp?

Trên Kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí dạy chúng ta niệm Phật: “Gom nhiếp sáu căn; tịnh niệm liên tục”. Đây là tánh đức, tu đức viên mãn hàm nhiếp. Lý thể là tánh đức, công hạnh là tu đức. Tánh đức tức là tu đức, tu đức chính là tánh đức. Diệu tuyệt cái pháp môn này!

Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát nói được rõ ràng hơn: “Niệm Phật phải không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”, cũng chính là “lão thật Niệm Phật” thì tu đức cùng tánh đức chắc chắn liền tương ưng.

Ngã kiến siêu thế chí” (Con lập chí siêu thế): Chữ “Siêu thế” cũng được các vị chú giải kinh giải thích khác nhau. Ngài Nghĩa Tịch giảng “Siêu thế” là không còn ở trong những địa vị thuộc thế gian, nhưng chưa chứng Sơ Địa, nên gọi là “Siêu Thế”. Ngài Cảnh Hưng bảo: “Siêu thế” là đã viên mãn địa vị Thập Hướng. Cả hai thuyết này đều bảo ngài Pháp Tạng khi ấy vẫn chưa chứng được Sơ Địa. Các vị Thiện Đạo, Đàm Loan v.v… lại có kiến giải khác hẳn. Đại Sư Đàm Loan bảo:

Pháp Tạng Bồ Tát ở nơi đức Thế Gian Tự Tại Vương Phật ngộ được Vô Sanh Pháp Nhẫn, địa vị của ngài ngay khi ấy là Thánh Chủng Tánh (theo Kinh Anh Lạc, Thánh Chủng Tánh là loại thứ bốn trong sáu chủng tánh. Thánh Chủng Tánh là Thập Địa Bồ Tát). Từ trong tánh ấy phát ra bốn mươi tám nguyện.

Thiện Đạo Đại Sư cũng cho rằng ngài Pháp Tạng khi phát tâm đã thuộc hàng Thập Địa Bồ Tát. Như vậy, “siêu thế” là vượt khỏi địa vị Địa Tiền (quan điểm này coi những giai vị (địa vị chứng đắc) trước khi chứng được Sơ Địa đều thuộc về thế gian cả). Nói cách khác, Sơ Địa trở lên mới gọi là “Siêu thế”, tiêu chuẩn này cao! Địa Tiền là: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng.

Hơn nữa, nguyện của ngài Pháp Tạng không những chỉ vượt trội nguyện của tất cả người trong tam thừa mà còn thù thắng hơn nguyện của chư Phật. Kinh nói: Pháp Tạng Bồ Tát trước khi phát tâm đã nói: “Ngã lập thị nguyện, đô thắng vô số chư Phật quốc giả” (Tôi lập nguyện này đều thù thắng hơn vô số các cõi nước Phật). Trong phẩm “Quốc Giới Nghiêm Tịnh, đệ thập nhất”, phần nói về sở nguyện thành tựu của Kinh Vô Lượng Thọ cũng chép: “Vi diệu kỳ lệ, thanh tịnh trang nghiêm, siêu du thập phương nhất thiết thế giới”. (Vi diệu lạ lùng, đẹp đẽ, trang nghiêm, thanh tịnh, vượt xa hết thảy thế giới trong mười phương) và “A Di Đà Phật, quang trung cực tôn, Phật trung chi Vương” (quang minh của A Di Đà Phật tôn quí nhất trong các quang minh, ngài là vua trong các vị Phật), chứng tỏ lời nguyện siêu thế của Pháp Tạng Bồ Tát cũng thù thắng hơn lời nguyện của chư Phật.

Tóm lại, theo cụ Hoàng Niệm Tổ: “Thế giới Cực Lạc vô lượng trang nghiêm, hiển lộ trọn vẹn tự tánh của đương nhân. Tâm này là Phật, tâm này làm Phật, lý sự vô ngại; nước, chim, cây cối cùng tuyên dương chánh pháp; sắc, thanh, mùi hương, ánh sáng đều khiến cho đạo niệm tăng trưởng; trùng trùng vô tận, tự tại vô ngại, toàn là viên minh cụ đức chẳng thể nghĩ bàn. Toàn thể là sự sự vô ngại pháp giới. Nghe danh hiệu lại chứng được Bất Thoái; trông thấy cây liền khế ngộ Vô Sanh; mười niệm ắt sinh về Tịnh Độ; phàm phu cũng dự vào Bổ Xứ. Những sự như vậy khắp các cõi nước mười phương không nơi nào khác có nổi, chỉ mình cõi Đồng Cư Cực Lạc riêng có, nên gọi là nguyện vô thượng thù thắng siêu thế vậy”.

Tất chí vô thượng đạo (Ắt đạt vô thượng đạo): Chữ “tất chí”là khẳng định như vậy, một chút hoài nghi cũng không có, quyết định đến vô thượng đạo, Phật quả cứu cánh viên mãn.

Chữ “đạo” chỉ Bồ Đề. Bồ Đề là đạo được Như Lai chứng đắc. Bởi đạo ấy không có gì hơn được nên gọi là vô thượng, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chữ “tất chí” (ắt đạt) có thể hiểu theo hai cách:

1. “Xem vô thượng đạo là chủ thể của bổn nguyện: Trong mỗi nguyện, ngài đều dùng Chánh Giác tự thề như hai câu kế tiếp: “Tư nguyện bất mãn túc, thệ bất thành Đẳng Giác(Chẳng trọn vẹn nguyện này, thề chẳng thành Đẳng Giác). Như vậy, xét về toàn thể bốn mươi tám nguyện, tuy mỗi nguyện sai khác nhưng đều xuất phát từ một điểm căn bản nhằm giúp cho chúng sinh chứng nhập vô thượng đạo cùng thành Chánh Giác.

2. “Xem vô thượng đạo là quả của đại nguyện: Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Quyết định đắc quả nên bảo là ắt đạt vô thượng đạo”.

Hòa Thượng Tịnh Không nói: Sau khi Tịnh Tông Học Hội thành lập, Hòa Thượng đã định ra một bổn khóa tụng sớm, tối: Khóa sớm, chúng ta không đọc Chú Lăng Nghiêm, không đọc mười tiểu chú mà đọc Kinh Vô Lượng Thọ, phẩm thứ sáu; chủ yếu là phải đem bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật biến thành bổn nguyện của chính mình, như vậy mới được. Chúng ta mỗi ngày niệm, không phải niệm bổn nguyện của A Di Đà Phật mà chiếu theo bổn nguyện của A Di Đà Phật khiến nội tâm chúng ta tự phát ra cái nguyện này, như vậy là đúng. Tâm chúng ta đồng với tâm A Di Đà Phật; nguyện chúng ta đồng nguyện với A Di Đà Phật thì có lý nào không thành công chứ. Ngài “Tất chí vô thượng đạo”, chúng ta thì “Tất chí đáo Cực Lạc quốc, thân cận A Di Đà Phật.

Phục vi đại thí chủ, phổ tế chư cùng khổ(Lại làm đại thí chủ, phổ tế các cùng khổ): “Đại thí chủ” là người bố thí cho hết thảy mọi loài chúng sinh. Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Bồ Tát hành môn tuy nhiều, Thế Tôn đem vô lượng vô biên hành môn này qui làm sáu loại lớn gọi là sáu Ba-la mật. Nếu qui nạp nữa, có thể qui nạp thành một cái “Bố Thí”. Cho nên, nếu muốn hỏi:

– Bồ Tát tu pháp gì từ sơ phát tâm đến viên thành Phật đạo?

– Chỉ có pháp Bố Thí mà thôi!

Bố Thí có ba loại lớn: Tài Bố Thí, Pháp Bố Thí và Vô Úy Bố Thí. Trì giới Ba- la-mật, Nhẫn Nhục Ba-la-mật là “Vô Úy Bố Thí”. Tinh Tấn Ba-la-mật, Thiền Định Ba-la-mật, Bát nhã Ba-la-mật là thuộc về “Pháp Bố Thí”. Cho nên, vừa qui nạp lại chính là một cái “Bố Thí”.

“Phổ tế chư cùng khổ”: “Phổ” là phổ biến, trong chữ này hàm nghĩa: Chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi vậy mới là “Phổ”. Nhất định không có thiên tâm, không có thiên ái, không có nhiễm trước. “Chư” là chỉ cho tất cả chúng sinh trong sáu cõi, nói rộng hơn là mười pháp giới, hướng sâu hơn một tầng là bao gồm bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân Đại Sĩ trong pháp giới Nhất Chân.

– Pháp Thân Đại Sĩ họ cũng có “cùng khổ” sao?

– Có! Bồ Tát Đẳng Giác vẫn còn một phẩm “Sanh tướng vô minh”, đó chính là “cùng khổ” của họ. Chúng ta phải phát đại tâm. Hiện tại, chúng ta nghe thấy hai chữ “cùng khổ” liền khởi ý niệm: Người này không có cơm ăn, không có áo mặc, không có nhà ở v.v… đời sống họ rất khổ. Đây là chúng ta chỉ hiểu được một khía cạnh của vấn đề, mặt khác chúng ta vẫn chưa hiểu! Ngày nay, đại phú trưởng giả trong xã hội vẫn “cùng khổ”, tuy họ có địa vị, có quyền lực, có tiền tài.

– Họ “cùng khổ” ở chỗ nào?

– Ở chỗ họ không có đạo! Họ không thể liễu sinh tử, không thể ra khỏi ba cõi, đây là “cùng khổ” của họ!

Trong pháp giới bốn thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật; tuy Kiến Tư phiền não đã đoạn nhưng Trần Sa, Vô Minh chưa đoạn tận nên không thể ra khỏi mười pháp giới, đó là “cùng khổ” của họ!

Trong pháp giới Nhất Chân: Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân Đại Sĩ, vô minh cũng chưa đoạn tận, nên không thể chứng được Pháp Thân viên mãn, đó là “cùng khổ” của họ! Thoát khỏi “cùng khổ” chỉ có người đạt đến quả địa Như Lai. Từ Đẳng Giác trở xuống đều “cùng khổ”, cho dù “cùng khổ” của họ không như nhau.

Chúng ta đích thật không có năng lực cứu tế họ, chỉ biết khuyên người niệm Phật. Chỉ cần niệm A Di Đà Phật, vãng sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, “cùng khổ” của họ liền tiêu hết. Phương pháp này cũng đủ dùng rồi: Trên có thể độ Bồ Tát Đẳng Giác , dưới có thể độ chúng sinh địa ngục. Đây là bình đẳng được độ.

Chúng ta phải thật có tâm giúp người. Mỗi giờ, mỗi phút, mỗi chỗ, mỗi nơi, dùng phương tiện khéo léo giúp người giải quyết khó khăn. Hôm nay, họ không có cơm ăn, áo mặc, chúng ta chính mình phải tiết kiệm một chút để giúp người. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa ở đời mỗi ngày chỉ ăn một bữa.

– Vì sao không ăn ba bữa?

– Hai bữa kia bớt lại để cứu tế người “cùng khổ”.

Cho nên, trong cuộc sống thường ngày phải biết tích phước, hiểu được tiết kiệm. Ngoài việc giúp họ ăn mặc, đi đứng ra, càng quan trọng hơn phải giúp họ giải quyết “cùng khổ” lâu dài, đó là đem pháp môn Tịnh Độ truyền trao cho họ. Chúng ta phải toàn tâm, toàn lực giúp họ. Chỗ này Pháp Tạng tỳ kheo khải thị chúng ta phải noi theo ngài, phát tâm làm đại thí chủ, giúp tất cả chúng sinh “phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”. Có như vậy, tâm nguyện chúng ta cùng tâm nguyện của Phật mới không khác.

Trong phẩm Tích Công Lũy Đức đệ bát của kinh này viết : “Hằng dĩ Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ, lục độ chi hạnh, giáo hóa an lập chúng sinh trụ ư vô thượng chân chánh chi đạo” (Luôn dùng hạnh sáu độ: Bố Thí, Trì giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí tuệ để giáo hóa an lập chúng sinh trụ nơi đạo vô thượng chân chánh) là nói về Pháp Thí. Còn câu “Thủ trung thường xuất vô tận chi bảo, trang nghiêm chi cụ, nhất thiết sở tu tối thượng chi vật, lợi lạc hữu tình” (Trong tay thường tuôn ra vô tận các báu, vật trang nghiêm, hết thảy các vật cần dùng tối thượng để lợi lạc hữu tình) là nói về Tài Thí. Như vậy, “đại thí chủ” phải tu cả hai loại: Pháp Thí và Tài Thí. Như Sách Hội Sớ bảo: “Dùng của cải để giúp kẻ nghèo trong thế gian, dùng pháp độ khắp kẻ thiếu phước, nên gọi là đại thí chủ”.

Hòa Thượng Tịnh Không dạy: Chúng ta đều biết đức Quán Thế Âm Bồ Tát ngàn mắt, ngàn tay. Ngàn mắt, ngàn tay là biểu pháp, đại biểu “mắt thấy, tay đến”; xem thấy chúng sinh có khổ nạn, lập tức liền cứu giúp là ý này. Nói thật với bạn, bao gồm tất cả chư Phật, Bồ Tát thảy đều là ngàn tay, ngàn mắt, không phải riêng chỉ Bồ Tát Quan Âm. Không hề ngoại lệ!

Hằng dĩ bố thí”: “Hằng” là vĩnh viễn; vĩnh viễn phải tu Bố Thí. Nếu chân thật nghĩ đến “Phổ tế chư cùng khổ”, chính mình nhất định phải tiết kiệm. Đây chính là thường thực hiện cái nguyện này.

Trì Giới là thủ pháp. Có số đồng tu đến từ Trung Quốc nói với tôi: Họ hy vọng trong nước thành lập Tịnh Tông Học Hội có được hay không? Tôi nói:

– Bạn hỏi sai người rồi! Tôi không quản Trung Quốc, sao có thể hỏi tôi?!

– Ai quản việc của Trung Quốc?

– Hiệp hội Tôn giáo, Cục Tôn giáo của chính phủ sở tại, bạn hỏi họ mới đúng! Đây gọi là “Trì giới thủ pháp”.

Bạn muốn thành lập đạo tràng, xây Niệm Phật Đường bên đó, hoặc giả muốn thỉnh Pháp sư giảng kinh nói pháp, nhất định phải được sự phê chuẩn của Cục Tôn Giáo Hiệp Hội, Phật Giáo sở tại. Phật dạy chúng ta phải tuân thủ pháp luật. Họ không phê chuẩn thì chúng ta không làm! Chúng ta phát tâm nhưng duyên chưa chín muồi thì từ từ chờ đợi!

Phải có biểu hiện rất tốt để chính phủ có lòng tin đối với chúng ta, biết được bạn là người tốt, làm ra là việc tốt thì họ đương nhiên sẽ phê chuẩn. Hiện tại, những gì bạn làm ra, họ đều hoài nghi! Họ cảm thấy con người bạn chưa đáng tin! Có phải bạn mượn danh nghĩa đề mục này để làm những việc khác chăng nên họ không  phê chuẩn! Vạn nhất không nên vội vàng! Nhất định phải chờ đợi thời tiết nhân duyên chín muồi! Nhất định phải tuân thủ pháp luật!

Nhẫn Nhục: Đòi hỏi bạn phải có lòng nhẫn nại. Càng là sự việc lớn, càng phải có lòng nhẫn nại lớn. Ngay trong thời gian chờ đợi, vẫn tiếp tục trau dồi đức hạnh và học vấn của chính mình chớ để thời gian trống qua. Người xưa nói: Có cơ duyên thì “kim thiện thiên hạ”, vì chúng sinh rộng khắp mà phục vụ; không có cơ duyên thì “độc thiện kỳ thân, chính mình tiếp tục nỗ lực tu học, thành tựu đức hạnh, học vấn, năng lực của chính mình. Khi cơ hội đến, bạn mới chân thật có năng lực vì đại chúng phục vụ. Đây là nhẫn nhục Ba-la- mật. Người học Phật, bất luận trong tình huống nào, nhất định phải tuân thủ pháp luật. Nếu ngược lại, sẽ tạo thành chướng ngại rất lớn trong việc hoằng pháp lợi sinh về sau. Chướng ngại này là chính mình tạo, không phải người khác.

Tinh Tấn ở đây có nghĩa là một môn thâm nhập, huân tu thời gian dài. Trong quá trình tu học, chọn lựa pháp môn rất là quan trọng. Phải chọn lựa pháp môn phù hợp với năng lực, hoàn cảnh của chính mình thì sự tu học mới thuận tiện, dễ dàng hơn.

Kinh Kim Cang nói: “Pháp môn bình đẳng không có cao thấp”, quan trọng nhất là phải khế cơ, thích hợp với căn cơ của chính mình, có thể sinh tâm hoan hỉ, thành tựu sẽ rất nhanh, chướng ngại sẽ giảm ít, đây gọi là Tinh Tấn. Cho nên, vạn nhất không nên học rộng nghe nhiều. Nếu học rộng nghe nhiều, chỉ lược qua không sâu, thường thức của bạn tuy rất phong phú nhưng trí tuệ chân thật thì không có! Bạn cũng có thể giảng kinh thuyết pháp đến hoa trời rơi rụng nhưng chính bạn không được thọ dụng!

Thế nhưng, vừa rồi có đồng tu nói với tôi:

– Đạo tràng chúng ta luân phiên mời chín tôn giáo lớn ở Singapore đến đây để giảng kinh của họ, chúng ta đều đến tiếp nhận, đến nghe, vậy có phải là xen tạp hay không?!

– Chúng ta chân thật đến nghe, chân thật đến học, tuyệt đối không phải là giả! Nhưng, trong đó chỉ cầu “dung hội quán thông. Chúng ta đối với chín tôn giáo bạn không phải chỉ hòa hợp biểu hiện trên hình thức mà phải từ trên giáo nghĩa, trên giáo lý được y cứ hòa mục, đoàn kết hợp tác, đây là quảng độ chúng sinh, là “Phục vi đại thí chủ, phổ tế chư cùng khổ “.

– Chúng ta dùng thái độ gì để học?

– Vẫn là một bộ kinh, vẫn một môn thâm nhập.

Chúng ta có thể nghe rất nhiều pháp môn nhưng chúng ta không nghiên cứu những pháp môn này, cũng không đọc những pháp môn này. Có người giảng, chúng ta đến nghe để dung nhiếp tinh hoa của họ, qui đến pháp môn mà chúng ta đã học, vậy thì đúng! Sẽ không có chướng ngại. “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”.Chúng ta nhất quyết phải ủng hộ họ; cố gắng khích lệ, hoan nghênh họ giảng ở nơi đây thời gian dài. Đây là thế giới đệ nhất gia! Trước đây toàn thế giới chưa có qua, chúng ta khai trương ở nơi này: Chín tôn giáo lớn trong một giảng đường giảng kinh, đây là lần đầu tiên, cũng là rất hy hữu khó được! Cho nên, chúng ta nơi đây không chỉ là được chư Phật, Bồ Tát bảo hộ mà thần thánh của chín tôn giáo cũng bảo hộ chúng ta. Thật là thù thắng!

– Nguyên nhân là gì?

– Chúng ta có thể làm “đại thí chủ’, cúng dường khắp tất cả.

Thiền Định: Là chính mình có nhận biết, có chủ tể không bị ngoại duyên làm dao động. Nếu cảnh giới hiện tiền, tâm không làm chủ được, phải mau niệm A Di Đà Phật. Dùng một câu A Di Đà Phật, đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của mình khắc phục, đè xuống, đây là tu thiền định. Tùy lúc, tùy nơi đều tu học như vậy, dần dà Trí Tuệ sẽ khai mở.

Trên đây là sáu cương lĩnh Phật, Bồ Tát dạy bảo chúng ta. Chúng ta như giáo tu hành, đó là chân thật cúng dường. Không chỉ chính mình tu hành còn phải giúp người khác, hy vọng người khác cũng hiểu được tường tận, cũng có thể tu học như vậy. Cho nên, tự hành nhất định phải hóa tha. Hóa tha chính là tự hành; tự hành chính là hóa tha. Tự hành, hóa tha là một sự việc, không phải hai sự việc.

Hiện tại, phương pháp bố thí có rất nhiều, thù thắng nhất là đài truyền hình. Tôi một đời không chủ trương xây đạo tràng. Chính tôi cả đời không có đạo tràng để ở, chỉ ở đạo tràng của người, đây cũng là quả báo! Tôi, nếu như chân thật có tài lực sẽ xây đài truyền hình, xây đài phát thanh, dùng cái này để hoằng pháp, sẽ ảnh hưởng rộng lớn, đem Phật pháp đến từng gia đình. Chúng ta chính mình không có phước báo, chỉ cầu A Di Đà Phật. A Di Đà Phật có đại phước báo. Chúng ta chân thật đồng tâm, đồng nguyện với ngài, đích thật là không có chính mình, không có chút nào là tự tư tự lợi, quyết không nếm chút danh vọng lợi dưỡng, sẽ có cảm ứng với A Di Đà Phật.

Phải phát nguyện “Phổ tế chư cùng khổ”, tôi ở nơi đây mở đường thay cho các bạn. Hy vọng tương lai các bạn rất nhanh đều có thể tiếp nối. Nhất định phải chăm chỉ, phải nỗ lực! Con người ở thế gian phải vì chúng sinh phục vụ, phải vì chúng sinh làm ra cống hiến chân thật. Được vậy, đời sống mới có ý nghĩa, mới có giá trị, ngay đời này sống không uổng phí; tiền đồ đời sau của bạn ắt sẽ quang minh vô hạn. Cho nên, ở thế gian này phải trải qua đời sống thanh khổ. Kỳ thật, người khác xem thấy bạn sống thanh khổ nhưng chính  bạn cảm thấy thật an vui không gì bằng! Lạc thú trong đây gọi là thanh phước, người thế gian rất khó mà thể hội được!

Linh bỉ chư quần sanh, trường dạ vô ưu não(Khiến các quần sanh ấy, đêm dài không phiền não) Hoàng Niệm lão giải thích câu này như sau: Chúng sinh mãi trầm luân trong sinh tử nên ví như đang ở trong “trường dạ” (đêm dài) như kinh thường nói: “Sinh tử trường dạ” (đêm dài sinh tử). “Đêm” tượng trưng cho tối tăm không ánh sáng. Tâm chúng sinh triền miên bị vô minh che lấp nên hôn mê chẳng giác ngộ, chìm đắm trong biển sinh tử, oan uổng chịu đựng các nỗi khổ. Vì muốn cho chúng sinh vĩnh thoát khỏi ách khổ não lo, buồn của đêm dài sinh tử nên thí cho hai thứ pháp và tài. Do lòng từ bi cùng cực, lại khiến cho họ được:

Xuất sanh chúng thiện căn, thành tựu Bồ Đề quả (Xuất sanh các thiện căn, thành tựu quả Bồ Đề).

Trong hết thảy các loại bố thí, cách bố thí sau đây là tối thượng: Khiến hết thảy chúng sinh rốt ráo lìa khổ được vui, phát sinh được các thiện căn, thành tựu Bồ Đề; không gì hơn là pháp “Trì Danh Niệm Phật”, cầu sinh Tây Phương Cực Lạc. Do vậy, ngài nói tiếp rằng:

Ngã nhược thành Chánh Giác, lập danh Vô Lượng Thọ, chúng sinh văn thử hiệu, câu lai ngã sát trung(Nếu tôi thành Chánh Giác, lập hiệu Vô Lượng Thọ, chúng sinh nghe hiệu ấy, đều sinh trong nước tôi). Cũng theo Hoàng Niệm lão: “Bốn câu này là tâm tủy của đại nguyện, là tròng mắt của toàn bộ kinh, là cánh tay mầu nhiệm độ sinh của mười phương Như Lai, là thuyền báu để giúp chúng sinh thoát khổ; cả bốn mươi tám nguyện chỉ nhằm khai diễn ý nghĩa của bốn câu kệ trên”, đúng như ngài Thiện Đạo bảo: “Nguyện nào cũng là để chỉ bày pháp Niệm Phật”.

Có không ít người nghi vấn đối với pháp môn Tịnh Độ, họ bảo: Trên kinh Đại thừa, Phật thường nói pháp môn bình đẳng không có cao thấp, sao cứ tán thán Tịnh Độ, lý do ở chỗ nào? Hòa Thượng Tịnh Không nói: Ngày nay, giảng đến bài kệ này, chúng ta không thể không giải bày thù thắng của pháp môn Tịnh Độ chính là: rất đơn giản, rất dễ dàng, rất ổn định thành tựu, không gì sánh bằng! Trên lý mà nói: Pháp môn đích thật là bình đẳng. Trên sự thì pháp môn này quá thuận tiện, người người đều có thể tu, người người đều có thể thành tựu. Thù thắng ưu việt là “bình đẳng thành tựu”.

Hoàng Niệm Lão ca ngợi: “Thánh hiệu A Di Đà có vô lượng nghĩa: Vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng thanh tịnh, vô lượng trang nghiêm, vô lượng trí tuệ, vô lượng Bồ Đề, cho đến vô lượng điều vô lượng. Vô lượng thọ biểu thị Pháp Thân thường trụ, danh hiệu hàm nhiếp tất cả pháp. Vì vậy danh hiệu của Như Lai vang khắp mười phương, chúng sinh được nghe danh đều sinh trong nước Ngài. Do xưng danh liền có nhiều thiện căn, được sinh Tịnh Độ nên chắc chắn chứng Bồ Đề. Thật là phương tiện rốt ráo, thù thắng viên mãn. Di Đà đại nguyện sở dĩ siêu thế và được xưng là đấng nguyện vương chính là do bởi những điều này”.

Như Phật kim sắc thân, diệu tướng tất viên mãn(Thân sắc vàng như Phật, diệu tướng đều viên mãn). Nguyện người sinh về nước tôi, thân tướng giống như Phật, thân đều có sắc vàng đủ cả ba mươi hai tướng tốt. Hai câu này nhắc lại nguyện thứ ba, và thứ tư, chỉ nói thêm là thù thắng, viên mãn, ngụ ý thân chúng sinh giống hệt như thân Phật.

Diệc dĩ đại bi tâm, lợi ích chư quần phẩm(Cũng dùng đại bi tâm, lợi ích khắp các phẩm).

Theo Hoàng Niệm lão: Hai câu kệ trước nói về “thân đức”, hai câu kệ này nói về “tâm đức”. Cần chú ý hai chữ “diệc dĩ” (cũng dùng) ngụ ý: Nguyện rằng những người đã sinh về cõi tôi thảy đều giống như tôi (Pháp Tạng) dùng tâm đại bi tạo lợi ích cho khắp các loài chúng sinh. Lại nguyện rằng nhân dân cõi Cực Lạc đều giống như đức Phật: Xem các chúng sinh như chính thân mình cùng phát khởi tâm Đồng thể Đại Bi như phẩm Hạnh Nguyện của Kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Nhân ư chúng sinh nhi khởi đại bi, nhân ư đại bi sinh Bồ Đề tâm, nhân Bồ Đề Tâm thành Đẳng Chánh Giác” (Nhân nơi chúng sinh mà khởi đại bi, do đại bi mà sinh tâm Bồ Đề, do tâm Bồ Đề mà thành Đẳng Chánh Giác). Vì vậy, nguyện chúng sinh sinh về cõi tôi cũng phát tâm đại bi lợi ích khắp muôn loài. Chữ “phẩm” là phẩm loại. “Lợi ích chư quần phẩm” nghĩa là làm lợi ích cho khắp tất cả chúng sinh muôn loài.

Ly dục thâm chánh niệm, tịnh tuệ tu phạm hạnh” (Ly dục chánh niệm sâu; tịnh tuệ, tu phạm hạnh): “Dục” là tham dục. Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Ly dục thanh tịnh thị tối vi thắng” (Ly dục thanh tịnh là tối thắng). “Chánh niệm” là một trong Bát Chánh Đạo. Lìa tà phân biệt, niệm Thật Tánh của pháp thì gọi là “Chánh niệm”. Quán Kinh Sớ giảng: “Xả Tướng nhập Thật gọi là Chánh Niệm”.

Sách Hội Sớ giảng chữ “tịnh tuệ” như sau: “Tịnh tuệ chính là Bát Nhã Ba La Mật, chẳng phải là trí tuệ bất tịnh của nhân, thiên, Tiểu thừa, nên gọi là tịnh tuệ”. Hoàng Niệm lão nói:

Phạm hạnh” là hạnh thanh tịnh vô dục, là một trong năm hạnh Kinh Niết Bàn dạy, là hạnh lợi tha của Bồ Tát để đối trị hết thảy điều bất thiện, lìa lầm lỗi được thanh tịnh nên gọi là Phạm hạnh. Vạn hạnh để chứng Niết Bàn cũng gọi là Phạm hạnh.

Sách Hội Sớ nói: “Dục là nguyên nhân của các khổ, dùng Thí Độ và Giới Độ để xa lìa, chánh niệm để khéo gìn giữ như mặc áo giáp vào thành. Nhẫn Độ, Định Độ để tu hành (hạnh ly dục). Tịnh

Tuệ là Bát Nhã Độ, Tinh Tấn hiện diện trong cả năm Độ. Đây là Lục Độ của Bồ Tát”.

Ngài Vọng Tây hiểu hơi khác, ngài bảo: “Ly dục chính là không tham, khéo chánh niệm là không sân, tịnh tuệ là không si, đó gọi là Phạm Hạnh”.

KINH VĂN:

Nguyện ngã trí tuệ quang
Phổ chiếu thập phương sát,
Tiêu trừ tam cấu minh
Minh tế chúng ách nạn
Tất xả tam đồ khổ
Diệt chư phiền não ám
Khai bỉ trí tuệ nhãn
Hoạch đắc quang minh thân
Bế tắc chư ác đạo
Thông đạt thiện thú môn
Vị chúng khai pháp tạng
Quảng thí công đức bảo.

VIỆT DỊCH:

Nguyện trí tuệ quang tôi
Chiếu khắp mười phương cõi
Tiêu trừ tối tam cấu
Độ khắp các ách nạn 
Đều bỏ tam đồ khổ
Diệt các tối phiền não
Mở được mắt trí-tuệ
Đạt được thân quang minh
Bế tắc các đường ác
Thông đạt thiện thú môn
Vì chúng khai pháp tạng
Rộng thí báu công đức.

GIẢNG:

Đoạn trước nói về “vô lượng thọ”, đoạn này nói về “vô lượng quang”. “Vô lượng thọ” là Thể; “vô lượng quang” là Tướng và Dụng. Từ công dụng của thể tướng sinh ra vô biên đức giáo hóa và lợi ích. Trong hai câu:

Nguyện ngã trí tuệ quang, phổ chiếu thập phương sát(Nguyện trí tuệ quang của tôi, chiếu khắp mười phương cõi): Đây là “tuệ quang phổ chiếu”, Pháp Tạng Bồ Tát phát bốn mươi tám nguyện, mỗi đại nguyện đều vì chúng sinh. Trên thực tế, cái nguyện này đã thực hiện rồi, không chỉ là quang minh của Phật, sắc tướng của Phật, âm thanh của Phật, mỗi mỗi đều là châu biến pháp giới. Phàm phu chúng ta chưa thấy được, chưa nghe được đây đều do vọng niệm, phiền não tập khí của chúng ta quá nhiều, tâm ý qua loa, không thể nào thể hội được! Chữ “trí tuệ quang” có hai nghĩa:

– Một là như Kinh Niết Bàn dạy: “Quang minh danh vi trí tuệ” (Quang minh gọi là trí-tuệ). Kinh Siêu Nhật Nguyệt Minh Tam- Muội cũng dạy: “Đại trí phát ngoại, năng chiếu pháp giới, danh  vi quang minh” (Đại trí phát ra ngoài, chiếu soi pháp giới thì gọi là quang minh).

– Hai là như Đàm Loan Đại Sư viết trong Tán A Di Đà Phật Kệ: “Phật quang năng phá vô minh ám, cố Phật hựu hiệu Trí Tuệ Quang”. (Phật quang chiếu tan tăm tối vô minh, nên Phật hiệu là Trí Tuệ Quang).

Trí Tuệ Quang” là một trong những thánh hiệu của A Di Đà Phật và cũng là một trong mười hai thứ quang minh của ngài. Đức Di Đà tuy có mười hai danh hiệu, nhưng thật ra trong mỗi danh hiệu đều gồm trọn các đức tánh quang minh khác; vì vậy, Trí Tuệ Quang cũng là Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang,

Vô Đẳng Quang, Thường Chiếu Quang, Thanh Tịnh Quang v.v…

“Phổ chiếu thập phương sát” (Chiếu khắp mười phương cõi). Chữ “Phổ chiếu” này ý nghĩa rất sâu. “Phổ” là bình đẳng, là thanh tịnh mới gọi là “Phổ”. Thế Tôn năm xưa ở đời, bốn mươi chín năm vì mọi người giảng kinh nói pháp. Mỗi câu, mỗi chữ đều là Trí- Tuệ quang, đều là phổ chiếu mười phương cõi. Ngày nay, tuy Phật không còn trụ thế, nhưng giáo pháp của ngài vẫn lưu lại thế gian. Chúng ta mở quyển kinh ra, chính là Phật quang phổ chiếu. Chúng ta đọc tụng là “Trí-Tuệ quang” hiện tiền. Chúng ta nghiên thảo hay giảng giải cũng là “Trí-Tuệ quang” hiện tiền. “Trí-Tuệ quang” rõ ràng nhất chính là “y giáo phụng hành”, quả nhiên “Vô Lượng Quang Thọ” của Phật mỗi giờ, mỗi phút, mỗi chỗ, mỗi nơi đều có thể thể hội được. Đây là thật không phải giả! Quang minh ấy chính là Trí- Tuệ chiếu tan tăm tối, vô minh phiền não trọng trược của chúng sinh.

Tiêu trừ tam cấu minh, minh tế chúng ách nạn” (Tiêu trừ tối tam cấu, độ khắp các ách nạn). “Tam cấu” là tên khác của tam độc, “tham-sân-si”. Minh” (冥) là tăm tối, là vô tri, “Tam cấu minh” là ba độc tối tăm. Trong chữ “minh tế(tạm dịch là “độ khắp”), “Minh” (明) có nghĩa là sáng suốt, đầy đủ, đông nhiều. Tếlà độ, là cứu. Sách Hội Sớ bảo: “Minh tế nghĩa là quảng tế” nên “minh tế” nghĩa là cứu độ một cách rộng lớn. Chữ “ách” là tai ách, khổ sở, trói buộc. “Tam cấu minh” là nghiệp nhân, “ách nạn” là quả báo. Các ách nạn nhiều đến vô số nên bảo là “chúng ách nạn” (các ách nạn).

Ngày nay, thế gian thiên tai, nhân họa trùng trùng, tần suất này không ngừng nâng cao; tai nạn lần sau nghiêm trọng hơn lần trước, chân thật đúng như trong kinh điển mà Phật đã nói: “Đời ác năm trược”. Hiện tại có thể nói là trược ác đến cùng tột! Muốn tận trừ tai ương, hiểm họa, thực tiễn chân thật hòa bình ở thế giới này cần phải nhờ vào “Trí-Tuệ quang” của Phật mới tiêu trừ “tam cấu minh” của nhân loại. Đây là phương pháp chính xác! Sự việc này chính trị, quân sự, vũ lực không làm được! Cả kinh tế, khoa học, kỹ thuật cũng không làm được!

Chúng ta mới thể hội giáo huấn của Phật hay “Trí-tuệ quang” của Phật thật vô cùng cần thiết để tháo gỡ tận gốc mầm mống của tất cả tai ương, hiểm họa do chính “tham-sân-si” (tam cấu) con người tạo ra mà không hay biết. Ba cấu này làm ô nhiễm tâm tánh con người nên gọi là “cấu”, khiến cho chúng sinh mù tối nên gọi là “minh”. “Tam cấu minh” là nghiệp nhân dẫn dắt chúng sinh lưu chuyển trong luân hồi sinh tử. Tiêu diệt được nghiệp nhân này thì khổ báo bèn dứt, nên bảo là “minh tế” (độ khắp).