KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

 

TẬP 09

QUYỂN HAI MƯƠI

PHẨM MƯỜI TẠNG VÔ TẬN THỨ HAI MƯƠI HAI

 

Giảng giải: (Chữ thường là giảng giải)

Mỗi pháp môn Kinh Hoa Nghiêm, đều nói về mười thứ. Vì mười là đại biểu cho số vô tận. Do đó: “Trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng”. Ðạo lý nầy, hết thuở vị lai cũng nói không hết. Vì nguyên nhân nầy, cho nên phẩm nầy gọi là Phẩm Mười Tạng Vô Tận, pháp chẳng cùng tận đều bao quát ở trong phẩm nầy.

Bồ Tát đầy đủ nguyện như vậy, thì lập tức đắc được mười tạng vô tận:

1. Tạng vô tận khắp thấy chư Phật.
2. Tạng vô tận tổng trì không quên.
3. Tạng vô tận quyết rõ các pháp.
4. Ðại bi cứu hộ.
5. Ðủ thứ tam muội.
6. Mãn tâm chúng sinh, phước đức rộng lớn.
7. Diễn nói tất cả pháp, trí huệ thâm sâu.
8. Báo được thần thông.
9. Trụ vô lượng kiếp.
10. Tạng vô tận vào vô biên thế giới.

Nguyện của Bồ Tát, tức là:

1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Ðây là bốn thệ nguyện lớn của Bồ Tát. Phàm là Bồ Tát, trước hết đều phát bốn thệ nguyện nầy, tu hành viên mãn thì lại phát đại nguyện đặc biệt, giống như mười đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền .v.v…

Bấy giờ, Bồ Tát Công Đức Lâm, lại bảo các Bồ Tát rằng: Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ tạng. Quá khứ vị lai hiện tại, chư Phật đã nói, sẽ nói và đang nói.

Khi bắt đầu giảng phẩm mười tạng vô tận, thì vị đại Bồ Tát Công Ðức Lâm, Ngài có tâm bi tha thiết, bèn đối với hết thảy Bồ Tát trong pháp hội Hoa Nghiêm nói: “Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát, nên tu mười pháp tạng vô tận. Mười pháp tạng nầy, là pháp quá khứ chư Phật đã nói, là pháp vị lai chư Phật sẽ nói, là pháp hiện tại chư Phật đang nói, để giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh bỏ mê về với giác ngộ, sớm thành Phật đạo”.

Những gì là mười ? Ðó là: Tín tạng. Giới tạng. Tàm tạng. Quý tạng. Văn tạng. Thí tạng. Huệ tạng. Niệm tạng. Trì tạng. Biện tạng. Đó là mười.

Gì gọi là mười tạng ? Tạng nghĩa là vô tận. Còn có nghĩa là sinh ra uẩn tạng. Mười tạng đó là:
1. Tín tạng: Tin pháp tạng.
2. Giới tạng: Giới pháp tạng.
3. Tàm tạng: Tàm pháp tạng.
4. Quý tạng: Quý pháp tạng.
5. Văn tạng: Văn pháp tạng.
6. Thí tạng: Thí pháp tạng.
7. Huệ tạng: Huệ pháp tạng.
8. Niệm tạng: Niệm pháp tạng.
9. Trì tạng: Trì pháp tạng.
10. Biện tạng: Biện pháp tạng.

Hiện tại đưa ra tên của mười tạng, sẽ giải thích ở sau.

Pháp môn mười pháp tạng nầy, là mẹ của chư Phật ba đời. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều từ trong mười pháp môn vô tận sinh ra. Cho nên phẩm nầy rất là quan trọng, hy vọng các vị nên đặc biệc chú ý nghe giảng, bớt khởi vọng tưởng, đắc được nhiều trí huệ.

Tin hay tiêu trừ trược không tin là nghiệp. Giới hay phòng ngừa sự pháp giới là nghiệp. Tàm (hổ) dùng đối trị không biết hổ, dừng lại làm ác là nghiệp. Quý (thẹn) dùng đối trị không biết thẹn, dừng lại làm ác là nghiệp. Văn hay phá vô tri là nghiệp. Thí dùng để dứt tham sẻn là nghiệp. Huệ dùng để pháp si là nghiệp. Niệm dùng đối trị không chuyên chú là nghiệp. Trì dùng đối trị mất thủ hộ là nghiệp. Biện dùng đối trị khó nhạo thuyết là nghiệp. Ðây là sự giải thích của Sớ Sao đối với mười tạng.

THỨ NHẤT: TÍN TẠNG

Phật tử ! Những gì là tín tạng của đại Bồ Tát?

Ðại Bồ Tát Công Ðức Lâm lại gọi một tiếng: Các vị đệ tử của Phật ! Gì gọi là tín tạng pháp của đại Bồ Tát tu hành ?Hiện tại Bồ Tát Công Ðức lâm nói ra mười đạo lý tín tạng, các vị nên tụ tinh hội thần để nghe, đừng để lỡ cơ hội.

Bồ Tát nầy, tin tất cả pháp đều không. Tin tất cả pháp đều không tướng. Tin tất cả pháp đều không nguyện. Tin tất cả pháp đều không làm. Tin tất cả pháp đều không phân biệt. Tin tất cả pháp đều không chỗ nương. Tin tất cả pháp đều không thể lường. Tin tất cả pháp đều vô thượng. Tin tất cả pháp đều khó siêu việt. Tin tất cả pháp đều không sinh.

Vị Bồ Tát nầy tu tín tạng, Ngài tin mười pháp nầy:
1. Tin tất cả pháp đều là không, đều là vắng lặng. Do đó:

“Quét tất cả pháp,
Lìa tất cả tướng”.

2. Tin tất cả pháp đều là không hình, không tướng. Do đó:

“Các pháp tướng vắng lặng
Không thể dùng lời nói”.

Vì là vắng lặng, cho nên chẳng có hình tướng. Bản thể của pháp là đường lời lẽ đã bặc, nơi tâm hành đã diệt.

3. Tin tất cả pháp đều là không nguyện, chẳng có nguyện cầu và hy vọng. Tu pháp đừng có tâm xí đồ và tham lam, muốn đắc được lợi ích gì, đó đều là vọng tưởng. Phải không đừng có tướng nguyện cầu, cũng không tướng, cũng không nguyện, đó mới là chân tinh thần tu pháp.

4. Tin tất cả pháp đều chẳng có kẻ làm, cũng chẳng có kẻ thọ.

5. Tin tất cả pháp đều chẳng có phân biệt. Bản thân của pháp là bình đẳng, không thể nói pháp của tôi cao, pháp của bạn thấp. Hoặc pháp của tôi là pháp thiện, pháp của bạn là pháp ác, tự nó chẳng có sự phân biệt như thế. Do đó:

“Pháp đều bình đẳng,
Chẳng có cao thấp”.

6. Tin tất cả pháp chẳng có chỗ mà sinh ra.

7. Tin tất cả pháp không thể lường. Tuy nhiên không tướng, không nguyện, không làm, không phân biệt, lại không chỗ nương, nhưng vẫn có vô lượng vô số.

8. Tin tất cả pháp là diệu pháp vi diệu thâm sâu vô thượng. Tuy nhiên pháp không thể lường, nhưng chẳng có pháp nào cao hơn nó.

9. Tin tất cả pháp chẳng có pháp nào siêu hơn nó được.

10. Tin tất cả pháp đều không chỗ sinh.

Nếu Bồ Tát hay tuỳ thuận tất cả pháp như vậy, sinh niềm tin thanh tịnh rồi, thì nghe các Phật pháp không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe tất cả chư Phật không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe cõi chúng sinh không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe pháp giới không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe cõi hư không không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe cõi Niết Bàn không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe đời quá khứ không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe đời vị lai không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe đời hiện tại không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe vào tất cả kiếp không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược.

Bồ Tát tin mười pháp như đã nói ở trên, tuỳ thuận tất cả pháp, sinh ra tâm tin thanh tịnh rồi, mà chẳng chấp trước. Nghe đến mười thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn, mà tâm chẳng khiếp nhược.

Vì Bồ Tát có định lực, như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt, cho nên chẳng sinh tâm sỡ hãi.

1. Bồ Tát nghe được các Phật pháp không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời luận bàn, tâm chẳng sợ hãi, chẳng sinh tâm thối chuyển.
2. Bồ Tát nghe được tất cả chư Phật diệu không thể tả, tâm chẳng sợ hãi, chẳng sinh tâm thối chuyển.
3. Bồ Tát nghe được cõi chúng sinh không thể nghĩ bàn, tâm chẳng sợ hãi, chẳng sinh tâm thối chuyển.
4. Bồ Tát nghe được pháp giới không thể nghĩ bàn, tâm chẳng sợ hãi, chẳng sinh tâm thối chuyển.
5. Bồ Tát nghe được cõi hư không không thể nghĩ bàn, tâm chẳng sợ hãi, chẳng sinh tâm thối chuyển.
6. Bồ Tát nghe được cõi Niết Bàn không thể nghĩ bàn, tâm chẳng sợ hãi, chẳng sinh tâm thối chuyển.
7. Bồ Tát nghe được đời quá khứ không thể nghĩ bàn, tâm chẳng sợ hãi, chẳng sinh tâm thối chuyển.
8. Bồ Tát nghe được đời vị lai không thể nghĩ bàn, tâm chẳng sợ hãi, chẳng sinh tâm thối chuyển.
9. Bồ Tát nghe được đời hiện tại không thể nghĩ bàn, tâm chẳng sợ hãi, chẳng sinh tâm thối chuyển.
10. Bồ Tát nghe được vào tất cả kiếp không thể nghĩ bàn, tâm chẳng sợ hãi, chẳng sinh tâm thối chuyển.

Tại sao ? Vì Bồ Tát nầy ở chỗ chư Phật, một lòng tin vững chắc, biết trí huệ của Phật vô biên vô tận.

Bồ Tát nghe được mười thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn rồi, mà tâm chẳng khiếp nhược, khiến cho tâm bồ đề càng tăng trưởng, càng dũng mãnh. Ðây là nguyên nhân gì ? Dưới đây là Bồ Tát Công Ðức Lâm tự hỏi tự trả lời. Vì vị Bồ Tát nầy tu tín tạng, thuở xưa Ngài ở chỗ đạo tràng của các Ðức Phật, một lòng hướng về niềm tin đạo bồ đề vững chắc, đối với Phật pháp tin sâu chẳng nghi ngờ. Ngài biết trí huệ của chư Phật vô biên không cùng tận. Hết thuở vị lai, nói cũng không hết được.

Ở trong mười phương vô lượng các thế giới. Mỗi thế giới đều có vô lượng chư Phật. Nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đã đắc được, đang đắc được, sẽ đắc được. Đã ra đời, đang ra đời, sẽ ra đời. Đã vào Niết Bàn, đang vào Niết Bàn, sẽ vào Niết Bàn.

Chẳng những ở trong thế giới Ta Bà, có vô lượng chư Phật xuất hiện ra đời. Cho đến mười phương hết thảy tất cả thế giới, ở trong mỗi thế giới, đều có vô lượng chư Phật xuất hiện ra đời. Tóm lại, mười phương thế giới có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu đức Phật. Tại sao nói như vậy ? Vì mỗi chúng sinh đều là Phật tương lai. Phật quá khứ, là Phật đã thành. Phật hiện tại là Phật đang thành. Phật vị lai là tất cả chúng sinh sẽ thành Phật.

Vô lượng chư Phật đối với Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, đều viên mãn thành tựu. Cho nên nói đã đắc được, đang đắc được, sẽ đắc được. Ðắc được là chứng được, đã chứng quả vị Phật, hiện tại chứng được quả vị Phật, tương lai sẽ chứng được quả vị Phật. Chư Phật đã ra đời, hiện tại chư Phật ra đời, tương lai chư Phật ra đời. Quá khứ chư Phật đã vào Niết Bàn, hiện tại chư Phật cũng vào Niết Bàn, vị lai chư Phật cũng sẽ vào Niết Bàn.

Niết Bàn tức là không sinh không diệt. Ðến được cảnh giới Niết Bàn, tức là đắc được thường, lạc, ngã, tịnh, bốn đức. Tóm lại, phiền não diệt rồi, tức là Niết Bàn. Do đó: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Chúng ta không cần đoạn phiền não, mà là phải biến phiền não. Tại sao ? Vì ở trong kinh Phật có nói: “Phiền não tức bồ đề”. Nếu đoạn trừ phiền não, thì bồ đề cũng chẳng còn. Vậy phải làm sao ? Phải biến ! Biến phiền não thành bồ đề. Song, chẳng dễ gì biến ! Không dễ biến cũng phải biến, chìa khoá tu đạo là tại chỗ nầy. Phiền não là gì ? Tức là sân hận, tức là nóng giận, tức là lửa vô minh, Do đó: “Lửa vô minh hay thiêu huỷ rừng công đức”. Nếu chẳng có nóng giận, thì chẳng có phiền não. Chẳng có phiền não, thì sẽ đến được bờ kia.

Tôi đã từng làm bài kệ: “Tôi vào lúc thuở xưa, lửa sân cao hơn trời, thiêu sạch rừng công đức, nên nay thọ khổ báo”. Ðây là tôi tự chú giải cho mình. Tuy nhiên tôi sống tại nước Mỹ giàu có, nhưng ngày chỉ ăn một bữa, tại sao ? Vì lửa sân của tôi cao hơn trời, cho nên thiêu sạch hết phước báo, phải tiếp thọ khổ báo. Do đó có thể chứng minh, phiền não chẳng những chẳng tốt đối với mọi người, mà đối với mình cũng chẳng lợi ích gì. Cho nên nói phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

Trí huệ của chư Phật đó, không tăng, không giảm, không sinh, không diệt, không tiến, không lùi, không gần, không xa, không biết, không bỏ.

Bồ Tát tu hành, phải ôm lấy ba chữ “kiên, thành, hằng” làm tông chỉ. Có tâm tin kiên cố, có tâm tin kiền thành, có tâm tin hằng thường, tin sâu không nghi. Ðối với trí huệ của chư Phật cũng chẳng tăng, cũng chẳng giảm, cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt, cũng chẳng tiến, cũng chẳng lùi, cũng chẳng gần, cũng chẳng xa, cũng chẳng biết, cũng chẳng bỏ.

Bồ Tát là tu mà không tu, chứng mà không chứng, hành sở vô sự. Tu sáu độ vạn hạnh, chỉ là trách nhiệm của Ngài phải làm, nghĩa vụ phải xong, chẳng có mong cầu. Tuy nhiên Bồ Tát minh bạch tất cả pháp, chiếu rõ tất cả pháp, nhưng chẳng có sự chấp trước về sự hiểu biết, buông xả được tất cả.

Bồ Tát nầy vào trí huệ của Phật, thành tựu tâm tin vô biên vô tận. Đắc được niềm tin nầy rồi, thì tâm chẳng thối chuyển, tâm chẳng tạp loạn, không thể phá hoại được, không ô nhiễm chấp trước. Thường có căn bổn, tuỳ thuận Thánh nhân, trụ nhà Như Lai.

Vị Bồ Tát nầy tu tín tạng, tại sao Ngài được như vậy ? Vì vào trong trí huệ của chư Phật, cho nên đối với tất cả đều chẳng chấp trước. Thành tựu tâm tin không ngằn mé, không cùng tận. Bồ Tát đắc được tâm tin kiên cố rồi, thì tâm chẳng thối chuyển, cũng chẳng tạp loạn. Không thể phá hoại được, cũng chẳng nhiễm trước. Thường có căn bản trí huệ, tuỳ thuận Thánh nhân, thường trụ nhà Phật (đạo tràng). Bồ Tát thường huân tu ở trong Phật pháp.

Hộ trì tất cả giống tánh của tất cả chư Phật. Tăng trưởng tin hiểu của tất cả Bồ Tát. Tuỳ thuận căn lành của tất cả Như Lai. Sinh ra phương tiện của tất cả chư Phật.

Trụ tại nhà Phật, phải hộ trì giống tánh của tất cả chư Phật, khiến cho giống Phật chẳng dứt, do đó: “Tục Phật huệ mạng”. Giảng Kinh thuyết pháp, là hoằng dương Phật pháp, khiến cho mọi người sớm thành Phật đạo. Tăng trưởng tất cả tin hiểu của tất cả Bồ Tát, tuỳ thuận căn lành tu hành của chư Phật, thì tự nhiên sẽ thành Phật. Thành Phật rồi, sẽ sinh ra pháp môn phương tiện của tất cả chư Phật, để giáo hoá chúng sinh.

Đó gọi là tín tạng của đại Bồ Tát.

Các đạo lý vừa nói ở trên, là pháp môn tín tạng thứ nhất của đại Bồ Tát tu hành.

Bồ Tát trụ nơi tín tạng nầy, sẽ nghe và thọ trì tất cả Phật pháp, vì chúng sinh diễn nói, đều khiến cho họ khai ngộ.

Bồ Tát thường tu hành tín tạng kiên cố. Tại sao ? Vì:

“Tin là nguồn đạo mẹ công đức
Dưỡng lớn tất cả các pháp lành”.

Có tâm tin, mới có thể tu hành, tu hành mới có thể khai ngộ, khai ngộ mới có đại trí huệ. Bồ Tát trụ ở trong tín tạng nầy, sẽ được nghe tất cả Phật pháp, mà thọ trì tất cả Phật pháp, do đó: “Y pháp tu trì”. Nghe trì tất cả Phật pháp rồi, rộng vì tất cả chúng sinh diễn nói diệu pháp nầy, khiến cho họ nghe pháp khai ngộ, y pháp tu hành, sẽ chứng quả vị Phật.

THỨ HAI: GIỚI TẠNG

Phật tử ! Những gì là giới tạng của đại Bồ Tát ?Ðại Bồ Tát Công Ðức Lâm lại gọi một tiếng: Các vị đệ tử của Phật ! Gì gọi là giới tạng của đại Bồ Tát tu hành ?

Bồ Tát nầy thành tựu: Giới khắp lợi ích. Giới chẳng thọ. Giới chẳng trụ. Giới không hối hận. Giới không trái cãi. Giới chẳng tổn hại. Giới không tạp uế. Giới không tham cầu. Giới không lỗi lầm. Giới không huỷ phạm.

Vị Bồ Tát nầy tu giới tạng, Ngài thành tựu mười thứ giới nầy:

1. Giới lợi ích khắp.
2. Giới chẳng thọ.
3. Giới chẳng trụ.
4. Giới không hối hận.
5. Giới không tranh cãi.
6. Giới chẳng tổn hại.
7. Giới không tạp uế.
8. Giới không tham cầu.
9. Giới không lỗi lầm.
10. Giới không huỷ phạm.

Ở dưới có sự giải thích tỉ mỉ.

Thế nào là giới lợi ích khắp ? Bồ Tát nầy thọ trì giới thanh tịnh, vốn là lợi ích tất cả chúng sinh.

Giới có ba tụ tịnh giới:

1. Luật nghi giới: Giới tất cả sự oai nghi.
2. Thiện pháp giới: Giới tu hành tất cả pháp lành.
3. Lợi ích chúng sinh giới: Giới lợi ích tất cả chúng sinh.

Gì là giới lợi ích khắp tất cả chúng sinh ? Vị Bồ Tát nầy tu giới tạng, thọ trì giới thanh tịnh, vì lợi ích tất cả chúng sinh. Gì là giới thanh tịnh ? Tức là giữ gìn năm giới: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Ðây là giới lớn căn bản. Vì giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, năm việc nầy trực tiếp, hoặc gián tiếp tổn hại sự an toàn và lợi ích chúng sinh. Vì vậy, cho nên Phật tử phải thọ trì giới khắp lợi ích chúng sinh.

Thế nào là giới chẳng thọ ? Bồ Tát nầy chẳng thọ tất cả các giới của ngoại đạo tu hành. Nhưng tánh tự tinh tấn. Phụng trì giới thanh tịnh bình đẳng của chư Phật Như Lai ba đời.

Gì là giới chẳng thọ ? Vị Bồ Tát nầy tu giới tạng, Ngài chẳng tiếp thọ tất cả tà giới của ngoại đạo tu hành. Vì giới của ngoại đạo đều là giới chẳng rốt ráo, cho nên chẳng thọ trì giới nầy. Nhưng tánh tự dũng mãnh tinh tấn, phụng trì giới báu kim cang quang minh thanh tịnh bình đẳng của chư Phật ba đời.
Ấn độ có rất nhiều ngoại đạo, tu trì giới chẳng thanh tịnh, có kẻ giữ giới bò, có kẻ giữ giới chó, có kẻ giữ giới nai, có kẻ giữ giới chim .v.v…học cách sống của loài súc sinh, nhận rằng có thể được sinh về trời, nhưng chẳng biết nhân quả. Ðây đều là tà giới, nên không thể thọ trì.

Thế nào là giới chẳng trụ ? Bồ Tát nầy thọ trì giới thì: Tâm chẳng trụ dục giới. Tâm chẳng trụ sắc giới. Tâm chẳng trụ vô sắc giới. Tại sao ? Vì chẳng cầu sinh về đó mà trì giới.

Gì là giới chẳng trụ ? Bồ Tát tu giới tạng, khi thọ trì giới, thì trong tâm chẳng có sự chấp trước dục niệm, chẳng có sắc tướng, chẳng có vô sắc tướng. Tam giới tức là : Dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Chúng sinh trong dục giới, có tình dục, thân hình, tâm thức. Chúng sinh ở sắc giới, tuy chẳng có tình dục, nhưng có thân hình, có tâm thức. Chúng sinh ở cõi vô sắc, chỉ có tâm thức mà thôi. Tóm lại, dục giới có tư tưởng dâm dục, sắc giới có ý niệm sắc đẹp, vô sắc giới có phân biệt chấp trước. Cho nên vẫn ở trong sinh tử luân hồi, mà không thoát khỏi được tam giới.
Bồ Tát chẳng muốn sinh về cõi trời, chẳng muốn hưởng thụ phước báo. Vì phước báo hưởng thụ hết, vẫn phải đoạ xuống nhân gian, để hưởng thụ phước báo dư thừa còn lại. Phàm là người vinh hoa phú quý, đa số là người trời sinh xuống nhân gian. Phàm là người nghèo hèn khổ sở, đa số là từ địa ngục tái sinh lên. Tuy nhiên không thể nói một cách đại khái, nhưng chẳng cách xa ngoài phạm vi nhân quả là bao. Bồ Tát vì chẳng cầu sinh về cõi trời, cho nên thọ trì giới chẳng trụ.

Thế nào là giới không hối hận ? Bồ Tát nầy luôn được an trụ tâm không hối hận, tại sao ? Vì chẳng làm tội nặng, chẳng làm xiểm nịnh dối trá, chẳng phá tịnh giới.

Gì là giới không hối hận ? Vị Bồ Tát nầy tu giới tạng, thường thường đắc được an trụ, tâm chẳng có hối hận. Tại sao ? Vì Ngài chẳng phạm hai lỗi, chẳng làm hai tội. Chẳng làm xiểm nịnh, chẳng dối trá. Chỉ thọ trì giới luật thanh tịnh, tuyệt đối chẳng phá tịnh giới.

Thế nào là giới không trái cãi ? Bồ Tát nầy chẳng trái với giới của Phật chế ra, cũng chẳng tạo lập lại. Tâm luôn tuỳ thuận giới hướng về Niết Bàn. Thọ trì đầy đủ, không có huỷ phạm. Chẳng vì trì giới mà não hại chúng sinh khác, khiến cho họ sinh khổ. Chỉ muốn cho tất cả chúng sinh tâm thường hoan hỉ, mà trì giới.

Gì là giới không trái cãi ? Vị Bồ Tát nầy tu giới tạng, Ngài chẳng trái, chẳng tranh cãi giới luật của chư Phật ba đời đã thành lập. Ngài chẳng tự thành lập giới luật khác. Trong tâm thường thường tuỳ thuận giới hướng về con đường Niết Bàn để tu hành. Thọ trì đầy đủ chẳng huỷ phạm. Ngài chẳng vì mình mà trì giới, để não hại chúng sinh khác. Chẳng nhiễu loạn chúng sinh, chẳng khiến cho chúng sinh có sự khổ não, chỉ muốn tất cả chúng sinh sinh tâm hoan hỉ. Do nhân duyên đó, mà thọ trì tịnh giới không trái cãi.

Thế nào là giới không não hại ? Bồ Tát chẳng vì trì giới mà học các chú thuật, tạo những phương thuốc não hại chúng sinh. Chỉ vì cứu hộ tất cả chúng sinh, mà trì giới.

Gì là giới chẳng não hại ? Bồ Tát tu tịnh giới, chẳng vì trì giới mà học tà pháp của ngoại đạo, chú thuật của Thiên ma, hoặc chế tạo các thuốc mê hồn .v.v… để não hại chúng sinh, để thương hại chúng sinh. Bồ Tát vì cứu hộ tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, cho nên thọ trì tịnh giới chẳng não hại chúng sinh.

Thế nào là giới chẳng tạp ? Bồ Tát nầy chẳng chấp biên kiến, chẳng trì tạp giới. Chỉ quán duyên khởi, trì giới thoát khỏi ba cõi.

Gì là giới chẳng tạp ? Vị Bồ Tát nầy tu tịnh giới, Ngài chẳng chấp trước biên kiến, tức là chẳng chấp thường, chẳng chấp đoạn hai bên tà kiến. Chẳng giữ tạp giới, tức là chẳng giữ tà giới của bàng môn tả đạo. Chỉ quán sát đạo lý mười hai nhân duyên sinh diệt, mà thọ trì tịnh giới thoát khỏi ba cõi.

Thế nào là giới không tham cầu ? Bồ Tát nầy chẳng hiện tướng khác lạ, hình ảnh mình có đức. Chỉ vì đầy đủ pháp pháp xuất ly mà trì giới.

Gì là giới không tham cầu ? Vị Bồ Tát nầy tu giới tạng, Ngài chẳng hiện tướng đặc biệc, để hình ảnh mình có đức, hoặc tham đồ cúng dường. Người tu đạo đừng dùng năm phương pháp tà mạng (nuôi mạng sống bất chánh), để duy trì đời sống:

1. Trá hiện tướng lạ.
2. Thỉnh người cúng dường.
3. Chiêm tướng cát hung.
4. Lớn tiếng hiện oai.
5. Nói công đức mình.

Năm thứ hành vi nầy, đều là biểu hiện sự pháp giới. Bồ Tát chẳng có những tham cầu bất chánh như thế. Chỉ vì đầy đủ pháp xuất ly thế gian, mà thọ trì tịnh giới không tham cầu.

Thế nào là giới không lỗi lầm ? Bồ Tát nầy chẳng tự cống cao, nói mình trì giới. Thấy người phá giới, cũng chẳng khinh thị phỉ báng, khiến cho họ hổ thẹn, chỉ một lòng trì giới.

Gì là giới không lỗi lầm ? Vị Bồ Tát nầy tu giới tạng, Ngài chẳng có tâm kiêu ngạo, chẳng cống cao, chẳng ngã mạn. Chẳng đề cao đức hạnh của mình, nói tôi là người trì tịnh giới. Nếu thấy người phá giới, cũng chẳng phỉ báng, chẳng khinh thường, chẳng nói lỗi của họ, chẳng nói tội của họ. Chỉ dùng thân làm khuôn phép, khiến cho đối phương sinh tâm hổ thẹn. Chỉ một lòng thọ trì giới luật.

Thế nào là giới không huỷ phạm ? Bồ Tát nầy vĩnh viễn dứt trừ giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, chưởi mắng, và lời vô nghĩa, tham sân si, tà kiến. Thọ trì đầy đủ mười nghiệp lành. Lúc Bồ Tát trì giới không huỷ phạm, nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh huỷ phạm tịnh giới, đều do điên đảo. Chỉ có đức Phật Thế Tôn, biết được chúng sinh, bởi nhân duyên gì, mà sinh tâm điên đảo, huỷ phạm tịnh giới. Tôi phải thành tựu vô thượng bồ đề, rộng vì chúng sinh nói pháp chân thật, khiến cho họ lìa điên đảo.

Gì là giới không huỷ phạm ? Vị Bồ Tát nầy tu giới tạng, Ngài đã vĩnh viễn dứt sạch hành vi mười điều ác. Phụng hành pháp thập thiện, tức cũng là ba nghiệp thanh tịnh. Thân nghiệp có ba pháp lành:

1. Không giết hại, ngược lại phóng sinh.
2. Không trộm cắp, ngược lại bố thí.
3. Không tà dâm, vì Bồ Tát vẫn là người xuất gia. Nếu là người xuất gia thì tuyệt đối cấm dâm.
Nghiệp miệng có bốn pháp lành:
1. Không nói dối, nói lời chân thật.
2. Không nói hai lưỡi, đối với ông A không nói chuyện thị phi của ông B, đối với ông B không nói lời thị phi của ông A.
3. Không chưởi mắng, tuyệt đối không mắng người, không phê bình người.
4. Không nói lời vô nghĩa, tức là thêu dệt, chẳng nói về chuyện tư tình nam nữ, chẳng tả tình ái nam nữ.

Ý nghiệp có ba pháp lành:

1. Không tham, biết đủ thì an vui.
2. Không sân, hoà mục tương xứ.
3. Tà kiến, tức là ngu si, nếu chẳng ngu si, thì trí huệ sẽ hiện tiền. Bồ Tát thọ trì đầy đủ mười nghiệp lành nầy.

Khi Bồ Tát thọ trì giới không huỷ phạm, Ngài quán tưởng như vầy: “Tất cả chúng sinh tại sao phải huỷ phạm giới thanh tịnh ? Vì chúng sinh có tà tri tà kiến, cho nên cứ làm việc điên đảo. Chỉ có Phật mới biết nhân duyên gì mà chúng sinh điên đảo, huỷ phạm giới luật thanh tịnh. Tôi phải thành tựu vô thượng bồ đề, rộng vì chúng sinh diễn nói pháp chân thật, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi điên đảo”.

Đó là giới tạng thứ hai của đại Bồ Tát.

Ðạo lý vừa nói ở trên là pháp môn giới tạng thứ hai của đại Bồ Tát tu hành.

Phật tử ! Những gì là tàm tạng của đại Bồ Tát ?

Bồ Tát Công Ðức Lâm lại gọi một tiếng: Các vị đệ tử của Phật ! Gì gọi là tàm tạng của đại Bồ Tát tu hành ?

Bồ Tát nầy nghĩ nhớ các điều ác đã làm trong quá khứ, mà sinh tâm hổ thẹn.

Vị Bồ Tát nầy tu tàm tạng, Ngài hồi tưởng nghĩ nhớ lại, đời đời kiếp kiếp trong quá khứ, đã làm đủ thứ các việc ác, mà sinh tâm hổ thẹn, sửa lỗi làm mới.

Bồ Tát đó tâm tự nghĩ rằng: Tôi từ đời vô thuỷ đến nay, với các chúng sinh đều cùng nhau làm cha mẹ, anh em, chị em, nam nữ. Đủ tham, sân, si, kiêu mạn, xiểm nịnh, dối trá, và tất cả các phiền não khác, nên não hại với nhau, lăng đoạt lẫn nhau, gian dâm giết hại lẫn nhau, chẳng có việc ác nào mà không làm.

Bồ Tát tu tàm tạng, Ngài trong tâm quán tưởng như vầy: “Tôi từ vô thuỷ kiếp cho đến nay, với tất cả chúng sinh, cùng nhau làm lục thân quyến thuộc. Ðời này tôi làm cha mẹ, đời sau lại làm con cái, thay đổi lẫn nhau. Ðời nầy làm anh em, đời trước làm chị em, cho đến nam nữ (vợ chồng), luân chuyển tuần hoàn, giống như diễn kịch. Tại một đời nầy, lúc diễn vai nầy, lúc diễn vai khác. Ðầy đủ tâm tham, tâm sân, tâm si. Lại có tâm kiêu ngạo tự mãn, lại có tâm xiểm nịnh dối trá. Vì có tất cả phiền não, cho nên não hại lẫn nhau. Bạn làm tôi phiền não, tôi làm bạn phiền não. Bạn làm thương hại tôi, tôi làm thương hại bạn. Bạn chướng ngại tôi, tôi chướng ngại bạn. Bạn quấy nhiễu tôi, tôi quấy nhiễu bạn, lăng nhục lẫn nhau, báo thù lẫn nhau. Làm việc gian dâm, làm việc giết hại, chẳng có việc ác gì mà không làm. Do đó mà đời đời kiếp kiếp trở thành tội nhân đại tội ác”.

Tất cả chúng sinh, cũng đều như vậy. Vì các phiền não mà tạo ra các tội ác. Cho nên người người chẳng cung kính nhau, chẳng tôn trọng nhau, chẳng tuỳ thuận nhau, chẳng khiêm nhường nhau, chẳng chỉ dạy nhau, chẳng hộ tiếc nhau, lại giết hại nhau, oán thú lẫn nhau.

Bồ Tát lại nghĩ: Chẳng những tôi là tình hình như vậy, hết thảy tất cả chúng sinh, cũng đều tình hình như vậy. Vì vô minh mà điên đảo, cho nên tạo ra đủ thứ nghiệp ác. Vì nhân duyên đó, cho nên người người chẳng cung kính lẫn nhau, chẳng tôn trọng nhau, chẳng tuỳ thuận nhau, chẳng khiêm nhường nhau, chẳng chỉ dẫn nhau, chẳng ái tiếc nhau. Chẳng có tâm từ bi, chẳng có tâm thương xót, chỉ có tâm ích kỷ lợi mình, chỉ có tâm tham danh tham lợi, bạn tranh tôi đoạt, tạo thành thảm kịch tàn sát lẫn nhau, oán thù lẫn nhau. Tình hình nầy thật khiến cho người không lạnh mà run. Lúc nầy mặt người mà lòng dạ thú, chẳng có tơ hào lương tri, hoặc cảm tình tồn tại.

Tự nghĩ tôi và các chúng sinh, quá khứ vị lai hiện tại, thực hành pháp không hổ thẹn. Ba đời chư Phật đều thấy biết. Nếu nay không đoạn trừ hạnh không hổ thẹn, thì chư Phật ba đời cũng sẽ thấy tôi. Sao tôi vẫn thực hành không dứt, không thể được.

Bồ Tát nói: Tôi tự nghĩ thân thể tôi và tất cả chúng sinh. Trong quá khứ, vị lai, hiện tại trong ba đời, thường hành pháp không hổ thẹn, chuyên làm nghiệp ác tạo tội. Hành vi không hổ thẹn của tôi và chúng sinh, ba đời chư Phật đều biết mà nhìn thấy rất rõ ràng. Nếu hiện tại hành vi không hổ thẹn chẳng dứt, thì ba đời chư Phật cũng biết nhìn thấy được. Tôi phải làm sao ? Vẫn hành pháp không hổ thẹn chẳng ngừng chăng ? Ðây tuyệt đối không thể được ! Tôi phải đoạn trừ hành vi không hổ thẹn, mà tu pháp hổ thẹn.

Do đó, tôi phải chuyên tâm đoạn trừ, để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, rộng vì chúng sinh nói pháp chân thật.

Vì nhân duyên đó, cho nên tôi phải chuyên tâm để dứt trừ hành vi không hổ thẹn. Tôi phải chứng được quả Phật Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, rộng vì chúng sinh diễn nói Phật pháp chân thật, khiến cho chúng sinh nghe pháp khai ngộ, y pháp phụng hành.

Đó gọi là tàm tạng thứ ba của đại Bồ Tát.

Ðạo lý vừa nói ở trên, là pháp môn tàm tạng thứ ba của đại Bồ Tát tu hành.

THỨ TƯ: QUÝ TẠNG

Phật tử ! Những gì là quý tạng của đại Bồ Tát ?

Ðại Bồ Tát Công Ðức Lâm lại gọi một tiếng: Các vị đệ tử của Phật ! Gì gọi là quý tạng của đại Bồ Tát tu hành ?

Bồ Tát nầy tự thẹn, từ thuở xưa đến nay, ở trong năm dục, có đủ thứ sự tham cầu, không biết nhàm đủ. Do đó mà tăng trưởng tham, sân, si, tất cả phiền não. Nay tôi không nên làm việc này nữa.

Vị Bồ Tát nầy tu quý tạng, tự sinh tâm thẹn ăn năn. Nghĩa là cảm thấy mình làm những việc có lỗi với người, trong tâm có sự hổ thẹn, thệ nguyện từ nay về sau không tái phạm nữa. Trong Luận Du Già có nói:

“Trong sinh tâm sấu hổ là tàm
Ngoài sinh tâm sấu hổ là quý”.

Chánh nhân quân tử, một đời làm việc, ngửa mặt lên không thẹn với trời, cúi xuống không tủi với đất, quang minh lỗi lạc. Vị Bồ Tát nầy, tự thẹn từ thuở xưa vô lượng kiếp đến nay, ở trong năm dục, có đủ thứ sự tham cầu. Tham trước sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần. Cảnh giới năm trần nầy, hay khiến cho con người điên đảo mà mê hoặc. Hoặc tham luyến tài, sắc, danh, ăn, ngủ. Năm dục nầy là địa ngục năm căn, người tu đạo phải cẩn thận, đừng bị cảnh giới năm trần làm lay chuyển, mà phải dùng ý chí kim cang, định lực kiên cố để chuyển cảnh giới. Tức cũng là như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt. Nếu chẳng lay động, thì sẽ chuyển được cảnh giới.

Vị Bồ Tát nầy tự thẹn đối với năm dục có đủ thứ sự tham cầu, chẳng có lúc nào nhàm chán, hoặc biết đủ. Vì tham mà không chán, cho nên tăng trưởng tham, sân, si, mạn, nghi, tất cả phiền não.

Vị Bồ Tát nầy nói: “Hiện tại tôi không nên tham vui năm dục nữa, phải mau tu pháp môn thanh tịnh”.

Bồ Tát lại nghĩ như vầy: Chúng sinh chẳng có trí huệ, khởi các phiền não, làm đủ các pháp ác. Chẳng cung kính nhau, chẳng tôn trọng nhau, cho đến triển chuyển oán thù lẫn nhau. Các việc ác như vậy, chẳng có việc gì mà không làm. Tạo rồi hoan hỉ, tìm cầu sự khen ngợi. Đui mù không có mắt trí huệ, chẳng thấy biết gì.

Bồ Tát lại quán tưởng như vầy: Hết thảy tất cả chúng sinh, vì chẳng có mắt trí huệ, nên sinh ra tất cả phiền não, mới làm tất cả pháp ác, cho nên ai ai cũng chẳng cung kính nhau, chẳng tôn trọng nhau. Cho đến triển chuyển oán thù lẫn nhau. Những việc ác như vậy đều làm hết, làm rồi lại sinh tâm vui mừng, truy cầu việc ác, mà tự khen ngợi, cho rằng là hài lòng. Giống như người mù, chẳng có mắt trí huệ, chẳng biết chẳng thấy, tự làm việc quấy, mà còn cho rằng là đúng.

Ở trong bụng mẹ, nhập thai thọ sinh, thành thân nhơ bẩn. Cho đến lúc tóc bạc mặt nhăn. Người có trí huệ quán sát, đây chỉ là từ dâm dục mà sinh ra, chẳng phải là pháp thanh tịnh. Ba đời chư Phật thảy đều thấy biết. Nếu nay tôi vẫn làm việc đó, tức là khi dối chư Phật ba đời. Cho nên tôi phải tu hành hổ thẹn, sớm thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, rộng vì chúng sinh nói pháp chân thật.

Con người ỏ trong bụng mẹ, nhập thai thọ sinh, do tinh cha huyết mẹ thành thân dơ bẩn. Sinh ra rồi, từ nhỏ lớn lên, rồi trưởng thành, sau đó già nua, đầu tóc bạc phơ, mặt mày nhăn nhó, đi đứng chẳng linh động. Người có trí huệ, quán sát sự biến hoá nầy, thân thể là do từ dâm dục mà sinh ra, chẳng phải là pháp thanh tịnh. Ba đời chư Phật đều biết đều thấy. Giả sử, hiện tại tôi không sửa đổi, vẫn tham chấp năm dục như trước, tăng trưởng ba độc, đó là khi dối ba đời chư Phật. Vì nhân duyên nầy, cho nên tôi phải tu hành pháp quý tạng, sớm thành tựu quả Phật Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, rộng vì tất cả chúng sinh diễn nói Phật pháp chân thật.

Đó gọi là quý tạng thứ tư của đại Bồ Tát.

Ðạo lý vừa nói ở trên, là pháp môn quý tạng thứ tư của đại Bồ Tát tu hành.

THỨ NĂM:  VĂN TẠNG

Phật tử ! Những gì là văn tạng của đại Bồ Tát ?

Ðại Bồ Tát Công Ðức Lâm lại gọi một tiếng: Các vị đệ tử của Phật ! Gì là văn tạng của đại Bồ Tát tu hành ?

Bồ Tát nầy biết: Việc nầy có, nên việc nầy có. Việc nầy không, nên việc nầy không. Việc nầy khởi, nên việc nầy khởi. Việc nầy diệt, nên việc nầy diệt. Là pháp thế gian. Là pháp xuất thế gian. Là pháp hữu vi. Là pháp vô vi. Là pháp hữu ký. Là pháp vô ký.

Vị Bồ Tát nầy tu văn tạng, Ngài biết mười thứ pháp nầy, là từ nghe nhiều mà đắc được. Do đó: “Bác học đa văn”, mới có trí huệ, nếu “Cô lậu quả văn”, tức là ngu si. Những gì là mười pháp ? Ðó là:

1. Vì việc nầy có, cho nên việc nầy có.
2. Vì việc nầy không, cho nên việc nầy không.
3. Vì việc nầy duyên khởi, cho nên việc nầy duyên khởi.
4. Vì việc nầy tịch diệt, cho nên việc nầy tịch diệt.
5. Pháp nầy là pháp thế gian.
6. Pháp kia là pháp xuất thế gian.
7. Hoặc là pháp hữu vi.
8. Hoặc là pháp vô vi.
9. Hoặc là pháp có số ký.
10. Hoặc là pháp vô số ký.

Dưới đây sẽ giải thích tỉ mỉ.

Những gì là việc nầy có, nên việc nầy có ? Đó là vô minh có, nên hành có. Những gì là việc nầy không, nên việc nầy không ? Đó là thức không, nên danh sắc không. Những gì là việc nầy khởi, nên việc nầy khởi ? Đó là ái khởi, nên khổ khởi. Những gì là việc nầy diệt, nên việc nầy diệc ? Đó là hữu diệt, nên sinh diệt.

Gì là việc nầy có nên việc nầy có ? Vì ai ai cũng đều có vô minh. Có vô minh, thì có hành. Ðoạn Kinh văn nầy nói về đạo lý mười hai nhân duyên. Gì là vô minh ? Tức là chẳng hiểu biết, chẳng hiểu biết tức là điên đảo. Do đó: “Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo”, đều từ vô minh mà khởi. Vì chẳng hiểu biết, nên có hành vi điên đảo. Có hành vi điên đảo, thì tất cả tất cả đều hiện ra.
Gì là việc nầy không nên việc nầy không ? Ðây là nói chẳng có thức, thì chẳng có danh sắc. Vì một niệm vô minh khởi lên, thì có tánh hành vi. Có tánh hành vi rồi, thì có thức (thai nhi). Có thức thì có danh sắc, danh là hệ thống thần kinh của thai nhi, sắc là nhục thể của thai nhi. Nếu chẳng có thức, thì chẳng có danh sắc.

Gì là việc nầy khởi, nên việc nầy khởi ? Tức là nói nhân duyên của ái sinh khởi rồi, thì sẽ có khổ. Có ái cảm thấy rất khoái lạc, kỳ thật, khoái lạc là nguồn gốc của khổ đau. Do đó: “Ðoạn dục khử ái”, đây mới là pháp cơ bản của sự tu đạo.

Gì là việc nầy diệt, nên việc nầy diệt ? Tức là nói hữu diệt rồi, thì chẳng có sinh. Sinh diệt rồi, thì chẳng có già chết, đây là nguồn gốc giải quyết vấn đề sinh tử, không còn thọ khổ luân hồi nữa, mà đắc được vui Niết Bàn.

Mười hai nhân duyên phân làm hai cửa: Một là cửa lưu chuyển, hai là cửa hoàn diệt. Cửa lưu chuyển là: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử. Ðây là nhân quả ba đời, nhân duyên cảm khổ nghiệp, cuối rồi lại bắt đầu, luân hồi không gián đoạn. Cửa hoàn diệt là: Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử diệt. Do đó có thể biết, vô minh diệt thì chẳng còn sinh tử. Cho nên chỉ cần đoạn vô minh, thì chẳng có phiền não gì nữa.

Những gì là pháp thế gian ? Đó là: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Gì là pháp thế gian ? Tức là pháp hữu lậu, có lối nói là năm uẩn, tức là: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, năm thức sắc tâm pháp. Sắc nghĩa là biến ngại: Những gì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc, đều là sắc pháp. Thọ nghĩa là lãnh nạp: Cảnh giới trong tâm tiếp thọ, liền sinh khởi sự cảm thọ tác dụng. Tưởng nghĩa là thủ tượng: Năm căn tiếp thọ năm trần rồi, liền sinh ra tư tưởng. Hành nghĩa là phiên lưu: Có tư tưởng rồi, liền có biểu hiện hành vi. Thức nghĩa là liễu biệt: Có hành vi rồi, liền sinh ra tâm phân biệt thương ghét. Tóm lại, sắc uẩn do nhân duyên mà có, pháp hữu vi. Thọ tưởng hành thức bốn uẩn do vọng niệm sinh ra, là tâm pháp. Ðây đều là pháp thế gian.

Những gì là pháp xuất thế gian ? Đó là: Giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.

Gì là pháp xuất thế gian ? Tức là pháp vô lậu, có lối nói là năm phần pháp thân. Tức cũng là : Giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Nhờ năm công đức nầy mà thành tựu thân Phật. Do giới sinh ra định, do định sinh ra huệ, do huệ đoạn trừ được hoặc, hoặc dứt thì được giải thoát. Giải thoát phá được tất cả chướng, phản chiếu quán tâm, tức là giải thoát tri kiến.

Nói đơn giản.

– Giới: Ðoạn trừ được các việc ác, hay tu các việc lành.

– Ðịnh: Tin sâu pháp đại thừa, tâm vĩnh viễn chẳng thối chuyển.

– Huệ: Tâm chẳng chướng ngại, chiếu rõ tự tánh. Quán sát thân tâm, mà chẳng chấp trước.

– Giải thoát: Cởi mở sự ràng buộc của nghiệp hoặc, thoát khỏi quả khổ ba cõi.

– Giải thoát tri kiến: Tức là hậu đắc trí. Do giải thoát mà đắc được giải thoát tri kiến. Ðây là pháp xuất thế gian.

Những gì là pháp hữu vi ? Đó là : Dục giới, sắc giới, vô sắc giới, chúng sinh giới.

Gì là pháp hữu vi ? Tức là pháp có chỗ làm, là pháp nương nhân duyên mà làm. Ðây là sự tướng khác biệt. Nói về dục giới, có hình tướng nam nữ, do dâm dục mà thọ thân. Sắc giới, tuy nhiên chẳng có hình tướng nam nữ, nhưng có tất cả sắc tướng. Vô sắc giới, tuy nhiên vô sắc tướng, nhưng vẫn còn có tâm chấp trước. Chúng sinh giới, do chúng duyên tụ tập mà có sinh. Ðây đều là pháp hữu vi.

Những gì là pháp vô vi ? Đó là: Hư không, Niết Bàn, số duyên diệt, phi số duyên diệt, duyên khởi, pháp tánh trụ.

Gì là pháp vô vi ? Tức là pháp không chỗ làm. Tức cũng là pháp lìa nhân duyên làm nên. Là lý tánh bình đẳng. Nói về hư không: Tức là lìa khỏi tất cả chướng ngại, chẳng có vật có thể hiển hiện ra. Niết Bàn: Vì tánh tịch diệt, là tánh tịnh Niết Bàn. Quả của sự tánh tịnh là viên tịnh Niết Bàn. Số duyên diệt: Số là huệ số, do huệ làm duyên, lựa chọn các hoặc, hiển được lý diệt. Phi số duyên diệt: Chẳng phải do huệ số diệt hoặc đắc được. Chỉ dùng tánh tịnh và duyên khuyết hiển ra. Duyên khởi: Tức là mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên tức là Phật tánh, cho nên là vô pháp tánh. Pháp tánh trụ: Tức là chân như, thể tánh của các pháp, lìa hư vọng mà chân thật là chân, thường trụ không đổi là như. Tánh của chân như là pháp, cho nên là pháp tánh. Còn là tánh Như Lai tạng, viên thành thật tánh, Phật tánh, pháp giới .v.v…đây đều là pháp vô vi.

Những gì là pháp hữu ký ? Đó là: Bốn Thánh đế, bốn quả Sa Môn, bốn biện, bốn vô sở uý, bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác phần, tám Thánh đạo phần.

Gì là pháp hữu ký ? Tức là có thiện, có ác, có thể chiêu cảm ái phi ái quả, cho nên, có thể ký lục (ghi nhớ).

– Bốn Thánh Ðế, tức là: Khổ, tập, diệt, đạo.

– Bốn quả Sa Môn, tức là: Quả Tu đà hoàn, dịch là nhập lưu. Quả Tư đà hàm, dịch là nhất lai. Quả A na hàm, dịch là bất lai. Quả A la hán, dịch là vô sinh.

– Bốn biện, tức là bốn biện vô ngại: Pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại, nhạo thuyết vô ngại.

– Bốn vô sở uý: Tức là nhất thiết trí vô sở uý, lậu tận vô sở uý, nói chướng đạo vô sở uý, nói đạo hết khổ vô sở uý.

– Bốn niệm xứ, tức là: Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.

– Bốn chánh cần, tức là: Điều ác đã sinh khiến dứt trừ, điều ác chưa sinh khiến cho đừng sinh, điều thiện chưa sinh khiến cho sinh ra, điều thiện đã sinh khiến cho tăng trưởng.

– Bốn thần túc, tức là bốn như ý túc: Dục như ý túc, tâm như ý túc, cần như ý túc, huệ như ý túc.

Năm căn, tức là: Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.

Năm lực, tức là : Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực.

Bảy giác phần, tức là: Trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỷ giác phần, khinh an giác phần, niệm giác phần, định giác phần, xả giác phần.

Tám Thánh đạo phần, tức là: Chánh kiến, chánh ngữ, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Ðây là ba mười bảy phẩm trợ đạo.

Những gì là pháp vô ký ? Đó là: Thế gian có bờ mé, thế gian không bờ mé. Thế gian cũng có bờ mé, cũng không bờ mé. Thế gian chẳng bờ mé, chẳng không bờ mé vô. Thế gian có thường, thế gian vô thường. Thế gian cũng có thường, cũng vô thường. Thế gian chẳng có thường, chẳng vô thường. Như Lai diệt rồi có, Như Lai diệt rồi không. Như Lai diệt rồi cũng có cũng không. Như Lai diệt rồi chẳng có chẳng không. Tôi và chúng sinh có, tôi và chúng sinh không. Tôi và chúng sinh cũng có cũng không. Tôi và chúng sinh chẳng có chẳng không.

Gì là pháp vô ký (chẳng nghi nhớ)? Tức là chẳng thiện chẳng ác, không thể chiêu cảm quả ái chẳng ái, không thể ký lục. Ðó là thế gian có bờ mé ? Thế gian chẳng có bờ mé ? Thế gian cũng có bờ mé, cũng chẳng có bờ mé ? Thế gian chẳng phải có bờ mé, cũng chẳng phải không bờ mé ? Thế gian là có thường ? Thế gian là vô thường ? Thế gian cũng có thường cũng vô thường ? Thế gian chẳng phải có thường, cũng chẳng phải vô thường ? Như Lai diệt rồi là có ? Như Lai diệt rồi là không ? Như Lai diệt rồi cũng có cũng không ? Như Lai diệt rồi chẳng phải có chẳng phải không ? Tôi và chúng sinh là có ? Tôi và chúng sinh là không ? Tôi và chúng sinh cũng có cũng không ? Tôi và chúng sinh chẳng phải có chẳng phải không ? Bốn câu hỏi nầy, không cách chi ghi nhớ, nên gọi là vô ký.

Quá khứ có bao nhiêu Như Lai vào Niết Bàn, bao nhiêu Thanh Văn, Bích Chi Phật vào Niết Bàn. Vị lai có bao nhiêu Như Lai, bao nhiêu Thanh Văn Bích Chi Phật, bao nhiêu chúng sinh. Hiện tại có bao nhiêu đức Phật trụ, bao nhiêu Thanh Văn Bích Chi Phật trụ, bao nhiêu chúng sinh trụ ?

Trong quá khứ có bao nhiêu Như Lai vào Niết Bàn ? Có bao nhiêu Thanh Văn vào Niết Bàn ? Có bao nhiêu Bích Chi Phật vào Niết Bàn ? Vị lai có bao nhiêu Như Lai ? Có bao nhiêu Thanh Văn ? Có bao nhiêu Bích Chi Phật ? Có bao nhiêu chúng sinh ? Hiện tại có bao nhiêu đức Phật trụ ? Có bao nhiêu Thanh Văn trụ ? Có bao nhiêu Bích Chi Phật trụ ? Có bao nhiêu chúng sinh trụ ? Tam thừa phàm Thánh có bao nhiêu ? Ðây cũng là vô biên vô số, không thể ghi nhớ.

Những vị Như Lai nào ra đời trước nhất, những vị Thanh Văn Bích Chi Phật nào ra đời trước nhất, những vị chúng sinh nào ra đời trước nhất? Những vị Như Lai nào ra đời sau cùng, những vị Thanh Văn Bích Chi Phật nào ra đời sau cùng, những chúng sinh nào ra đời sau cùng? Pháp nào trước nhất, pháp nào sau cùng ?

Những vị Như Lai nào ra đời trước nhất ? Những vị Thanh Văn nào ra đời trước nhất ? Những vị Bích Chi Phật nào ra đời trước nhất ? Những vị Như Lai nào ra đời sau nhất ? Những vị Thanh Văn nào ra đời sau nhất ? Những vị Bích Chi Phật nào ra đời sau nhất ? Pháp gì trước nhất ? Pháp gì sau nhất ? Ðây cũng là pháp không thể ghi nhớ.

Thế gian từ nơi nào đến, đi về chỗ nào? Có bao nhiêu thế giới thành, có bao nhiêu thế giới hoại? Thế giới từ nơi nào đến, đi về chỗ nào ?

Thế gian từ đâu đến ? Thế gian đi về đâu ? Có bao nhiêu thế giới thành ? Lại có bao nhiêu thế giới hoại ? Thế giới từ nơi nào đến ? Lại đi về đâu ? Ðây cũng là pháp không thể ghi nhớ.

Những gì là bờ mé ban đầu của sinh tử, những gì là bờ mé cuối cùng của sinh tử ? Đó gọi là pháp vô ký.

Gì là bờ mé ban đầu của sinh tử ? Gì là bờ mé cuối cùng của sinh tử ? Những vấn đề nầy cũng không thể ghi nhớ.
Ðạo lý ở trên vừa nói đều là pháp vô ký.

Đại Bồ Tát, bèn nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh, ở trong sinh tử, không có đa văn, không thể biết rõ tất cả những pháp nầy. Tôi phải phát tâm, trì tạng đa văn, để chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì các chúng sinh mà nói pháp chân thật.

Ðại Bồ Tát, Ngài quán tưởng như vầy: “Hết thảy chúng sinh, đều đến đi ở trong sinh tử luân hồi, chẳng có trí huệ nghe nhiều, không thể biết rõ tất cả pháp vừa nói ở trên: Tức là pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Pháp hữu vi, pháp vô vi. Pháp hữu ký, pháp vô ký. Tôi phải thọ trì tạng đa văn, để chứng được Phật quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, rộng vì tất cả chúng sinh diễn nói pháp chân thật, khiến cho họ minh bạch pháp nầy”.

Đó là tạng đa văn thứ năm của đại Bồ Tát.

Ðạo lý vừa nói ở trên, là pháp môn tạng đa văn thứ năm của đại Bồ Tát tu hành.

THỨ SÁU: THÍ TẠNG

Phật tử ! Những gì là thí tạng của đại Bồ Tát ?

Ðại Bồ Tát Công Ðức Lâm lại gọi một tiếng: Các vị đệ tử của Phật ! Gì gọi là thí tạng của đại Bồ Tát tu hành ? Kinh văn phân làm mười đoạn để thuyết minh.

Bồ Tát nầy thực hành mười thứ bố thí. Đó là: Phân giảm thí, kiệt tận thí, nội thí, ngoại thí, nội ngoại thí, nhất thiết thí, quá khứ thí, vị lai thí, hiện tại thí, cứu kính thí.

Vị Bồ Tát nầy tu tạng thí, Ngài tu hành mười thứ pháp môn bố thí. Ðó là:

1. Phân giảm thí.
2. Kiệt tận thí.
3. Nội thí.
4. Ngoại thí.
5. Nội ngoại thí.
6. Nhất thiết thí.
7. Quá khứ thí.
8. Vị lai thí.
9. Hiện tại thí.
10. Cứu kính thí.

Ở dưới có giải thích rõ ràng.

Phật tử ! Những gì là Bồ Tát phân giảm thí ? Bồ Tát nầy bẩm tánh nhân từ, thích làm bố thí. Nếu có thức ăn ngon, chẳng tự ăn một mình, mà muốn ban cho chúng sinh, sau đó mới ăn. Phàm tất cả vật nhận được, cũng đều như vậy.

Các vị Phật tử ! Gì là phân giảm thí của Bồ Tát tu ? Vị Bồ Tát nầy tu phân giảm thí, bẩm tánh của Ngài nhân ái từ mẫn, Ngài ưa thích bố thí. Nếu được thức ăn ngon, Ngài chẳng thọ dụng một mình, mà là phân chia cho tất cả chúng sinh, để mọi người cùng ăn, sau đó mới chịu ăn thức ăn ngon. Do đó: “Xả mình vì người”, phàm là thọ đồ cúng dường, như quần áo, đồ nằm, thuốc men, châu báu .v.v…cũng đều như vậy, trước hết phân chia cho chúng sinh, sau đó mình mới thọ dụng.

Nếu lúc mình ăn, bèn nghĩ như vầy: Trong thân của tôi có tám vạn hộ trùng, nương tôi mà ở. Thân tôi sung túc, thì chúng cũng sung túc. Thân tôi đói khổ, thì chúng cũng đói khổ. Nay tôi thọ tất cả thức ăn uống nầy, nguyện khiến cho cho tất cả chúng sinh, khắp được no đủ. Vì bố thí cho chúng, nên tôi tự ăn, chứ chẳng tham vị ngon.

Vị Bồ Tát nầy, khi Ngài ăn thức ăn ngon, bèn nghĩ như vầy: “Ở trong thân tôi, có tám vạn bốn ngàn con vi trùng, chúng nương thân tôi mà tồn tại. Do đó: “Nương nhau mà sống”. Tôi ăn no mới an vui, chúng cũng ăn no mới an vui. Nếu thân thể tôi đói khổ, thì chúng cũng đói khổ. Hiện tại tôi ăn những thức ăn ngon nầy, xin khiến cho chúng khắp được no đủ. Vì tám vạn bốn ngàn con vi trùng nầy tồn tại, cho nên mới ăn uống. Nhưng chẳng tham vị ngon, chẳng phân biệt mặn ngọt đắng cay chua năm vị, mà là gián tiếp cúng dường cho những con vi trùng nầy”.

Lại nghĩ như vầy: Tôi ở trong đêm dài, mến chấp thân nầy, muốn khiến cho sung túc, mà ăn uống. Nay đem những thức ăn nầy, bố thí cho chúng sinh. Nguyện thân thể tôi vĩnh viễn dứt tham chấp, đó gọi là phân giảm thí.

Vị Bồ Tát nầy, lại quán tưởng như vầy: “Tôi ở trong bao đêm dài, đam ái chấp trước thân thể của tôi, bảo vệ thân thể của tôi. Lúc nào, ở đâu, vì khiến cho thân thể sung túc mà thọ tất cả thức ăn uống. Hiện tại dùng những thức ăn uống của tôi bố thí cho tất cả chúng sinh. Nguyện cho thân thể của tôi vĩnh viễn lìa khỏi tham ái, mà chẳng chấp trước”. Ðây là Bồ Tát tu thí tạng, là pháp môn tu hành phân giảm thí thứ nhất.

Thế nào là Bồ Tát kiệt tận thí ? Phật tử ! Bồ Tát nầy được các thứ thức ăn uống thượng hạng, hương hoa, quần áo, đồ tư sanh. Nếu tự thọ dụng thì an vui sống lâu. Nếu mình chẳng dùng mà đem bố thí cho người, thì sẽ nghèo khổ chết sớm.

Gì là Bồ Tát tu hành kiệt tận thí ? Các vị Phật tử ! Vị Bồ Tát nầy, Ngài đắc được các thứ thức ăn uống thượng hạng nhất, và quần áo cùng với hương hoa .v.v… Đủ thứ đồ dưỡng mạng sống. Nếu tự mình thọ dụng, thì sẽ được an ổn sung sướng, lại được sống lâu trường thọ. Nếu tự mình không dùng, mà đem bố thí cho người khác, thì mình sẽ nghèo cùng khốn khổ, mạng sống chẳng được bao lâu.

Bấy giờ, hoặc có người đến nói như vầy: Nay Ngài hãy đem tất cả ban cho tôi. Bồ Tát tự nghĩ: Tôi từ vô thuỷ đến nay, vì đói khát, mà đã mất đi vô số thân, chưa từng lợi ích cho chúng sinh, dù nhỏ như sợi lông, để được lợi lành. Nay tôi cũng sẽ giống như thuở xưa, mà bỏ thân mạng. Do đó hãy vì lợi ích chúng sinh, tuỳ theo những gì mình có, tất cả đều xả bỏ, cho đến hết mạng sống, cũng chẳng sẻn tiếc. Đó gọi là kiệt tận thí.

Lúc đó, hoặc có người nghèo khổ, đến trước mặt Bồ Tát, nói như vầy: “Xin Ngài bây giờ hãy đem tất cả thức ăn uống thượng hạng, các thứ hương hoa và quần áo, đủ thứ đồ tư sanh, thảy đều nhường cho tôi”. Lúc bấy giờ, Bồ Tát nghĩ: “Tôi từ vô thuỷ kiếp cho đến nay, vì đói khát, mà đã từng chết đi không biết bao nhiêu lần. Tôi chưa từng bố thí chút nào cho chúng sinh, dù nhỏ như sợi lông, để lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên chẳng đắc được lợi ích. Hiện tại tôi cũng sẽ giống như thuở xưa, mất đi thân mạng. Vì nhân duyên đó, cho nên tôi cam tâm tình nguyện đem tất cả đồ tư sanh, bố thí lợi ích cho chúng sinh. Tuỳ theo hết thảy tất cả của cải châu báu, thảy đều bố thí cho chúng sinh cần. Cho đến mạng sống chẳng còn nữa, tôi cũng chẳng sẻn tiếc, không thể xả bỏ không được”. Ðây là Bồ Tát tu thí tạng, pháp môn tu hành kiệt tận thí thứ hai.

Thế nào là Bồ Tát nội thí ? Phật tử ! Bồ Tát nầy tuổi trẻ mạnh khoẻ, đoan chánh xinh đẹp, có hương hoa y phục dùng trang nghiêm thân. Mới thọ lễ quán đảnh, lên ngôi Chuyển Luân Vương, đầy đủ bảy báu, thống trị bốn thiên hạ.

Thế nào là Bồ Tát tu nội thí ? Các vị Phật tử ! Vị Bồ Tát nầy đang lúc tuổi trẻ khoẻ mạnh, ngũ quan của Ngài đoan chánh, tướng mạo xinh đẹp. Ngài có đủ thứ hương hoa, đủ thứ y phục, để trang nghiêm thân. Vụa mới thọ xong nghi thức lễ quán đảnh, lên ngôi làm chuyển luân thánh vương. Ðầy đủ bảy báu: Bánh xe báu, châu báu, voi báu, ngựa báu, binh báu, nữ báu, thần chủ tạng báu. Vị kim luân vương nầy, Ngài thống lãnh một bốn thiên hạ, tức là bốn đại châu.

Bấy giờ, hoặc có người đến bạch với vua rằng: Đại vương nên biết, nay tôi già yếu, thân mang bệnh nặng, côi cút, gầy ốm, sắp chết mất. Nếu được tay chân máu thịt, đầu mắt tuỷ não của thân thể nhà vua, thì mạng sống của tôi sẽ mạnh khoẻ sống lâu. Xin nguyện đại vương, đừng có suy lường sẻn tiếc, chỉ thấy từ bi, bố thí cho tôi.

Lúc đó, hoặc có người già nhiều bệnh hoạn, đến chỗ vua, tâu rằng: “Ðại vương ! Ngài nên biết, hiện tại thân thể của tôi rất suy nhược, mà lại già yếu mang nhiều bệnh nặng, lại là người cô độc không chỗ nương tựa, xương cốt gầy ốm như củi, chẳng còn bao lâu nữa sẽ phải chết mất. Nếu tôi được tay chân, hoặc máu thịt, hoặc đầu mắt, hoặc tuỷ não của nhà vua, thì thân thể của tôi sẽ mạnh khoẻ, mạng sống của tôi sẽ lâu hơn, chỉ hy vọng đại vương từ bi, thương xót tôi, đem thân thể của đại vương bố thí cho tôi, đừng có suy lường, đừng có tính toán, đừng có sẻn tiếc. Chỉ mong đại vương phát tâm từ bi, đem tất cả bố thí cho tôi. Tôi mới có thể cải tử hồi sinh, phản lão hoàn đồng. Bằng không thì tôi chẳng có hy vọng sống sót, sắp phải chết mất”.

Bấy giờ, Bồ Tát bèn nghĩ như vầy: Nay thân thể nầy của tôi, sau nầy rồi cũng sẽ chết, chẳng có lợi ích gì. Nay đúng thời, phải mau xả cứu chúng sinh. Nghĩ rồi liền bố thí, tâm chẳng hối tiếc, đó gọi là nội thí.

Lúc đó, Vị Bồ Tát tuổi trẻ mạnh khoẻ, Ngài bèn nghĩ như vầy: “Hiện tại thân thể của tôi, tuy cuộc sống hưởng thụ vinh hoa phú quý, nhưng cuối cùng sẽ có ngày phải chết. Lúc ấy, chẳng những mình chẳng có lợi ích gì, cũng chẳng có ích lợi gì cho chúng sinh. Hiện tại có người đến cầu xin đầu mắt tuỷ não của ta, thật là đúng thời. Tôi không nên có tơ hào sẻn tiếc bố thí cho người cho người đến cầu xin, để cứu tế tất cả chúng sinh”. Suy nghĩ như vậy rồi, liền bố thí cho chúng sinh, mà tâm chẳng hối tiếc, chẳng có tư tưởng xả không được. Ðây là Bồ Tát tu thí tạng, pháp môn tu hành nội thí thứ ba.

Thế nào là Bồ Tát ngoại thí ? Phật tử ! Bồ Tát nầy tuổi trẻ khoẻ mạnh xinh đẹp, các tướng tốt đầy đủ, có hoa quý y phục thượng đẳng, dùng trang nghiêm thân. Mới thọ lễ quán đảnh, lên ngôi Chuyển Luân Vương, đầy đủ bảy báu, thống trị bốn thiên hạ.

Thế nào là Bồ Tát tu ngoại thí ? Các vị Phật tử ! Vị Bồ Tát nầy tu ngoại thí, lúc Ngài còn trẻ khoẻ mạnh, đoan trang xinh đẹp, lại có đức hạnh. Ðầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Có hoa quý và y phục thượng đẳng, dùng trang nghiêm thân. Vụa thọ lễ quán đảnh, lên làm ngôi Chuyển Luân Thánh Vương, đầy đủ bảy báu, thống trị bốn châu thiên hạ.

Bấy giờ, hoặc có người đến bạch với vua rằng: Nay tôi rất bần cùng, các khổ bức bách. Xin ngài nhân từ, thương xót tôi, xả bỏ ngôi vua nầy, nhường lại cho tôi, để tôi thống trị, hưởng thọ phước lạc ngôi vua.

Lúc đó, hoặc có người nghèo khổ, đến trước mặt vua cầu xin nói: “Hiện tại tôi rất bần cùng, chịu đủ thứ khổ bức bách. Xin đại vương nhân ái từ mẫn, đặc biệt thương xót tôi ! Bố thí nhường ngôi vua lại cho tôi, dùng những tài vật nầy để nuôi dưỡng tánh mạng của tôi. Tôi sẽ thống trị bốn châu thiên hạ, hưởng thọ khoái lạc phước báo của đại vương hưởng”.

Bấy giờ, Bồ Tát bèn nghĩ như vầy: Tất cả sự giàu sang phồn vinh, tất sẽ suy tàn. Lúc suy tàn không thể làm lợi ích cho chúng sinh được nữa. Nay tôi phải tuỳ sự yêu cầu của họ, làm cho họ mãn nguyện. Nghĩ như vậy rồi liền bố thí, mà tâm chẳng hối tiếc. Đó gọi là ngoại thí.

Lúc đó, vị Bồ Tát tuổi trẻ mạnh khoẻ xinh đẹp, Ngài quán tưởng như vầy: “Tất cả sự vật, nếu có lúc phồn vinh thịnh vượng, tất định cũng sẽ có lúc suy tàn. Nếu lúc vinh hoa phú quý suy tàn hết, thì không thể lợi ích cho chúng sinh. Hiện tại tôi phải làm mãn nguyện của chúng sinh, khiến cho họ sở cầu toại tâm, mãn nguyện tất cả, đạt được mục đích, đều đại hoan hỉ”. Bồ Tát quán tưởng như vậy rồi, bèn lập tức đem ngôi vua bố thí cho chúng sinh, cũng chẳng hối tiếc. Ðây là Bồ Tát tu thí tạng, pháp môn tu hành ngoại thí thứ tư.
Bố thí phải “Tam luân thể không”, mới thật là chân bố thí. Gì là “Tam luân thể không ?” Nói đơn giản đó là chẳng có kẻ thí, cũng chẳng có vật thí, ở giữa càng chẳng có kẻ thọ nhận. Nếu tam luân nầy không, thì chẳng có sự chấp trước. Nếu có tư tưởng như vầy: Tôi là kẻ bố thí, đây là vật tôi bố thí, họ là người nhận vật tôi thí. Ðây là bố thí chấp tướng, là xí đồ danh lợi, chẳng có công đức.

Thế nào là Bồ Tát nội ngoại thí ? Phật tử ! Bồ Tát nầy như trên đã nói, làm vua Chuyển Luân Vương, đầy đủ bảy báu, thống trị bốn thiên hạ. Bấy giờ, hoặc có người đến bạch với vua rằng: Ngôi vua Chuyển Luân Vương nầy, vua ngự trị đã lâu, tôi chưa từng được, xin nguyện đại vương, hãy nhường cho tôi, cùng với thân vua làm thần nô bộc cho tôi.

Gì là Bồ Tát tu nội ngoại thí ? Nội thí tức là bố thí đầu mắt tuỷ não, ngoại thí tức là bố thí đất nước vợ con. Các vị Phật tử ! Vị Bồ Tát nầy tu nội ngoại thí, Ngài tuổi trẻ khoẻ mạnh, tướng tốt trang nghiêm, như tình hình ở trên đã nói Bồ Tát tu ngoại thí. Ngài làm vua Chuyển Luân Vương, đầy đủ bảy báu, thống lãnh bốn châu thiên hạ.
Lúc đó, hoặc có người đến chỗ vua mà bạch rằng: “Ngôi vua Chuyển Luân Vương nầy, đại vương đã ngự trị lâu rồi. Tôi chưa từng được làm vua Chuyển Luân Vương. Xin đại vương từ bi, xả bỏ ngôi vua nầy, nhường lại cho tôi, kể cả thân nhà vua cũng bố thí cho tôi, làm đại thần cho tôi, hoặc làm nô bộc cho tôi. Nếu đại vương có thể bố thí cho tôi, thì tôi sẽ mãn nguyện, đó mới là hành vi của đại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo”.

Bấy giờ, Bồ Tát bèn nghĩ rằng: Thân tôi và châu báu, cùng với ngôi vua, đều là pháp vô thường tan hoại. Nay tôi mạnh khoẻ cường tráng, giàu có thiên hạ, kẻ xin hiện tiền, đem vật không kiên cố để cầu pháp kiên cố. Nghĩ như vậy rồi liền bố thí, cho đến dùng thân cung kính chuyên cần làm tôi tớ, tâm chẳng hối tiếc. Đó gọi là nội ngoại thí.

Lúc đó, Vị Bồ Tát nầy bèn quán tưởng như vầy: “Thân thể và của cải của tôi, cùng với ngôi vua Chuyển Luân, đều là vô thường, tương lai sẽ tan hoại, không thể vĩnh viễn tồn tại. Hiện tại tôi đang thời kỳ trẻ mạnh khoẻ, giàu có bốn thiên hạ. Hiện nay có người cầu xin thân thể và ngôi vua của tôi, tôi nên đem thân thể và ngôi vua không bền vững bố thí cho chúng sinh, để cầu pháp Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác bền vững”. Nghĩ như vậy rồi, lập tức đem thân thể và ngôi vua bố thí, cho đến dùng thân làm nô bộc, cung kính, siêng năng, hầu hạ ông vua mới, mà trong tâm chẳng có hối tiếc. Ðây tức là Bồ Tát tu thí tạng, pháp môn tu hành nội ngoại thí thứ năm.

Thế nào là Bồ Tát thí tất cả ? Phật tử ! Bồ Tát nầy cũng như nói ở trên, làm vua Chuyển Luân Vương, đầy đủ bảy báu, thống trị bốn thiên hạ.

Gì là Bồ Tát tu bố thí tất cả ? Các vị Phật tử ! Vị Bồ Tát nầy tu thí tất cả, cũng giống như Bồ Tát tu nội ngoại thí như đã nói ở trên. Làm vua Chuyển Luân Vương, đầy đủ bảy báu, thống lãnh bốn thiên hạ.

Bấy giờ, có vô lượng người bần cùng, đến trước mặt vua, bèn nói rằng: Đại vương tiếng tăm vang khắp mười phương, chúng tôi nghe tin, nên đến đây. Chúng tôi đều có sở cầu, xin đại vương thuỳ từ khắp, khiến cho chúng tôi đều được đầy đủ. Bấy giờ, các người nghèo ở chỗ đại vương đó, hoặc cầu xin đất nước, hoặc xin vợ con, hoặc xin chân tay, máu thịt tim gan, đầu mắt tuỷ não.

Lúc đó, có vô lượng vô số người nghèo khổ, đến trước mặt vua, tâu với vua rằng: “Ðại vương ! Ngài rất có tiếng tăm ưa thích bố thí, vang khắp mười phương. Chúng tôi những người nghèo khổ nầy, vì nghe tin đồn đại vương bố thí, cho nên đến đất nước nầy. Chúng tôi đều có sở cầu, xin đại vương thuỳ từ lân mẫn chúng tôi, khiến cho chúng tôi đều được vật mong cầu”. Bấy giờ, những người nghèo khổ ở trước mặt vua, có người cầu xin đất nước của vua, hoặc có người xin vợ con của vua, hoặc có người xin tay chân, máu thịt, tim gan, đầu mắt tuỷ não .v.v… của vua. Tóm lại, mỗi người đều có sở cầu.

Bấy giờ, Bồ Tát tâm nghĩ như vầy: Tất cả ân ái, tất sẽ biệt ly, mà đối với chúng sinh, chẳng có sự lợi ích. Nay tôi vì muốn vĩnh viễn xả bỏ tham ái, đem những thứ nhất định sẽ ly tán nầy, làm mãn tâm nguyện của chúng sinh. Nghĩ như vậy rồi, thảy đều đem bố thí, tâm chẳng hối hận, cũng chẳng sinh tâm khinh nhàm chúng sinh. Đó gọi là thí tất cả.

Lúc bấy giờ, Bồ Tát trong tâm bèn quán tưởng như vầy: “Ðất nước và vợ con mà ta thương mến, tương lai tất sẽ có lúc phân biệt ly tán, song đối với chúng sinh chẳng có lợi ích gì. Tôi muốn vĩnh viễn xả bỏ tham ái, đem những vật tất sẽ phân tán, để làm mãn nguyện tâm chúng sinh”. Bồ Tát nghĩ tưởng như vậy rồi, bèn đem đầu mắt tuỷ não, đất nước vợ con, thảy đều bố thí cho những người khốn khổ đó, mà tâm chẳng sinh hối hận và oán hận. Ðối với chúng sinh tâm tham, cũng chẳng sinh tâm khinh tiện nhàm chán. Ðây là Bồ Tát tu thí tạng, pháp môn tu hành bố thí tất cả thứ sáu.

Thế nào là Bồ Tát quá khứ thí ? Bồ Tát nầy nghe hết thảy công đức quá khứ của chư Phật Bồ Tát. Nghe rồi chẳng chấp trước, biết rõ thông đạt chẳng có, chẳng khởi phân biệt. Chẳng tham, chẳng đắm, cũng chẳng cầu lấy, không chỗ nương cậy. Thấy pháp như mộng, chẳng có bền vững. Nơi các căn lành, chẳng khởi hữu tưởng, cũng chẳng chỗ nương. Chỉ vì giáo hoá trước thủ chúng sinh, thành thục Phật pháp, mà vì họ diễn nói.

Gì là Bồ Tát tu quá khứ thí ? Vị Bồ Tát nầy, nghe công đức tu hành của chư Phật Bồ Tát quá khứ, nghe rồi cũng chẳng chấp trước nơi công đức, nhưng thấu rõ thông đạt tất cả công đức chẳng có, cho nên chẳng khởi tâm phân biệt, cũng chẳng tham đồ công đức, cũng chẳng đắm công đức, cũng chẳng cầu lấy công đức của chư Phật Bồ Tát quá khứ, cũng chẳng chỗ nương cậy. Minh bạch tất cả các pháp, như huyễn như mộng, chẳng có bền vững, vốn là không. Căn lành của mình tu, với căn lành của chư Phật Bồ Tát quá khứ, đều không khởi hữu tưởng, cũng chẳng chấp trước, cũng chẳng nương tựa. Chỉ vì giáo hoá chúng sinh, cho nên thủ trước chúng sinh. Vì khiến cho họ thành tựu Phật quả, viên mãn bồ đề, mà vì chúng sinh diễn nói Phật pháp.

Lại quán sát các pháp quá khứ, tìm cầu mười phương đều không thể được. Nghĩ như vậy rồi, nơi pháp quá khứ, thảy đều xả bỏ. Đó gọi là quá khứ thí.

Vị Bồ Tát nầy, Ngài lại quán sát tất cả pháp quá khứ, cho đến tìm cầu khắp mười phương thế giới, đều không thể đắc được tất cả pháp tồn tại. Quán tưởng như vậy rồi, đối với tất cả pháp quá khứ, đều không thể lưu luyến, đều xả bỏ hết. Ðây là Bồ Tát tu thí tạng, pháp môn tu hành quá khứ thí thứ bảy.

Thế nào là Bồ Tát vị lai thí ? Bồ Tát nầy nghe chư Phật vị lai tu hành, thấu rõ thông đạt chẳng có, chẳng thủ lấy tướng, chẳng muốn vãng sanh về các cõi nước chư Phật, chẳng đắm, chẳng chấp, cũng chẳng sinh nhàm chán, chẳng đem căn lành hồi hướng về đó, cũng chẳng ở nơi đó mà thối chuyển căn lành. Thường siêng tu hành, chưa từng xả bỏ.

Gì là Bồ Tát tu hành vị lai thí ? Vị Bồ Tát nầy, nghe được pháp môn tu hành của chư Phật vị lai, thấu hiểu thông đạt tất cả pháp chẳng có, đều là không, cho nên chẳng thủ lấy các tướng, chẳng muốn lìa khỏi cõi nước của mình, mà vãng sinh về các cõi chư Phật khác. Cũng chẳng đắm pháp của chư Phật tu. Cũng chẳng chấp trước pháp của chư Phật tu hành, cũng chẳng sinh tâm nhàm chán. Cũng chẳng đem căn lành của mình tu hành, để hồi hướng về chư Phật vị lai. Cũng chẳng vì căn lành của chư Phật, là chẳng dễ gì tu hành thành công, mà thối thất căn lành tâm bồ đề. Ðây là vì Bồ Tát đối với tất cả đều chẳng chấp trước. Bồ Tát luôn luôn tinh tấn, tuyệt đối chẳng giải đãi. Pháp môn tu hành chẳng khi nào xả bỏ.

Chỉ muốn vì cảnh giới đó, nhiếp lấy chúng sinh, vì họ nói pháp chân thật, khiến cho họ thành thục Phật pháp. Nhưng pháp nầy chẳng có xứ sở, chẳng phải không xứ sở. Chẳng trong, chẳng ngoài, chẳng gần, chẳng xa. Lại nghĩ như vầy: Nếu pháp chẳng có, không thể không xả. Đó gọi là vị lai thí.

Vị Bồ Tát nầy, chỉ muốn y chiếu cảnh giới của tất cả chúng sinh để nhiếp lấy chúng sinh (giống như nam châm hút sắt, hút chúng sinh vào trong Phật pháp). Vì chúng sinh diễn nói pháp chân thật, khiến cho chúng sinh thành thục Phật pháp, sớm thành Phật đạo. Tuy nhiên dùng pháp để giáo hoá chúng sinh, nhưng pháp nầy chẳng có xứ sở, nghĩa là đừng chấp trước vào pháp nầy. Cũng chẳng phải là pháp chẳng có xứ sở. Tức nhiên chẳng chấp trước, vậy pháp chẳng dùng chăng ? Chẳng phải, mà là tuỳ duyên nói pháp: Nếu gặp được cảnh giới nầy, thì nói pháp nầy. Nếu chẳng có cảnh giới nầy, thì pháp nầy cũng là không. Tóm lại, khi đáng nói pháp thì nói pháp, chứ chẳng phải là chấp trước mà nói pháp.
Pháp nầy cũng chẳng từ bên trong sinh ra, cũng chẳng phải từ bên ngoài chiêu cảm vào. Ðây là dạy người đừng chấp trước. Pháp nầy chẳng phải nơi gần có, cũng chẳng phải nơi xa có. Ðây cũng là pháp chấp trước người. Vị Bồ Tát nầy, lại quán tưởng như vầy: “Tất cả pháp đều chẳng chân thật, vốn là vắng lặng. Tức nhiên là chẳng có, lại hà tất phải chấp trước pháp ? Nên xả bỏ tất cả pháp”. Ðây là Bồ Tát tu thí tạng, pháp môn tu hành vị lai thí thứ tám.

Thế nào là Bồ Tát hiện tại thí ? Bồ Tát nầy nghe các trời Tứ Thiên Vương, trời Ba Mươi Ba, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất Đà, trời Hoá Lạc, trời Tha Hoá Tự Tại, trời Phạm Thiên, trời Phạm Thân, trời Phạm Phụ, trời Phạm Chúng, trời Đại Phạm, trời Quang Thiên, trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Quang Âm, trời Tịnh Thiên, trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh, trời Quảng Thiên, trời Thiểu Quảng, trời Vô Lượng Quảng, trời Quảng Quả, trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, trời Sắc Cứu Cánh, cho đến nghe bậc Thanh Văn, Duyên Giác, đầy đủ công đức. Nghe rồi, tâm của Bồ Tát nầy chẳng mê, chẳng mất, chẳng tụ, chẳng tán. Chỉ quán các hạnh như mộng chẳng thật, chẳng có tham trước. 

Gì là Bồ Tát tu hiện tại thí ? Vị Bồ Tát nầy, nghe đến sáu cõi trời dục giới và mười tám cõi sắc giới cùng với hàng nhị thừa, hết thảy công đức, trong tâm chẳng có tham luyến. Tại sao ? Vì quán các hạnh đều vô thường.

Nay giải thích sơ lược về sáu cõi trời dục giới:

1. Trời Tứ Thiên Vương: Ở giữa sườn núi Tu Di, bốn phương đều có bốn vị Thiên Vương trấn thủ. Phương đông là Trì Quốc Thiên Vương, phương nam là Tăng Trưởng Thiên Vương, phương tây là Quảng Mục Thiên Vương, phương bắc là Ða Văn Thiên Vương. Vì có bốn vị Thiên Vương suất lãnh chư Thiên, nên gọi là chúng Thiên.

2. Trời Ðao Lợi: Dịch là Trời Ba Mươi Ba. Ở trên đỉnh núi Tu Di, bốn phương đều có tám vị trời, lại thêm chính giữa một vị trời, thống lãnh ba mươi ba trời, nên gọi là Trời Ba Mươi Ba. Trời Tứ Thiên Vương và trời Ðao Lợi đều ở tại núi Tu Di, còn gọi là địa cư Thiên. Bốn cõi trời còn lại, ở trong hư không phía trên đỉnh Tu Di, nên gọi là không cư Thiên.

3. Trời Dạ Ma: Dịch là trời Thời Phần. Cõi trời nầy chẳng có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, sao, thân người trời tự phóng ra ánh sáng, lấy hoa sen nở làm ngày, hoa sen úp lại làm đêm.

4. Trời Ðâu Suất: Dịch là trời Tri Túc. Mỗi vị Phật khi sắp thành Phật, thì ở tại nội viện cõi trời nầy hậu bổ Phật vị, cho nên còn gọi là trời Bổ Xứ. Ðương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, đang ở tại nội viện thuyết pháp, đợi khi kiếp tăng giảm xuống tám vạn tuổi, thì sẽ đến thế giới Ta Bà, để giáo hoá chúng sinh.

5. Trời Hoá Lạc: Nơi cảnh biến hoá ra tự vui. Muốn gì thì biến ra ra cái đó, biến hoá vô cùng, là trời Khoái Lạc.

6. Trời Tha Hoá Tự Tại: Cõi trời nầy lấy sự khoái lạc của cõi trời khác, làm sự khoái lạc của cõi trời mình. Sáu cõi trời nầy đều có dục niệm nam nữ.

Cõi sắc giới có mười tám cõi trời. Nhưng tại Kinh nầy ghi có hai mươi hai cõi trời, kỳ thật đại đồng tiểu dị.

1. Trời Phạm Thiên: Tức là trời Thanh Tịnh, chẳng có dục niệm nam nữ. Chẳng có hình tướng nam nữ, đều là thân nam.

2. Trời Phạm Thân: Chúng sinh ở cõi trời nầy, thân thể rất thanh tịnh, trong tâm cũng chẳng có tạp niệm.

3. Trời Phạm Chúng: Là quyến thuộc của trời Ðại Phạm ở.

4. Trời Phạm Phụ: Là phụ thần của trời Ðại Phạm ở.

5. Trời Ðại Phạm: Tức là Thiên Vương. Ông ta phát hiệu thống lãnh các trời. Ðây là trời Sơ Thiền, vẫn có ngôn ngữ. Ðến trời nhị thiền thì chẳng còn ngôn ngữ, mà là dùng ánh sáng để thay thế cho ngô ngữ.

6. Trời Quang Thiên: Kẻ thiền định ở cõi trời nầy, ở trong định phóng quang.

7. Trời Thiểu Quang: Khắp thân thể phóng ra ánh sáng, nhưng chẳng sáng.

8. Trời Vô Lượng Quang: Chẳng những từ thân phóng quang, mà trong miệng cũng phóng quang, phóng ra vô lượng ánh sáng.

9. Trời Quang Âm: Trong trí huệ quang lại vang ra âm thanh, thay thế nói pháp. Ðây là trời Nhị Thiền, chẳng có ngôn ngữ, chỉ có ánh sáng.

10. Trời Tịnh Thiên: Cõi trời nầy tất cả đều thanh tịnh, chẳng có tạp nhiễm.

11. Trời Thiểu Tịnh: Cõi trời nầy tuy nhiên thanh tịnh, nhưng chẳng viên mãn.

12. Trời Vô Lượng Tịnh: Cõi trời nầy thanh tịnh, đã đến trình độ viên mãn, nhưng chẳng khắp, lại chẳng cứu kính.

13. Trời Biến Tịnh: Cõi trời nầy thanh tịnh, đặc biệc viên mãn, lại khắp hết. Ðây là cảnh giới trời Tam Thiền, rất khoái lạc. Nhưng một số người tu thiền định, chẳng muốn ở đây lâu, sợ rằng sẽ thối mất đạo tâm, cho nên tích cực vượt qua trời tam thiền, đến được trời Tứ Thiền. Mới có thể tránh khỏi sự uy hiếp của nạn gió lớn.

14. Trời Quảng Thiên: Tức là cõi trời phước đức rộng lớn. Ở cõi trời Sơ Thiền, tuy lìa khỏi khổ não, vẫn còn ưu não. Trời Nhị Thiền, tuy đã lìa khỏi ưu não, vẫn còn hỉ lạc. Trời Tam Thiền, đã tiêu diệt tất cả tâm hoan hỉ. Là vui thuần tạp thanh tịnh. Trời Tứ Thiền, hỉ lạc đều xả bỏ.

15. Trời Thiểu Quảng: Còn là Trời Phước Sinh. Cõi trời nầy vì chẳng thọ diệu lạc, mà sinh phước thanh tịnh.

16. Trời Vô Lượng Quảng: Còn là Trời Phước, cõi trời nầy chẳng thọ ba nạn lớn nước, lửa, gió, hưởng thọ phước báo vô lượng.

17. Trời Quảng Quả: Cõi trời nầy là quả của phàm phu tu, phước báu rất lớn, nhưng chẳng chứng quả. Ðiểm nầy phải chú ý ! Ðây là cảnh giới của trời Tứ Thiền.

18. Trời Vô Phiền: Kẻ thiền định dũng mãnh tinh tấn, sinh về cõi trời nầy, thì chẳng còn tất cả mọi phiền não. Vì chẳng trở lại cõi dục giới thọ sinh tử nữa.

19. Trời Vô Nhiệt: Sinh về cõi trời nầy, thì chẳng còn kiến tư hoặc (hoặc thấy nghĩ) của dục giới, và bệnh chấp phiền não. Trong tâm khoái lạc thanh tịnh.

20. Trời Thiện Kiến: Sinh về cõi trời nầy, trừ khử nhiệt phiền não, trong tâm mát mẻ, tinh tấn tu tĩnh lự, có thể đắc được thiên nhãn, khéo thấy mười phương thế giới.

21. Trời Thiện Hiện: Sinh về cõi trời nầy, khéo biến hiện, vì chướng ngại của thiền đã trừ khử, đạt đến cảnh giới tận thiện tận mỹ.

22. Trời Sắc Cứu Cánh: Ðến cõi trời sắc giới tối cao, đã tận cùng sắc tánh, biết rõ sắc tánh, dùng không làm thể. Người lợi căn trực tiếp thoát khỏi ba cõi, chứng quả A la hán. Người độn căn, còn phải đến vô sắc giới, tu tứ không định, tuần tự trải qua Trời Tứ Không, mới chứng được tứ quả, đắc được bậc vô học. Do đó: “Những gì cần làm đã làm xong, không còn thọ sinh nữa”. Năm cõi trời ở trên là Trời Ngũ Bất Hoàn, tức là chẳng trở lại dục giới thọ sinh tử nữa, là chỗ ở của tam quả A la hán.

Thời gian trên trời và thời gian ở nhân gian khác nhau. Vì trên trời quá sung sướng, cho nên cảm thấy thời gian trôi qua rất nhanh. Thời gian ở nhân gian và thời gian ở địa ngục cũng khác nhau. Chúng sinh ở địa ngục thống khổ vạn phần, cho nên cảm thấy thời gian trôi qua rất chậm. Nói về thời gian ở cõi trời Tứ Thiên Vương, một ngày một đêm ở đây, bằng ở dưới nhân gian năm mươi năm. (Mỗi tầng trời ở trên thì tính gấp đôi thời gian). Một ngày một đêm ở nhân gian bằng ở địa ngục năm mươi năm, tại sao ? Vì nghiệp lực chiêu cảm, khi hưởng vui, thì cảm thấy thời gian quá ngắn; khi thọ khổ, thì cảm thấy thời gian quá dài.

Vị Bồ Tát nầy cho đến nghe được bậc Thanh Văn và Duyên Giác đầy đủ công đức, thì tâm chẳng mê hoặc, cũng chẳng chấp trước. Vị Bồ Tát nầy tu hiện tại thí, tư tưởng và hành vi của Ngài đều thanh tịnh không ô nhiễm.

Vị Bồ Tát nầy, nghe được cảnh giới đã nói ở trên, tâm của Ngài chẳng mê, chẳng mất, cũng chẳng chú ý, cũng chẳng tán loạn. Chỉ quán sát các hạnh, giống như mộng, hư vọng chẳng thật. Do đó:

“Các hạnh vô thường,
Là pháp sinh diệt.
Sinh diệt diệt rồi,
Tịch diệt là vui”.

Cho nên cảnh giới khoái lạc của chư Thiên, Bồ Tát đều chẳng chấp trước, cũng chẳng tham luyến.

Vì khiến cho chúng sinh xả lìa cõi ác, tâm của Ngài chẳng có phân biệt, tu Bồ Tát đạo, thành tựu Phật pháp, mà vì họ khai xiển diễn nói. Đó gọi là hiện tại thí.

Bồ Tát vì khiến cho tất cả chúng sinh, xả lìa súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, ba đường ác. Tâm của Ngài chẳng sinh phân biệt, để tu Bồ Tát đạo, lợi ích tất cả chúng sinh, mà thành tựu pháp của Phật đắc được. Lại vì chúng sinh diễn nói diệu pháp. Ðây là Bồ Tát tu thí tạng, pháp môn tu hành hiện tại thí thứ chín.

Thế nào là Bồ Tát cứu kính thí ? Phật tử ! Bồ Tát nầy, giả sử có vô lượng chúng sinh, hoặc có người không mắt, hoặc có người không tai, hoặc có người không mũi lưỡi, cùng với tay chân, đến chỗ Bồ Tát, bạch rằng: Thân tôi bạc phúc, các căn tàn tật thiếu khuyết. Xin ngài nhân từ, dùng phương tiện khéo léo, xả bỏ những gì Ngài có, khiến cho tôi được đầy đủ.

Gì là Bồ Tát tu cứu kính thí ? Các vị Phật tử ! Vị Bồ Tát nầy, giả sử có vô lượng chúng sinh, hoặc họ chẳng có mắt, hoặc họ chẳng có tai, hoặc họ chẳng có mũi lưỡi, hoặc họ chẳng có chân tay. Họ đều đến chỗ Bồ Tát, bạch với Bồ Tát rằng: “Thân thể của tôi chẳng có phước báo, cho nên sáu căn tàn tật thiếu khuyết, chẳng đầy đủ. Xin Bồ Tát nhân từ, phát lòng trắc ẩn, dùng phương tiện khéo léo, xả bỏ hết thảy tất cả những gì Ngài có, để bố thí cho chúng tôi. Khiến cho chúng tôi chỗ sáu căn không đầy đủ, đều được viên mãn. Ðây là sự cầu xin của chúng tôi, hy vọng Bồ Tát đáp ứng yêu cầu của chúng tôi, đừng khiến chúng tôi thất vọng” !

Bồ Tát nghe rồi, lập tức bố thí cho. Giả sử do đây trải qua A tăng kỳ kiếp, các căn không đủ, tâm Bồ Tát cũng chẳng sinh một niệm hối tiếc. 

Vị Bồ Tát nầy nghe vô lượng chúng sinh các căn không đủ, yêu cầu như vậy, tâm chẳng do dự, bèn lập tức đem sáu căn của mình xả cho chúng sinh. Giả sử từ đây về sau, trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp thời gian, mà sáu căn của mình không đủ, cũng chẳng sinh một tâm niệm hậu hối tiếc nuối.

Chỉ tự quán sát thân thể, từ khi bắt đầu nhập thai, thân hình chẳng thanh tịnh, chịu cảnh sinh già bệnh chết. Lại quán thân nầy, chẳng có chân thật, chẳng có hổ thẹn, chẳng phải là vật Thánh hiền, hôi dơ chẳng sạch, gân cốt chằng chịt với nhau, máu thịt kết lại. Chín lỗ thường chảy ra, ai cũng nhờm gớm, quán như vậy rồi, chẳng sinh một tâm niệm thương tiếc chấp trước.

Bồ Tát tự quán sát thân thể của mình, từ khi bắt đầu nhập thai, thì do tinh cha huyết mẹ vật bất tịnh, cấu thành thân thể nầy. Ở trong bào thai, phân đoạn sinh ra mắt tai mũi lưỡi thân năm căn. Thai nhi thành thục rồi, liền sinh ra thế giới năm trược nầy, thọ đủ thứ khổ não, trải qua bốn giai đoạn sinh già bệnh chết, lại diệt mất trở về không, chẳng có hình ảnh dấu vết.
Bồ Tát lại quán sát thân thể của mình, nghiên cứu kỹ càng, thì tìm chẳng ra một vật nào là chân thật không biến đổi, đều là hư vọng. Lại chẳng có tâm hổ thẹn. Thân thể nầy chẳng phải là thân thể của Thánh hiền, mà là thân thể hôi dơ chẳng sạch, chẳng qua là gân cốt chằng chịt với nhau, lại có máu thịt kết lại với xương cốt. Thân nầy là chín lỗ thường chảy ra vật bất tịnh. Những thứ nầy khiến cho ai ai cũng nhờm gớm ! Bồ Tát quán sát như thế xong, đối với thân thể chẳng sinh một tâm niệm thương tiếc và chấp trước.

Lại nghĩ như vầy: Thân nầy nguy hiểm, suy nhược, chẳng có bền vững. Nay sao tôi lại sinh tâm luyến ái, chấp trước ? Nên đem bố thí cho họ, khiến cho họ mãn nguyện.

Vị Bồ Tát nầy, lại quán tưởng như vầy: “Thân thể nầy rất nguy hiểm, và suy nhược, vốn chẳng bền vững. Hiện tại tại sao tôi còn tham luyến túi da hôi thối nầy ? Nó sớm muộn gì cũng sẽ chết. Cho nên khi có cơ hội, nên đem nó bố thí cho tất cả chúng sinh, để làm mãn tâm nguyện của chúng sinh”.

Như chỗ tôi làm, dùng đây khai đạo tất cả chúng sinh, khiến cho họ thân tâm chẳng sinh tham ái, thảy đều được thành tựu, trí thân thanh tịnh. Đó gọi là cứu kính thí.

Vị Bồ Tát nầy lại nghĩ: “Giống như những gì tôi làm, dùng tâm từ bi để khai đạo tất cả chúng sinh. Chẳng những tôi chẳng tham luyến thân tâm tánh mạng của tôi, mà cũng khiến cho chúng sinh chẳng tham luyến thân tâm tánh mạng của họ”. Hoàn toàn thành tựu thân trí huệ thanh tịnh. Ðây tức là Bồ Tát tu thí tạng, pháp môn tu hành cứu kính thí thứ mười.

Đó là thí tạng thứ sáu của đại Bồ Tát.

Mười sự bố thí như đã nói ở trên, đây là pháp môn thí tạng thứ sáu của đại Bồ Tát tu hành.

THỨ BẢY: HUỆ TẠNG

Phật tử ! Những gì là huệ tạng của đại Bồ Tát ?

Ðại Bồ Tát Công Ðức Lâm, lại gọi một tiếng: Các vị đệ tử của Phật ! Gì gọi là huệ tạng của đại Bồ Tát tu hành ?

Bồ Tát nầy nơi sắc biết như thật. Sắc tập biết như thật. Sắc diệt biết như thật. Sắc diệt đạo biết như thật. Nơi thọ tưởng hành thức biết như thật. Thọ tưởng hành thức tập biết như thật. Thọ tưởng hành thức diệt biết như thật. Thọ tưởng hành thực diệt đạo biết như thật.

Bồ Tát tu huệ tạng, đối với năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) và bốn đế (khổ, tập, diệt, đạo), hai thứ pháp nầy, phải thấu suốt chân thật, mới có trí huệ giáo hoá chúng sinh.
Ðối với sắc uẩn (nghĩa là chất ngại, có hình tướng), phải chân thật minh bạch, biết rõ sắc uẩn là hư vọng, chẳng thật tại. Do sắc uẩn lại sinh ra khổ, tập, diệt, đạo, pháp bốn đế, chẳng bị bốn pháp nầy ràng buộc. Do sắc uẩn mà chiêu cảm tập đế, cũng phải biết rõ chân thật. Do sắc uẩn mà chứng được diệt đế, cũng phải biết rõ chân thật. Do sắc uẩn mà chứng được diệt đạo đế, cũng phải biết rõ chân thật.

Ðối với thọ uẩn (nghĩa là lãnh nạp, chẳng có hình tướng), đối với tưởng uẩn (nghĩa là thủ tượng, chẳng có hình tướng), đối với hành uẩn (nghĩa là thiên lưu, chẳng có hình tướng), đối với thức uẩn (nghĩa là liễu biệt, chẳng có hình tướng). Bốn uẩn nầy cũng phải thấu suốt chân thật. Có cảm giác tốt đẹp, thì muốn lãnh thọ cảnh giới nầy. Cảm thọ rồi, bèn sinh tưởng uẩn. Có tưởng uẩn rồi, bèn sinh ra hành uẩn. Hành uẩn là niệm niệm dời đổi, niệm niệm không ngừng. Có hành uẩn rồi, bèn sinh ra đủ thứ tâm thức phân biệt. Tâm thức có năng lực phán đoán, phân biệt được tốt xấu. Do thọ tưởng hành thức mà chiêu cảm tập đế, cũng phải biết chân thật. Do thọ tưởng hành thức mà chứng được diệt đế, cũng phải biết chân thật. Do thọ tưởng hành thức mà tu diệt đạo đế, cũng phải biết chân thật. Nếu chẳng bị cảnh giới làm mê hoặc, mà chuyển được cảnh giới, thì sẽ thành tựu vô thượng bồ đề.

Nếu chúng ta đối với pháp năm uẩn và pháp bốn đế, chẳng thấu hiểu với nhau, thì không thể viên dung vô ngại, sẽ sinh ra đủ thứ chấp trước. Giống như kén làm tơ, tự vây khốn mình, chẳng được giải thoát. Minh bạch đạo lý nầy, thì sẽ đắc được giải thoát. Ðắc được giải thoát rồi, thì không còn bị khổ tập diệt đạo mê hoặc, sẽ biết khổ, đoạn tập, mộ diệt, tu đạo. Nếu chẳng minh bạch lý của nó, thì sẽ chẳng biết khổ, không thể đoạn tập, cũng không thể mộ diệt, cũng không thể tu đạo. Nơi sắc uẩn minh bạch bốn đế là không, thì đối với thọ tưởng hành thức bốn uẩn, cũng như vậy, đều là không, tự tánh sẽ chẳng bị năm uẩn che đậy. Lúc đó, sẽ đắc được đại quang minh tạng, tánh Như Lai tạng. Pháp năm uẩn bốn đế nầy, phải hạ một phen khổ công để nghiên cứu, thì mới hiểu rõ triệt để. Lúc nào năm uẩn đều không, thì lúc đó sẽ độ được tất cả khổ ách.

Nơi vô minh biết như thật, vô minh tập biết như thật, vô minh diệt biết như thật, vô minh diệt đạo biết như thật.

Vị Bồ Tát nầy, Ngài đối với pháp mười hai nhân duyên, cũng hiểu biết chân thật. Nhân duyên thứ nhất tức là vô minh, nghĩa là chẳng hiểu biết, chẳng minh bạch chân thật. Vô minh nầy sinh ra hành, hành sinh ra thức, thức sinh ra danh sắc, danh sắc sinh ra lục nhập, lục nhập sinh ra xúc, xúc sinh ra thọ, thọ sinh ra ái, ái sinh ra thủ, thủ sinh ra hữu, hữu sinh ra sinh, có sinh rồi sẽ có già chết. Mười hai nhân duyên nầy, do cái nầy có, nên sinh ra cái kia. Nếu tiêu diệt vô minh rồi, thì hành vi cũng chẳng còn, cho đến già chết cũng chấm dứt. Ðạo lý nầy rất đơn giản, nhưng người thật minh bạch, rất ít lại càng ít. Do đó: “Một niệm không giác sinh tam tế”, tức cũng là “Một niệm không giác sinh vô minh”. Tướng tam tế tức là hiện tướng, nghiệp tướng, chuyển tướng, cho nên đối với vô minh phải hiểu biết chân thật. Mục đích chúng ta tu đạo, tức là diệt trừ gốc rễ vô minh gây hoạ hoạn, nếu nhổ bật được gốc rễ, thì chẳng còn phiền não nữa. Lúc bấy giờ tâm được thanh tịnh, trí huệ hiện tiền. Bằng không nhổ cỏ không tận gốc, thì qua mùa xuân gặp mưa, lại sinh ra. Vậy làm thế nào nhổ được gốc rễ vô minh ? Tức là siêng tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si. Lúc nào không còn ba độc vọng tưởng, thì lúc đó sẽ nhổ sạch gốc rễ vô minh, chẳng còn hậu hoạn nữa.

Vị Bồ Tát nầy đối với vô minh khổ đế, phải biết chân thật. Vô minh tập đế, phải biết chân thật. Vô minh diệt đế, phải biết chân thật. Vô minh diệt đạo đế, phải biết chân thật. Nếu hiểu biết chân thật, thì sẽ đoạn trừ vô minh, sẽ chẳng còn phiền não nữa.

Nơi ái biết như thật, ái tập biết như thật, ái diệt biết như thật, ái diệt đạo biết như thật.

Chúng ta chúng sinh tại sao phải thọ khổ luân hồi ? Ðều vì một niệm vô minh, rồi có hành vi. Tại sao có hành vi ? Vì có ái. Phải hiểu rõ ái sinh ra như thế nào ? Và có quan hệ gì với vô minh ? Và có quan hệ gì với khổ tập diệt đạo bốn đế ? Ðiểm nầy phải rõ ràng. Nếu hiểu biết chân thật, biết khổ, đoạn tập, mộ diệt, chân lý tu đạo, thì chẳng có chướng ngại, sẽ không chuyển tới chuyển lui ở trong sinh tử luân hồi, sẽ đắc được tự tại, được giải thoát, thoát khỏi ba cõi, tránh khỏi luân hồi, đến được bờ kia, hưởng an vui chân thật.
Vị Bồ Tát nầy, đối với ái khổ biết như thật, ái tập biết như thật, ái diệt biết như thật, ái diệt đạo biết như thật. Cho nên Bồ Tát tu đoạn dục khử ái, đã tu đến viên mãn, chẳng còn phần đoạn sinh tử, cũng chẳng còn thọ biến dịch sinh tử nữa.

Nơi Thanh Văn biết như thật, pháp Thanh Văn biết như thật, Thanh Văn tập biết như thật, Thanh Văn Niết Bàn biết như thật.

Thanh Văn là bậc nghe âm thanh của Phật mà ngộ đạo. Nghe âm thanh gì ? Nghe âm thanh Phật nói pháp khổ, tập, diệt, đạo, bốn đế. Pháp nầy phải biết chân thật. Chẳng phải biết một hiểu nửa, biết ngoài da ngoài lông, mà chẳng biết nội dung chân thật tánh. Ðối với pháp của Thanh Văn tu, phải biết chân thật. Ðối với tập chiêu cảm của Thanh Văn tu, phải biết chân thật. Làm thế nào để dứt phiền não ? Làm thế nào để chứng bồ đề ? Thanh Văn tu pháp gì có thể chứng được thường, lạc, ngã, tịnh, bốn đức Niết Bàn ? Ðều phải biết chân thật.

Nơi Độc Giác biết như thật, pháp Độc Giác biết như thật, Độc Giác tập biết như thật, Độc Giác Niết Bàn biết như thật.

Ðộc Giác là tự mình giác ngộ, vào mùa xuân xem trăm hoa nở, mùa thu xem vạn vật điêu tàn, quán sát tìm cầu cảnh giới tự sinh tự diệt đó, khoát nhiên khai thông gút mắc nhân duyên, biết rõ tánh của toàn thể đại dụng, bản thể của tất cả vạn vật, đều minh bạch thông đạt.

Ðộc giác tức là tên khác của Duyên Giác. Lúc không có Phật ở đời, người tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, thì gọi là Ðộc Giác. Khi có Phật ở đời, người tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, thì gọi là bậc Duyên Giác. Duyên Giác quán pháp mười hai nhân duyên, thì biết do vô minh mà sinh ra tất cả, cho nên chẳng dùng vô minh để làm việc. Con người vì có vô minh, mà làm việc điên đảo. Nếu chẳng có vô minh, thì đương nhiên chẳng làm việc điên đảo. Phải biết tất cả nghiệp ác, đều do điên đảo mà ra. Do đó, trước hết phải dứt trừ vô minh, thì phiền não tự nhiên sẽ diệt. Pháp mười hai nhân duyên tức là một bánh xe, chuyển động không ngừng, cho nên gọi là bánh xe sinh mạng.

Ðối với Ðộc Giác làm thế nào để thành tựu quả vị, phải biết chân thật. Ðối với pháp Ðộc Giác (mười hai nhân duyên) cũng phải biết chân thật. Ðối với Ðộc Giác làm thế nào để dứt phiền não (trước khi ngộ), cũng phải biết chân thật. Ðối với Ðộc Giác chứng được Hữu Dư Niết Bàn (còn có chút tập khí, vô minh, phiền não), cũng phải biết chân thật.

Nhị thừa (Thanh Văn, Duyên Giác) tuy nhiên đã dứt sinh tử, nhưng chỉ là dứt phần đoạn sinh tử (sinh tử trong ba cõi). Song, biến dịch sinh tử vẫn chưa dứt (sinh tử ngoài ba cõi). Gì là phần đoạn sinh tử ? Phần tức là một phần. Bạn có một phần của bạn, tôi có một phần của tôi. Ðoạn tức là thân đoạn, thân đoạn nầy của tôi là sáu thước, hoặc tám thước (thước Tàu); thân đoạn của bạn là tám thước, hoặc chín thước. Tóm lại, ai nấy đều có một phần, ai nấy đều có thân đoạn. Từ sinh đến chết, một phần nầy, một thân đoạn nầy, đều là hư vọng. Gì là biến dịch sinh tử ? Tức là niệm sinh ra, niệm niệm sinh, niệm niệm diệt, sinh diệt không ngừng. Một niệm sinh ra là một sự sinh, một niệm diệt, tức là một sự chết, đây gọi là biến dịch sinh tử.

Nơi Bồ Tát biết như thật, pháp Bồ Tát biết như thật, Bồ Tát tập biết như thật, Bồ Tát Niết Bàn biết như thật.

Bồ Tát dịch là giác hữu tình, hoặc là hữu tình giác, ý nghĩa đại đồng tiểu dị. Ðối với Bồ Tát phải nhận thức chân thật, phải nhận thức chân thật pháp của Bồ Tát tu. Nếu chẳng minh bạch pháp của Bồ Tát tu, thì sẽ không chân chánh minh bạch Bồ Tát.

Pháp của Bồ Tát tu là sáu độ:

1. Bố thí: Ðối trị được tham sẻn.
2. Trì giới: Ðối trị được phóng dật.
3. Nhẫn nhục: Ðối trị được sân hận.
4. Tinh tấn: Ðối trị được giải đãi.
5. Thiền định: Ðối trị được tán loạn.
6. Trí huệ: Ðối trị được ngu si.

Ngoài ra còn tu vạn hạnh, tức cũng là hành Bồ Tát đạo, tất cả đều vì chúng sinh. Bồ Tát chẳng những hành sáu độ vạn hạnh bên ngoài, mà còn hành sáu độ vạn hạnh bên trong; chỉ biết hướng bên ngoài giáo hoá chúúng sinh, mà tự tánh chúng sinh chẳng giáo hoá, cũng chẳng có độ chúng sinh. Bồ Tát phát tâm bồ đề, trước hết giáo hoá tám vạn bốn ngàn chúng sinh bên trong, Do đó:

“Tự tánh chúng sinh thệ nguyện độ
Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn
Tự tánh pháp môn thệ nguyện học
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành”.

Bồ Tát làm thế nào đoạn tập đế ? Làm thế nào chứng được Vô Dư Niết Bàn ? (chẳng còn tập khí, vô minh, phiền não). Làm thế nào dứt trừ biến dịch sinh tử ? Ðây tất cả đều phải biết chân thật. Phải đầy đủ những trí huệ nầy, mới minh bạch được những pháp nầy.

Biết như thế nào ? Biết từ nghiệp báo các hành nhân duyên tạo tác. Tất cả đều hư giả, chẳng thật. Chẳng có cái ta, chẳng bền vững, chẳng có chút pháp có thể được thành lập.

Bồ Tát Công Ðức Lâm tự hỏi tự trả lời. Biết như thế nào ? Biết tất cả chúng sinh, do khởi hoặc, tạo nghiệp, cho nên thọ quả báo. Có hành vi như vậy, nhân duyên như vậy, thì tạo thành đủ thứ nghiệp báo. Do đó: “Trồng nhân gì ? Kết quả đó”. “Tạo nghiệp gì ? Thọ báo đó”. Ðây là định luật vạn cổ bất biến. Tất cả hết thảy, đều do nhân duyên sinh ra. Nếu chẳng có nhân duyên, thì chẳng có tất cả pháp. Pháp nhân duyên sinh ra, vốn là không. Do đó:

“Pháp do nhân duyên sinh ra
Ta nói tức là không
Ðó gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa trung đạo”.

Vạn sự vạn vật ở thế gian, thảy đều chẳng chân thật, cho nên bất tất phải chấp trước.

Thân thể của chúng ta, cũng là giả. Bất quá là do bốn đại (đất nước gió lửa) giả hợp mà tạo thành thân năm uẩn. Suốt ngày vì nó mà bận rộn, vì nó mà khổ sở. Ðến lúc nó cũng chẳng màng tới bạn, bỏ đi chẳng có chút cảm tình gì. Thân thể là giả, nhưng tự tánh là thật. Tự tánh trụ ở trong thân thể, giống như người ở trong phòng, phòng hư hoại thì người dọn nhà đi chỗ khác. Thân thể hư hoại thì tự tánh cũng phải dọn nhà đi. Tự tánh tức là thức thứ tám. Lúc mê hoặc thì gọi là thức A lại gia, lúc tỉnh thì gọi là đại quang minh tạng, hoặc gọi là tánh Như Lai tạng, cũng có thể gọi là chân như. Tóm lại, tức là Phật tánh. Do đó “chuyển thức thành trí”.

Phải thấu suốt hết thảy tất cả, đều là hư vọng không thật. Thân thể nầy không nhất định là ta, hết thảy sự vật, cũng không nhất định là của ta. Vì tất cả hết thảy đều chẳng bền vững, đều là vô thường. Tức nhiên là vô thường, lại hà tất phải chấp trước ? Chấp trước nó lại có ích gì ? Chẳng có chút pháp nào chân thật có thể tồn tại, để được thành lập. Ðều do nhân duyên sinh ra, do nhân duyên diệt đi. Phải nhìn xuyên thủng nó, buông xả nó, thì mới đắc được tự tại giải thoát.

Muốn khiến cho chúng sinh biết thật tánh, rộng vì tuyên nói. Nói những gì ? Nói các pháp không thể hoại. Những Pháp gì không thể hoại ? Sắc không thể hoại, thọ tưởng, hành, thức, không thể hoại. Vô minh không thể hoại. Pháp Thanh Văn, pháp Độc Giác, pháp Bồ Tát, không thể hoại.

Tuy nhiên Bồ Tát biết tất cả đều là vô thường, chẳng bền vững, nhưng vẫn muốn khiến cho tất cả chúng sinh biết pháp tánh chân thật. Gì là pháp tánh chân thật ? Tức là bản thể của pháp, là vắng lặng, chẳng có một thật thể, giống như hư không. Nếu minh bạch tất cả là không, là chẳng có, như vậy thì chẳng có chấp trước. Chẳng có chấp trước, thì được giải thoát. Bồ Tát vì tất cả chúng sinh, tuyên nói đạo lý nầy.

Tuyên nói gì ? Tuyên nói các pháp không thể hoại. Tại sao không thể hoại ? Vì là không. Nếu có hình có tướng, thì sẽ biến hoại. Không hình không tướng, thì hoại cái gì ? Có gì để hoại ?
Pháp gì không thể hoại ? Sắc pháp năm uẩn không thể hoại. Thọ, tưởng, hành, thức, bốn pháp nầy cũng không thể hoại. Vô minh cũng không thể hoại. Cho đến pháp Thanh Văn (bốn đế), pháp Duyên Giác (mười hai nhân duyên), pháp Bồ Tát (sáu độ), những pháp nầy đều không thể hoại.

Tại sao ? Vì tất cả pháp đều không làm, chẳng có ai làm. Không lời nói, không xứ sở. Không sinh không khởi, không cho, không lấy, không động chuyển, không tác dụng.

Vì nhân duyên gì, mà nói pháp năm uẩn, pháp Thanh Văn, pháp Duyên Giác, pháp Bồ Tát, đều không thể hoại ? Vì tất cả pháp, chẳng có làm, cũng chẳng có người làm. Tức nhiên chẳng có làm và kẻ làm, lại có gì có thể phá hoại, cho nên chẳng có lời lẽ có thể nói ra. Do đó:

“Ðường lời lẽ đã bặc,
Nơi tâm hành đã diệt”.

Pháp nầy cũng chẳng phải có xứ sở nhất định. Cũng chẳng có sinh, cũng chẳng có diệt, cũng chẳng có khởi, cũng chẳng có hoại. Bản thể của pháp, không thể cho chút gì, cũng chẳng lấy đi chút gì, cũng chẳng có động chuyển, vì nó là vắng lặng. Do đó:

“Các pháp từ xưa nay
Thường tự tịch diệt tướng
Không thể dùng lời nói”.
Cho nên chẳng có sự tác dụng.

Bồ Tát thành tựu vô lượng huệ tạng như vậy, dùng chút ít phương tiện, thấu rõ tất cả pháp, thì tự nhiên thông đạt, không do kẻ khác giác ngộ.

Vị Bồ Tát nầy tu huệ tạng, Ngài minh bạch đủ thứ lý không, biết tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng, như sương cũng như điện, cho nên tất cả đều không chấp trước, vì không chấp trước, nên thành tựu vô lượng trí huệ tạng.

Bồ Tát thành tựu vô lượng huệ tạng, dùng chút ít pháp phương tiện để quán sát tất cả các pháp, thì sẽ thấu hiểu tất cả pháp, chiếu rõ tất cả pháp, lý thể của pháp chân như thật tướng. Lúc đó, tự nhiên sẽ minh bạch thông đạt được lý, không cần nhờ pháp phương tiện, liền được khai ngộ.

Huệ vô tận tạng nầy, có mười thứ không thể tận, nên nói là vô tận. Những gì là mười ? Đó là: Đa văn thiện xảo, nên không thể tận. Gần gũi thiện tri thức, nên không thể tận. Khéo phân biệt câu nghĩa, nên không thể tận. Vào sâu pháp giới, nên không thể tận. Dùng một vị trí trang nghiêm, nên không thể tận. Tập tất cả phước đức, tâm chẳng nhàm mỏi, nên không thể tận. Vào tất cả môn đà la ni, nên không thể tận. Phân biệt được lời lẽ âm thanh của tất cả chúng sinh, nên không thể tận. Dứt được nghi hoặc của tất cả chúng sinh, nên không thể tận. Vì tất cả chúng sinh, hiện tất cả thần lực của Phật, để giáo hoá điều phục, khiến cho họ tu hành không gián đoạn, nên không thể tận. Đó là mười.

Trí huệ tạng nầy là vô cùng vô tận, vĩnh viễn nói không hết được. Nói một cách tổng quát, phân ra làm mười pháp không thể tận. Những gì là mười pháp ?

1. Ða văn thiện xảo: Ða văn tức là nghe nhiều Phật pháp, tức cũng là nghe nhiều nhớ rộng. Tôn giả A Nan, Ngài là đa văn bậc nhất, phàm là pháp của Phật nói ra, Ngài đều nhớ hết ở trong biển não. Do đó: “Một khi lọt vào tai, vĩnh viễn không quên”. Vì đa văn, mới phương tiện khéo léo nói ra đủ thứ diệu pháp, đây là không thể cùng tận.

2. Gần gũi thiện tri thức: Thiện tri thức đem pháp lành ban cho chúng sinh, dùng đạo lý chánh tri chánh kiến, diễn nói các pháp thật tướng. Muốn học Phật pháp, thì phải vĩnh viễn gần gũi thiện tri thức, xa lìa ác tri thức. Tại sao ? Vì tư tưởng của ác tri thức là tà tri tà kiến, nên dễ đoạ lạc vào ba đường ác.

3. Khéo phân biệt câu nghĩa: Ðối với nghĩa lý của câu văn trong Kinh điển, phải phân tích rõ ràng. Không thể không cầu mong thấu hiểu, càng không thể biết một hiểu nửa, tựa đúng mà sai; chẳng những khiến người lầm lẫn, mà còn có hại cho chính mình.

4. Vào sâu pháp giới: Tự tánh vào sâu pháp giới, hợp mà làm một. Do đó: “Tận hư không, khắp pháp giới”. Ðây là không thể cùng tận.

5. Dùng một vị trí trang nghiêm: Một vị trí tức là trí huệ chân như thật tướng. Dùng trí nầy để trang nghiêm pháp thân, trang nghiêm cõi Phật, trang nghiêm tất cả cảnh giới .v.v…đây là không thể cùng tận.

6. Tập tất cả phước đức, tâm chẳng nhàm mỏi: Phàm là trợ giúp kẻ khác làm công đức, đều là phước đức, phước đức do ít tập thành nhiều. Viên mãn phước đức, liền được giải thoát. Tuy nhiên làm đủ thứ phước đức, nhưng chẳng có lúc nào nhàm mỏi, tận lực mà làm, chẳng có cùng tận.
Chúng ta người tu đạo, tất cả mọi thời, mọi nơi, dùng trí huệ quang minh để chiếu soi thân tâm của mình, đây là tập tất cả phước đức. Do đó:

“Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

Ðây là bốn thệ nguyện lớn của Bồ Tát phát ra. Chúng ta phải phản tỉnh một phen: Chúng ta đến độ chúng sinh, chứ chẳng phải chúng sinh đến độ chúng ta. Chúng ta đến đoạn phiền não, chứ không phải dạy phiền não đến đoạn chúng ta. Chúng ta đến học Phật pháp, chứ chẳng phải dạy Phật pháp đến học chúng ta. Chúng ta đến thành Phật đạo, chứ chẳng phải dạy Phật đạo đến thành chúng ta. Ðiểm nầy các vị phải đặc biệt chú ý !

7. Vào tất cả môn Ðà la ni: Ðà la ni dịch là tổng trì, “tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa”, tức cũng là tổng trì thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh. Phải vào sâu tất cả pháp môn tổng trì. Cẩn thận lời nói hành động, không nên nói lời vô nghĩa, tức là tổng tất cả pháp. Làm nhiều công đức, trang nghiêm thân, tức là trì vô lượng nghĩa. Trí huệ nầy không thể cùng tận.

8. Phân biệt được lời nói âm thanh của tất cả chúng sinh: Bồ Tát chẳng học tất cả lời nói, mà hiểu được tất cả lời nói. Tại sao ? Vì trí huệ không thể nghĩ bàn, cho nên cùng lúc có thể phân biệt được trăm ngàn lời nói và âm thanh. Chẳng những phân biệt được rõ ràng, mà còn trả lời được các vấn nạn, trí huệ nầy cũng không thể cùng tận.

9. Dứt được nghi hoặc của tất cả chúng sinh: Tại sao chúng sinh chẳng tương ưng với đạo ? Vì có nghi hoặc. Ðối với Phật pháp bán tín bán nghi, cho nên chẳng tương ưng với đạo. Chúng ta người tu đạo, không nên có tâm lý nửa tin nửa nghi, phải có chánh tín chánh niệm. Bằng không thì, đối với sự tu hành không thể thành tựu đạo nghiệp. Bồ Tát có trí huệ, Ngài hiểu rõ thị phi, dứt trừ nghi hoặc của chúng sinh. Trí huệ nầy không thể cùng tận.

10. Vì tất cả chúng sinh, hiện tất cả thần lực: Bồ Tát vì giáo hoá tất cả chúng sinh, vì điều phục tất cả chúng sinh, nên hiện ra tất cả thần thông lực, để khiến cho tất cả chúng sinh tu hành Phật pháp, chẳng gián đoạn. Trí huệ nầy cũng không thể cùng tận. Ðây là mười pháp không thể cùng tận.

Đó là huệ tạng thứ bảy của đại Bồ Tát. Bồ Tát trụ nơi tạng nầy, đắc được trí huệ vô tận, khắp khai ngộ tất cả chúng sinh.

Ðạo lý như vừa nói ở trên, tức là pháp môn huệ tạng thứ bảy của đại Bồ Tát tu hành. Bồ Tát tu tạng nầy, sẽ đắc được trí huệ Bát Nhã vô tận, khắp khiến cho tất cả chúng sinh đều được khai ngộ, chứng được Phật đạo.

THỨ TÁM : NIỆM TẠNG

Phật tử ! Thế nào là niệm tạng của đại Bồ Tát ?

Ðại Bồ Tát Công Ðức Lâm lại gọi một tiếng: Các vị đệ tử của Phật ! Gì gọi là niệm tạng của đại Bồ Tát phải tu hành ?

Bồ Tát nầy xả lìa nghi hoặc, đắc được niệm đầy đủ.

Vị Bồ Tát nầy tu niệm tạng, Ngài đã xả lìa được nghi hoặc. Ðắc được nghĩ nhớ đầy đủ. Tức cũng là thuở xưa trong nhiều đời nhiều kiếp, hết thảy tất cả sự việc, đều nghi nhớ rõ ràng, mà chẳng quên mất.

Nghĩ nhớ quá khứ một đời hai đời, cho đến mười đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, vô lượng trăm ngàn đời.

Ở trong niệm tạng nói có mười thứ vô tận:

1. Ðời.
2. Kiếp.
3. Phật danh.
4. Thọ ký.
5. Diễn giáo.
6. Chúng hội.
7. Nói nghĩa.
8. Căn tánh.
9. Sở trị.
10. Năng trị.

Dưới đây sẽ phân biệt nói rõ.

Vị Bồ Tát nầy, có thể nhớ lại được trong quá khứ một đời, những gì đã làm, thực hành, chẳng những nghĩ nhớ lại một đời, nghĩa là đời thứ hai, thọ thân là nam, hay nữ ? Tên họ là gì ? Sinh ra ở đâu ? Cũng đều nhớ biết rõ. Cho đến trong mười đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, khởi những hoặc gì ? Tạo những nghiệp gì ? Thọ quả báo gì ? Thảy đều ghi nhớ rõ ràng. Thậm chí ở trong vô lượng đời, gieo trồng nhân duyên gì ? Kết quả gì ? Hết thảy tất cả hạnh nghiệp, đều nhớ rõ không quên. Ðây là nói đời vô lượng.

Kiếp thành, kiếp hoại, kiếp thành hoại, chẳng phải một kiếp thành, chẳng phải một kiếp hoại, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn ức Na do tha, cho đến vô lượng, vô số, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lường, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp.

Kiếp dịch là phân biệt thời tiết. Do đó:

“Ngày tháng năm gọi là thời
Thành trụ hoại không gọi là kiếp”.

Nói tóm lại, không thể tính đếm thời gian gọi là kiếp. Có phương pháp tính đếm kiếp là: Dùng tuổi thọ con người đến tám vạn bốn ngàn tuổi làm tiêu chuẩn, cứ mỗi trăm năm giảm xuống một tuổi, thân cao cũng giảm xuống một tất, giảm xuống còn mười tuổi là ngừng. Sau đó cứ mỗi trăm năm lại tăng lên một tuổi, thân cao thêm một tất, tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi là ngừng. Một lần tăng một lần giảm là một kiếp. Một ngàn kiếp là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp. Bốn trung kiếp là một đại kiếp. Tuổi thọ của trái đất là có thành, trụ, hoại, không, bốn trung kiếp. Nói tóm lại, tuổi thọ của trái đất là thời gian một đại kiếp.
Kiếp thành, kiếp hoại, kiếp thành hoại. Ở trong chẳng phải một kiếp thành, chẳng phải một kiếp hoại, chẳng phải một kiếp thành hoại, đủ thứ sự việc, Bồ Tát đều có thể nghĩ nhớ lại. Dù ở trong trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn ức Na do tha kiếp, đủ thứ sự việc, Bồ Tát cũng có thể nghĩ nhớ lại được. Cho đến vô lượng, vô số, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả thuyết .v.v… hết thảy sự việc, Bồ Tát đều nghĩ nhớ lại được. Ðây là nói kiếp vô tận.

Nhớ một danh hiệu Phật, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết danh hiệu Phật.

Bồ Tát nghĩ nhớ lại một danh hiệu Phật, cho đến nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết danh hiệu Phật, đều ghi nhớ rõ ràng, không thể quên danh hiệu của một vị Phật nào. Ðây là danh hiệu Phật vô tận.

Nhớ một vị Phật ra đời nói thọ ký, cho đến nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết vị Phật ra đời nói thọ ký. 

Nghĩ nhớ một vị Phật xuất hiện ra đời, vì tất cả Bồ Tát nói pháp thọ ký. Cử hành lễ quán đảnh (Bồ Tát thọ lễ quán đảnh, trở thành Pháp Vương tử), cho đến nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết vị Phật xuất hiện ra đời, vì tất cả Bồ Tát nói pháp, thọ ký, quán đảnh, đều nhớ rõ không quên. Ðây là thọ ký vô tận.

Nhớ một vị Phật ra đời nói Tu đa la, cho đến nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết vị Phật ra đời nói Tu đa la.

Nghĩ nhớ một vị Phật xuất hiện ra đời, để nói Tu đa la (dịch là Kinh). Cho đến nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết vị Phật xuất hiện ra đời để nói Kinh điển, đều ghi nhớ rõ ràng. Ðây là diễn giáo vô tận.

Như Tu đa la, Kỳ dạ, thọ ký, Già đà, Ni đà na, Ưu đà na, bổn sự, bổn sinh, phương quảng, vị tằng hữu, ví dụ, luận nghị, cũng đều như vậy.

Nghĩ nhớ bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật nói Kinh điển, đều ghi nhớ, tức là nói mười hai bộ Kinh điển, cũng đều nhớ hết không quên. Nay giải thích sơ lược về mười hai bộ Kinh như sau:

1. Tu đa la: Dịch là khế Kinh. Trên khế với lý của chư Phật, dưới hợp với căn cơ của chúng sinh. Còn dịch là trường hàng. Từ “Như thị ngã văn” bắt đầu, cho đến cuối cùng “Tín thọ phụng hành” là ngừng, đây gọi là Trường Hàng. Có lối lại nói có bốn ý nghĩa:

A. Pháp bổn: Tức là căn bổn của pháp.
B. Kinh: Tức là trường hàng.
C. Trực thuyết: Nói rất thẳng.
D. Thánh giáo: Pháp của Phật nói là Thánh giáo.

Ðai Sư Viễn Công phân “Pháp bổn” ra làm năm ý nghĩa:

a. Giáo là lý bổn: Giáo là nói căn bổn của lý.
b. Kinh là luận bổn: Kinh là căn bổn của luận nghị.
c. Tổng là biệt bổn: Tổng tướng là căn bổn của biệt tướng. (Tu đa la là tổng tướng, mười một loại kia là biệt tướng).
d. Sơ là hậu bổn: Một khi đầu tiên bắt đầu là căn bổn của cuối cùng.
e. Lược là rộng bổn: Lược nói là căn bổn của rộng nói.

Tu đa là còn có bốn ý nghĩa:

A. Quán: Xâu lại những nghĩa lý đã nói. Tức là xâu nghĩa lý đã nói ra lại với nhau. Giống như hạt chuỗi, là dùng sợi chỉ, xâu 108 hạt chuỗi lại với nhau, cho nên người Ấn Ðộ gọi Kinh là chỉ khâu.
B. Nhiếp: Nhiếp thọ những chúng sinh giáo hoá. Dùng pháp của Kinh điển nhiếp vào trong cửa Phật pháp.
C. Thường: Xưa nay không thay đổi.
D. Pháp: Ba đời đều đồng nhau. Ðây là một phương pháp giải thích.

Tu đa la còn có bốn ý nghĩa:

A. Nghĩa là thừng đen: Giống như gỗ theo lằng mực đen mà ngay thẳng, vọng tâm hay theo Kinh Phật mà lìa tà.
B. Nghĩa là suối vọt: Suối nước từ dưới đất vọt lên, trôi chảy không ngừng, lấy không hết được; dùng để giải khát. Nói chung, chẳng có lúc nào cùng tận.
C. Nghĩa là sinh ra: Triển chuyển chất sinh, càng sinh càng nhiều.
D. Nghĩa là hiển bày: Hiển bày đạo lý lý sự. Ðây là một lối nói khác. Ở trên là lược giải “Tu đa la”.

2. Kỳ dạ: Dịch là ứng tụng, còn là kệ tụng. Ðáng tụng nghĩa lý trong trường hàng ở trên, dùng kệ để tụng lại. Hoặc dùng bốn chữ, hoặc năm chữ, hoặc bảy chữ làm một câu, một bài bốn câu, khiến cho người tụng dễ nhớ.

3. Hoà già la na: Dịch là thọ ký. Chư Phật thọ ký riêng biệt thành Phật cho Bồ Tát. Giống như Bồ Tát Di Lặc, bổn danh là A Dật Ða, Phật thọ ký là Phật Di Lặc, tương lai sẽ đến thế giới Ta Bà thành Phật.

4. Già đà: Dịch là phúng tụng, là có thể dùng kệ tụng xướng. Còn là cô khởi tụng, chẳng có quan hệ gì với Kinh văn ở trên, và cũng chẳng có quan hệ gì với Kinh văn ở sau. Ở trong Kinh văn, đột nhiên nói ra bài kệ bốn câu, như Kinh Pháp Cú.

5. Ni đà na: Dịch là nhân duyên. Hoặc nói nhân duyên của Phật, hoặc nói nhân duyên của đệ tử. Phàm là nói Kinh điển, đều có nhân duyên. Bắt đầu tất cả Kinh điển là phần tựa, đây là nhân duyên Kinh.

6. Ưu đà na: Dịch là tự thuyết. Kinh điển của Phật nói, trước hết do đệ tử thỉnh pháp, sau đó mới nói pháp. Chỉ có Kinh A Di Ðà, là Kinh không hỏi mà tự nói. Tại sao ? Vì pháp nầy chẳng có ai hiểu biết được. Song, Phật từ bi, không thể không nói, cho nên không hỏi mà tự nói Kinh A Di Ðà, xiển dương pháp môn tịnh độ.

7. Ðế mục đa già: Dịch là bổn sự. Phật tuyên nói sự việc đời trước của đệ tử, giống như Phẩm Bồ Tát Dược Vương Bổn Sự trong Kinh Pháp Hoa.

8. Ðồ đà già: Dịch là bổn sanh. Phật tự nói sự việc thọ thân của mình trong quá khứ. Trong quá khứ đã từng làm nai chúa, làm Chuyển Luân Thánh Vương .v.v. Khi hành Bồ Tát đạo, đã từng xả bỏ vô số thân khả ái. Những nhân duyên thuở xưa nầy, đều ghi lại ở trong Bổn Sinh.

9. Tỳ Phật lược: Dịch là phương quảng. Nói Kinh văn chân lý phương chánh quảng đại. Trong Kinh Niết Bàn có nói: “Ðại thừa phương đẳng Kinh điển, nghĩa lý rộng lớn”.

10. A phù đạt ma: Dịch là vị tằng hữu. Hoặc nói pháp quá khứ chư Phật chưa từng nói, hoặc nói pháp hiếm có. Giống như khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni hàng sanh, thì liền đi bảy bước, hoa sen đỡ chân, tay trái chỉ trời, tay phải chỉ đất thốt ra:

“Thiên thượng Thiên hạ,
Duy ngã độc tôn”.

Nghĩa là:

“Trên trời dưới nhân gian,
Mình ta tôn quý hơn hết”.

Ðây tức là pháp hiếm có.

11. A ba đà na: Dịch là ví dụ. Dùng phương pháp ví dụ, để nói rõ nghĩa lý Kinh văn. Ví dụ tuy nhiên chẳng phải là chân lý, nhưng nói rõ được chân lý.

12. Ưu ba đề xá: Dịch là luận nghị. Nói đơn giản đó là thảo luận vấn đề. Có khi Ðức Phật hỏi, đệ tử đáp. Có khi đệ tử hỏi, Ðức Phật đáp. Hoặc Bồ Tát luận nghị với nhau. Trong bổn Kinh Phẩm Vấn Minh, tức là luận nghị.

Ðây là giải thích sơ lược về mười hai bộ, còn gọi là mười hai phần giáo.

 Nhớ một chúng hội, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết chúng hội.

Bồ Tát nghĩ nhớ lại pháp nghe ở trong một đại chúng hải hội, chẳng quên mất. Cho đến Kinh văn của chư Phật nói ở trong nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết đại chúng hải hội, từng câu từng câu đều nhớ rõ không quên. Ðây là chúng hội vô tận.

Nhớ diễn nói một pháp, cho đến diễn nói bất khả thuyết bất khả thuyết pháp.

Nghĩ nhớ lại vì chúng sinh diễn nói nghĩa lý một pháp, cho đến diễn nói bất khả thuyết bất khả thuyết nghĩa lý, đều ghi nhớ không quên. Pháp môn niệm tạng, tức là nghe rộng nhớ nhiều. Ðây là nói nghĩa vô tận.

Nhớ một căn đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết căn đủ thứ tánh.

Nghĩ nhớ lại căn tánh của một loại chúng sinh, ở trong một loại chúng sinh, có đủ thứ căn tánh. Cho đến đủ thứ căn tánh của nhiều loại chúng sinh bất khả thuyết bất khả thuyết, đều phân biệt được rõ ràng, nhớ được rõ ràng, mà chẳng hỗn loạn. Ðây là căn tánh vô tận.

Nhớ một căn vô lượng đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết căn vô lượng đủ thứ tánh.

Nghĩ nhớ lại một loại chúng sinh, có vô lượng vô biên đủ thứ căn tánh. Cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết nhiều loại chúng sinh, có vô lượng vô biên đủ thứ căn tánh, đều ghi nhớ không quên.

Nhớ một phiền não đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết phiền não đủ thứ tánh.

Nghĩ nhớ lại một thứ phiền não, có đủ thứ nhân tố, sinh ra tánh phiền não. Cho đến nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết phiền não, đủ thứ tánh phiền não, đều ghi nhớ không quên. Ðây là sở trị vô tận.

Nhớ một tam muội đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội đủ thứ tánh.

Nghĩ nhớ lại một thứ tam muội, ở trong có đủ thứ tánh định. Cho đến có nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội, đủ thứ tánh định, cũng đều nhớ rõ. Ðây là năng trị vô tận. Ở trước là sở trị phiền não, đây là năng trị phiền não. Dùng nước tam muội trí bi, để trị vô lượng phiền não trần sa.

Niệm tạng nầy có mười thứ. Đó là: Niệm vắng lặng, niệm thanh tịnh, niệm chẳng trược, niệm minh triệt, niệm lìa trần, niệm lìa đủ thứ trần, niệm lìa cấu, niệm quang diệu, niệm khả ái lạc, niệm không chướng ngại. 

Bồ Tát ở trong niệm tạng nầy có mười thứ niệm:

1. Niệm vắng lặng: Tức là yên lặng chẳng động, cảm mà toại thông, tức cũng là vì tĩnh lự tương ưng.
2. Niệm thanh tịnh: Một chút nhiễm ô cũng chẳng có, tức cũng là vì vô lậu đều chuyển.
3. Niệm chẳng trược: Chẳng hỗn loạn, chẳng ô trược, tức cũng là vì tịnh tín.
4. Niệm minh triệt: Quang minh thấu suốt, giống như pha lê, tức cũng là vì biết rõ.
5. Niệm lìa trần: Lìa khỏi đủ thứ trần lao vọng niệm, tức cũng là vì chẳng thủ lấy.
6. Niệm lìa đủ thứ trần: Lìa khỏi hết thảy tất cả trần lao vọng niệm, tức cũng là vì lìa phân biệt.
7. Niệm lìa cấu: Lìa khỏi tất cả niệm bụi trần nhiễm ô, tức cũng là vì lìa sự biết.
8. Niệm quang diệu: Phóng trí huệ quang, chiếu sáng tất cả, tức cũng là vì ban cho huệ.
9. Niệm khả ái lạc: Niệm nầy rất đáng ưa thích, rất đáng vui, tức cũng là vì đủ các đức trên.
10. Niệm không chướng ngại: Niệm vô sở tri chướng, tức cũng là vì lìa các ác trên.

Bồ Tát trụ ở niệm nầy, thì tất cả thế gian không thễ nhiễu loạn. Tất cả dị luận không thể biến động. Căn lành đời trước đều được thanh tịnh. Nơi các pháp thế gian không thể nhiễm trước. Các ma ngoại đạo không thể phá hoại được. Chuyển thân thọ sanh không quên mất. Quá khứ hiện tại vị lai nói pháp vô tận. Ở trong tất cả thế giới, đồng ở với chúng sinh, chưa từng lỗi lầm. Vào trong chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật, chẳng có chướng ngại. Chỗ tất cả chư Phật đều được gần gũi.

Vị Bồ Tát nầy tu pháp mười niệm, khi tu niệm nầy thì hết thảy tất cả pháp thế gian, chẳng có một pháp nào có thể nhiễu loạn tâm của Ngài được. Tất cả dị luận của hết thảy thiên ma ngoại đạo, không thể biến động tư tưởng của Ngài được. Ðủ thứ căn lành của Ngài đã trồng trong quá khứ, đều đắc được thanh tịnh. Ðối với tất cả pháp thế gian không có sự ô nhiễm và chấp trước. Tất cả chúng ma và ngoại đạo, không cách chi phá hoại được Bồ Tát. Ðời nầy thọ mạng hết, đến nơi khác thọ sinh, thì tất cả sự việc trong đời trước đều hoàn toàn nhớ hết, một chút cũng không quên. Trong đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, diễn nói diệu pháp chẳng cùng tận. Ở trong mười phương tất cả thế giới, thị hiện thân chúng sinh, và đồng ở với chúng sinh, cùng nhau sinh hoạt. Tuy nhiên cùng ở, nhưng Bồ Tát đã lìa khỏi tham sân si, chẳng có mọi sự chấp trước, cho nên chẳng có lỗi lầm. Giống như hoa sen mọc từ trong bùn, mà chẳng nhiễm bùn. Bồ Tát hay vào pháp hội đạo tràng của tất cả chư Phật, đề làm ảnh hưởng chúng, giúp Phật hoằng pháp, mà chẳng có chướng ngại. Tóm lại, muốn đi đến đạo tràng nào, thì đến đạo tràng đó, tuyệt đối chẳng bị hạn chế. Ngài đến chỗ chư Phật trong mười phương, để gần gũi chư Phật, cúng dường chư Phật, thừa sự chư Phật.

Đó gọi là niệm tạng thứ tám của đại Bồ Tát.

Pháp môn vừa nói ở trên, tức là pháp môn niệm tạng thứ tám của đại Bồ Tát tu hành.

THỨ CHÍN : TRÌ TẠNG

Phật tử ! Thế nào là trì tạng của đại Bồ Tát ?

Ðại Bồ Tát Công Ðức Lâm lại gọi một tiếng: Các vị đệ tử của Phật ! Gì gọi là trì tạng của đại Bồ Tát tu hành ?

 Bồ Tát nầy thọ trì Tu đa la của chư Phật nói. Văn câu nghĩa lý, chẳng có quên mất. Một đời thọ trì, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết đời thọ trì.

Vị Bồ Tát nầy tu trì tạng, Ngài hay thọ trì Tam Tạng mười hai bộ Kinh điển, của mười phương ba đời tất cả chư Phật nói. Văn tự ở trong Kinh điển từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết thúc, Ngài đều có thể đọc tụng, lại hay biên chép. Nghĩa lý của mỗi câu Kinh văn, chẳng những thấu rõ triệt để, mà còn chẳng quên mất. Lọt vào mắt thấy rồi, thì vĩnh kiếp không quên. Bồ Tát một đời thọ trì pháp tạng nầy, tiếp tục cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết nhiều đời tương lai, cũng vẫn thọ pháp tạng nầy, mà vĩnh viễn không quên mất.

Thọ trì một danh hiệu Phật, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết danh hiệu Phật.

Vị Bồ Tát nầy, thọ trì danh hiệu của một vị Phật, chẳng có quên mất. Cho đến thọ trì nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết danh hiệu Phật, cũng chẳng quên mất.

Thọ trì một kiếp số, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp số.

Vị Bồ Tát nầy, thọ trì một kiếp số, chẳng có quên mất. Cho đến thọ trì nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp số, cũng chẳng quên mất.

Thọ trì một Phật thọ ký, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật thọ ký.

Vị Bồ Tát nầy, thọ trì một vị Phật thọ ký biệt hiệu cho những Bồ Tát khác, chẳng có quên mất. Cho đến thọ trì nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết vị Phật thọ ký biệt hiệu cho những Bồ Tát khác, cũng chẳng quên mất.

Thọ trì một Tu đa la, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết Tu đa la.

Vị Bồ Tát nầy, thọ trì một bộ Kinh điển. Cho đến thọ trì nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết bộ Kinh điển, cũng chẳng quên mất.

Thọ trì một chúng hội, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết chúng hội.

Vị Bồ Tát nầy, thọ trì một chúng hội đạo tràng. Cho đến thọ trì nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết chúng hội đạo tràng, cũng chẳng quên mất.

Thọ trì diễn nói một pháp, cho đến diễn nói bất khả thuyết bất khả thuyết pháp.

Vị Bồ Tát nầy, thọ trì diễn nói một pháp. Cho đến thọ trì diễn nói nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết pháp, cũng chẳng quên mất.

Thọ trì một căn vô lượng đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết căn vô lượng đủ thứ tánh.

Vị Bồ Tát nầy, thọ trì một loại chúng sinh vô lượng đủ thứ căn tánh. Cho đến thọ trì nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết loại chúng sinh vô lượng đủ thứ căn tánh, cũng chẳng quên mất.

Thọ trì một phiền não đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết phiền não đủ thứ tánh.

Vị Bồ Tát nầy, thọ trì đối trị một thứ phiền não đủ thứ tánh. Cho đến thọ trì đối trị nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết phiền não đủ thứ tánh, cũng chẳng quên mất.

Thọ trì một tam muội đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội đủ thứ tánh.

Vị Bồ Tát nầy, thọ trì một thứ tam muội đủ thứ tánh, đối trị đủ thứ phiền não. Cho đến thọ trì nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết định lực, để đối trị bất khả thuyết bất khả thuyết phiền não đủ thứ tánh, cũng chẳng quên mất.

Phật tử ! Trì tạng nầy vô biên, khó viên mãn được, khó đến được tột đáy, khó được gần gũi. Không thể chế phục. Vô lượng, vô tận, đủ oai lực lớn. Là cảnh giới của Phật, chỉ có Phật mới thấu rõ được.

Các vị đệ tử của Phật ! Pháp môn trì tạng nầy, chẳng có bờ mé. Không dễ gì tu pháp môn trì tạng nầy được viên mãn. Vì không thể tu hành viên mãn, cho nên không thể đạt đến chỗ rốt ráo của trì tạng được, cũng không thể hiểu biết triệt để được. Pháp nầy không dễ gì tu, phải thời khắc niệm niệm không quên, thọ trì không quên. Càng không dễ gì tu pháp nầy, thì pháp nầy càng khó viên mãn. Không viên mãn, cho đến không biết được tột đáy của nó, cũng chẳng dễ gì gần gũi. Tu hành pháp nầy, thì thiên ma ngoại đạo không thể phá hoại được, không cách chi chế phục được. Pháp môn trì tạng nầy, chẳng có số lượng, chẳng có cùng tận, lại đầy đủ oai lực rộng lớn. Ðây là cảnh giới của Phật, chỉ có Phật mới thấu hiểu được, dù Bồ Tát cũng không thể hiểu biết cảnh giới nầy.

Đó gọi là trì tạng thứ chín của đại Bồ Tát.

Pháp môn vừa nói ở trên là pháp môn trì tạng thứ chín của đại Bồ Tát tu hành.

THỨ MƯỜI: BIỆN TẠNG

Phật tử ! Thế nào là biện tạng của đại Bồ Tát ?

Ðại Bồ Tát Công Ðức Lâm lại gọi một tiếng: Các vị đệ tử của Phật ! Gì gọi là biện tạng của đại Bồ Tát tu hành ?

Bồ Tát nầy có trí huệ thâm sâu, biết rõ thật tướng. Rộng vì chúng sinh diễn nói các pháp, chẳng trái với kinh điển của tất cả chư Phật.

Vị Bồ Tát nầy tu biện tạng, Ngài có trí huệ Bát Nhã thâm sâu, biết rõ được lý thể của các pháp thật tướng. Dùng đủ thứ nhân duyên, đủ thứ ví dụ, đủ thứ giải thuyết, rộng vì tất cả chúng sinh diễn nói đạo lý của các pháp thật tướng. Nhưng cũng chẳng trái với Kinh điển của chư Phật nói. Nghĩa lý nói ra hoàn toàn hợp với tâm Phật, chẳng có chỗ nào tơ hào trái ngược.

Nói pháp một phẩm, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết phẩm pháp. Nói một danh hiệu Phật, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết danh hiệu Phật. Như vậy nói một thế giới, nói một Phật thọ ký. Nói Một Tu đa la, nói một chúng hội, nói diễn một pháp, nói một căn vô lượng đủ thứ tánh, nói một phiền não vô lượng đủ thứ tánh, nói một tam muội vô lượng đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội vô lượng đủ thứ tánh.

Vị Bồ Tát nầy nói pháp một phẩm, cho đến nói bất khả thuyết bất khả thuyết nhiều phẩm pháp. Nói danh hiệu của một vị Phật, cho đến nói bất khả thuyết bất khả thuyết nhiều danh hiệu Phật, giống như nói pháp, nói một thế giới, nói một vị thọ ký, nói một bộ Kinh, nói một chúng hội, nói diễn pháp một thánh giáo, nói một loại chúng sinh vô lượng đủ thứ tánh, nói một thứ phiền não có vô lượng đủ thứ tánh. Nói một thứ định có vô lượng đủ thứ tánh, cho đến nói bất khả thuyết bất khả thuyết định vô lượng đủ thứ tánh. Ðây là đạo lý dùng một diễn nói nhiều, dùng nhiều quy về một. Do đó: “Một làm vô lượng, vô lượng làm một”. Bồ Tát có trí huệ biện tài như vậy, cho nên đến để vì chúng sinh nói pháp, giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ sớm thành Phật đạo.

Hoặc một ngày diễn nói, hoặc nửa tháng một tháng diễn nói, hoặc trăm năm ngàn năm trăm ngàn năm diễn nói. Hoặc một kiếp trăm kiếp ngàn kiếp trăm ngàn kiếp diễn nói. Hoặc trăm ngàn ức Na do tha kiếp diễn nói. Hoặc vô số vô lượng cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp diễn nói. Kiếp số có thể hết, nhưng nghĩa lý của một câu văn diễn nói khó hết được.

Vị Bồ Tát nầy, hoặc một ngày diễn nói biện luận pháp nầy. Hoặc nửa tháng một tháng diễn nói biện luận pháp nầy. Hoặc trăm năm, ngàn năm, trăm ngàn năm, để nói biện luận pháp nầy, đều không thể hết được, Do đó: “Biện tài vô ngại”. Hoặc trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, hoặc trải qua trăm ngàn ức Na do tha kiếp. Hoặc trải qua vô lượng vô biên vô số kiếp, cho đến trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, để nói biện luận pháp nầy, cũng không thể nói hết được. Dù số kiếp có thể hết, nhưng nghĩa lý của một câu một văn trong biện tạng, nói không thể hết được.

Tại sao ? Vì Bồ Tát nầy thành tựu mười thứ tạng vô tận. Thành tựu tạng nầy, thì nhiếp được tất cả pháp môn đà la ni hiện ở trước. Trăm vạn A tăng kỳ môn đà la ni dùng làm quyến thuộc. Đắc được đà la ni nầy rồi, thì dùng pháp quang minh, để rộng vì chúng sinh diễn nói pháp.

Ở trước có nói ở trong bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, thời gian nhiều kiếp như thế, cũng không thể phát huy hết nghĩa lý của một câu một văn được, đây là nguyên nhân gì ? Vì vị Bồ Tát nầy tu biện tạng, Ngài thành tựu mười thứ tạng vô tận. Thành tựu biện luận tạng, có thể nhiếp thọ tất cả pháp môn tổng trì, hiện ở trước. Có trăm vạn A tăng kỳ môn tổng trì làm quyến thuộc, đắc được trăm vạn A tăng kỳ môn tổng trì rồi, thì dùng trí huệ biện tài pháp quang minh, để vì chúng sinh diễn nói tất cả các pháp. Bồ Tát bi tâm thiết thiết, chẳng nhàm chán, đem pháp phân môn biệt loại, giải nói tỉ mỉ, khiến cho chúng sinh nghe rồi, liền đắc được lợi ích.

Khi Bồ Tát nói pháp thì dùng lưỡi rộng dài, vang ra âm thanh vi diệu, sung mãn mười phương, tất cả thế giới. Tuỳ theo căn tánh của chúng sinh, đều khiến cho họ được đầy đủ, tâm được hoan hỉ. Diệt trừ tất cả phiền não trần cấu ràng buộc. Khéo vào tất cả âm thanh ngôn ngữ văn tự biện tài, khiến cho tất cả chúng sinh, không dứt giống Phật, tâm thanh tịnh liên tục. Cũng dùng pháp quang minh, để diễn nói pháp, chẳng có cùng tận, chẳng sinh tâm mỏi mệt.

Vị Bồ Tát nầy, khi diễn nói vô lượng pháp, thì dùng lưỡi rộng dài, phát ra âm thanh vi diệu, khiến cho tất cả chúng sinh nghe được, đều sinh tâm hoan hỉ. Pháp âm vi diệu nầy, sung mãn đến hết thảy mười phương thế giới, tuỳ theo căn tánh của chúng sinh, mà đắc được lợi ích khác nhau. Trong Kinh Pháp Hoa có nói: “Nước một vị, cỏ cây rừng rậm, tuỳ theo lớn nhỏ mà thấm nhuần”. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được đầy đu, sinh tâm hoan hỉ. Diệt trừ quét sạch tất cả phiền não trần cấu ràng buộc. Bồ Tát khéo vào tất cả âm thanh, ngôn ngữ, văn tự, biện tài. Ðây tức là diệt trừ phiền não cấu tham sân si, sinh ra quang minh giới định huệ. Khiến cho tất cả chúng sinh tu giới định huệ, khi được viên mãn thì giống Phật chẳng dứt, bồ đề chẳng mai một, tâm thanh tịnh liên tục không gián đoạn. Dùng trí huệ biện tài pháp quang minh, để vì tất cả chúng sinh diễn nói tất cả các pháp, chẳng có lúc nào cùng tận, chẳng sinh tâm mỏi mệt.

Tại sao ? Vì Bồ Tát nầy thành tựu vô biên thân, tận hư không khắp pháp giới.

Tại sao Bồ Tát nói pháp nghĩa lý vô cùng vô tận ? Vì bất cứ nói thời gian lâu dài bao nhiêu, cũng cảm thấy chẳng mỏi mệt. Tại sao ? Vì vị Bồ Tát nầy, Ngài thành tựu pháp thân không bờ mé (vô biên thân), lớn mà không ngoài, nhỏ mà không trong, đến đi vô ngại, động tĩnh nhất nguyên. Do đó: “Tận hư không, khắp pháp giới”.

Đó là biện tạng thứ mười của đại Bồ Tát.

Pháp môn vừa nói ở trên, là pháp môn biện tạng thứ mười của đại Bồ Tát tu hành.

Tạng nầy vô cùng tận, không phần đoạn, không gián đoạn, không đổi khác, không chướng ngại, không thối chuyển, thâm sâu không đáy, khó có thể vào được, vào khắp tất cả môn Phật pháp.

Biện tạng nầy, là vô cùng vô tận, không có phần, không có đoạn, chẳng có gián đoạn, chẳng có biến hoá, chẳng có chướng ngại, chẳng có thối chuyển, chẳng có đáy. Tu pháp biện tạng, đáy của nó rất thâm sâu, không dễ gì chân chánh minh bạch. Tu hành pháp nầy, tuy nhiên không dễ gì thâm nhập, nhưng có thể vào khắp trong tất cả môn Phật pháp. Trong tất cả môn Phật pháp, đều có pháp biện tạng nầy.

Phật tử ! Mười thứ tạng vô tận nầy, có mười thứ pháp vô tận. Khiến cho các Bồ Tát rốt ráo thành tựu vô thượng bồ đề.

Các vị đệ tử của Phật ! Tu mười thứ pháp môn vô tận tạng nầy, lại đắc được mười thứ pháp vô tận. Khiến cho hết thảy Bồ Tát, muốn tu pháp nầy, rốt ráo đều thành tựu Phật quả vô thượng bồ đề.

Những gì là mười ? Vì lợi ích tất cả chúng sinh. Vì dùng bổn nguyện khéo hồi hướng. Vì tất cả kiếp không đoạn tuyệt. Vì tận hư không giới đều khai ngộ tâm vô hạn. Vì hồi hướng hữu vi mà chẳng chấp trước. Vì một niệm cảnh giới tất cả pháp vô tận. Vì đại nguyện tâm không đổi khác. Vì khéo nhiếp lấy các đà la ni. Vì được chư Phật hộ niệm. Vì thấu rõ tất cả pháp đều như huyễn.

Gì là mười pháp vô tận ? Sẽ giải thích sau đây:

1. Lợi ích tất cả chúng sinh: Nghĩa là phải lợi ích hết thảy chúng sinh. Do đó: “Phàm là việc ích lợi, thảy đều đi làm”. Phàm là việc có lợi ích cho chúng sinh, làm không được cũng phải cố gắng làm, không sợ khó khăn. Ðó mới là pháp tu khó làm mà làm được.

2. Dùng bổn nguyện khéo hồi hướng: Người hành Bồ Tát đạo, cần phải phát đại nguyện Bồ Tát, do đó:

“Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

Ðây là nguyện lực căn bản, sau đó lại phát mười đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền:

Một là lễ kính các Ðức Phật.
Hai là khen ngợi Như Lai.
Ba là rộng tu cúng dường.
Bốn là sám hối nghiệp chướng.
Năm là tuỳ hỉ công đức.
Sáu là thỉnh chuyển pháp luân.
Bảy là thỉnh Phật ở lại đời.
Tám là thường học theo Phật.
Chín là luôn thuận chúng sinh.
Mười là thảy đều hồi hướng.

Nguyện căn bản phát ra, hồi hướng cho pháp giới tất cả chúng sinh. Chẳng vì tự cầu, mà vì chúng sinh hành Bồ Tát đạo. Ðây là hồi tự hướng tha.

3. Tất cả kiếp không đoạn tuyệt: Ở trong vô lượng vô biên kiếp, tu hành chẳng bao giờ ngừng, cũng không ngừng phát tâm bồ đề hành Bồ Tát đạo, càng lợi ích chúng sinh không bao giờ ngừng.v.v… tất cả mọi thời, tất cả mọi nơi, tất cả kiếp, hồi hướng công đức cho chúng sinh không bao giờ ngừng. Bồ Tát vì chúng sinh lìa khổ được vui, mà không mỏi mệt. Vì khiến cho chúng sinh thoát khỏi ba cõi, hiện thân nói pháp, bỏ qua cơ hội thành Phật. Do đó: “Ðảo giá từ thuyền”, trở lại thế giới Ta Bà, phổ độ chúng sinh. Tinh thần nầy vĩnh viễn không đoạn tuyệt.

4. Tận hư không giới đều khai ngộ tâm vô hạn: Minh bạch tự tánh, tức là tận hư không giới. Ngộ được bản thể của pháp giới, nghĩa là minh tâm kiến tánh, trở về nguồn cội, chứng được thân pháp giới, tức cũng là vô biên thân. Ðây là Bồ Tát chứng được bản thể lý không. Chứng được bản thể của hư không. Mọi sự chấp trước, phiền não, chướng ngại, thảy đều không còn nữa. Tại sao ? Vì như hư không, chứng được trí huệ hư không. Tuy nhiên tại thế gian, hành mà không hành, làm mà không làm, tu mà không tu, chứng mà không chứng. Ðến được cảnh giới nầy, thì tâm và hư không hợp mà làm một, chẳng có sự giới hạn, chẳng có sự chấp trước.

5. Hồi hướng hữu vi mà chẳng chấp trước: Tuy nhiên là như vậy, nhưng vẫn phải hồi hướng hữu vi, mà chẳng chấp trước hữu vi. Không thể nói: “Tôi chứng được lý không, gì cũng chẳng làm ! Tức nhiên hành mà không hành, làm mà không làm, tu mà không tu, chứng mà không chứng, thì dạy nó là không”. Chẳng phải lối nói pháp như thế. Tuy chứng được lý không vô vi, vẫn phải hồi hướng hữu vi. Ðây tức là minh bạch đạo lý chân không. Từ trong chân không vẫn phải sinh ra diệu hữu. Không sinh diệu hữu, chỉ là chân không, thì chẳng có dụng gì. Do đó:

“Chân không chẳng ngại diệu hữu
Diệu hữu chẳng ngại chân không”.

Vẫn phải hồi hướng tất cả hữu vi. Gì là hữu vi ? Phàm là có hình có tướng, đều gọi là hữu vi. Trong Kinh Kim Cang có nói:

“Phàm hết thảy tướng,
Đều là hư vọng.
Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng,
Tức thấy Như Lai”.

Tuy nhiên chẳng hữu vi, nhưng vẫn không thể không có hữu vi. Vẫn có hữu vi, mà chẳng chấp trước hữu vi. Trong Kinh Kim Cang có nói:

“Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương cũng như điện
Hãy quán sát như thế”.

Tuy nhiên là vô vi, cũng phải hồi hướng hữu vi. Do đó: “Hành sở vô sự”, đừng chấp trước vào hữu vi.

6. Một niệm cảnh giới tất cả pháp vô tận: Cảnh giới trong một niệm, đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Do đó: “Một niệm tức ba ngàn, ba ngàn tức một niệm”. Hết thảy tất cả phiền não của chúng ta, đều do một niệm tạo thành. Nếu một niệm không sinh, thì sẽ đến được cảnh giới giải thoát. Giống như người tu hành, tu hành nhiều năm, một niệm không sinh, thì thường ở trong định. Hốt nhiên sinh ra một niệm, muốn làm tổng thống, thì kiếp sau sẽ làm tổng thống, nhưng đây là việc phiền não, khiến cho tâm chẳng thanh tịnh. Vì quan hệ đến quốc tế, làm cho đầu não căn thẳng, tạo ra nhiều khổ não.

7. Ðại nguyện tâm không thay đổi: Người tu hành, thì vĩnh viễn không thối thất tâm bồ đề, không thay đổi tâm bồ đề. Phải thời khắc kiên trì tâm bồ đề. Tâm bồ đề tức là tâm đại nguyện trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, đại nguyện tức là thuyền qua biển. Từ bờ sinh tử bên này, qua sông phiền não, và đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Ðại nguyện nầy, phải kiên cố như kim cang, vĩnh viễn không phá hoại, mới được như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt.
8. Khéo nhiếp lấy các Ðà la ni: Bồ Tát khéo nhiếp lấy vô lượng vô biên môn tổng trì, cùng nhau làm quyến thuộc. Giống như tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều là đệ nhất, chẳng có đệ nhị, cho nên gọi là pháp môn không hai. Do đó:

“Pháp đều bình đẳng,
Chẳng có cao thấp”.

Người tu đạo hoan hỉ pháp môn nào mà tương ưng, thì pháp môn đó là đệ nhất, pháp môn chẳng tương ưng, thì không thể nói là đệ nhất. Tuy nhiên pháp môn đó đối với bạn chẳng tương ưng, nhưng lại tương ưng với kẻ khác. Cho nên môn nào cũng đều đệ nhất, chẳng có đệ nhị. Nói tóm lại, phàm là pháp môn đối cơ, tức là đệ nhất.

9. Ðược tất cả chư Phật đều hộ niệm: Vì hay nhiếp lấy tất cả Ðà la ni, cho nên tất cả chư Phật đều đến hộ niệm gia trì, khiến cho bạn tăng trưởng trí huệ, thấu rõ tất cả pháp hữu vi, đều là hư vọng không thật.

10. Thấu rõ tất cả pháp đều như huyễn: Thấy tất cả pháp hữu vi đều là không, pháp vô vi căn bản cũng chẳng có. Tất cả pháp như huyễn không thật, thấu hiểu được đạo lý nầy thì tất cả đều chẳng chấp trước.
Chúng ta người tu đạo, đừng chấp trước “cái ta”. Nếu có tư tưởng về “cái ta”, thì không thể nào thoát khỏi được ba cõi. Cho nên Phật mới đề tỉnh chúng ta, phải không ta, không người, không chúng sinh, không thọ mạng, bốn tướng. Như vậy mới quét được tất cả pháp, lìa tất cả tướng.

Đó là mười pháp vô tận, hay khiến cho chỗ thật hành của tất cả thế gian, đều được rốt ráo đại tạng vô tận.

Ðây là mười pháp vô tận, pháp pháp chẳng cùng tận. Khiến cho tất cả thế gian người hành Bồ Tát đạo, thảy đều đắc được đại pháp tạng rốt ráo viên mãn vô tận.