KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
– Hán dịch: Căn cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ Linh Vân sửa lại
 – Đời Tống
 – Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ – Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đổng Minh

 

PHẨM BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÍ ÐỨC VƯƠNG

(Từ Quyển 19 đến Quyển 24)

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương rằng:

– Này thiện nam tử! Nếu có Ðại Bồ tát tu hành Kinh Ðại Niết Bàn như vậy thì được mười việc công đức, chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳng thể nghĩ bàn, người nghe kinh lạ, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải khó, chẳng phải dễ, chẳng phải tướng, chẳng phải phi tướng, chẳng phải là thế pháp, không có tướng mạo, cái không có của thế gian. Những gì là mười?

– Một là có năm. Những gì là năm? Một là điều người chẳng nghe mà có thể được nghe. Hai là nghe rồi có thể làm lợi ích. Ba là có thể đoạn dứt lòng nghi hoặc. Bốn là lòng tuệ chánh trực không quanh co. Năm là có thể biết mật tạng của Như Lai. Ðó là năm. Những gì chẳng nghe mà có thể được nghe? Ðó là bí mật tạng vi diệu thậm thâm, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, Phật pháp, chúng tăng không có sai biệt, tính tướng Tam Bảo Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, tất cả các đức Phật không có rốt ráo vào Niết Bàn mà thường trụ bất biến, Như Lai Niết Bàn chẳng phải có – chẳng phải không, chẳng phải hữu vi – chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu lậu – chẳng phải vô lậu, chẳng phải sắc – chẳng phải chẳng sắc, chẳng danh – chẳng phải chẳng danh, chẳng phải tướng – chẳng phải chẳng tướng, chẳng phải có – chẳng phải chẳng có, chẳng phải vật – chẳng phải chẳng vật, chẳng phải nhân – chẳng phải quả, chẳng phải đợi – chẳng phải chẳng đợi, chẳng phải sáng – chẳng phải tối, chẳng phải ra – chẳng phải chẳng ra, chẳng phải thường – chẳng phải chẳng thường, chẳng phải đoạn – chẳng phải chẳng đoạn, chẳng phải thỉ – chẳng phải chung, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải ấm – chẳng phải chẳng ấm, chẳng phải nhập – chẳng phải chẳng nhập, chẳng phải giới – chẳng phải chẳng giới, chẳng phải mười hai nhân duyên – chẳng phải chẳng mười hai nhân duyên. Những pháp thậm thâm vi mật như vậy.v.v.. mà xưa chẳng được nghe thì có thể được nghe. Lại có cái chẳng được nghe như là Kinh sách của của tất cả ngoại đạo, bốn Tỳ Ðà luận, Tỳ Dà La luận, Vệ Thế Sư luận, Ca Tỳ La luận, tất cả chú thuật, phương thuốc trị bệnh, kỹ nghệ, Nhật nguyệt thực, tinh tú biến chuyển, đồ thư, sấm ký.v.v.. Những Kinh như vậy ban đầu chưa từng nghe ý nghĩ bí mật, hôm nay đối với Kinh này mà được biết nghĩa của chúng. Lại có mười một bộ Kinh, trừ bộ Tỳ Phật Lược, cũng không biết nghĩa thậm thâm như vậy, nay nhân Kinh này mà được biết nghĩa đó. Này thiện nam tử! Ðó gọi là chẳng nghe mà có thể được nghe. Nghe rồi lợi ích là nếu có thể thính thọ Kinh Ðại Niết Bàn thì đều có thể biết đủ nghĩa vị thậm thâm của tất cả Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng. Ví như trai gái ở trước tấm gương sáng sạch nhìn thấy sắc tượng của họ tỏ rõ phân minh. Gương Ðại Niết Bàn cũng lại như vậy, Bồ tát cầm lấy đều được thấy sáng nghĩa thậm thâm của kinh điển Ðại Thừa. Cũng như có người ở trong nhà tối, cầm đuốc lửa sáng thấy hết mọi vật, đuốc Ðại Niết Bàn cũng như vậy. Bồ tát cầm đuốc ấy thì được thấy nghĩa thâm áo của Ðại Thừa. Cũng như mặt trời mọc có hàng ngàn ánh sáng đều có thể soi rõ những núi u tối, khiến cho tất cả mọi người từ xa nhìn thấy mọi vật. Mặt trời tuệ thanh tịnh Ðại Niết Bàn này cũng lại như vậy, soi rõ chỗ thâm thúy của Ðại Thừa, khiến cho người Nhị thừa từ xa thấy Phật đạo. Sở dĩ vì sao? Vì do họ có thể thính thọ được Kinh vi diệu Ðại Niết Bàn này. Này thiện nam tử! Nếu có Ðại Bồ tát thính thọ Kinh Ðại Niết Bàn như vậy thì được biết danh tự của tất cả các pháp. Nếu họ có thể ghi chép, đọc tụng thông lợi, vì người khác diễn nói rộng rãi, suy nghĩ ý nghĩa Kinh ấy thì biết nghĩa lý của tất cả các pháp. Này thiện nam tử! Người thính thọ Kinh ấy chỉ biết danh tự, chẳng biết nghĩa lý Kinh ấy mà nếu có thể ghi chép, thọ trì, đọc tụng, vì người khác rộng nói, suy nghĩ nghĩa  Kinh ấy thì có thể biết được nghĩa lý. Lại nữa, này thiện nam tử! Người nghe Kinh này, nghe có Phật tính, chưa có thể được thấy, nếu ghi chép, đọc tụng, vì người khác rộng nói, suy nghĩ  nghĩa  Kinh ấy thì được thấy Phật tính. Người nghe Kinh này, nghe có dành tư Ðàn (Bố thí) chưa thể được thấy Ðàn Balamật, nếu ghi chép, thọ trì, đọc tụng, vì người khác rộng nói, suy nghĩ nghĩa  Kinh ấy thì có thể thấy Ðàn Balamật… Bát nhã Balamật cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát, nếu có thể nghe Kinh Ðại Niết Bàn này thì biết pháp, biết nghĩa đủ cả hai không ngại. Các vị Bồ tát này đối các Samôn, Bàlamôn.v.v… hoặc trời, ma, Phạm trong tất cả đời, được vô sở úy, khai thị, phân biệt mười hai bộ Kinh, diễn nói nghĩa những Kinh ấy không có sai trái. Các vị ấy chẳng theo nghe người khác mà có thể tự biết gần với Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử! Ðó gọi là nghe rồi có thể làm lợi ích. Ðoạn tâm nghi thì nghi có hai thứ, một là nghi danh, hai là nghi nghĩa. Người nghe Kinh này  đoạn dứt được lòng nghi danh, người suy nghĩ về nghĩa thì đoạn được lòng nghi nghĩa. Lại nữa, này thiện nam tử! Nghi có năm thứ, một là nghi Phật có nhất định Niết Bàn không? Hai là nghi Phật có thường trụ không? Ba là nghi Phật có chân lạc không? Bốn là nghi Phật có chân tịnh không? Năm là nghi Phật có thật ngã không? Người nghe Kinh này nghi Phật Niết Bàn thì được đoạn dứt vĩnh viễn. Nếu họ ghi chép, đọc tụng, vì người khác rộng nói, suy nghĩ nghĩa Kinh ấy thì bốn nghi còn lại đoạn dứt vĩnh viễn. Lại nữa, này thiện nam tử! Nghi có ba thứ, một là nghi Thanh Văn là có hay là không? Hai là nghi Duyên Giác là có hay là không? Ba là nghi Phật thừa là có hay là không? Người nghe Kinh này thì ba nghi như vậy diệt vĩnh viễn, không còn. Nếu người ấy ghi chép, đọc tụng, vì người khác rộng nói, suy nghĩ nghĩa Kinh ấy thì có thể rõ biết tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu có chúng sinh chẳng nghe kinh Ðại Niết Bàn như vậy thì lòng nghi rất nhiều. Như là hoặc thường hay vô thường, hoặc lạc hay chẳng lạc, hoặc tịnh hay chẳng tịnh, hoặc ngã hay vô ngã, hoặc mạng hay chẳng phải mạng, hoặc chúng sinh hay chẳng phải chúng sinh, hoặc rốt ráo hay chẳng rốt ráo, hoặc đời khác, hoặc đời đã qua, hoặc có, hoặc không, hoặc khổ hay chẳng phải khổ, hoặc tập hay chẳng phải tập, hoặc đạo hay chẳng phải đạo, hoặc diệt hay chẳng phải diệt, hoặc pháp hay chẳng phải pháp, hoặc thiện hay chẳng phải thiện, hoặc không hay chẳng phải không… người nghe Kinh này thì các nghi như vậy đều được đoạn trừ vĩnh viễn. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu có người chẳng nghe Kinh như vậy thì lại có đủ thứ nhiều những nghi tâm. Như là sắc là ngã vậy? Thọ, tưởng, hành, thức là ngã vậy? Mắt có thể thấy hay ngã có thể thấy vậy? … cho đến thức có thể biết hay ngã có thể biết vậy? Sắc thọ báo hay ngã thọ báo vậy? … cho đến thức thọ báo hay ngã thọ báo vậy? Sắc đến đời khác hay ngã đến đời khác vậy? … cho đến thức cũng như vậy. Pháp sinh tử có đầu có cuối hay không đầu không cuối vậy? … Người nghe Kinh này thì những nghi như vậy cũng được trừ diệt vĩnh viễn. Lại có người nghi Nhất xiển đề, phạm bốn trọng cấm làm ngũ nghịch tội, bài báng Kinh Phương Ðẳng… những bọn như vậy  có Phật tính hay không Phật tính vậy? Người nghe Kinh này thì những nghi như vậy.v.v… đều được đoạn trừ vĩnh viễn. Lại có người nghi, thế gian biên hay thế gian vô biên vậy? Có thế giới mười phương hay không thế giới mười phương vậy? Người nghe Kinh này thì những nghi như vậy.v.v… cũng được vĩnh viễn đoạn trừ. Ðó gọi là có thể đoạn trừ lòng nghi hoặc. Tuệ tâm chính trực không tà khúc là nếu tâm có nghi hoặc thì sở kiến chẳng chánh trực. Tất cả phàm phu nếu chẳng được nghe Kinh điển vi diệu Ðại Niết Bàn này thì sở kiến tà khúc thậm chí sở kiến của người Thanh Văn, Bích Chi Phật cũng quanh co. Sao gọi là sở kiến của tất cả phàm phu là tà khúc? Ở trong  hữu lậu thấy Thường-Lạc-Ngã-Tịnh thì ở chỗ Như Lai thấy Vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã; thấy có chúng sinh, thọ mạng, tri kiến; kể cõi chẳng phải hữu tưởng, cõi chẳng phải vô tưởng là Niết Bàn; thấy trời Tự Tại có tám Thánh đạo, hữu kiến, đoạn kiến…. Những sự thấy như vậy gọi là tà khúc. Ðại Bồ tát, nếu được nghe Kinh Ðại Niết Bàn này, tu hành hạnh Thánh thì  được đoạn trừ những tà khúc như vậy. Sao gọi là cái thấy tà khúc của Thanh Văn, Duyên giác vậy? Thấy Bồ tát từ cõi trời Ðâu Suất hóa thân xuống, cỡi voi trắng, giáng thần vào thai mẹ, cha tên là Tịnh Phạn, mẹ tên là Ma Gia, ở tại thành Ca Tỳ La, ở trong thai đầy đủ mười tháng mà sinh ra, sinh ra chưa đến đất thì Ðế Thích đã tiếp bồng, vua rồng Nan Ðà và Bà Nan Ðà phun nước tắm ngài, vua quỉ thần lớn Ma Ni Bạt Ðà cầm bảo cái theo sau đứng hầu, thần đất hóa ra hoa để đỡ chân ngài, bốn phương đều đi đầy đủ bảy bước, đến với miếu thờ trời khiến cho tượng chư thiên đều đứng dậy nghinh đón, tiên A Tư Ðà ẳm để xem tướng, xem tướng xong ông đã sinh đại bi khổ, tự thương mình sẽ mạng chung chẳng nhìn thấy Phật hưng khởi, đến thầy học sách vở, tính toán, bắn cung, cưỡi ngựa, vẽ tranh, sấm ký, kỹ nghệ, ở tại thâm cung với sáu vạn thể nữ vui sướng hưởng lạc, ra thành du ngoạn, đến vườn Ca Tỳ La, trên đường thấy người già… cho đến thấy vị Samôn mặc pháp phục mà đi, trở về đến trong cung, thấy các thể  nữ, hình thể dáng vẻ giống như xương khô, cung điện sở hữu như mồ mã không khác, chán ghét xuất gia, nửa đêm vượt thành, đến chỗ các vị đại tiên Uất Ðà Già, Ca La La.v.v.. nghe Thức xứ và Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Ðã nghe vậy rồi quan sát kỹ thấy xứ này là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã. Bỏ đi đến dưới cây, tu đủ hạnh khổ đầy đủ sáu năm, biết khổ hạnh này chẳng thể được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lúc bấy giờ, Bồ tát lại đến trong dòng sông A Di La Bạt Ðề tắm gội, thọ sự dâng cháo sữa của người con gái chăn trâu, thọ rồi chuyển đến dưới cây Bồ Ðề, phá ma Ba Tuần, được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ở thành Ba La Nại vì năm vị Tỳ kheo lần đầu tiên chuyển bánh xe pháp… cho đến ở thành Câu Thi Na này vào Bát Niết Bàn. Thấy những việc như vậy thì đó gọi là sự thấy quanh co của Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát thính thọ Kinh Ðại Niết Bàn này thì đều được đoạn trừ những kiến (thấy) như vậy. Nếu có thể ghi chép, đọc tụng thông lợi, vì người khác diễn nói, suy nghĩ nghĩa Kinh ấy thì được sự thấy (kiến) chính trực không tà khúc. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát tu hành kinh Ðại Niết Bàn như vậy thì chắc chắn biết là Bồ tát từ vô lượng kiếp đến nay chẳng từ  cõi trời Ðâu Suất giáng thần vào thai mẹ… cho đến ở thành Câu Thi Na vào Bát Niết Bàn. Ðó gọi là thấy Chánh trực của Ðại Bồ tát. Có thể biết nghĩa thâm mật của Như Lai thì đó tức là Ðại Bát Niết Bàn, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, sám hối bốn trọng cấm, trừ tâm bài báng pháp, hết ngũ nghịch tội, diệt Nhất xiển đề, rồi nhiên hậu được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðó gọi là nghĩa bí mật thậm thâm. Lại nữa, này thiện nam tử! Sao lại gọi là nghĩa thậm thâm? Tuy biết chúng sinh thật không có ngã mà ở đời vị lai chẳng mất nghiệp quả. Tuy biết năm ấm đến đây diệt hết nhưng nghiệp thiện ác nhất định chẳng bại vong. Tuy có các nghiệp nhưng chẳng được tác giả. Tuy có chỗ đến nhưng không có người đi. Tuy có trói buộc nhưng không người chịu trói. Tuy có Niết Bàn nhưng cũng không người diệt. Ðó gọi là nghĩa bí mật thậm thâm.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa lời nói nghe chẳng nghe của đức Phật thì nghĩa này chẳng vậy! Vì sao vậy? Vì pháp, nếu có thì nên nhất định có. Pháp, nếu không thì nên nhất định không. Không chẳng nên sinh ra, có chẳng nên diệt đi. Như người nghe ấy thì tức là nghe, nếu người chẳng nghe thì tức là chẳng nghe. Vì sao mà nói rằng, nghe điều chẳng nghe? Thưa đức Thế Tôn! Nếu chẳng thể nghe thì đó là chẳng nghe. Nếu đã nghe thì lại cũng chẳng nghe. Vì sao vậy? Vì đã được nghe thì sao mà nói rằng, nghe điều chẳng nghe. Ví như người đi đã đến thì chẳng còn đi, đã còn đi thì chẳng đến. Cũng như sinh ra rồi thì chẳng còn sinh, chẳng còn sinh thì chẳng sinh. Ðược rồi thì chẳng còn được, chẳng còn được thì chẳng được. Nghe rồi thì chẳng còn nghe, chẳng còn nghe thì chẳng nghe…. cũng lại như vậy. Thưa đức Thế Tôn! Nếu chẳng nghe mà nghe thì tất cả chúng sinh chưa có Bồ Ðề thì nên có Bồ Ðề ngay, chưa được Niết Bàn cũng nên được Niết Bàn, chưa thấy Phật tính nên thấy Phật tính thì sao lại nói rằng, Bồ tát thập trụ tuy thấy Phật tính nhưng chưa được sáng tỏ? Thưa đức Thế Tôn! Nếu người nghe chẳng nghe thì đức Như Lai thuở xưa theo ai được nghe? Nếu nói được nghe thì vì sao trong đức Như Lai, ở trong Kinh A Hàm, lại nói rằng, vô sư? Nếu: chẳng nghe” thì chẳng nghe mà đức Như Lai được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì tất cả chúng sinh chẳng nghe mà chẳng nghe cũng nên được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Thưa đức Như Lai! Nếu ngài chẳng nghe Kinh Ðại Niết Bàn này mà thấy Phật tính thì tất cả chúng sinh chẳng nghe Kinh này cũng nên được thấy! Thưa đức Thế Tôn! Phàm là sắc thì hoặc có thể thấy, hoặc chẳng thể thấy. Thanh cũng như thế hoặc có thể thấy, hoặc chẳng thể thấy. Ðại Niết Bàn này chẳng phải sắc, chẳng phải thanh thì sao mà nói rằng, có thể được thấy nghe? Thưa đức Thế Tôn! Quá khứ đã diệt thì chẳng thể nghe, vị lai chưa đến cũng chẳng thể nghe và hiện tại khi nghe thì chẳng gọi là nghe, khi nghe rồi thanh diệt lại chẳng thể nghe. Kinh Ðại Niết Bàn này cũng chẳng phải quá khứ, vị lai và hiện tại mà nếu chẳng phải ba đời thì chẳng thể nói. Nếu chẳng thể nói thì chẳng thể nghe thì sao mà nói rằng, Bồ tát tu Kinh Ðại Niết Bàn này nghe điều chẳng nghe?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương rằng:

– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông nay giỏi biết tất cả các pháp như huyễn, như lửa hừng, như thành của Càn thát bà, như dấu vẽ xuống nước, như bong bóng nước, cây chuối…. rỗng không không có thật, chẳng phải mạng, chẳng phải ngã, không có khổ vui, đúng như sự thấy biết của Bồ tát Thập Trụ.

Trong đại chúng bỗng nhiên có ánh sáng lớn, chẳng phải xanh thấy xanh, chẳng phải vàng thấy vàng, chẳng phải đỏ thấy đỏ, chẳng phải trắng thấy trắng, chẳng phải sắc thấy sắc, chẳng phải sáng thấy sáng, chẳng phải thấy mà thấy. Bấy giờ, đại chúng gặp ánh sáng ấy rồi thì thân tâm khoái lạc, ví như Tỳ kheo vào định Sư Tử Vương. Khi ấy, ngài Văn Thù Sư Lợi Ðại Bồ tát bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Hôm nay ánh sáng này do ai phóng ra vậy?

Khi ấy đức Như Lai mặc nhiên chẳng nói. Bồ tát Ca Diếp lại hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi:

– Vì nhân duyên gì mà có ánh sáng này soi đến đại chúng?

Ngài Văn Thù Sư Lợi lặng thinh chẳng đáp. Bấy giờ, Bồ tát Vô Biên Thân lại hỏi Bồ tát Ca Diếp:

– Hôm nay ánh sáng này là sở hữu của ai?

Bồ tát Ca Diếp lặng thinh chẳng nói. Bồ tát Tịnh Trụ Vương Tử lại hỏi Bồ tát Vô Biên Thân rằng:

– Vì nhân duyên gì trong đại chúng có ánh sáng này?

Bồ tát Vô Biên Thân lặng thinh chẳng nói… Cứ như vậy, năm trăm vị Bồ tát đều cũng hỏi như vậy. Tuy các vị hỏi han nhau nhưng không có người trả lời. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Này Văn Thù Sư Lợi! Vì nhân duyên gì trong đại chúng có ánh sáng này?

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp rằng:

–  Thưa đức Thế Tôn! Ánh sáng như vậy gọi là trí tuệ. Trí tuệ thì tức là thường trụ mà pháp thường trụ không có nhân duyên thì vì sao đức Phật hỏi, vì nhân duyên gì có ánh sáng này? Ánh sáng này gọi là Ðại Niết Bàn mà Ðại Niết Bàn thì gọi là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên thì sao đức Phật hỏi rằng, vì nhân duyên gì có ánh sáng này? Ánh sáng này tức là Như Lai mà Như Lai tức là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên thì sao đức Như Lai hỏi đến nhân duyên? Ánh sáng này gọi là Ðại Từ Ðại Bi mà Ðại Từ Ðại Bi thì gọi là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên thì sao đức Như Lai hỏi đến nhân duyên? Ánh sáng này tức là Niệm Phật mà Niệm Phật tức là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên thì sao đức Như Lai hỏi đến nhân duyên? Ánh sáng này tức là đạo Bất Cộng của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác mà đạo Bất Cọng của Thanh Văn, Duyên Giác tức là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên thì sao đức Như Lai hỏi về nhân duyên? Thế Tôn cũng có nhân duyên! Nhân diệt vô minh thì được sáng rực đèn Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác!

Ðức Phật dạy rằng:

– Này Văn Thù Sư Lợi! Hôm nay ông chớ vào Ðệ nhất nghĩa đế thậm thâm của các pháp! Ông nên dùng thế đế mà giải nói điều đó!

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Ở phương Ðông này, qua khỏi số thế giới nhiều bằng hai mươi lần cát sông Hằng, có thế giới Phật tên là Bất Ðộng, trụ xứ của đức Phật ấy ngang dọc bằng nhau đầy đủ một vạn hai ngàn do tuần. Ðất nơi ấy bằng bảy thứ báu, không có đất đá, bằng phẳng, mềm mại, không các ngòi rãnh, hầm hố. Những cây cối của cõi ấy do bốn thứ báu tạo thành là vàng, bạc, lưu ly và pha lê, hoa trái sum suê, không lúc nào chẳng có. Nếu có chúng sinh nghe mùi hương hoa ấy thì thân tâm an lạc, ví như Tỳ kheo vào thiền thứ ba. Giáp vòng cõi ấy lại có ba ngàn dòng sông lớn, nước sông ấy đầy đủ tám vị vi diệu. Nếu có chúng sinh tắm gội ở trong nước ấy thì được niềm hỷ lạc, ví như Tỳ kheo vào thiền thứ hai. Những dòng sông ấy có đủ thứ những loài hoa như hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi, hoa Hương, hoa Ðại hương, hoa Diệu hương, hoa Thường. Tất cả chúng sinh không che chở hoa. Hai bên bờ sông ấy cũng có nhiều loài hoa, như là hoa A Ðề mục đa dà, hoa Chiêm bà, hoa Ba tra la, hoa Bà sư la, hoa Ma lợi ca, hoa Ðại ma lợi ca, hoa Tân ma lợi ca, hoa Tu ma na, hoa Do đề ca, hoa Ðàn ca lợi, hoa thường… Tất cả chúng sinh không che chở hoa. Ðáy sông trải cát vàng, có bốn bực bệ bằng vàng, bạc, lưu ly và pha lê đủ màu. Có nhiều loài chim tập họp dạo trong những dòng sông ấy. Lại có vô lượng cọp, sói, sư tử…. những loài chim, thú ác mà lòng chúng xem nhau giống như con đỏ. Trong thế giới đó, tất cả không có kẻ phạm trọng cấm, bài báng chánh pháp và Nhất xiển đề, tội nghũ nghịch.v.v… Cõi ấy điều hòa thích hợp, không có lạnh nóng, đói khát, khổ não, không có tham dục, sân nhuế, phóng dật, tật đố (ganh ghét) không có mặt trời, mặt trăng, ngày, đêm, thời tiết giống như trên trời thứ hai Ðao Lợi. Nhân dân cõi ấy đều có ánh sáng, mỗi mỗi đều không có lòng kiêu mạn, tất cả đều là bậc Ðại Sĩ Bồ tát, đều được thần thông, đầy đủ công đức lớn. Lòng họ đều tôn trọng Chánh pháp, theo về Ðại Thừa, ái niệm Ðại Thừa, ham thích Ðại Thừa, hộ tiếc Ðại Thừa, thành tựu đại tuệ, được đại Tổng trì. Lòng họ thường thương xót tất cả chúng sinh. Ðức Phật của thế giới ấy hiệu là Mãn Nguyệt Quang Minh Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Tùy theo chỗ sở trụ của ngài mà có sự giảng nói, tuyên dương. Chúng sinh của cõi ấy không gì chẳng được nghe. Ðức Phật ấy vì Ðại Bồ tát Lưu Ly Quang tuyên giảng Kinh Ðại Niết Bàn mà nói rằng: “Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát nếu có thể tu hành Kinh Ðại Niết Bàn thì điều chẳng nghe đều được nghe hết”. Ðại Bồ tát Lưu Ly Quang đó hỏi đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh cũng đúng như lời hỏi của Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương ở cõi này, không có khác. Ðức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh kia liền bảo Bồ tát Lưu Ly Quang rằng: “Này thiện nam tử! Phương Tây cách đây hai mươi lần cát sông Hằng cõi Phật, ở đó có thế giới tên là Ta bà. Cõi ấy có nhiều núi đồi, gò đống, đất cát, sỏi đá, gai góc bén nhọn… tràn đầy cùng khắp, thường có đói khát, lạnh nóng, khổ não. Nhân dân cõi ấy chẳng thể cung kính Samôn, Bà la môn, cha mẹ, sư trưởng. Họ tham trước phi pháp, muốn ở trong phi pháp, tu hành tà pháp, chẳng tin Chánh pháp, có thọ mạng ngắn ngủi, có hành động gian trá. Vua thì cai trị họ. Vua tuy có nước, nhưng chẳng biết thỏa mãn, đối với sở hữu của người khác sinh lòng tham lợi, dấy binh chinh phạt nhau, kẻ chết oan uổng là dân chúng. Vua thì tu hành phi pháp như vậy, thiện thần bốn trời lòng không hoan hỷ nên giáng xuống tai họa, hạn hán, lúa gạo khan hiếm, nhân dân nhiều bệnh, khổ não không lường. Trong cõi đó có đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, đại bi thuần hậu,thương xót chúng sinh. Ngài đang ở vùng Ta La Song Thọ của thành Câu Thi Na vì các đại chúng phu diễn Kinh Ðại Niết Bàn như vậy. Ở đó có vị Bồ tát tên là Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương, đã hỏi việc ấy như ông không khác. Ðức Phật hôm nay đang đáp vấn đề đó. Ông hãy mau chóng đi đến thì tự sẽ được nghe!” Bồ tát Lưu Ly Quang kia nghe việc đó rồi, cùng với tám muôn bốn ngàn Ðại Bồ tát muốn đến cõi kia, nên trước hết hiện những điềm lành, đó là nhân duyên, để có ánh sáng này, nên gọi là nhân duyên, cũng chẳng phải là nhân duyên. Lúc bấy giờ Bồ tát Lưu Ly Quang cùng với tám vạn bốn ngàn các Bồ tát đều mang những tràng, cái, hương hoa, chuỗi ngọc đủ thứ kỹ nhạc gấp bội hơn trước, cùng đi đến vùng Ta La Song Thọ ở thành Câu Thi Na, đem đồ cúng dường mang theo của mình mà cúng dường đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân, chắp tay cung kính, đi nhiễu quanh bên phải ba vòng. Họ tu kính xong rồi, lùi về ngồi một phía.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn hỏi vị Bồ tát kia rằng:

– Này thiện nam tử! Ông vì đến mà lại hay vì chẳng đến mà lại?

Bồ tát Lưu Ly Quang đáp rằng:

– Ðến cũng chẳng lại, chẳng đến cũng chẳng lại. Con quan sát nghĩa này đều không có lại (lai). Thưa đức Thế Tôn! Các hành nếu thường cũng lại chẳng lại (đi lại), nếu là vô thường cũng không có lại. Nếu người thấy có tính chúng sinh thì có lại, chẳng lại. Con nay chẳng thấy định tính của chúng sinh thì sao phải nói rằng, có lại hay chẳng lại? Người có kiêu mạn thì thấy có đi, lại, người không kiêu mạn thì không đi, lại. Người có thủ hành thì thấy có đi lại, người không thủ hành thì không đi lại. Nếu thấy Như Lai rốt ráo Niết Bàn thì có đi lại, chẳng thấy Như Lai rốt ráo Niết Bàn thì không đi lại. Người chẳng nghe Phật tính thì có đi lại, người nghe Phật tính thì không đi lại. Nếu người thấy hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật có Niết Bàn thì có đi lại, người chẳng thấy hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật có Niết Bàn thì không đi lại. Nếu người thấy hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật Thường-Lạc-Ngã-Tịnh thì có đi lại, nếu người chẳng thấy thì không đi lại. Nếu người thấy Như Lai không Thường-Lạc-Ngã-Tịnh thì có đi lại, nếu người thấy Như Lai Thường-Lạc-Ngã-Tịnh thì không (khứ lai) đi lại. Thưa đức Thế Tôn! Vã lại đặt ra việc ấy là muốn có điều hỏi! Con nguyện xin ngài rủ lòng thương xót người ít gặp này mà hứa cho!

Ðức Phật nói rằng:

– Này thiện nam tử! Ông cứ tùy ý đặt vấn đề! Hôm nay chính là lúc đó! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói! Sở dĩ vì sao? Vì các đức Phật khó gặp như loài hoa Ưu Ðàm! Pháp cũng như vậy, khó có thể được nghe! Trong mười hai bộ Kinh, Phương Ðẳng lại khó hơn! Vậy nên ông cần phải chuyên tâm thính thọ!

Ðại Bồ tát Lưu Ly Quang đã được đức Phật hứa cho và gồm cả lời dạy bảo, liền bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là Ðại Bồ tát có thể tu hành Kinh Ðại Niết Bàn thì nghe điều chẳng nghe?

Bấy giờ, đức Như Lai khen rằng:

– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông nay muốn vào tận cùng biển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn như vậy mà chính lại gặp được ta có thể giải nói hoàn thiện thì tên độc, lưới nghi sẵn có của ông hôm nay, ta sẽ làm đại lương y có thể khéo nhổ ra hết. Ông đối với Phật tính còn chưa sáng tỏ thì ta có đuốc tuệ, có thể vì ông soi sáng. Ông nay muốn đi qua dòng sông lớn sinh tử, ta có thể vì ông làm Ðại Thuyền Sư. Ông ở chỗ ta sinh tư tưởng kính như cha mẹ thì ta cũng đối với ông sinh lòng thương như con đỏ. Lòng ông hôm nay tham Chánh pháp bảo mà gặp ta có nhiều thì có thể ban cho nhau! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Hãy suy nghĩ khéo léo! Ta sẽ vì ông phân biệt, tuyên nói, giải thích cho! Này thiện nam tử! Ông muốn nghe pháp thì hôm nay chính là lúc đó! Nếu nghe pháp rồi thì ông phải sinh niềm kính tín, chí tâm thính thọ, cung kính tôn trọng. Ðối với Chánh pháp chớ tìm kiếm lỗi lầm, chớ nghĩ tham dục, sân nhuế, ngu si, chớ tìm xem dòng họ pháp sư tốt xấu. Ðã nghe pháp rồi, ông chớ sinh kiêu mạn, chớ vì sự cung kính, danh dự, lợi dưỡng, phải vì pháp lợi độ thế cam lộ, cũng chớ sinh ra ý nghĩ rằng: “Ta nghe pháp rồi thì trước tự độ thân nhiên hậu độ người, trước tự giải thoát thân nhiên hậu giải thoát người, trước tự an thân nhiên hậu an người, trước tự Niết Bàn nhiên hậu khiến cho người được Niết Bàn. Ðối với Pháp và Tăng nên sinh bình đẳng tưởng. Ở trong sinh tử thì sinh đại khổ tưởng. Ðối với Ðại Niết Bàn nên sinh tư tưởng Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Trước vì người khác nhiên hậu vì bản thân. Phải vì Ðại Thừa chớ vì Nhị Thừa. Ðối với tất cả pháp phải không sở trụ, cũng chớ chuyên chấp tất cả pháp tướng. Ở trong các pháp chớ sinh ra tư tưởng tham mà thường sinh ra tư tưởng biết pháp, thấy pháp. Này thiện nam tử! Ông có thể chí tâm như vậy mà nghe pháp. Ðó gọi là nghe điều chẳng nghe. Này thiện nam tử! Có chẳng nghe nghe (bất văn văn), có chẳng nghe chẳng nghe (bất văn bất văn), có nghe chẳng nghe (văn bất văn), có nghe nghe (văn văn). Này thiện nam tử! Như chẳng sinh sinh, chẳng sinh chẳng sinh, sinh chẳng sinh, sinh sinh. Như chẳng đến đến (đáo), chẳng đến chẳng đến, đến chẳng đến, đến đến (đáo đáo).

– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là chẳng sinh sinh?

– Này thiện nam tử! An trụ ở thế đế, khi mới ra khỏi thai thì đó gọi là chẳng sinh sinh.

– Sao gọi là chẳng sinh chẳng sinh?

– Này thiện nam tử! Ðại Niết Bàn này không có tướng sinh. Ðó gọi là chẳng sinh chẳng sinh!

– Sao gọi là sinh chẳng sinh

– Này thiện nam tử! Theo thế đế, khi chết thì đó gọi là sinh chẳng sinh!

– Sao gọi là sinh sinh?

– Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu thì gọi là sinh sinh. Vì sao vậy? Vì sinh sinh chẳng gián đoạn. Tất cả hữu lậu từng niệm từng niệm sinh ra. Ðó gọi là sinh sinh. Bồ tát tứ trụ gọi sinh chẳng sinh. Vì sao vậy? Vì sinh tự tại nên đó gọi sinh chẳng sinh. Này thiện nam tử! Ðó gọi là nội pháp. Sao gọi là ngoại pháp? Chưa sinh sinh, chưa sinh chưa sinh, sinh chưa sinh, sinh sinh! Này thiện nam tử! Ví như hạt giống khi chưa nảy mầm. Nó được bốn đại hòa hợp, công sức người gieo trồng (tác nghiệp), nhiên hậu mới mọc ra. Ðó gọi là chưa sinh sinh. Sao gọi là chưa sinh chưa sinh? Ví như hạt giống hư và chưa gặp duyên. Những nhóm như vậy gọi là chưa sinh chưa sinh. Sao gọi là sinh chưa sinh? Như mầm đã sinh ra rồi mà chẳng tăng trưởng. Ðó gọi là sinh chưa sinh. Sao gọi là sinh sinh? Ví như mầm cây tăng trưởng. Nếu sinh chẳng sinh thì không tăng trưởng. Như vậy tất cả hữu lậu gọi là sinh sinh ngoại pháp.

Ðại Bồ tát Lưu Ly Quang bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Pháp hữu lậu nếu có sinh thì tức là thường hay là vô thường vậy? Sinh nếu là thường thì pháp hữu lậu không có sinh. Sinh nếu vô thường thì hữu lậu là thường. Thưa đức Thế Tôn! Nếu sinh có thể tự sinh thì sinh không tự tính. Nếu nó có thể sinh ra cái khác thì vì nhân duyên gì chẳng sinh ra hữu lậu? Thưa đức Thế Tôn! Nếu khi chưa sinh mà có sinh thì sao đến hôm nay mới gọi là sinh? Nếu khi chưa sinh mà không sinh thì vì sao chẳng nói hư không là sinh?

Ðức Phật dạy rằng:

– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Chẳng sinh sinh chẳng thể nói! Sinh sinh cũng chẳng thể! Sinh chẳng sinh cũng chẳng thể nói! Chẳng sinh chẳng sinh cũng chẳng thể nói! Sinh cũng chẳng thể nói! Chẳng sinh cũng chẳng thể nói! Có nhân duyên nên cũng có thể được nói! Sao gọi là chẳng sinh sinh chẳng thể nói? Chẳng sinh gọi là sinh thì sao có thể nói! Vì sao vậy? Vì do sinh ấy vậy. Sao gọi là sinh sinh chẳng thể nói? Sinh sinh nên sinh, sinh sinh nên chẳng sinh, cũng chẳng thể nói. Sao gọi là sinh chẳng sinh chẳng thể nói? Sinh tức gọi là sinh, sinh chẳng tự sinh nên chẳng thể nói. Sao gọi là chẳng sinh chẳng sinh chẳng thể nói? Chẳng sinh thì gọi là Niết Bàn. Niết Bàn chẳng sinh nên chẳng thể nói. Vì sao vậy? Vì do tu đạo mà được vậy! Sao gọi là sinh cũng chẳng thể nói? Do sinh không có vậy! Sao gọi là chẳng sinh chẳng thể nói? Do có được vậy! Sao gọi là có nhân duyên nên cũng có thể được nói? Mười pháp nhân duyên làm tác nhân của sanh. Do nghĩa này nên cũng có thể được nói. Này thiện nam tử! Ông nay chớ vào Không định thậm thâm! Vì sao vậy? Vì đại chúng trì độn vậy. Này thiện nam tử! Pháp hữu vi sinh cũng là thường nhưng do trụ ở vô thường nên sinh cũng vô thường. Trụ cũng là thường nhưng sinh sinh nên trụ cũng vô thường. Dị cũng là thường nhưng do pháp vô thường nên dị cũng vô thường. Hoại cũng là thường nhưng do xưa không nay có nên hoại cũng vô thường. Này thiện nam tử! Do tính nên sinh-trụ-dị-hoại đều là thường. Nhưng từng niệm, niệm diệt nên chẳng thể nói thường. Ðại Niết Bàn này có khả năng đoạn diệt nên gọi là vô thường. Này thiện nam tử! Pháp hữu lậu khi chưa sinh đã có tính sinh nên sinh có thể sinh. Pháp vô lậu vốn không có tính sinh nên sinh chẳng thể sinh. Như lửa có bản tính gặp duyên thì dấy lên. Mắt có tính thấy, nhân màu sắc, nhân ánh sáng, nhân tấm lòng nên thấy. Pháp sinh của chúng sinh cũng lại như vậy, do vốn có tính nên gặp nhân duyên nghiệp, cha mẹ hòa hợp thì liền có sinh.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Lưu Ly Quang và tám muôn bốn ngàn Ðại Bồ tát nghe pháp này xong, liền vọt lên hư không cao bằng bảy cây Ða La, cung kính chắp tay mà bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Con nhờ đức Như Lai ân cần dạy bảo và nhân Ðại Niết Bàn mới được ngộ giải vấn đề nghe điều chẳng nghe; cũng khiến cho tám muôn bốn ngàn vị Bồ tát lý giải sâu sắc về các pháp chẳng sinh sinh.v.v… Thưa đức Thế Tôn! Con nay đã ngộ giải, đoạn dứt các lưới nghi hoặc. Nhưng trong hội này có một vị Bồ tát tên là Vô Úy lại muốn bẩm hỏi, nguyện xin đức Thế Tôn rũ lòng hứa cho!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Bồ tát Vô Úy rằng:

– Này thiện nam tử! Ông cứ tùy ý nạn hỏi! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói!

Lúc bấy giờ, Bồ tát Vô Úy cùng tám muôn bốn ngàn các vị Bồ tát.v.v… đều đứng dậy, sửa lại y phục, quì dài, chắp tay mà bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Chúng sinh cõi này phải tạo nghiệp mà được sinh về thế giới Bất Ðộng kia? Bồ tát cõi ấy làm sao mà được trí tuệ thành tựu, là vua voi trong loài người có uy đức lớn, tu đủ các hạnh, trí sắc bén nhanh nhẹn nghe thì có thể hiểu được?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Chẳng hại mạng chúng sinh

Kiên trì các cấm giới

Chịu lời dạy Thế Tôn

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Chẳng đoạt của tha nhân

Thường ban cho tất cả

Tạo lập họp tăng phường

Thì sinh nước bất Ðộng.

Chẳng phạm vợ tha nhân

Chẳng phi thời với vợ

Thí trì giới đồ nằm

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Chẳng vì cầu lợi mình

Mà khủng bố người khác

Cẩn thận chẳng vọng ngôn

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Chớ hủy hoại bạn lành

Xa lìa quyến thuộc ác

Lời miệng hòa hợp luôn

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Các Bồ tát vân vân…

Thường lìa khỏi ác khẩu

Nói, người nghe vui lòng

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Lúc cười đùa cũng nên

Chẳng nói phi thời ngữ

Cẩn thận lời lúc thường

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Thấy lợi dưỡng tha nhân

Thường sinh lòng hoan hỷ

Chẳng khởi kết ghét ghen

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Chẳng não hại chúng sinh

Thường sinh lòng từ ái

Phương tiện ác chẳng sinh

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Tà kiến nói không ban (thí)

Cha mẹ, và đi lại

Chẳng khởi kiến như trên

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Ðường trống làm giếng(nước) ngon

Gieo trồng rừng cây trái

Thường thí người xin ăn

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Nếu với Phật – Pháp -Tăng

Hương đèn một lần cúng

Cho đến hiến cành bông

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Bị khủng bố kinh hoàng

Lợi dưỡng và phước đức

Chép một kệ Niết Bàn(kinh này)

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Vì phước lợi cầu mong

Trong một ngày có thể

Ðọc tụng kinh Niết Bàn(Kinh này)

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Nếu vì đạo không trên(vô thượng)

Trong một ngày đêm suốt

Tám giới trai giữ gìn

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Chẳng cùng một chỗ chung

Với người phạm trọng cấm

Trách kẻ chê (kinh) Phương Ðẳng

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Nếu hay cho bệnh nhận

Thậm chí chỉ một trái

Hoan hỷ mà ngắm nhìn

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Chẳng phạm vật tăng man (man=tóc mượt)

Khéo giữ vật cúng Phật

Tô quét đất Phật, Tăng

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Tạo tháp tượng Thế Tôn

Giống như ngón tay cái

Thường sinh lòng vui mừng

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Nếu vì Kinh Niết Bàn

Tự thân và của báu

Cúng người nói pháp chân

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Nếu nghe, chép thành văn

Thọ trì và đọc tụng

Mật tạng các Thế Tôn

Thì sinh nước Bất Ðộng.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Vô Úy bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Con nay đã biết sự tạo nghiệp duyên để được sinh đến nước Bất Ðộng kia. Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương này khắp vì thương xót tất cả chúng sinh nên trước đã hỏi han. Ðức Như Lai nếu nói thì có thể đem lại lợi ích an lạc cho người, trời, A tu la, Càn thát bà, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già.v.v..

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền bảo Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương rằng:

– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông nay ở đây phải chí tâm lắng nghe! ta sẽ vì ông phân biệt giải nói: Có nhân duyên chưa đến chẳng đến, có nhân duyên nên chẳng đến đến, có nhân duyên nên đến chẳng đến, có nhân duyên nên đến đến (đáo đáo). Vì nhân duyên gì nên chưa đến chẳng đến? Này thiện nam tử! Phàm chẳng đến là Ðại Niết bàn thì phàm phu chưa đến, do có tham dục, sân nhuế, ngu si, nghiệp thân miệng ý chẳng thanh tịnh và thọ tất cả vật bất tịnh, phạm bốn trọng cấm, bài báng Phương Ðẳng, Nhất xiển đề, năm nghịch tội. Do nghĩa này nên chưa đến chẳng đến. Này thiện nam tử! Vì nhân duyên gì nên chẳng đến đến? Chẳng đến thì gọi là Ðại Niết Bàn. Vì nghĩa gì nên gọi là đến? Vĩnh viễn đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si, thân, miệng ác, chẳng thọ tất cả vật bất tịnh, chẳng phạm bốn trọng cấm, chẳng bài báng Kinh Phương Ðẳng, chẳng làm Nhất xiển đề, chẳng làm tội ngũ nghịch. Do nghĩa này nên gọi là chẳng đến đến. Tu đà hoàn thì tám vạn kiếp đến, Tư đà hàm thì sáu vạn kiếp đến, A na hàm thì bốn vạn kiếp đến, A la hán thì hai vạn kiếp đến, Bích Chi Phật thì mười ngàn kiếp đến. Do nghĩa này nên gọi là chẳng đến đến. Này thiện nam tử! Vì nhân duyên gì nên gọi là đến chẳng đến?  Ðến thì gọi là hai mươi lăm cõi Hữu. Tất cả chúng sinh thường bị sự che phủ của vô lượng những phiền não kết, qua lại chẳng rời giống như bánh xe quay. Ðó gọi là đến. Thanh Văn, Duyên Giác và các Bồ tát đã được vĩnh viễn lìa khỏi nên gọi là chẳng đến. Vì muốn hóa độ các chúng sinh nên thị hiện ở trong đó nên cũng gọi là đến. Này thiện nam tử! Vì nhân duyên gì nên gọi là đến đến. Ðến tức là hai mươi lăm cõi hữu. Nhân duyên phiền não của tất cả phàm phu, Tu đà hoàn cho đến A na hàm nên gọi là đến đến. Này thiện nam tử! Nghe điều chẳng nghe cũng lại như vậy, có chẳng nghe nghe, có chẳng nghe chẳng nghe, có nghe chẳng nghe, có nghe nghe. Sao gọi là chẳng nghe nghe? Này thiện nam tử! Chẳng nghe thì gọi là Ðại Niết Bàn. Vì sao chẳng nghe? Vì chẳng phải hữu vi, chẳng phải âm thanh, chẳng thể nói. Sao gọi là cũng nghe? Ðược nghe danh như là Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Do nghĩa này nên gọi là chẳng nghe nghe.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, Ðại Niết Bàn thì chẳng thể được nghe thì sao lại nói Thường-Lạc-Ngã-Tịnh mà có thể được nghe? Vì sao vậy? Thưa đức Thế Tôn! Ðoạn phiền não thì gọi là được Niết Bàn, nếu chưa đoạn thì gọi là chẳng được. Do nghĩa này nên tính của Niết Bàn trước không nay có. Nếu pháp thế gian trước không nay có thì gọi là vô thường, ví như cái bình.v.v… trước không nay có, đã có rồi trở lại không nên gọi là vô thường. Niết Bàn nếu vậy thì sao nói rằng, Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Phàm cái gì nhân trang nghiêm mà được thành thì đều gọi là vô thường. Niết Bàn nếu vậy thì nên là vô thường. Những gì là nhân duyên? Ðó là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu Ba la mật, bốn vô lượng tâm, quán đến tướng xương, A na ba na (?), sáu niệm xứ, phá gẫy sáu đại.v.v…những pháp như vậy đều là nhân duyên thành tựu Niết Bàn nên gọi là vô thường. Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Có gọi là vô thường, nếu Niết Bàn là có cũng nên vô thường. Như đức Phật trước ở trong Kinh A Hàm nói rằng, Thanh Văn, Duyên Giác các đức Phật Thế Tôn đều có Niết Bàn. Do nghĩa này nên gọi là vô thường. Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Pháp có thể thấy gọi là vô thường. Như đức Phật trước đã nói, thấy Niết Bàn thì được đoạn trừ tất cả phiền não. Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Ví như hư không đối với các chúng sinh đều không ngăn ngại nên gọi là vô thường. Nếu giả sử Niết Bàn là thường thì vì sao chúng sinh có người được, có người chẳng được? Niết Bàn nếu vậy, đối với các chúng sinh chẳng bình đẳng thì chẳng gọi là thường. Thưa đức Thế Tôn! Ví như một trăm người có chung một oán thù. Nếu hại được kẻ oán thù này thì nhiều người được hưởng thụ niềm vui. Nếu giả sử Niết Bàn là pháp bình đẳng thì khi một người được nên có nhiều người được, một người đoạn kết phiền não nên có nhiều người cũng đoạn trừ. Nếu chẳng như vậy thì làm sao gọi là thường. Ví như có người cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen quốc vương, vương tử, cha mẹ, sư trưởng thì được lợi dưỡng. Ðó chẳng gọi là thường. Niết Bàn cũng vậy, chẳng gọi là thường. Vì sao vậy? Vì như lúc trước đức Phật ở trong Kinh A hàm, bảo ngài A Nan rằng, nếu có người cung kính Niết Bàn thì được đoạn trừ kết sử, thọ vô lượng vui. Do nghĩa này nên chẳng gọi là thường. Thưa đức Thế Tôn! Nếu trong Niết Bàn có tên Thường-Lạc-Ngã-Tịnh thì chẳng gọi là thường. Nếu điều ấy không thì sao có thể nói được?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương rằng:

– Thể của Niết Bàn chẳng phải vốn không mà nay có. Nếu thể của Niết Bàn vốn không mà nay có thì chẳng phải là pháp vô lậu thường trụ. Có Phật, không Phật tính tướng thường trụ nhưng vì các chúng sinh bị phiền não che phủ nên chẳng thấy Niết Bàn liền cho là không có. Ðại Bồ tát dùng giới, định, tuệ huân tập tu hành tâm của mình, đoạn trừ phiền não rồi thì liền được thấy Niết Bàn đó. Ông phải biết rằng, Niết Bàn là pháp thường trụ, chẳng phải vốn không mà nay có. Vậy nên Niết Bàn là thường. Này thiện nam tử! Như trong ngôi nhà tối có cái giếng chứa đủ thứ bảy báu mà ai cũng biết vì tối nên chẳng thấy. Có người trí giỏi biết phương tiện, thắp đèn sáng lớn, đem đến soi sáng, thấy được hết những báu đó. Người này ở đây, chẳng sinh ra ý niệm nước và bảy báu vốn không nay có. Niết Bàn cũng vậy, vốn tự đã có, chẳng phải hôm nay vừa mới có vậy. Vì phiền não tối tăm nên chúng sinh chẳng thấy, đức Như Lai đại trí, dùng phương tiện, thắp đèn trí tuệ, khiến cho các Bồ tát được thấy Niết Bàn Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Vậy nên kẻ trí đối với Niết Bàn này chẳng nên nói rằng, vốn không mà nay có. Này thiện nam tử! Ông nói rằng, nhân trang nghiêm mà được thành Niết Bàn nên Niết Bàn vô thường thì đó cũng chẳng đúng vậy. Vì sao vậy?  Này thiện nam tử! Thể của Niết Bàn chẳng phải sinh, chẳng phải ra, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải tác nghiệp sinh, chẳng phải là pháp hữu lậu hữu vi, chẳng phải nghe, chẳng phải thấy, chẳng phải đọa, chẳng phải tử, chẳng phải tướng biệt dị cũng chẳng phải tướng đồng, chẳng phải trụ, chẳng phải hoàn (trở lại), chẳng phải quá khứ, vị lai và hiện nay, chẳng phải một, chẳng phải nhiều, chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, chẳng phải tròn, chẳng phải vuông, chẳng phải nhọn, chẳng tà (không nhọn), chẳng phải có tướng, chẳng phải không tướng, chẳng phải danh, chẳng phải sắc, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải ngã và ngã sở… Do nghĩa này nên Niết Bàn là thường hằng chẳng biến dị. Ðó là do vô lượng atăngkỳ kiếp tu tập thiện pháp để tự trang nghiêm, rồi nhiên hậu mới thấy. Này thiện nam tử! Ví như dưới đất có nước tám vị mà tất cả chúng sinh chẳng thể được. Có người trí thi công đào xuyên qua thì liền được nước đó. Niết Bàn cũng vậy. Ví như người mù chẳng thấy mặt trời, mặt trăng, được lương y trị liệu cho thì liền được thấy mà mặt trời, mặt trăng này chẳng phải là vốn không mà nay có. Niết Bàn cũng vậy, trước đã tự có rồi, chẳng phải vừa mới có hôm nay vậy. Này thiện nam tử! Ví như người có tội bị giam giữ lâu trong ngục mới được ra, trở về nhà được thấy cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, Niết Bàn cũng vậy. Này thiện nam tử! Ông nói rằng, vì là nhân duyên nên pháp Niết Bàn phải là vô thường, thì điều này cũng chẳng đúng vậy! Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì Nhân có năm thứ. Những gì là năm? Một là sinh nhân, hai là hòa hợp nhân, ba là trụ nhân, bốn là tăng trưởng nhân, năm là viễn nhân. Sao gọi là sinh nhân? Sinh nhân tức là nghiệp phiền não.v.v… và bên ngoài là hạt giống cỏ cây… Ðó gọi là sinh nhân. Sao gọi là hòa hợp nhân? Như cái thiện cùng lòng thiện hòa hợp, cái chẳng thiện cùng với lòng chẳng thiện hòa hợp, cái vô ký cùng với lòng vô ký hòa hợp. Ðó gọi là nhân hòa hợp. Sao gọi là trụ nhân? Như bên dưới có trụ chống thì nhà chẳng sập, núi, sông, cây cối nhân vào đất đai mà được đứng vững. Bên trong có bốn đại, vô lượng phiền não nên chúng sinh được trụ. Ðó gọi là trụ nhân. Sao gọi là tăng trưởng nhân? Nhân duyên quần áo, ăn uống.v.v… nên khiến cho chúng sinh tăng trưởng. Như bên ngoài, hạt giống chẳng bị lửa đốt cháy, chẳng bị chim ăn mất thì nó được tăng trưởng. Như các Samôn, Bà la môn.v.v… nương vào nhân Hòa thượng, Thiện tri thức.v.v… mà được tăng trưởng. Như nhân cha mẹ thì con được tăng trưởng. Ðó gọi là nhân tăng trưởng. Sao gọi là viễn nhân (nhân xa)? Ví như nhân thần chú mà quỉ chẳng thể hại đọc, chẳng thể trúng. Nương tựa quốc vương thì không có đạo tặc. Như mầm cây nương nhờ đất nước lửa gió.v.v… Như người tích góp nước là nhân xa của cao sữa. Như sắc sáng.v.v… là nhân xa của nhận thức. Tinh huyết cha mẹ là nhân xa của chúng sinh. Như thời tiết.v.v… đều gọi là viễn nhân. Này thiện nam tử! Thể của Niết Bàn chẳng phải là sự tạo thành của năm thứ nhân như vậy thì sao phải nói rằng, đó là nhân vô thường? Lại nữa, này thiện nam tử! Lại có hai thứ nhân, một là tác nhân, hai là liễu nhân. Như bánh xe, sợi dây của người thợ gốm thì đó gọi là tác nhân. Như đèn đuốc.v.v… chiếu soi vật trong tối thì đó gọi là liễu nhân (nhân làm rõ). Này thiện nam tử! Ðại Niết Bàn thì chẳng từ tác nhân mà có, chỉ từ liễu nhân thôi! Liễu nhân thì đó là ba mươi bảy pháp trợ đạo, sáu Ba la mật…. Ðó gọi là Liễu nhân. Này thiện nam tử! Bố thí là nhân Niết Bàn, chẳng phải nhân của Ðại Niết Bàn. Ðàn Balamật (Thí độ vô cực) mới được gọi là nhân của Ðại Niết Bàn. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là nhân của Niết Bàn, chẳng phải là nhân của Ðại Niết Bàn. Vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp tu hành pháp Bồ Ðề thì mới được gọi là nhân của Ðại Niết Bàn.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi bố thí chẳng được gọi là Ðàn Balamật? Sao gọi là bố thí mà được gọi là Ðàn Balamật?… cho đến Bát nhã sao chẳng được gọi là Bát nhã Balamật? Sao được gọi là Bát nhã Balamật? Sao gọi là Niết Bàn? Sao gọi là Ðại Niết Bàn?

Ðức Phật dạy rằng:

– Ðại Bồ tát tu hành Phương Ðẳng Ðại Bát Niết Bàn thì chẳng nghe bố thí, chẳng thấy bố thí, chẳng nghe Ðàn Balamật, chẳng thấy Ðàn Balamật… cho đến chẳng nghe Bát nhã, chẳng thấy Bát nhã, chẳng nghe Bát nhã Balamật, chẳng thấy Bát nhã Balamật, chẳng nghe Niết Bàn, chẳng thấy Niết Bàn, chẳng nghe Ðại Niết Bàn, chẳng thấy Ðại Niết Bàn. Ðại Bồ tát tu hành Ðại Niết Bàn thì thấy biết pháp giới, hiểu rõ thật tướng rỗng không, không có sở hữu, không có tướng hiểu biết hòa hợp, được tướng vô lậu, tướng không sở tác, tướng như huyễn hóa, tướng cháy lên khi nóng, tướng rỗng không của thành Càn thát bà. Bấy giờ, được những tướng như vậy Bồ tát không tham sân si, chẳng nghe, chẳng thấy. Ðó gọi là tướng chân thật của Ðại Bồ tát, an trụ thật tướng. Ðại Bồ tát tự biết đây là Ðàn, đây là Ðàn Balamật… cho đến đây là Bát Nhã, đây là Bát nhã Balamật, đây là Niết Bàn, đây là Ðại Niết Bàn.

Này thiện nam tử! Sao gọi là Thí chẳng phải là Balamật? Thấy có người xin, nhiên hậu mới cho thì đó gọi thí, chẳng phải là Balamật. Nếu không có người xin mà mở lòng tự thí thì đó gọi là Ðàn Balamật. Nếu thời thời thí (cho từng lúc từng lúc) thì đó gọi là thí chẳng phải là Balamật. Nếu tu thường thí thì gọi là Ðàn Balamật. Nếu thí cho người rồi trở lại sinh lòng hối thì gọi là thí, chẳng phải là Balamật. Thí rồi chẳng hối thì đó gọi là Ðàn Balamật. Ðại Bồ tát ở trong của cải sinh ra bốn tâm lo sợ là vua, giặc, nước, lửa mà hoan hỷ thí cho thì đó gọi là Ðàn Balamật, còn nếu hy vọng quả báo bố thí thì gọi là thí, chẳng phải là Balamật. Bố thí chẳng mong báo đáp thì gọi là Ðàn Balamật. Nếu bố thí vì khủng bố, vì danh tiếng, vì lợi dưỡng, vì phép nhà nối nhau, vì năm dục trên trời, vì kiêu mạn, vì thắng mạn, vì tình bạn, vì quả báo đời sau… theo như phép trao đổi ở chợ. Này thiện nam tử! Như người trồng cây vì được bóng mát, vì được hoa trái và cây gỗ… Nếu người tu hành thí như vậy.v.v… thì gọi là thí chẳng phải là Balamật.

Ðại Bồ tát tu hành Ðại Niết Bàn này thì chẳng thấy người thí, người nhận thí và của bố thí, chẳng thấy thời tiết, chẳng thấy ruộng phước và chẳng phải ruộng phước, chẳng thấy nhân, chẳng thấy duyên, chẳng thấy quả báo, chẳng thấy người làm, chẳng thấy người nhận, chẳng thấy nhiều, chẳng thấy ít, chẳng thấy tịnh, chẳng thấy bất tịnh, chẳng khinh người nhận tài vật của thân mình, chẳng thấy người thấy, chẳng thấy người chẳng thấy, chẳng kể của mình, của người… mà chỉ vì pháp thường trụ của Phương Ðẳng Ðại Bát Niết Bàn nên tu hành bố thí, vì lợi ích cho tất cả chúng sinh mà làm việc bố thí, vì đoạn trừ phiền não của tất cả chúng sinh nên làm bố thí, vì các chúng sinh chẳng thấy người nhận, người cho, tài vật cho nên làm bố thí. Này thiện nam tử! Ví như có người rơi xuống nước biển cả mà bão trì được thây chết thì được độ thoát. Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn khi làm bố thí cũng lại như vậy, như tử thi kia. Này thiện nam tử! Ví như có người bị giam ở tại ngục sâu, cửa nẻo chắc chắn, chỉ có lỗ nhà xí, liền từ trong đó đi ra, đến chỗ không ngăn ngại. Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn khi làm bố thí cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Ví như người cao quí bị khủng bố nguy cấp lại không chỗ nhờ cậy, nương vào Chiên đà la. Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn, làm bố thí cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Ví như người bệnh vì trừ khỏi bệnh khổ nên ăn uống bất tịnh. Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn làm bố thí cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Như Bà la môn gặp lúc lương thực khan hiếm, vì thọ mạng nên ăn thịt chó. Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn làm bố thí cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Trong Ðại Niết Bàn, những việc như vậy, từ vô lượng kiếp đến nay, chẳng nghe mà nghe. Thi la, Thi la Balamật (Trì giới, Trì giới Balamật)… cho đến Bát nhã, Bát nhã Balamật… như Phật đã rộng nói trong Kinh Tạp Hoa.

Này thiện nam tử! Sao gọi là Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn chẳng nghe mà nghe? Mười hai bộ Kinh, ý nghĩa thâm thúy từ xưa đến giờ chẳng nghe, nay nhân kinh này được nghe đầy đủ. Trước tuy được nghe nhưng chỉ nghe danh tự mà nay ở Kinh Ðại Niết Bàn này mới được nghe nghĩa. Thanh Văn, Duyên Giác chỉ nghe danh tự mười hai bộ kinh mà chẳng nghe được nghĩa của Kinh ấy thì nay nhân kinh này được nghe đầy đủ. Ðó gọi là chẳng nghe mà nghe. Này thiện nam tử! Trong tất cả kinh của Thanh Văn, Duyên Giác, chẳng từng nghe Phật có Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, chẳng rốt ráo diệt, Tam Bảo, Phật tính không có tướng sai biệt và phạm bốn trọng cấm, bài báng Kinh Phương Ðẳng, tạo tội ngũ nghịch, Nhất xiển đề đều có Phật tính. Hôm nay ở Kinh này mà được nghe những điều đó. Ðó gọi là chẳng nghe mà nghe.

*********

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu người phạm trọng cấm, bài báng Kinh Phương Ðẳng, làm tội ngũ nghịch, nhất xiển đề.v.v… mà có Phật tính thì những người đó lại đọa vào địa ngục ? Thưa đức Thế Tôn ! Giả sử nếu những người này có Phật tính thì sao lại nói rằng họ không có Thường – Lạc – Ngã – Tịnh ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu đoạn dứt thiện căn gọi là nhất xiển đề thì khi đoạn thiện căn sao chẳng đoạn Phật tính sở hữu ? Phật tính đoạn thì sao nói rằng Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Như thiện căn ấy chẳng đoạn thì vì sao gọi là nhất xiển đề vậy ? Thưa đức Thế Tôn ! Phạm bốn trọng cấm gọi là bất định. Bài báng Kinh Phương Ðẳng, tạo tội ngũ nghịch và nhất xiển đề đều gọi là bất định. Những loại như vậy, nếu quyết định thì làm sao được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Từ Tu đà hoàn cho đến Bích Chi Phật cũng gọi là bất định. Nếu từ Tu đà hoàn đến Bích Chi Phật là quyết định thì cũng chẳng nên thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu người phạm bốn trọng cấm chẳng quyết định thì từ Tu đà hoàn cho đến Bích Chi Phật cũng chẳng quyết định. Như vậy bất định thì các đức Phật Như Lai cũng lại bất định. Nếu Phật bất định thì thể tính Niết Bàn cũng lại bất định, đến tất cả pháp cũng lại bất định. Sao gọi là bất định ? Nếu nhất xiển đề trừ nhất xiển đề thì thành Phật đạo. Các đức Phật Như Lai cũng nên như vậy, vào Niết Bàn rồi thì cũng nên trở ra, chẳng vào Niết Bàn. Nếu như vậy thì tính của Niết Bàn là bất định chẳng quyết định thì phải biết không có Thường – Lạc – Ngã – Tịnh thì sao nói rằng, nhất xiển đề.v.v… sẽ được Niết Bàn ?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Vì muốn lợi ích cho vô lượng chúng sinh, khiến cho họ được an vui, thương xót từ niệm các thế gian, vì muốn tăng trưởng sự phát tâm Bồ Ðề cho các Bồ tát nên ông đã đặt câu hỏi như vậy ! Này thiện nam tử ! Ông đã gần gũi vô lượng các đức Phật Thế Tôn đời quá khứ, ở chỗ các đức Phật ấy gieo trồng các căn lành. Ông đã thành tựu công đức Bồ Ðề lâu rồi, đã hàng phục mọi ma khiến cho chúng thoái tan. Ông đã giáo hóa vô lượng vô biên chúng sinh đều khiến cho họ được đến Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ông đã thông đạt tạng bí mật thậm thâm sở hữu của các đức Phật Như Lai lâu rồi, đã hỏi nghĩa vi mật thậm thâm như vậy với vô lượng vô biên hằng hà sa số các đức Phật Thế Tôn đời quá khứ. Ta đều chẳng thấy tất cả thế gian, hoặc người, hoặc trời, hoặc Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc ma, hoặc Phạm… có thể hỏi han Như Lai về nghĩa này. Hôm nay ông phải thành tâm lắng nghe! Lắng nghe ! Ta sẽ vì ông phân biệt diễn nói. Này thiện nam tử ! Nhất xiển đề cũng chẳng quyết định. Nếu quyết định thì nhất xiển đề này trọn chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà do chẳng quyết định nên có thể được. Như lời ông nói, Phật tính chẳng đoạn thì làm sao nhất xiển đề đoạn thiện căn ? Này thiện nam tử ! Thiện căn có hai thứ, một là nội, hai là ngoại. Phật tính chẳng phải nội, chẳng phải ngoại. Do nghĩa này nên Phật tính chẳng đoạn. Thiện căn lại có hai thứ, một là hữu lậu, hai là vô lậu. Phật tính chẳng phải là hữu lậu, chẳng phải là vô lậu. Vậy nên Phật tính chẳng đoạn. Thiện căn lại có hai thứ, một là thường, hai là vô thường. Phật tính chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Vậy nên  Phật tính chẳng đoạn. Nếu là đoạn thì nên được trở lại mà nếu chẳng được trở lại thì gọi là chẳng đoạn. Nếu đoạn rồi mà được thì gọi là nhất xiển đề. Phạm bốn trọng cấm cũng là bất định. Nếu quyết định thì phạm bốn trọng cấm nhất định chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Bài báng Kinh Phương Ðẳng cũng lại bất định. Nếu quyết định thì người bài báng Chánh pháp nhất định chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Tạo tội ngũ nghịch cũng lại bất định. Nếu quyết định thì người tạo tội ngũ nghịch nhất định chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Sắc cùng tướng của sắc cả hai đều bất định. Tướng hương, vị xúc, tướng sinh đến tướng vô minh, tướng ấm, nhập giới, tướng hai mươi lăm cõi hữu, bốn sinh cho đến tất cả các pháp đều cũng bất định. Này thiện nam tử ! Ví như nhà huyễn thuật, ở trong đại chúng, hóa làm bốn thứ binh là xe, bộ, voi, ngựa, tạo tác những chuỗi ngọc, đồ trang sức thân, tạo ra thành ấp, tụ lạc, núi rừng, cây cối, suối ao, sông giếng. Ở trong chúng đó có các tiểu nhi, không có trí tuệ, khi nhìn thấy những thứ đó đều cho là thật. Kẻ trí trong chúng ấy biết những thứ kia là hư dối, do sức huyễn thuật nên mê hoặc mắt người. Này thiện nam tử ! Tất cả phàm phu cho đến Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v… đối với tất cả pháp thấy có định tướng. Lại cũng như vậy. Chư Phật Bồ tát  đối với tất cả pháp không thấy định tướng. Này thiện nam tử ! Ví như đứa trẻ con vào tháng mùa hè khi thấy nóng bốc lửa thì gọi đó là nước. Người có trí đối với lửa nóng cháy này nhất định chẳng sinh ra tư tưởng nước thật mà chỉ là lửa bốc lừa dối mắt người chẳng phải thật là nước. Tất cả phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác thấy tất cả pháp cũng lại như vậy, đều cho là thật. Các đức Phật, Bồ tát, đối với tất cả pháp chẳng thấy định tướng. Này thiện nam tử ! Ví như hang núi nhân tiếng có âm vang. Trẻ con nghe âm vang cho là tiếng thật. Người có trí biết được đó không thật mà chỉ có tướng của tiếng lừa dối nhận thức của tai. Này thiện nam tử ! Tất cả phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác đối với tất cả pháp cũng lại như vậy, thấy có định tướng các vị Bồ tát hiểu rõ các pháp đều không định tướng mà là tướng vô thường, tướng không tịch, tướng không sinh diệt.v.v… Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát thấy tất cả pháp là tướng vô thường. Này thiện nam tử ! Cũng có định tướng. Sao gọi là định ? Thường – Lạc – Ngã – Tịnh ! Ở tại đâu vậy ? Chỗ gọi là Niết Bàn! Này thiện nam tử ! Quả Tu đà hoàn cũng lại bất định. Vì chẳng quyết định nên họ trải qua tám vạn kiếp mới được tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Quả Tư đà hàm cũng lại bất định. Vì chẳng quyết định nên họ trải qua sáu vạn kiếp mới được tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Quả A na hàm cũng lại bất định. Vì chẳng quyết định nên họ trải qua bốn vạn kiếp mới được tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Quả A la hán cũng lại bất định. Vì chẳng quyết định nên họ trải qua hai vạn kiếp mới được tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðạo Bích Chi Phật cũng lại bất định. Vì chẳng quyết định nên họ trải qua mười ngàn kiếp mới được tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Như Lai hôm nay ở trong vùng Ta La Song Thọ tại thành Câu Thi Na thị hiện nằm tựa vào giường Sư Tử, muốn vào Niết Bàn khiến cho những chúng đệ tử chưa được quả A la hán.v.v… và các lực sĩ sinh ra đại khổ não, cũng khiến cho trời, người, A tu la, Càn thát bà, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già.v.v… thiết đại lễ cúng dường và muốn khiến cho mọi người dùng một ngàn tấm vải trắng ràng bọc tấm thân ấy, dùng bảy báu làm áo quan đựng đầy dầu thơm, gom chứa gỗ thơm, dùng lửa để thiêu đốt (trà tỳ), chỉ trừ hai tấm chẳng thể được đốt, một là tấm bọc xác thân, hai là tấm ở ngoài cùng, cũng vì các chúng sinh phân tán Xá Lợi làm tám phần. Tất cả đệ tử Thanh Văn sở hữu đều nói rằng, Như Lai vào với Niết Bàn, ông phải biết Như Lai cũng chẳng nhất định vào với Niết Bàn. Vì sao vậy ? Vì Như Lai thường trụ bất biến vậy. Do nghĩa này nên Như Lai Niết Bàn cũng lại bất định. Này thiện nam tử ! Ông phải biết là, Như Lai cũng lại bất định. Như Lai chẳng phải trời. Vì sao vậy ? Vì có bốn thứ trời, một là trời thế gian, hai là trời sinh, ba là trời tịnh, bốn là trời nghĩa. Trời thế gian thì như các quốc vương. Trời sinh thì từ Tứ Thiên Vương cho đến trời Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng. Trời tịnh là từ Tu đà hoàn đến Bích Chi Phật. Trời nghĩa là Bồ tát Mahatát Thập trụ.v.v… Vì nghĩa gì nên Bồ tát Thập Trụ gọi là trời nghĩa ? Do Bồ tát Thập Trụ có thể giỏi giải nghĩa các pháp vậy. Sao gọi là Nghĩa ? Thấy tất cả pháp chính là “Không nghĩa”. Này thiện nam tử ! Như Lai chẳng phải vua cũng chẳng phải bốn trời cho đến trời Phi Hữu Tưởng Phi Vô tưởng, chẳng phải từ Tu đà hoàn đến Bích Chi Phật, Bồ tát Thập Trụ. Do nghĩa này nên Như Lai chẳng phải là Trời. Nhưng các chúng sinh cũng lại xưng Phật là đấng Thiên Trung Thiên. Vậy nên Như Lai chẳng phải trời chẳng phải Phi thiên, chẳng phải người chẳng phải phi nhân, chẳng phải quỉ chẳng phải phi quỉ, chẳng phải địa ngục súc sinh ngã quỉ, chẳng phải phi địa ngục súc sinh ngã quỉ, chẳng phải chúng sinh chẳng phải phi chúng sinh, chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp, chẳng phải sắc chẳng phải phi sắc, chẳng phải trường chẳng phải phi trường, chẳng phải đoản chẳng phải phi đoản, chẳng phải tướng chẳng phải phi tướng, chẳng phải tâm chẳng phải phi tâm, chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu, chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chẳng phải huyễn chẳng phải phi huyễn, chẳng phải danh chẳng phải phi danh, chẳng phải định chẳng phải phi định, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải thuyết chẳng phải phi thuyết, chẳng phải Như Lai chẳng phải chẳng Như Lai… Do nghĩa này nên Như Lai bất định. Này thiện nam tử ! Vì sao Như Lai chẳng gọi là trời thế gian? Trời thế gian tức là các vì vua. Như Lai từ lâu, ở trong vô lượng  kiếp, đã bỏ vương vị. Vậy nên Như Lai chẳng phải là vua. Chẳng phải phi vương là Như Lai sinh ra trong vương gia Tịnh Phạn ở thành Ca Tỳ La. Vậy nên Như Lai chẳng phải phi vương. Chẳng phải trời Sinh là Như Lai từ lâu đã lìa khỏi các hữu. Vậy nên Như Lai chẳng phải trời Sinh. Chẳng phải phi Sinh Thiên. Vì sao vậy ? Vì Như Lai lên trời Ðâu Suất, xuống cõi Diêm phù đề vậy. Vậy nên Như Lai chẳng phải là phi Sinh Thiên, cũng chẳng phải trời Tịnh. Vì sao vậy ? Vì Như Lai chẳng phải là Tu đà hoàn cho đến Bích Chi Phật. Vậy nên Như Lai chẳng phải là trời Tịnh, cũng chẳng phải phi Tịnh Thiên. Vì sao vậy? Vì chẳng thể bị nhiễm tám pháp của thế gian, giống như hoa sen chẳng thọ nước vẩn đục. Vậy nên Như Lai chẳng phải phi Tịnh Thiên, cũng chẳng phải trời Nghĩa. Vì sao vậy ? Vì Như Lai chẳng phải là Bồ tát Thập Trụ. Vậy nên Như Lai chẳng phải là trời Nghĩa cũng chẳng phải phi Nghĩa Thiên. Vì sao vậy ? Vì Như Lai thường tu mười tám “không nghĩa”. Vậy nên Như Lai chẳng phải là phi Nghĩa Thiên. Như Lai chẳng phải người. Vì sao vậy ? Vì Như Lai từ lâu, ở trong vô lượng kiếp, đã lìa khỏi cõi hữu của loài người. Vậy nên Như Lai chẳng phải người, cũng chẳng phải phi nhân. Vì sao vậy ? Vì Như Lai sinh ra ở thành Ca Tỳ La nên chẳng phải là phi nhân. Như Lai chẳng phải quỉ. Vì sao vậy ? Vì chẳng hại tất cả chúng sinh. Vậy nên Như Lai chẳng phải quỉ, cũng chẳng phải phi quỉ. Vì sao vậy ? Vì cũng dùng hình dạng quỉ để giáo hóa chúng sinh nên Như Lai chẳng phải phi quỉ. Như Lai cũng chẳng phải địa ngục súc sinh ngã quỉ. Vì sao vậy ? Vì Như Lai từ lâu đã lìa khỏi các nghiệp ác. Vậy nên Như Lai chẳng phải địa ngục súc sinh ngã quỉ, cũng chẳng phải phi địa ngục súc sinh ngã quỉ. Vì sao vậy ? Vì Như Lai cũng lại thị hiện thọ thân của ba đường ác để hóa độ chúng sinh. Vậy nên Như Lai chẳng phải phi địa ngục súc sinh ngã quỉ, cũng chẳng phải chúng sinh. Vì sao vậy ? Vì Như Lai từ lâu xa lìa tính chúng sinh. Vậy nên Như Lai chẳng phải chúng sinh, cũng chẳng phải phi chúng sinh. Vì sao vậy ? Vì hoặc khi diễn nói Như Lai mang tướng chúng sinh. Vậy nên Như Lai chẳng phải phi chúng sinh. Như Lai chẳng phải pháp. Vì sao vậy ? Vì các pháp mỗi mỗi đều có tướng sai biệt mà Như Lai chẳng vậy, chỉ có một tướng. Vậy nên Như Lai chẳng phải pháp, cũng chẳng phải phi pháp. Vì sao vậy ? Vì Như Lai là pháp giới nên Như Lai chẳng phải phi pháp. Như Lai chẳng phải sắc. Vì sao vậy ? Vì mười sắc nhập Như Lai chẳng nhiếp lấy. Vậy nên Như Lai chẳng phải sắc, cũng chẳng phải phi sắc. Vì sao vậy ? Vì thân có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp nên Như Lai chẳng phải phi sắc. Như Lai chẳng phải trường (dài). Vì sao vậy ? Vì đoạn trừ các sắc nên Như Lai chẳng phải trường, cũng chẳng phải phi trường. Vì sao vậy ? Vì tất cả thế gian không có ai có thể thấy tướng đảnh kế. Vậy nên Như Lai chẳng phải phi trường. Như Lai chẳng phải đoản. Vì sao vậy ? Vì từ lâu, Như Lai đã xa lìa kết sử kiêu mạn nên Như Lai chẳng phải đoản, cũng chẳng phải phi đoản. Vì sao vậy ? Vì Như Lai vì ông trưởng giả Cù Sư La thị hiện thân ba thước nên chẳng phải phi đoản. Như Lai chẳng phải tướng. Vì sao vậy ? Vì từ lâu Như Lai đã xa lìa các tướng của tướng. Vậy nên Như Lai chẳng phải tướng, cũng chẳng phải phi tướng. Vì sao vậy ? Vì Như Lai giỏi biết các tướng nên chẳng phải phi tướng. Như Lai chẳng phải tâm. Vì sao vậy ? Vì là tướng hư không. Vậy nên Như Lai chẳng phải tâm, cũng chẳng phải phi tâm. Vì sao vậy ? Vì có tâm pháp mười lực, cũng có thể biết lòng của chúng sinh khác. Vậy nên Như Lai chẳng phải phi tâm. Như Lai chẳng phải hữu vi. Vì sao vậy ? Vì Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Vậy nên Như Lai chẳng phải hữu vi, cũng chẳng phải vô vi. Vì sao vậy ? Vì Như Lai có đi, lại, ngồi, nằm và thị hiện Niết Bàn. Vậy nên Như Lai chẳng phải vô vi. Như Lai chẳng phải Thường. Vì sao vậy ? Vì thân có phân biệt nên chẳng phải thường. Sao gọi là thường ? Do có biết mà thường pháp thì không biết giống như hư không. Như Lai có biết nên chẳng phải thường. Sao gọi là phi thường ? Có lời nói mà thường pháp thì không lời nói giống như hư không. Như Lai có lời nói nên là vô thường, có dòng họ nên gọi rằng vô thường. Pháp không dòng họ mới gọi là thường. Hư không thường nên không có dòng họ. Như Lai có họ là họ Cù Ðàm Thị nên vô thường, có cha mẹ nên gọi là vô thường. Không cha mẹ thì mới gọi là thường. Hư không thường nên không có cha mẹ. Phật có cha mẹ nên là vô thường. Có bốn oai nghi gọi là vô thường, không bốn oai nghi mới gọi là thường. Hư không thường nên không bốn oai nghi, Phật có bốn oai nghi nên là vô thường. Pháp thường trụ không có phương sở (địa phương xứ sở). Hư không thường nên không có phương sở. Như Lai xuất hiện tại đất Ðông Thiên Trúc, trụ ở thành Xá Bà Ðề hay thành Vương Xá nên vô thường. Do nghĩa này nên Như Lai chẳng phải thường, cũng chẳng phải phi thường. Vì sao vậy ? Vì sự sinh đoạn trừ vĩnh viễn. Pháp có sinh gọi là vô thường. Pháp không sinh mới gọi là thường. Như Lai không sinh vậy nên là thường. Thường pháp không tính, pháp có tính thì gọi là vô thường. Như Lai không sinh, không tính (họ) mà không sinh, không tính nên là thường. Pháp hữu thường khắp cùng tất cả chỗ giống như hư không không chỗ nào chẳng có. Như Lai cũng vậy, cùng khắp tất cả chỗ. Vậy nên Như Lai là thường. Pháp vô thường, hoặc nói đây có, hoặc nói kia không. Như Lai chẳng vậy, chẳng thể nói rằng, chỗ này có, chỗ kia không. Vậy nên Như Lai là thường. Pháp vô thường có khi là có, có khi là không. Như Lai chẳng vậy, có khi là có, có khi là không. Vậy nên Như Lai là thường. Pháp thường trụ không danh, không sắc. Hư không thường nên không danh không sắc. Như Lai cũng vậy không danh không sắc. Vậy nên Như Lai là thường. Pháp thường trụ không nhân không quả, hư không thường nên    không nhân không quả. Như Lai cũng vậy, không nhân không quả, vậy nên là thường. Pháp thường trụ ba đời chẳng nhiếp lấy. Như Lai cũng vậy, ba đời chẳng nhiếp lấy. Vậy nên Như Lai là thường. Như Lai chẳng phải huyễn. Vì sao vậy ? Vì vĩnh viễn đoạn trừ tất cả lòng hư dối. Vậy nên Như Lai chẳng phải huyễn cũng chẳng phải phi huyễn. Vì sao vậy ? Vì Như Lai, hoặc khi phân một thân này làm vô lượng thân. Rồi thân vô lượng lại làm thành một thân, đi ra xuyên qua tường vách mà không có chướng ngại, đi trên nước như trên đất, vào trong đất như trong nước, đi giữa hư không như trên mặt đất, thân tuông ra khỏi lửa như đám lửa lớn, mây sấm chấn động, âm thanh đáng sợ. Hoặc làm ra thành ấp, tụ lạc, nhà cửa, núi sông, cây cối, hoặc tạo nên thân lớn, hoặc hóa làm thân nhỏ, thân trai, thân gái, thân bé trai, thân bé gái… Vậy nên Như Lai cũng chẳng phải phi huyễn. Như Lai chẳng phải định. Vì sao vậy ? Vì Như Lai ở vùng Ta La Song Thọ tại thành Câu Thi Na thị hiện vào Niết Bàn. Vậy nên Như Lai chẳng phải định, cũng chẳng phải phi định. Vì sao vậy ? Vì Thường – Lạc – Ngã – Tịnh nên Như Lai chẳng phải phi định. Như Lai chẳng phải hữu lậu. Vì sao vậy ? Vì Như Lai đoạn trừ ba lậu nên chẳng phải là hữu lậu. Ba lậu là, tất cả phiền não của Dục giới trừ vô minh thì đó gọi là Dục lậu. Tất cả phiền não của Sắc giới và Vô sắc giới trừ vô minh thì đó gọi là Hữu lậu. Vô minh của ba cõi gọi là vô minh lậu. Như Lai đoạn trừ vĩnh viễn ba lậu, vậy nên phi lậu. Lại nữa, tất cả phàm phu chẳng có hữu lậu. Sao gọi là phàm phu chẳng thấy hữu lậu ? Tất cả phàm phu ở đời vị lai đều có nghi tâm (lòng nghi hoặc) thì trong đời vị lai họ sẽ được thân hay chẳng được thân vậy ? Trong đời quá khứ, thân vốn có hay vốn không vậy ? Trong đời hiện tại thân này có hay thân này không vậy ? Nếu có ngã thì chính là sắc hay chẳng phải sắc vậy ? Là sắc chẳng phải sắc hay chẳng phải sắc chẳng phải phi sắc vậy ? Tưởng hay chẳng phải tưởng vậy ? Tưởng chẳng phải tưởng hay chẳng phải tưởng chẳng phải phi tưởng vậy ? Thân này thuộc người khác hay chẳng thuộc người khác vậy ? Thuộc chẳng thuộc hay chẳng phải thuộc chẳng phải phi thuộc vậy ? Có mạng không thân hay có thân không mạng vậy ? Có thân có mạng hay không thân không mạng vậy ? Thân cùng với mạng có thường hay vô thường vậy ? Thường vô thường hay chẳng phải thường chẳng phải vô thường vậy ? Thân cùng với mạng tự tại tạo tác hay thời tiết tạo tác vậy ? Vô nhân tạo tác hay thế tánh tạo tác vậy ? Vi trần tạo tác hay pháp phi pháp tạo tác, sĩ phu tạo tác ? Phiền não tạo tác hay cha mẹ tạo tác vậy ? Ngã trụ ở tâm hay trụ trong mắt vậy ? Hay đầy khắp trong thân vậy ? Ngã từ đâu lại rồi đi đến đâu vậy ? Ai sinh ra ? Ai chết vậy ? Ngã ở quá khứ là dòng Bà la môn ? Là dòng Sát lợi ? Là dòng Tỳ Xá ? Là dòng Thủ đà la vậy ? Ở đời vị lai ngã sẽ được dòng gì vậy ? Thân này của ta, lúc quá khứ là thân nam ? Là thân nữ ? Là thân súc sinh vậy ? Nếu ta sát sinh thì sẽ có tội hay sẽ không có tội vậy ?… Cho đến uống rượu thì sẽ có tội hay sẽ không có tội vậy ? Ta tự làm hay vì người khác làm vậy. Ta thọ báo hay thân thọ báo vậy ? Vô lượng phiền não của những nghi kiến như vậy che phủ lòng của chúng sinh. Nhân những nghi kiến này nên sinh ra sáu thứ tâm : Quyết định có ngã, quyết định không ngã, ngã thấy ngã, ngã thấy vô ngã, vô ngã thấy ngã, ngã tác, ngã thọ, ngã tri. Ðó gọi là tà kiến. Như Lai vĩnh viễn bứng bỏ cội rễ (căn bản) của vô lượng kiến lậu như vậy. Vậy nên Như Lai chẳng phải lậu. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Ðại Niết Bàn tu thánh hạnh thì cũng được vĩnh viễn đoạn trừ những lậu như vậy. Các đức Phật Như Lai thường tu Thánh hạnh nên vô lậu.

Này thiện nam tử ! Phàm phu chẳng thể khéo nhiếp lấy năm căn thì có ba lậu, bị sự ác dẫn dắt đến chỗ bất thiện. Này thiện nam tử ! Ví như con ngựa dữ, tính ngang bướng của nó có thể khiến cho người đi xe đến chỗ hiểm ác. Người chẳng thể khéo nhiếp lấy năm căn cũng lại như vậy, khiến cho người xa lìa thiện đạo Niết Bàn đi đến chỗ ác. Ví như con voi dữ, chưa điều thuận mà có người cưỡi nó thì chẳng đi được theo ý, lìa xa thành ấp, đi đến chỗ trống không. Người chẳng thể khéo nhiếp lấy năm căn này cũng lại như vậy, sẽ đem người lìa xa thành ấp Niết Bàn đi đến chỗ đồng hoang sinh tử. Này thiện nam tử ! Ví như người nịnh thần dạy vua làm ác. Nịnh thần năm căn cũng lại như vậy, thường dạy chúng sinh tạo ác không lường. Này thiện nam tử ! Ví như người con ác chẳng chịu sự dạy bảo của cha mẹ, sư trưởng thì không ác nào chẳng tạo. Chẳng điều phục năm căn cũng lại như vậy, chẳng chịu lời dạy bảo thiện của sư trưởng thì không ác nào chẳng tạo. Này thiện nam tử ! Người phàm phu chẳng nhiếp lấy năm căn thường bị sự giặc hại của địa ngục, súc sinh và ngã quỉ, cũng như oán trộm hại đến người tốt. Này thiện nam tử ! Người phàm phu chẳng nhiếp lấy năm căn dong ruỗi theo năm trần thì ví như người chăn trâu chẳng khéo giữ gìn để xâm phạm lúa má của người. Người phàm phu chẳng nhiếp lấy năm căn thường ở tại các cõi hữu, chịu nhiều khổ não. Này thiện nam tử ! Khi Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn hành thánh hạnh thì thường có thể giỏi điều phục  nhiếp giữ năm căn, kinh sợ tham dục, sân nhuế, ngu si, kiêu mạn, tật đố…. làm được tất cả các thiện pháp. Này thiện nam tử ! Nếu người có thể khéo giữ năm căn này thì có thể nhiếp lấy tâm. Nếu có thể nhiếp lấy tâm thì nhiếp được năm căn. Ví như có người ủng hộ vua thì ủng hộ đất nước, người ủng hộ đất nước thì ủng hộ vua. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, nếu được nghe Kinh Ðại Niết Bàn thì được trí tuệ mà được trí tuệ thì được chuyên niệm. Năm căn nếu niệm tán loạn thì có thể dừng. Vì sao vậy ? Vì là niệm tuệ vậy. Này thiện nam tử ! Ví như người chăn trâu giỏi, giả sử trâu đây đó ăn lúa má của người khác thì liền có thể ngăn chận lại, chẳng cho xâm phạm. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, nhân duyên niệm tuệ nên nhiếp giữ năm căn chẳng cho dong ruỗi, tán loạn. Ðại Bồ tát có niệm tuệ thì chẳng thấy tướng của ngã, chẳng thấy tướng của ngã sở, chẳng thấy chúng sinh và sự thọ dụng, thấy tất cả pháp đồng tướng pháp tính. Sinh ra tướng đất, đá, sành, sỏi (?). Ví như nhà cửa từ mọi duyên sinh ra, không có định tính. Ðại Bồ tát thấy các chúng sinh là sự thành lập của bốn đại, năm ấm, truy tìm ra không có định tính. Vì không định tính nên Bồ tát ở trong đó chẳng sinh ra tham trước. Tất cả phàm phu thấy có chúng sinh nên khởi lên phiền não. Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn có niệm tuệ nên đối với các chúng sinh chẳng sinh ra tham trước. Lại nữa, Ðại Bồ tát tu tập Kinh Ðại Niết Bàn thì chẳng tham trước tướng chúng sinh, làm đủ thứ pháp tướng. Này thiện nam tử ! Ví như nhà họa sư dùng mọi thứ màu sắc vẽ ra mọi hình tượng, hoặc nam, hoặc nữ, hoặc trâu, hoặc ngựa…. Kẻ phàm phu không biết, nhìn thấy những hình tượng đó thì sinh ra tướng trai gái.v.v… Còn họa sư rõ biết là không có trai, gái… Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, đối với tướng khác của pháp vẫn xem thấy một tướng, nhất định chẳng sinh ra tướng chúng sinh. Vì sao vậy? Vì Bồ tát có niệm tuệ. Ðại Bồ tát tu Ðại Niết bàn, hoặc khi nhìn thấy người con gái đoan chính nhất định chẳng sinh lòng tham trước. Vì sao vậy ? Vì khéo quan sát tướng. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát biết pháp ngũ dục không có hoan lạc, chẳng được tạm dừng như chó gặm xương khô, như người cầm lửa đi ngược gió, như rắn độc trong hòm, như trong mơ sở đắc cây trái ven đường bị nhiều người ném, cũng như miếng thịt bị nhiều chim tranh nhau giành, như bọt trên nước, như nét vẽ xuống nước, như sợi chỉ dọc hết, như người tù đi đến chợ, giống như giả mượn thế lực chẳng được lâu…. Quan sát dục nhiều những lỗi xấu như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát quan sát các chúng sinh vì nhân duyên sắc, hương, vị, xúc nên từ vô lượng vô số kiếp xưa đến nay thường chịu khổ não. Mỗi một chúng sinh, trong một kiếp đã tích góp xương của bản thân như núi Tỳ Phú La ở thành Vương Xá, đã uống nước sữa như nước bốn biển, máu của thân chảy ra lại nhiều như nước bốn biển, cha mẹ anh em vợ con quyến thuộc mạng chung mà nước mắt khóc thương tuông ra nhiều như nước bốn biển lớn, chặt hết cỏ cây trên đất làm thẻ để tính số cha mẹ cũng chẳng thể hết, từ vô lượng kiếp đến nay, hoặc ở tại địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, đã chịu hành khổ chẳng thể kể xiết. Vo tròn đại địa này giống như quả táo thì dễ có thể cùng cực, nhưng sinh tử không lường chẳng thể hết được ! Ðại Bồ tát như vậy quán sâu tất cả chúng sinh vì dục nhân duyên nên thọ khổ không lường. Bồ tát quan sát sinh tử hành khổ này nên chẳng mất niệm tuệ. Này thiện nam tử ! Ví như thế gian có một số người rất đông, đứng đầy cả hai mươi lăm dặm. Nhà vua ra lệnh một người bề tôi bưng một bát dầu, đi qua hết trong số người ấy mà không cho nghiêng đổ. Nếu người đó làm rớt ra một giọt dầu  thì phải bị chém. Vua lại sai một người bạt đao theo sau mà khủng bố người bưng dầu. Người bề tôi nhận lời dạy của vua hết lòng kiên trì, trải qua trong đại chúng ấy. Tuy thấy năm tà dục vừa ý.v.v… nhưng lòng luôn nghĩ rằng : “Nếu ta buông lung đắm trước những tà dục kia, phải bỏ sự kiên trì thì mạng chẳng được an toàn”. Người đónhờ nhân duyên sợ này nên thậm chí chẳng làm rớt một giọt dầu. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, ở trong sinh tử, chẳng đánh mất niệm tuệ. Do chẳng đánh mất nên Bồ tát tuy thấy năm dục nhưng lòng chẳng tham trước, hoặc thấy tịnh sắc chẳng sinh ra sắc tướng, chỉ quan sát khổ tướng… Cho đến thức tướng cũng lại như vậy, chẳng làm ra tướng sinh, chẳng làm ra tướng diệt, chẳng làm ra tướng nhân duyên mà quan sát tướng hòa hợp. Bồ tát bấy giờ, năm căn thanh tịnh mà căn thanh tịnh thì hộ căn giới đầy đủ. Tất cả phàm phu, năm căn chẳng tịnh, chẳng thể giỏi giữ gìn thì gọi là căn lậu. Bồ tát đoạn trừ vĩnh viễn điều đó nên vô lậu. Như Lai nhổ bạt ra cội rễ, đoạn trừ vĩnh viễn, vậy nên chẳng phải lậu (phi lậu). Lại nữa, này thiện nam tử ! Lại có Ly lậu (lìa khỏi lậu). Ðại Bồ tát muốn vì quả Phật cam lộ vô thượng nên lìa khỏi ác lậu. Sao gọi là Ly (lìa) ? Nếu có thể tu hành Kinh Ðại Niết Bàn, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, giải nói, tư duy thì đó gọi là Ly. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì ta đều chẳng thấy mười hai bộ Kinh có thể lìa khỏi ác lậu như Kinh Phương Ðẳng Ðại Niết Bàn này. Này thiện nam tử ! Ví như vị lương y dạy các đệ tử. Trong các đệ tử có người thọ giáo, lòng chẳng tạo ác. Ðại Bồ tát tu kinh điển vi diệu Ðại Niết Bàn vi diệu cũng lại như vậy, lòng chẳng tạo ác. Này thiện nam tử ! Ví như thế gian có thứ chú thuật hay, nếu có người nghe một lần mà bảy năm sau chẳng bị trúng tất cả thuốc độc, rắn độc chẳng thể cắn. Nếu có người tụng chú ấy thì cho đến trọn đời, không có mọi thứ ác. Này thiện nam tử ! Kinh Ðại Niết Bàn này cũng lại như vậy, nếu có chúng sinh, một lần nghe Kinh thì bảy kiếp về sau chẳng rơi vào đường ác. Nếu có người ghi chép, đọc tụng, giải nói, suy nghĩ nghĩa Kinh ấy thì nhất định được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thanh tịnh thấy Phật tính như vị Thánh Vương kia được vị cam lộ. Này thiện nam tử ! Kinh Ðại Niết Bàn này có vô lượng công đức như vậy.v.v… Này thiện nam tử ! Nếu có người có thể sao chép Kinh này, đọc tụng, giải nói, vì người khác trình bày và suy nghĩ nghĩa Kinh ấy thì phải biết người đó chân thật là đệ tử của ta, giỏi chịu lời dạy bảo của ta. Ðó là sở kiến của ta, sở niệm của ta. Người đó biết chắc chắn là ta chẳng Niết Bàn. Tùy theo chỗ sở trụ của người như vậy, hoặc thành ấp, tụ lạc, núi rừng, đồng hoang, nhà cửa, ruộng đất, lâu các, điện đường… ta cũng thường trụ ở trong những chỗ đó, chẳng di dời. Ta đối với người này thường làm người thọ thí, hoặc làm Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Bà la môn, Phạm chí, người đi xin nghèo cùng… thì làm sao phải khiến cho người đó được biết Như Lai nhận đồ vật bố thí ấy ? Này thiện nam tử ! Người đó, ở trong đêm ngủ nằm mơ, mơ thấy hình dáng đức Phật, hoặc thấy hình dáng trời, hình dáng Sa môn, hình dáng quốc chủ, Thánh Vương, vua Sư Tử, hình dáng hoa sen, hình dáng hoa ưu đàm, hoặc thấy núi lớn hay nước biển cả, hoặc thấy mặt trời, mặt trăng, hoặc thấy hình dáng voi trắng và hình dáng ngựa trắng, hoặc thấy cha mẹ, hoặc thấy được hoa, được trái, được vàng, bạc, lưu ly, pha lê… các thứ báu, được năm thứ vị của trâu. Bấy giờ thì phải biết là Như Lai đã nhận sự bố thí của người ấy. Người đó tỉnh dậy rồi, liền được đủ thứ vật cần dùng, lòng chẳng nghĩ ác, ưa tu thiện pháp. Này thiện nam tử !  Kinh Ðại Niết Bàn này có thể thành tựu vô lượng atăngkỳ chẳng thể nghĩ bàn vô biên công đức như vậy. Này thiện nam tử ! Ông nay nên phải tin thọ lời nói của ta ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn thấy ta, muốn cung kính ta, muốn đồng pháp tính mà thấy được ta, muốn được “không định”, muốn thấy thật tướng, muốn được tu tập Thủ Lăng Nghiêm định, Sư Tử Vương định, muốn phá tám ma. Tám ma  đó là bốn ma vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, muốn được niềm vui trong loài người trên cõi trời… thì thấy có người thọ trì Kinh Ðại Niết Bàn, sao chép, đọc tụng, vì người khác giải nói, suy nghĩ nghĩa lý, phải đi đến thân cận, nương kề, hỏi han thính thọ, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi… vì người đó rửa tay chân, bố thí giường chiếu, tứ sự cúng dường cung cấp khiến cho người đó không gì thiếu thốn. Nếu người đó từ xa đi lại thì nên tổ chức nghênh đón trước mười do tuần đường. Vì Kinh này nên phải dùng những vật quí trọng để hiến dâng. Nếu như thiện nam, tín nữ ấy không có thì nên tự bán thân. Vì sao vậy ? Vì Kinh này khó gặp hơn cả hoa Ưu Ðàm. Này thiện nam tử ! Ta nghĩ về quá khứ, vô lượng vô biên na do tha kiếp, bấy giờ thế giới tên là Ta Bà, có đức Phật Thế Tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, vì các đại chúng tuyên nói Kinh Ðại Niết Bàn như vậy. Ta, lúc bấy giờ, từ chỗ bạn lành mà nghe được đức Phật đó sẽ vì đại chúng nói Kinh Ðại Niết Bàn. Ta nghe thế rồi; trong lòng hoan hỷ, muốn thiết lễ cúng dường nhưng nhà nghèo không có vật gì. Ta muốn tự bán thân nhưng bạc phước chẳng bán được, liền muốn trở về nhà. Trên đường về, gặp một người, ta liền nói rằng : “Tôi muốn bán thân, ngài có thể mua chăng ?” Người ấy đáp rằng : “Người làm việc cho nhà ta, không ai kham được ! Ông giả sử có thể vì ta thì ta sẽ mua ông !” Ta liền hỏi rằng : “Người phải làm việc gì mà không thể kham được ?” Người ấy đáp rằng : “Ta có ác bệnh, lương y xử lý thuốc là cần phải mỗi ngày ăn ba lạng thịt người. Ông nếu có thể ngày ngày lấy ba lạng thịt của thân cung cấp cho ta thì ta sẽ cho ông năm xâu tiềng vàng”. Khi ta nghe rồi trong lòng hoan hỷ, liền nói rằng : “Ngài cho tôi tiền và cho tôi hẹn lại sau bảy ngày, khi công việc cần làm xong, tôi trở lại gặp nhau”. Người kia đáp rằng : “Bảy ngày thì chẳng thể ! Xét ra có thể hẹn lại cho ông một ngày !” Này thiện nam tử ! Khi ấy, ta liền nhận lấy tiền, đến trở lại chỗ đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân, đem hết tiền sẵn có ấy mà hiến dâng lên, rồi nhiên hậu thành tâm thính thọ Kinh này. Ta thì ám độn, tuy được nghe Kinh nhưng chỉ có thể thọ trì câu văn của một bài kệ :

Như Lai chứng Niết Bàn

Vĩnh viễn đoạn sinh tử

Nếu lắng nghe hết lòng

Thường được vô lượng lạc.

Nhận bài kệ này rồi, ta liền trở lại đến nhà người bệnh kia. Này thiện nam tử ! Khi ta tuy lại ngày ngày cho ba lạng thịt nhưng do nhân duyên niệm kệ nên chẳng lấy làm đau đớn, ngày ngày chẳng bỏ, đủ đầy một tháng. Này thiện nam tử ! Do nhân duyên này mà bệnh ông ấy được chửa khỏi, thân ta bình phục, cũng không lở loét. Ta thấy thân đầy đủ, hoàn bị liền phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lực của một bài kệ mà còn như vậy, huống gì là thọ trì đọc tụng đầy đủ. Ta thấy Kinh này có lợi như vậy lại phát tâm bội phần. Ta nguyện vào đời vị lai, khi thành Phật đạo có tự hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Này thiện nam tử ! Do lực của nhân duyên bài kệ này nên khiến cho ta ngày hôm nay, ở trong đại chúng, vì những trời, người tuyên nói đầy đủ. Này thiện nam tử ! Do nhân duyên này nên Kinh Ðại Niết Bàn chẳng thể nghĩ bàn, thành tựu vô lượng vô biên công đức và mới là tạng bí mật thậm thâm của các đức Phật Như Lai. Do nghĩa này nên người hay thọ trì thì đoạn lìa ác lậu. Chỗ gọi là ác như là chỗ trụ của voi ác, ngựa ác, trâu ác, chó ác (dữ), rắn độc…, đất đai, ác độc, ven núi cheo leo, bờ sông nguy hiểm, nước mạnh chảy xoáy, người ác, nước ác, thành ác, nhà ác, bạn ác.v.v… Những bọn như vậy nếu trở thành nhân lậu thì Bồ tát liền lìa khỏi, nếu chẳng thể làm thì chẳng xa lìa. Nếu tăng thêm hữu lậu thì liền lìa khỏi, nếu chẳng tăng thêm thì chẳng xa lìa. Nếu làm pháp ác thì liền lìa khỏi, nếu có thể làm thiện thì chẳng xa lìa. Sao gọi là lìa (ly) ? Chẳng nắm giữ dao gậy, thường dùng phương tiện chánh tuệ mà xa lìa những thứ đó. Vậy nên gọi là chánh tuệ xa lìa, vì sinh thiện pháp thì xa lìa ác pháp. Ðại Bồ tát tự quan sát thân mình như bệnh, như ghẻ lở, như ung nhọt, như oán thù, như tên cắm vào thân thể… chính là chỗ gom đại khổ, đều chính là căn bản của tất cả thiện ác. Thân này tuy bất tịnh như vậy nhưng Bồ tát còn cố ngắm nhìn nuôi nấng. Vì sao vậy ? Chẳng phải vì tham thân mà vì thiện pháp vậy, vì đến với Niết Bàn chẳng vì sinh tử, vì Thường – Lạc – Ngã – Tịnh mà chẳng vì vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, vì đạo Bồ Ðề  chẳng vì đạo hữu vi, vì Nhất thừa chẳng vì Tam thừa, vì thân ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp vi diệu mà chẳng vì thân… cho đến thân của trời Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng, vì pháp Luân Vương chẳng vì Chuyển Luân Vương. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát luôn phải hộ thân. Vì sao vậy? Vì nếu chẳng hộ thân thì chẳng toàn mạng. Mạng nếu chẳng toàn thì chẳng thể được sao chép Kinh này để thọ trì, đọc tụng, vì người khác rộng nói, suy nghĩ nghĩa Kinh ấy. Vậy nên Bồ tát nên khéo hộ thân. Do nghĩa này nên Bồ tát được lìa khỏi tất cả ác lậu. Này thiện nam tử ! Như muốn qua được nước thì phải khéo hộ giữ thuyền bè, người đi đường khéo hộ ngựa tốt, nhà nông gieo trồng khéo hộ phân dơ, như vì chữa khỏi độc thì khéo hộ giữ rắn độc, như người vì của cải hộ giữ Chiên đà la, vì phá giặc nên nuôi hộ kiện tướng, cũng như người lạnh thích hộ với lửa, như người bệnh hủi thì cầu thuốc độc… Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, tuy thấy thân này bất tịnh không lường, sung mãn đầy đủ, nhưng vì muốn thọ trì Kinh Ðại Niết Bàn nên còn ưa nuôi hộ, chẳng cho nó thiếu thốn. Ðại Bồ tát quan sát con voi dữ và bạn xấu ngang bằng nhau không có hai. Vì sao vậy ? Vì chúng đều hủy hoại thân. Ðại Bồ tát đối với voi dữ.v.v.. lòng không kinh sợ nhưng đối với bạn xấu thì sinh lòng kinh sợ. Vì sao vậy ? Vì con voi dữ này.v.v… chỉ có thể hoại thân, chẳng có thể hoại tâm còn bạn xấu (ác tri thức) thì hủy hoại cả hai. Coi voi dữ này… chỉ hoại một thân, còn người bạn xấu thì hủy hoại vô lượng thân, vô lượng tâm. Con voi dữ này chỉ có thể phá hoại tấm thân thối bất tịnh, còn người bạn xấu thì có thể hoại thân thanh tịnh và cả tâm thanh tịnh. Con voi dữ này có thể hoại nhục thân (thân bằng thịt) còn ác tri thức thì hoại đến pháp thân. Bị voi dữ giết chết thì chẳng đến ba đường, còn bị bạn xấu giết thì nhất định đến ba đường. Voi dữ này chỉ bị thân oán, còn bạn xấu thì bị thiện pháp oán… Vậy nên Bồ tát thường phải xa lìa những ác tri thức (bạn xấu). Những lậu như vậy.v.v… phàm phu chẳng lìa khỏi. Vậy nên họ sinh ra lậu. Bồ tát lìa khỏi những lậu đó thì chẳng sinh ra lậu. Như vậy Bồ tát còn không có lậu, huống là đối với Như Lai. Vậy nên Như Lai chẳng phải lậu. Sao gọi là thân cận lậu ? Tất cả phàm phu nhận lấy y thực, ngọa cụ, y dược. Vì niềm vui của thân tâm nên họ cầu những vật như vậy, tạo ra đủ thứ ác, chẳng biết lỗi hoạn (nạn) luân hồi ba đường. Vậy nên gọi là lậu. Ðại Bồ tát thấy lỗi hoạn như vậy thì liền lìa xa. Nếu khi cần áo thì Bồ tát liền nhận lấy, chẳng vì bản thân mà chỉ vì pháp, chẳng lớn kiêu mạn, lòng thường hạ thấp, chẳng vì nghiêm sức chỉ vì xấu hổ, ngăn những lạnh nóng, gió độc, mưa dữ, trùng độc, muỗi, nhặng, ruồi, bọ chét, nọc rắn độc. Bồ tát tuy nhận ăn uống nhưng lòng không tham trước, chẳng vì thân thường vì chánh pháp, chẳng vì hình thể bề ngoài chỉ vì chúng sinh, chẳng vì kiêu mạn mà vì thân lực, chẳng vì oán hại mà vì trị bệnh đói. Tuy được vị ngon nhưng lòng không tham trước. Bồ tát thọ lấy phòng, nhà cũng lại như vậy, những kết sử tham trước, kiêu mạn chẳng cho ở trong lòng. Vì nhà Bồ Ðề ngăn chận giặc kết sử, ngăn gió mưa dữ nên Bồ tát nhận lấy nhà cửa. Bồ tát cầu y dược thì lòng không tham trước, kiêu mạn, chỉ vì chánh pháp, chẳng vì thọ mạng, vì mạng thường trụ vậy. Này thiện nam tử ! Như người bệnh ghẻ lở, lấy lương khô trát lên, dùng áo bó lại. Vì chảy máu mủ làm kết dính bột lương khô làm ghẻ lở bớt nên dùng bột thuốc tra vào, vì gió dữ nên ở tận trong nhà sâu. Bồ tát Mahatát cũng lại như vậy, quan sát thân là đồ ghẻ lở nên dùng áo che đậy, vì chín lỗ thẩm lậu nên tìm kiếm ăn uống, vì gió mưa hung dữ nên nhận lấy nhà cửa, vì bốn độc phát ra nên tìm tòi y dược. Bồ tát nhận lấy tứ sự cúng dường là vì đạo Bồ Ðề, chẳng phải vì thọ mạng. Vì sao vậy? Vì Ðại Bồ tát dấy khởi ý nghĩ này : “Ta, nếu chẳng nhận bốn việc cúng dường này thì thân bị tiêu diệt, chẳng được bền chắc. Nếu thân chẳng bền chắc thì chẳng nhịn được khổ (chịu đựng khổ). Nếu chẳng nhịn được khổ thì chẳng thể được tu tập thiện pháp. Nếu có thể chịu đựng được khổ thì được tu tập vô lượng thiện pháp. Ta nếu chẳng thể đủ sức chịu đựng mọi khổ thì đối với việc thọ khổ sinh lòng sân nhuế, đối với việc thọ lạc sinh lòng tham trước. Nếu cầu lạc (vui) chẳng được thì sinh ra vô minh. Vậy nên phàm phu đối với bốn việc cúng dường sinh ra hữu lậu”. Ðại Bồ tát có thể quan sát sâu nên chẳng sinh ra lậu. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô lậu thì làm sao Như Lai phải gọi là hữu lậu được ? Vậy nên Như Lai chẳng gọi là hữu lậu.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Tất cả phàm phu tuy khéo hộ thân nhưng lòng còn cố sinh ra ba thứ ác giác. Do nhân duyên này nên tuy đoạn trừ phiền não, được sinh lên cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nhưng còn phải trở lại rơi vào trong ba đường ác. Này thiện nam tử ! Ví như có người qua khỏi biển cả, sắp đến bờ kia nhưng chìm nước mà chết. Người phàm phu cũng lại như vậy, sắp tận cùng ba cõi nhưng trở lại rơi vào ba đường. Vì sao vậy ? Vì không có thiện giác. Những gì là thiện giác ? Ðó là sáu niệm xứ. Người phàm phu, thiện tâm còm cõi, tất bất thiện bừng bừng. Thiện tâm còm cõi nên lòng tuệ mỏng manh. Tuệ tâm mỏng manh nên tăng trưởng các lậu. Ðại Bồ tát, tuệ nhãn thanh tịnh thấy lỗi lầm ba giác. Biết ba ác giác này có đủ thứ hoạn, thường cùng với chúng sinh tạo tác oán của ba thừa. Nhân duyên ba giác mới khiến cho vô lượng chúng sinh phàm phu chẳng thấy Phật tính. Họ ở trong vô lượng kiếp sinh ra lòng điên đảo, cho là Phật Thế Tôn không Thường – Lạc – Ngã mà chỉ có một Tịnh thôi, Như Lai rốt ráo vào Niết Bàn. Tất cả chúng sinh vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh, nhưng lòng họ điên đảo nên nói rằng có Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Thật ra không có Tam thừa nhưng lòng họ điên đảo nên nói rằng có Tam thừa. Ðạo Nhất Thật là chân thật chẳng hư dối, nhưng lòng họ điên đảo nên nói rằng không có đạo Nhất Thật. Ba ác giác này thường bị sự quở trách của các đức Phật và các vị Bồ tát. Ba ác giác này thường hại đến ta hay cũng hại đến người khác. Có ba ác giác này thì tất cả các ác thường đến làm tùy tùng. Ba ác giác này tức là ba sự trói buộc, nối liền chúng sinh với vô biên sinh tử. Ðại Bồ tát thường tạo tác sự quan sát ba ác giác như vậy. Hoặc khi Bồ tát có nhân duyên ứng sinh dục giác thì mặc nhiên chẳng thọ. Ví như người đoan chính tịnh khiết chẳng nhận tất cả phân bẩn bất tịnh, như người không nhận lấy hòn sắt nóng, như dòng Bà la môn chẳng nhận thịt trâu, như người no đủ chẳng nhận đồ ăn xấu, như vua Chuyển Luân chẳng cùng tất cả Chiên đà la đồng ngồi một giường. Ðại Bồ tát đối với giặc ác ba giác chẳng nhận, chẳng nếm cũng lại như vậy. Vì sao vậy ? Vì Bồ tát suy nghĩ rằng : “Chúng sinh biết ta là ruộng phước tốt thì ta làm sao mà thọ nhận những pháp ác này. Nếu ta thọ ác giác thì chẳng nhận làm ruộng phước của chúng sinh. Ta tự chẳng nói là ruộng phước tốt mà chúng sinh thấy tướng liền nói rằng, ta là ruộng phước tốt. Ta nay nếu khởi lên ác giác như vậy thì tức là lừa dối tất cả chúng sinh. Ta vào thuở xa xưa, vì lừa dối nên đãở trong vô lượng kiếp lưu chuyển sinh tử, rơi vào ba đường ác. Ta nếu dùng ác tâm để thọ tín thí của người thì tất cả trời, người, tiên nhân ngũ thông đều sẽ chứng biết mà quở trách. Ta nếu ác giác mà thọ tín thí của người thì, hoặc khiến cho quả báo của thí chủ giảm thiểu, hoặc rỗng không, không có quả báo. Ta nếu ác tâm mà thọ thí của đàn việt thì cùng với thí chủ mà kết làm oán thù. Tất cả thí chủ luôn ở chỗ ta khởi xích tử tưởng (tưởng như đứa con yêu) thì ta làm sao lừa dối họ để mà oán tưởng (tưởng như kẻ oán thù). Vì sao vậy ? Vì hoặc khiến cho thí chủ chẳng được quả báo, hoặc ít quả báo. Ta thường tự xưng là người xuất gia mà luận về xuất gia thì chẳng nên khởi ác, nếu khởi ác thì chẳng phải là xuất gia. Người xuất gia thì thân miệng tương ứng, nếu chẳng tương ứng thì chẳng phải là xuất gia. Ta bỏ cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, bạn bè… xuất gia tu đạo chính là khi tu tập các thiện giác, chẳng phải là lúc tu tập bất thiện giác. Ví như có người vào biển tìm của báu chẳng chọn lấy chân châu mà chọn lấy thủy tinh, cũng như có người bỏ nghe âm nhạc vi diệu mà dạo chơi chỗ phân dơ bẩn, như bỏ đi  người con gái quí báu mà yêu nghĩ đến hạng thấp hèn, như bỏ đồ bằng vàng mà dùng chén sành, như bỏ cam lộ mà uống thuốc độc, như bỏ thầy thuốc giỏi hiền lành thân thiết mà lại theo kẻ oán ghét xin thuốc trị liệu cho mình. Ta cũng như vậy, lìa bỏ cam lộ pháp vị của đại sư Như Lai Thế Tôn mà uống đủ thứ ác giác của ma oán. Thân người khó được như hoa Ưu Ðàm mà ta nay đã được. Như Lai khó gặp hơn cả hoa Ưu đàm mà ta nay đã gặp. Pháp bảo thanh tịnh khó được thấy nghe mà ta nay đã được nghe giống như con rùa mù  gặp lỗ miếng gỗ nổi trên biển. Mạng người chẳng dừng qua nhanh như nước chảy xuống núi. Ngày hôm nay tuy còn ánh sáng nhưng cũng khó bảo tồn. Như thế thì sao ta lại buông lòng khiến trụ ở ác pháp ? Hình sắc khỏe mạnh chẳng dừng, giống như ngựa chạy nhanh thì sao mà cậy thế sinh ra kiêu mạn ? Giống như loài quỉ ác rình rập tìm lỗi lầm của người, ác quỉ bốn đại cũng lại như vậy, thường đến rình rập tìm lỗi lầm của ta thì sao lại để cho ác giác phát khởi ? Ví như ngôi nhà mục nát, nóc nhà sắp đổ vỡ, mạng ta cũng vậy thì sao mà khởi ác ? Ta mang danh là Sa môn mà người Sa môn gọi là học thiện giác. Ta nay dấy khởi giác bất thiện thì làm sao được gọi là Sa môn. Ta mang danh là xuất gia mà người xuất gia gọi là người tu thiện đạo. Ta nay làm ác thì sao được gọi là xuất gia ? Ta nay mang danh là chân Bà la môn mà Bà la môn thì gọi là người tu tịnh hạnh. Ta nay lại làm ác giác bất tịnh thì sao sẽ được gọi là Bà la môn. Ta nay cũng mang danh là dòng họ lớn Sát Lợi mà dòng Sát Lợi thì có thể diệt trừ oán địch. Ta nay chẳng thể trừ diệt oán địch ác thì làm sao sẽ được gọi là dòng Sát Lợi. Ta mang danh là Tỳ kheo mà người Tỳ kheo thì gọi là người phá phiền não. Ta nay chẳng phá được phiền não ác giác thì sao sẽ được gọi là Tỳ kheo. Ðời có sáu chỗ khó có thể gặp gỡ được mà ta nay đã được thì sao còn để cho ác giác ở trong lòng ? Những gì là sáu  chỗ ? Một là đời có Phật khó gặp, hai là Chánh pháp khó nghe, ba là lòng sợ khó khởi, bốn là khó sinh giữa nước, năm là thân người khó được, sáu là các căn khó đủ. Sáu việc khó được như vậy đã được. Vậy nên chẳng nên khởi lên ác giác” Bồ tát bấy giờ, tu hành Kinh Ðại Niết Bàn như vậy, thường siêng quan sát những tâm ác này. Tất cả phàm phu chẳng thấy lỗi hoạn của tâm ác như vậy nên thọ ba giác, gọi là thọ lậu. Bồ tát thấy rồi nên chẳng thọ lấy, chẳng tham trước, buông bỏ, chẳng hộ trì mà nương vào tám Thánh đạo xô đuổi chúng đi, chặt đứt chúng. Vậy nên Bồ tát không có thọ lậu thì làm sao lại nói rằng, Như Lai có lậu ? Do nghĩa này nên Như Lai Thế Tôn cũng phải là có lậu.

**********

Lại nữa, này thiện nam tử ! Kẻ phàm phu nếu gặp thân tâm khổ não thì khởi lên đủ thứ ác. Nếu bị thân bệnh hay bị tâm bệnh thì khiến cho thân miệng ý tạo tác đủ thứ ác. Do tạo tác ác nên luân chuyển trong ba đường, chịu đủ các khổ. Vì sao vậy ? Vì người phàm phu không có niệm tuệ. Vậy nên họ sinh ra đủ thứ những lậu; đó gọi là niệm lậu. Ðại Bồ tát thường tự suy nghĩ rằng: “Ta từ thuở xa xưa, vô số kiếp đến nay, vì chính thân tâm này tạo ra đủ thứ ác. Do nhân duyên này nên lưu chuyển sinh tử ở tại ba đường ác, chịu đủ mọi thứ khổ, khiến cho ta rời xa chánh lộ Tam Thừa”. Bồ tát do nhân duyên ác này nên đối với thân tâm mình sinh ra rất kinh sợ, lìa bỏ mọi nẻo ác, hướng về đường thiện. Này thiện nam tử ! Ví như có vị vua đem bốn con rắn độc đựng trong một cái hòm nhỏ, sai người nuôi dưỡng trông nom, ngủ dậy xoa rửa thân chúng. Nếu khiến cho một con rắn nỗi giận thì vua sẽ theo đúng pháp giết chết nơi đô thị. Lúc bấy giờ, người ấy nghe lệnh bức thiết của vua thì lòng sinh hoảng sợ, bỏ cái hòm nhỏ, chạy trốn. Nhà vua lại sai năm người Chiên đà la vung đao đuổi theo. Người ấy quay nhìn lại thấy năm người đuổi theo sau thì bỏ chạy nhanh hơn. Lúc đó, năm người dùng phương tiện ác, che giấu việc cầm dao kín đáo, sai một người trá làm thân thiện mà nói với kẻ trốn đó rằng : “Ông nên trở về lại !” Người ấy chẳng tin, lao vào một tụ lạc (thôn xóm), muốn ẩn kín mình. Ðã vào trong xóm rồi, người ấy nhìn thấy mọi nhà đều chẳng thấy  người, cầm các dụng cụ đựng đồ lên xem đều không có vật. Ðã chẳng thấy người, tìm vật chẳng được, người ấy liền ngồi xuống đất thì nghe tiếng trong hư không rằng : “Hỡi ôi ! Này nam tử ! Xóm này trống rỗng, không có dân xư, đêm nay sẽ có sáu tên giặc lớn đến mà giả sử ngươi gặp phải thì mạng sẽ chẳng toàn. Ông sẽ làm sao mà được khỏi ?” Lúc bấy giờ, nỗi kinh sợ của người ấy liền tăng thêm, người ấy lại bỏ đi. Trên đường đi, người ấy lại gặp một dòng sông mà nước sông chảy mạnh, lại không có thuyền bè. Vì kinh sợ nên người ấy liền lấy đủ thứ cỏ cây làm bè và lại suy nghĩ rằng : “Ta giả sử đứng ở đây thì sẽ bị năm Chiên đà la rắn độc mà một tên trá giả thân thiện và sự nguy hại của sáu tên giặc lớn. Nếu qua sông này mà bè chẳng thể nương nhờ thì ta sẽ phải chìm chết dưới nước. Ta thà chìm chết dưới nước, nhất định chẳng để bị hại do rắn độc và giặc kia”. Người ấy liền đẩy bè cỏ đặt vào trong nước, thân dựa trên bè ấy, vận động tay chân, cắt dòng nước chảy mà đi. Ðã đến bờ bên kia rồi, người ấy yên ổn, không còn hoạn nạn, lòng dạ hanh thông, sợ hãi tiêu trừ.

Ðại Bồ tát được nghe, thọ trì Kinh Ðại Niết Bàn, quán thân như cái hòm nhỏ, đất nước lửa gió như bốn con rắn độc. Thấy độc, chạm độc, hơi độc, cắn độc, tất cả chúng sinh gặp bốn thứ độc này nên mất mạng. Bốn đại của chúng sinh cũng lại như vậy, hoặc thấy là ác, hoặc chạm là ác, hoặc hơi là ác, hoặc cắn là ác. Do những nhân duyên này nên xa lìa mọi thiện. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát quan sát bốn con rắn độc có bốn dòng giống là Sát Lợi, Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà. Rắn bốn đại này cũng lại như vậy, có bốn thứ tính là tính cứng, tính ẩm ướt, tính nóng, tính động. Vậy nên bốn đại cùng bốn độc xà đồng chung chủng tính ấy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát quán bốn đại này như bốn con rắn độc. Sao gọi là quán ? Bốn con rắn độc này thường rình rập tiện nghi của con người, khi nào phải nhìn ? Khi nào phải chạm? Khi nào phải hà hơi ? Khi nào phải cắn ? Rắn độc bốn đại cũng lại như vậy, thường rình rập chúng sinh tìm cầu sở đoản, khuyết lậu của họ. Nếu bị sự giết hại của bốn con rắn độc thì nhất định chẳng đến ở trong ba đường ác, còn nếu bị sự giết hại của bốn đại thì ắt đến ba đường ác, chẳng có gì nghi ngờ. Bốn con rắn độc này tuy lại được trông nom nuôi dưỡng nhưng cũng muốn giết người. Bốn đại cũng vậy, tuy thường được cung cấp nhưng cũng thường dẫn dắt con người làm mọi việc ác. Bốn con rắn độc này, nếu một con giận lên thì có thể giết người. Tính bốn đại cũng lại như vậy, nếu một đại phát ra cũng có thể hại người. Bốn con rắn độc này tuy ở đồng một chỗ nhưng bốn tâm đều khác nhau. Rắn độc bốn đại cũng lại như vậy, tuy đồng một chỗ nhưng tính đều khác biệt. Bốn con rắn độc này tuy lại cung kính nhưng khó có thể thân cận. Rắn độc bốn đại cũng lại như vậy, tuy lại cung kính nhưng cũng khó thân cận. Bốn con rắn độc này nếu khi hại người mà hoặc có Sa môn, Bà la môn.v.v… dùng chú hay thuốc thì có thể trị liệu được. Bốn đại giết người, tuy có Sa môn, Bà la môn.v.v… dùng thần chú, thuốc hay đều chẳng thể trị liệu. Như người tự vui lòng nghe hơi hám bốn con độc xà có thể gớm thì liền xa lìa. Các đức Phật, Bồ tát cũng lại như vậy, nghe mùi bốn đại thìliền lìa xa. Bấy giờ, Bồ tát lại suy nghĩ về rắn độc bốn đại, rồi sinh ra rất kinh sợ, quay lưng chạy nhanh, lo tu tám Thánh đạo.

Chiên đà la tức là năm ấm. Sao gọi là Bồ tát quán năm ấm như Chiên đà la? Người Chiên đà la thường hay khiến cho con người ân ái, biệt ly, oán tắng, tập hội. Năm ấm cũng vậy, khiến cho con người tham lam, thân cận với pháp bất thiện, xa lìa tất cả pháp thuần thiện. Lại nữa, này thiện nam tử ! Như Chiên đà la tự trang nghiêm đủ thứ binh khí như dao, hoặc thuẩn, hoặc cung, hoặc tên, hoặc áo giáp đồng, hoặc giáo dài… để có thể hại người. Năm ấm cũng vậy, dùng các phiền não tự trang nghiêm chắc chắn, hại những người si dại, khiến cho họ rơi vào các cõi hữu. Này thiện nam tử ! Như Chiên đà la có người lỗi là được dịp hại họ. Năm ấm cũng vậy, có những lỗi kết là thường có thể hại người. Vậy nên Bồ tát quán sâu năm ấm như Chiên đà la. Lại nữa, Bồ tát quán sát năm ấm như Chiên đà la. Người Chiên đà la không có lòng từ mẫn, kẻ oán người thân đều hại. Năm ấm cũng vậy, không có lòng từ mẫn thiện ác đều hại. Như Chiên đà la làm não lòng tất cả mọi người. Năm ấm cũng vậy, do những phiền não thường làm não lòng tất cả chúng sinh sinh tử. Vậy nên Bồ tát quán năm ấm như Chiên đà la. Lại nữa, Bồ tát quan sát năm ấm như Chiên đà la. Người Chiên đà la thường ôm lòng hại. Năm ấm cũng vậy, thường mang các kết sử não hại trong lòng. Như người mà không có chân, dao, gậy, thị tùng thì phải biết nhất định bị sự giết hại của người Chiên đà la. Chúng sinh cũng vậy, không có chân, dao, không có thị tùng thì bị sự giết hại của năm ấm. Chân gọi là giới, dao gọi là tuệ, thị tùng gọi là thiện tri thức vậy. Không có ba việc này nên bị sự giết hại của năm ấm. Vậy nên Bồ tát quán năm ấm như Chiên đà la. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát quan sát năm ấm quá hơn Chiên đà la. Vì sao vậy ? Vì nếu chúng bị sự giết hại của Chiên đà la thì chẳng rơi vào địa ngục, còn người bị năm ấm giết thì rơi vào địa ngục. Do nghĩa này nên Bồ tát quán năm ấm quá hơn Chiên đà la. Bồ tát tác khởi sự quan sát này rồi mà phát nguyện rằng : “Ta thà trọn đời gần Chiên đà la, chẳng thể tạm thời gần gũi năm ấm”. Người Chiên đà la chỉ có thể hại người ngu si của cõi Dục, còn giặc năm ấm này hại khắp chúng sinh phàm phu của ba cõi. Người Chiên đà la chỉ có thể giết chết người có tội, còn giặc năm ấm chẳng hỏi chúng sinh có tội hay không tội, đều có thể hại hết. Người Chiên đà la chẳng hại người già yếu, phụ nữ, trẻ con, còn giặc năm ấm này chẳng cần hỏi chúng sinh ai già cả, phụ nữ, trẻ con yếu đuối, tất cả đều hại hết. Vậy nên Bồ tát quan sát sâu năm ấm này quá hơn Chiên đà la. Vậy nên Bồ tát phát nguyện rằng, thà phải trọn đời gần Chiên đà la, chẳng thể tạm thời gần gũi năm ấm. Lại nữa, này thiện nam tử ! Người Chiên đà la chỉ hại người khác, nhất định chẳng hại mình. Giặc năm ấm thì hại mình và hại cả người khác. Người Chiên đà la có thể dùng lời nói tốt, tiền tài, của báu để cầu xin mà được thoát. Năm ấm chẳng vậy, chẳng thể miễn cưỡng dùng lời nói khéo, dụ dỗ, tiền tài, của báu để cầu mà được thoát. Người Chiên đà la ở trong tứ thời (bốn mùa), chẳng nhất định phải thường giết hại. Năm ấm chẳng vậy, luôn ở trong từng niệm, từng niệm hại chúng sinh. Người Chiên đà la chỉ ở tại một chỗ nên có thể chạy trốn. Năm ấm chẳng vậy, ở khắp mọi chỗ nên không thể chạy trốn. Người Chiên đà la tuy lại hại người, hại mình rồi nhưng chẳng theo đuổi. Năm ấm chẳng vậy, giết hại chúng sinh rồi còn theo đuổi chẳng rời. Vậy nên Bồ tát thà trọn đời gần Chiên đà la, chẳng thể tạm thời gần gũi năm ấm. Người có trí dùng phương tiện khéo léo được thoát khỏi năm ấm. Phương tiện khéo léo tức là tám Thánh đạo, sáu Ba la mật, bốn Vô lượng tâm… Nhờ phương tiện này mà kẻ trí được Giải thoát, thân tâm chẳng bị sự giết hại của năm ấm. Vì sao vậy ? Vì thân như Kim Cương, lòng như hư không. Vậy nên thân tâm khó có thể ngăn trở, hủy hoại. Do nghĩa này nên Bồ tát quan sát thấy ấm thành tựu đủ thứ những pháp bất thiện nên sinh ra rất kinh sợ mà tu tám Thánh đạo. Cũng như người kia sợ bốn con rắn độc, năm Chiên đà la mà lặn lội trên đường, đi không quay nhìn lại.

Người trá thân thiện thì gọi là tham ái. Ðại Bồ tát quán sâu ái kết như kẻ oán trá hiện người thân. Nếu biết người thật thì không thể làm gì, nếu chẳng biết thì nhất định bị hại. Tham ái cũng vậy, nếu biết tính chúng thì chẳng thể khiến cho chúng sinh luân chuyển trong sinh tử, như chẳng biết tính ấy thì luân chuyển sáu đường, chịu đủ mọi khổ. Vì sao vậy ? Vì ái là bệnh khó lìa bỏ như kẻ oán trá hiện người thân khó có thể xa lìa. Kẻ oán trá hiện thân thiện thường rình rập tiện nghi của con người, khiến cho họ ái biệt ly, oán tắng hợp hội. Ái cũng như vậy, khiến cho con người xa lìa tất cả thiện pháp, gần gũi với tất cả pháp bất thiện. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát quán sâu tham ái như oán trá hiện thân thiện. Thấy chẳng thấy, nghe chẳng nghe thì như người phàm phu thấy lỗi sinh tử, tuy có trí tuệ nhưng vì ngu si che phủ nên về sau trở lại chẳng thấy. Thanh Văn, Duyên Giác cũng lại như vậy, tuy thấy nhưng chẳng thấy, tuy nghe nhưng chẳng nghe. Vì sao vậy ? Vì do tâm ái vậy. Sở dĩ vì sao? Vì thấy lỗi sinh tử nhưng chẳng thể mau chóng đến được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát quán ái kết này như oán trá hiện thân thiện. Sao gọi là tướng oán trá hiện thân thiện? Như oán, chẳng thật mà trá hiện tướng thật, chẳng thể thân cận mà trá hiện tướng thân cận, thật là chẳng thiện mà trá hiện tướng thiện, thật là chẳng ái mà trá hiện tướng ái (yêu). Vì sao vậy? Vì luôn rình rập tiện nghi của con người muốn làm hại họ. Ái cũng như vậy, thường vì chúng sinh, chẳng phải thật mà trá hiện thật, chẳng phải thân cận mà trá hiện thân cận, chẳng phải thiện mà trá hiện thiện, chẳng phải ái mà trá hiện ái… luôn lừa dối tất cả sinh tử luân hồi. Do nghĩa này nên Bồ tát quan sát ái như oán trá hiện thân thiện. Kẻ oán trá hiện thân thiện thì chỉ thấy thân miệng, chẳng nhìn thấy lòng họ. Vậy nên họ có thể lừa dối. Ái cũng như vậy, chỉ là hư dối, thật chẳng thể được. Vậy nên có thể mê hoặc tất cả chúng sinh. Kẻ oán trá hiện thân thiện thì có thỉ có chung, dễ có thể xa ìa. Ái chẳng như vậy, không thỉ không chung, khó có thể lìa xa. Kẻ oán trá hiện thân thiện ở xa thì khó biết, đến gần thì dễ biết. Ái chẳng như vậy, gần còn khó biết, huống lại là xa vậy? Do nghĩa này nên Bồ tát quán ái quá hơn oán trá hiện thân thiện. Tất cả chúng sinh do ái kết nên xa Ðại Niết Bàn, gần với sinh tử, xa Thường – Lạc – Ngã – Tịnh, gần vô thường – khổ – vô ngã – bất tịnh. Vậy nên ta, ở mọi chỗ trong Kinh, nói là ba cấu đối với việc hiện tại do vô minh, chẳng thấy lỗi hoạn thì chẳng thể lìa bỏ. Oán ái mà trá hiện thân thiện nhất định chẳng thể hại người có trí. Vậy nên Bồ tát quán sâu ái này thì sinh ra kinh sợ mà tu tám Thánh đạo giống như người kia sợ bốn con rắn độc, năm Chiên đà la và một người trá hiện thân thiện mà lặn lội trên đường, đi chẳng trở lại.

Tụ lạc trống không tức là sáu nhập bên trong. Ðại Bồ tát quán sáu nhập này rỗng không, không sở hữu, giống như tụ lạc trống rỗng, như người sợ kia đã vào tụ lạc rồi thì thậm chí chẳng thấy có một người ở, tìm trong đồ đựng chẳng được một vật gì. Bồ tát cũng vậy, quan sát kỹ càng sáu nhập trống rỗng, không sở hữu, chẳng thấy cái thật của một vật chúng sinh. Vậy nên Bồ tát quan sát sáu nhập bên trong trống rỗng, không sở hữu như tụ lạc trống rỗng kia. Này thiện nam tử ! Tụ lạc trống rỗng kia, bọn giặc trông ngóng từ xa nhất định chẳng sinh ra tư tưởng rỗng không. Người phàm phu cũng lại như vậy, đối với tụ lạc sáu nhập chẳng sinh không tưởng. Do họ chẳng thể sinh không tưởng nên sinh tử luân hồi, chịu khổ không lường. Này thiện nam tử ! Bọn giặc đã đến nơi mới sinh ra không tưởng. Bồ tát cũng vậy, quan sát sáu nhập này thường sinh ra không tưởng, sinh ra không tưởng thì chẳng sinh tử luân hồi, chịu khổ. Ðại Bồ tát đối với sáu nhập này thường không điên đảo. Không điên đảo nên chẳng lại sinh tử luân hồi. Lại nữa, này thiện nam tử ! Như có bọn giặc vào tụ lạc trống rỗng này thì được an vui. Các giặc phiền não cũng lại như vậy, vào sáu nhập này thì được an vui. Như giặc trụ ở tụ lạc trống rỗng, lòng không sở úy. Bọn giặc phiền não cũng lại như vậy, trụ ở sáu nhập này cũng không sở úy, như tụ lạc trống rỗng kia mới là chỗ ở của sư tử, cọp sói… đủ thứ ác thú. Nội lục nhập này cũng lại như vậy, là chỗ trụ của tất cả ác thú mọi phiền não ác. Vậy nên Bồ tát quán sâu sáu nhập rỗng không, không sở hữu, thuần là chỗ trú của tất cả điều bất thiện. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát quan sát nội lục nhập rỗng không, không sở hữu như tụ lạc trống rỗng kia. Vì sao vậy ? Vì xử sự lừa dối chẳng thật, rỗng không  không sở hữu mà tác khởi tư tưởng “có” vậy. Thật không có vui mà tác khởi lạc tưởng, thật không có người mà tác khởi nhân tưởng. Nội lục nhập cũng lại như vậy, rỗng không không sở hữu mà tác khởi hữu tưởng, thật không có vui mà tác khởi lạc tưởng, thật không có người mà tác khởi nhân tưởng. Chỉ có người trí mới có thể biết được sự chân thật ấy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Như tụ lạc trống rỗng, hoặc khi có người, hoặc khi không có người. Sáu nhập chẳng vậy, chỉ một hướng là không người. Vì sao vậy ? Vì tính luôn rỗng không. Sự nhận biết của người trí chẳng phải là mắt thấy. Vậy nên Bồ tát quan sát nhiều những oán hại của nội lục nhập mà tu tám Thánh đạo chẳng ngưng, chẳng nghỉ, giống như người kia sợ bốn con rắn độc, năm người Chiên đà la, một  kẻ trá hiện thân thiện và sáu tên đại tặc mà mãi miết theo đường chính.

Sáu đại tặc tức là sáu trần bên ngoài (ngoại lục trần). Ðại Bồ tát quan sát sáu trần này như sáu tên đại tặc. Vì sao vậy ? Vì nó có thể cướp tất cả các thiện pháp, như sáu tên đại tặc có thể cướp tất cả của báu của nhân dân. Giặc sáu trần này cũng lại như vậy, có thể cướp tất cả của cải thiện của chúng sinh. Như sáu tên đại tặc, nếu vào nhà người thì có thể cướp đoạt sở hữu của nhà hiện có, chẳng phân biệt tốt xấu, khiến cho người cự phú bỗng nhiên thành bần cùng. Giặc lục trần này cũng lại như vậy, nếu vào căn (cơ quan) của người thì cũng có thể cướp đoạt tất cả thiện pháp. Thiện pháp đã hết thì trở nên bần cùng cô lộ, thành nhất xiển đề. Vậy nên Bồ tát quan sát chắc chắn sáu trần như sáu tên đại tặc. Lại nữa, này thiện nam tử ! Như sáu tên đại tặc khi muốn cướp đoạt của người thì cốt yếu nhờ người ở bên trong. Nếu không người bên trong thì liền trở về không. Giặc sáu trần này cũng lại như vậy, muốn cướp thiện pháp cốt nhờ bên trong có chúng sinh thấy biết tướng Thường – Lạc – Ngã – Tịnh, chẳng rỗng không.v.v… Nếu bên trong không có những tướng như vậy thì giặc ác sáu trần chẳng thể cướp được tất cả thiện pháp. Người có trí bên trong không có tướng này mà kẻ phàm phu thì có. Vậy nên sáu trần thường đến chiếm đoạt của cải thiện pháp. Vì chẳng khéo hộ trì nên kẻ phàm phu bị sự cướp đoạt ấy. Cái để hộ trì gọi là tuệ. Người có trí có thể khéo phòng hộ nên chẳng bị cướp. Vậy nên Bồ tát quán sáu trần này như sáu tên đại tặc ngang bằng không sai khác. Lại nữa, này thiện nam tử ! Như sáu tên đại tặc có thể làm cho thân tâm nhân dân khổ não. Giặc sáu trần này cũng lại như vậy, thường làm cho thân tâm chúng sinh khổ não. Sáu tên đại tặc thì chỉ có thể cướp tài vật hiện tại của con người, còn giặc sáu trần này thường cướp thiện tài của chúng sinh ba đời. Sáu tên đại tặc, ban đêm thì vui sướng. Giặc ác sáu trần này cũng lại như vậy, ở chỗ vô minh tối tăm thì được hoan lạc. Sáu tên đại tặc này chỉ có các vị vua mới có thể ngăn chận. Giặc ác sáu trần cũng lại như vậy, chỉ có Phật, Bồ tát mới có thể ngăn chận. Sáu tên đại tặc này phàm muốn cướp đoạt thì chẳng lựa chọn dòng họ, đoan chính, thông triết, đa văn, bác học, giàu sang, nghèo hèn… Giặc ác sáu trần cũng lại như vậy, muốn cướp thiện pháp cũng chẳng chọn lựa đoan chính… cho đến nghèo hèn. Sáu tên đại tặc này tuy có các vị vua chặt tay chân chúng nhưng còn chẳng thể khiến cho lòng chúng dứt được. Giặc ác sáu trần cũng lại như vậy, tuy Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm chặt tay chân chúng cũng chẳng thể khiến cho chúng chẳng cướp thiện pháp. Như người mạnh mẽ mới có thể tiêu diệt hàng phục sáu tên đại tặc này. Các đức Phật Bồ tát cũng lại như vậy, mới có thể tiêu diệt hàng phục giặc ác sáu trần. Ví như có người có nhiều những dòng họ, phe đảng đông đúc thì chẳng thể bị sự cướp đoạt của sáu tên giặc. Chúng sinh cũng vậy, có thiện tri thức thì chẳng bị sự cướp đoạt giặc ác sáu trần. Sáu tên giặc lớn này nếu thấy vật của người thì có thể trộm cướp. Giặc sáu trần chẳng vậy, nếu thấy hoặc biết, hoặc nghe, hoặc ngữi, hoặc chạm xúc, hoặc hay biết (giác) chúng đều có thể cướp. Sáu tên đại tặc thì chỉ có thể cướp đoạt của cải người Dục giới, chẳng thể cướp đoạt ở Sắc giới và Vô sắc giới. Giặc ác sáu trần thì chẳng như vậy, chúng có thể cướp đoạt tất cả thiện bảo của ba cõi. Vậy nên Bồ tát quan sát chắc chắn sáu trần quá hơn sáu tên đại tặc kia. Tạo tác sự quán tưởng này rồi, Bồ tát tu tám Thánh đạo, đi thẳng chẳng trở lại. Như người sợ kia sợ bốn con rắn độc, năm tên Chiên đà la, một kẻ trá hiện thân thiện và sáu tên đại tặc bỏ tụ lạc trống không, lặn lội trên đường mà đi.

Trên đường gặp một dòng sông thì tức là phiền não. Sao gọi là Bồ tát quán phiền não này giống như dòng sông lớn ? Như dòng sông chảy xiết đó có thể cuốn trôi con Hương tượng (một loài voi có mùi thơm). Dòng sông phiền não chảy xiết cũng lại như vậy, có thể cuốn trôi Duyên Giác. Vậy nên Bồ tát quán sâu phiền não giống như dòng sông chảy xiết. Sâu khó đến được đáy nên gọi là sông. Bờ chẳng thể đến được nên gọi là lớn. Trong sông lớn ấy có nhiều loài cá ác đủ chủng loại. Dòng sông lớn phiền não cũng lại như vậy, chỉ Phật, Bồ tát mới có thể đến được đáy nên gọi rất sâu, chỉ Phật, Bồ tát mới đến được bờ kia nên gọi là rộng lớn, thường hại tất cả chúng sinh ngu si nên gọi là cá ác. Vậy nên Bồ tát quán phiền não này giống như dòng sông lớn. Như nước dòng sông lớn có thể nuôi lớn tất cả cỏ cây, rừng rậm. Dòng sông lớn phiền não cũng lại như vậy, có thể làm lớn hai mươi lăm cõi của chúng sinh. Vậy nên Bồ tát quán phiền não này giống như dòng sông lớn. Ví như có người rơi xuống nước dòng sông lớn mà không có tàm quí (xấu hổ). Chúng sinh cũng vậy, rơi vào dòng sông phiền não mà không có tàm quí. Như người rơi vào dòng sông mà chưa đến được đáy sông liền mạng chung. Rơi vào dòng sông phiền não cũng lại như vậy, chưa đến tận đáy sông đã quay trở lại luân chuyển hai mươi lăm cõi. Cái nói rằng đáy thì gọi là tướng không. Nếu có người chẳng tu tướng không như vậy thì phải biết người này chẳng ra khỏi hai mươi lăm cõi. Tất cả chúng sinh chẳng thể khéo tu tướng không nên thường bị sự cuốn trôi của dòng sông phiền não chảy xiết. Như dòng sông lớn kia chỉ có thể hoại thân, chẳng thể cuốn trôi mất tất cả thiện pháp. Dòng sông lớn phiền não thì chẳng như vậy, có thể hoại tất cả thiện pháp của thân và tâm. Dòng sông lớn hung dữ chỉ có thể cuốn trôi, nhận chìm con người trong cõi Dục. Dòng sông lớn phiền não mới có thể cuốn trôi, nhận chìm người trời của ba cõi. Dòng sông lớn thế gian vận động tay chân thì đến bờ kia, còn dòng sông lớn phiền não  chỉ có Bồ tát nhân vào sáu Ba la mật mới có thể qua được. Như nước dòng sông lớn khó có thể qua được, dòng sông lớn phiền não cũng lại như vậy, khó có thể qua được. Sao gọi là khó có thể qua được ? Cho đến nhưng Ðại Bồ tát hàng Thập Trụ còn chưa có thể qua được rốt ráo, chỉ có các đức Phật mới qua khỏi rốt ráo. Vậy nên gọi là khó có thể qua được. Ví như có người bị sự cuốn trôi của dòng sông mà chẳng thể tu tập một chút xíu thiện pháp. Chúng sinh cũng vậy, bị sự cuốn trôi chìm mất của dòng sông phiền não thì cũng lại chẳng thể tu tập thiện pháp như người rơi xuống sông bị nước cuốn trôi, trừ người có sức thì có thể cứu vớt. Người rơi vào dòng sông phiền não làm nhất xiển đề thì Thanh Văn, Duyên Giác cho đến các đức Phật cũng chẳng thể cứu vớt. Những dòng sông lớn thế gian khi kiếp tận thì bảy mặt trời đều chiếu có thể khiến cho khô cạn. Dòng sông lớn phiền não thì chẳng như vậy, Thanh Văn, Duyên Giác tuy tu bảy giác ý nhưng còn chẳng thể làm khô cạn được. Vậy nên Bồ tát quán tưởng các phiền não giống như dòng sông hung dữ.

Ví như người kia sợ bốn con rắn độc, năm người Chiên đà la một kẻ trá hiện thân thiện  và năm tên đại tặc bỏ tụ lạc trống không, theo đường mà đi, đã đến trên dòng sông, gom cỏ làm bè. Bồ tát cũng vậy, sợ rắn bốn đại, Chiên đà la năm ấm, ái trá hiện thân thiện, tụ lạc trống không sáu nhập, giặc ác sáu trần đi đến dòng sông phiền não, tu giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, sáu Ba la mật, ba mươi bảy phẩm trợ pháp… dùng làm thuyền bè. Rồi Bồ tát nương theo bè này qua dòng sông phiền não để đi đến bờ Thường Lạc Niết Bàn kia. Bồ tát tu hành Ðại Niết Bàn thì khởi lên suy nghĩ này : “Ta, nếu chẳng thể nhẫn thọ thân khổ, tâm khổ như vậy  thì chẳng thể khiến cho tất cả chúng sinh qua khỏi dòng sông phiền não”. Do suy nghĩ này, Bồ tát tuy có thân tâm khổ não như vậy, nhưng mặc nhiên nhẫn thọ. Do nhẫn thọ nên chẳng sinh ra lậu. Bồ tát như vậy còn không có các lậu, huống là Phật Như Lai mà phải có lậu sao ? Vậy nên các đức Phật chẳng gọi là hữu lậu. Sao gọi là Như Lai chẳng phải vô lậu vậy ? Như Lai thường hành trong hữu lậu mà hữu lậu tức là hai mươi lăm cõi hữu. Vậy nên người phàm phu, Thanh Văn, nói rằng, Phật có lậu. Nhưng các đức Phật Như Lai chân thật vô lậu.

Này thiện nam tử ! Do nhân duyên này, các đức Phật Như Lai không có định tướng. Này thiện nam tử ! Vậy nên việc phạm bốn trọng cấm, bài báng Kinh Phương Ðẳng và Nhất xiển đề đều chẳng định.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương nói rằng :

– Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Ðúng như lời dạy của đức Thánh. Tất cả các pháp đều chẳng định. Vì chẳng định nên phải biết rằng, Như Lai cũng chẳng rốt ráo vào với Niết Bàn. Như trước đức Phật đã nói, Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn, nghe chẳng nghe. Trong đó có Niết Bàn, có Ðại Niết Bàn. Sao gọi là Niết Bàn? Sao gọi là Ðại Niết Bàn ?

Lúc bấy giờ, đức Phật khen Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát được niệm Tổng trì thì mới có thể hỏi han được như ông. Này thiện nam tử ! Như người đời thường nói, có biển thì có biển lớn, có sông thì có sông lớn, có núi thì có núi lớn, có đất thì có đất lớn, có thành thì có thành lớn, có chúng sinh thì có chúng sinh lớn, có vua thì có vua lớn, có người thì có người lớn, có trời thì có đấng Thiên Trung Thiên, có đạo thì có đạo lớn. Niết Bàn cũng vậy, có Niết Bàn thì có Ðại Niết Bàn. Sao gọi là Niết Bàn ? Này thiện nam tử ! Như người đói được ít cơm ăn thì gọi là an vui mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn. Như người bệnh được khỏi thì gọi là an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn. Như người sợ hãi được chỗ nương về thì được an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn. Như người nghèo cùng nhặt được vật Thất bảo thì được an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn. Như người quan sát xương khô chẳng khởi lên tham dục thì được an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn. Những Niết Bàn như vậy chẳng được gọi là Ðại Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì đói khát, bệnh, sợ, nghèo, sanh tham trước… đó gọi là Niết Bàn chẳng phải là Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Nếu người phàm phu và tất cả Thanh Văn hoặc nhân thế tục, hoặc nhân Thánh đạo đoạn được kết sử cõi Dục thì được an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn, chẳng được gọi Ðại Niết Bàn. Họ có thể đoạn những kết sử từ sơ thiền… cho đến cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ thì được an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn, chẳng được gọi là Ðại Niết Bàn. Vì sao vậy ? Vì còn trở lại sinh phiền não, có tập khí. Sao gọi là phiền não tập khí ? Thanh Văn, Duyên Giác có phiền não khí như là thân ta, áo ta, ta đi, ta lại, ta nói, ta nghe, các đức Phật Như Lai vào với Niết Bàn, tính của Niết Bàn là vô ngã, vô lạc, chỉ có thường Tịnh…. Ðó gọi là phiền não tập khí, Phật, Pháp, Tăng có tướng sai khác, Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn, Niết Bàn sở đắc của Thanh Văn, Duyên Giác, các đức Phật Như Lai bình đẳng không sai biệt…. Do nghĩa này nên sở đắc của hàng Nhị thừa chẳng phải là Ðại Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì không Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Thường – Lạc – Ngã – Tịnh mới được gọi là Ðại Niết Bàn vậy.

Này thiện nam tử ! Ví như có nơi có thể nhận mọi dòng nước gọi là biển lớn. Theo đó, có chỗ sở nhập của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, các đức Phật Như Lai thì gọi là Ðại Niết Bàn. Bốn Thiền, ba Tam muội, tám Bối xả, tám Thắng xứ, mười Nhất thiết xứ…. mà người theo có thể nhiếp lấy vô lượng những pháp thiện như vậy thì gọi là Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ví như  có dòng sông mà con hương tượng đệ nhất chẳng thể đến được đáy thì gọi là Lớn. Thanh Văn, Duyên Giác đến Bồ tát Thập Trụ chẳng thấy Phật tính gọi là Niết Bàn, chẳng phải là Ðại Niết Bàn. nếu có thể thấy tỏ rõ Phật tính thì được gọi là Ðại Niết Bàn. Ðại Niết Bàn này chỉ Ðại Tượng vương có thể tận cùng được đáy. Ðại Tượng vương là gọi các đức Phật vậy. Này thiện nam tử ! Như Ðại Na Dà và Bát Kiền Ðà mà đại lực sĩ.v.v… trải qua nhiều thời gian mà chẳng thể lên đến đỉnh thì mới gọi là núi lớn. Ðại na dà Thanh Văn, Duyên Giác và các Bồ tát mà đại lực sĩ.v.v… chẳng thể thấy thì như vậy mới gọi là Ðại Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử ! Tùy theo, có chỗ sở trụ của tiểu vương thì gọi là thành nhỏ, chỗ sở trụ của Chuyển Luân Thánh Vương mới gọi là thành lớn. Trụ cứ của Thanh Văn, Duyên Giác tám vạn, sáu vạn, bốn vạn hai vạn, một vạn thì gọi là Niết Bàn. Chỗ trụ của đấng Vô thượng Pháp Chủ Thánh Vương mới được gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Do vậy, nên gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ví như có người thấy bốn thứ binh chẳng sinh kinh sợ thì phải biết người đó gọi là đại chúng sinh. Nếu có chúng sanh  đối với nghiệp ác phiền não của ba đường ác, chẳng sinh ra sợ hãi mà có thể ở trong đó rộng độ chúng sinh thì phải biết người đó được Ðại Niết Bàn. Nếu có người có thể cúng dường cha mẹ, cung kính Sa môn và Bà la môn, sửa trị thiện pháp, lời nói thành thật, không có lừa dối, có thể nhẫn nhịn các ác, huệ thí nghèo thiếu… thì gọi là Ðại Trượng Phu. Bồ tát cũng vậy, có đại từ bi, thương xót tất cả, đối với các chúng sinh  giống như cha mẹ, có thể đưa chúng sinh qua khỏi dòng sông sinh tử, khắp bày ra cho chúng sinh đạo Nhất thật. Ðó gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ðại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu chẳng thể nghĩ bàn là điều chẳng thể tin của tất cả chúng sinh thì đó gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Chỉ là sở kiến của Phật, Bồ tát nên gọi là Ðại Niết Bàn. Do nhân duyên gì lại gọi là Ðại ? Do vô lượng nhân duyên, nhiên hậu mới được nên gọi là Ðại. Này thiện nam tử ! Như sở đắc của người thế gian do nhiều nhân duyên thì gọi là Ðại (lớn). Niết Bàn cũng vậy, sở đắc do nhiều nhân duyên nên gọi là Ðại. Sao lại gọi là Ðại Niết Bàn? Có Ðại Ngã nên gọi là Ðại Niết Bàn, còn Niết Bàn thì vô ngã. Có Ðại tự tại nên gọi là Ðại Ngã. Sao gọi là Ðại tự tại vậy? Có tám tự tại thì gọi là Ngã. Những gì là tám ? Một là có thể thị hiện một thân lấy làm nhiều thân. Số thân lớn nhỏ giống như vi trần tràn đầy mười phương vô lượng thế giới. Thân Như Lai thật chẳng phải vi trần, do tự tại nên hiện thân vi trần. Như vậy tự tại tức là Ðại ngã. Hai là thị hiện một thân vi trần đầy ở ba ngàn đại thiên thế giới. Thân Như Lai thật chẳng đầy ở ba ngàn đại thiên thế giới. Vì sao vậy ? Vì do vô ngại, những do tự tại nên đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Như vậy Tự tại gọi là Ðại Ngã. Ba là có thể dùng thân đầy ba ngàn đại thiên thế giới này nhẹ nhàng cất lên bay vào hư không đi qua những thế giới Phật nhiều bằng hai mươi lần cát sông Hằng mà không ngăn ngại. Thân Như Lai thật không nặng, nhẹ, do tự tại nên có thể làm nặng, nhẹ. Như vậy tự tại gọi là Ðại Ngã. Bốn là do tự tại nên được tự tại. Sao gọi là tự tại ? Như Lai một lòng an trụ chẳng động mà đã có thể thị hiện hóa ra vô lượng hình loại đều khiến cho chúng có tâm. Như Lai có khi, hoặc tạo ra một việc mà khiến cho chúng sinh mỗi mỗi đều biện thành. Thân Như Lai thường trụ ở một cõi mà khiến cho cõi khác, tất cả đều thấy. Như vậy Tự tại gọi là Ðại Ngã. Năm là Căn tự tại. Sao gọi là Căn tự tại vậy? Một căn của Như Lai cũng có thể thấy sắc, nghe tiếng, ngửi hương, phân biệt vị, giác xúc, biết pháp. Sáu căn của Như Lai cũng chẳng thấy sắc, nghe tiếng, ngữi hương, phân biệt vị, giác xúc, biết pháp. Do tự tại nên khiến cho căn tự tại. Như vậy Tự tại gọi là Ðại Ngã. Sáu là do tự tại nên được tất cả pháp. Tâm Như Lai cũng không được tưởng. Vì sao vậy ? Vì không sở đắc vậy. Nếu là có thì có thể gọi là được (đắc), nhưng thật ra không sở hữu. Sao gọi là được ? Nếu giả sử Như Lai kể là có được tưởng thì tức là các đức Phật chẳng được Niết Bàn. Do không được nên gọi là được Niết Bàn. Do tự tại nên được tất cả pháp mà được các pháp nên gọi là Ðại Ngã. Bảy là nói tự tại nên Như Lai diễn nói ý nghĩa một bài kệ trải qua vô lượng kiếp mà ý nghĩa cũng chẳng thể hết. Ðó là như giới, hoặc định, hoặc thí, hoặc tuệ… Như Lai bấy giờ đều chẳng phát ý niệm, ta nói người kia nghe, cũng lại chẳng sinh ý tưởng về một bài kệ. Theo người thế gian thì bốn câu là một bài kệ, Như Lai theo thế tục nói ra nên gọi là kệ. Tất cả pháp tánh cũng không có điều để nói nhưng do tự tại nên Như Lai diễn nói. Do diễn nói nên gọi là Ðại Ngã. Tám là Như Lai cùng khắp tất cả mọi nơi giống như hư không. Tính hư không chẳng thể được thấy. Như Lai cũng vậy, chẳng thể thấy. Do tự tại nên khiến cho tất cả thấy. Như vậy tự tại gọi là Ðại Ngã. Như vậy Ðại Ngã gọi là Ðại Niết Bàn. Do ý nghĩa này nên gọi là Ðại Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như bảo tàng với nhiều những đồ trân quí kỳ lạ, hàng trăm thứ đầy đủ nên gọi là đại tạng. Tạng rất thâm áo của các đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, nhiều những thứ kỳ lạ, đầy đủ không khiếm khuyết nên gọi là Ðại Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử ! Vật vô biên mới gọi là đại. Niết Bàn vô biên, vậy nên gọi là đại. Lại nữa, này thiện nam tử ! Có đại lạc nên gọi là Ðại Niết Bàn, còn Niết Bàn thì không lạc. Do bốn thứ lạc nên gọi là Ðại Niết Bàn. Những gì là bốn ? Một là đoạn dứt những niềm vui (lạc). Chẳng đoạn dứt vui thì tức là khổ mà nếu có khổ thì chẳng gọi là đại lạc (vui lớn). Do đoạn dứt vui thì không có khổ mà không khổ, không lạc mới gọi là Ðại Lạc. Tính của Niết Bàn không khổ, không lạc. Vậy nên Niết Bàn gọi là Ðại Lạc. Do nghĩa này nên gọi là Ðại Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử ! Lạc có hai thứ, một là lạc của phàm phu, hai là lạc của chư Phật. Lạc của phàm phu thì vô thường, bại hoại. Vậy nên không có lạc. Chư Phật thì thường lạc không có biến dị nên gọi là Ðại Lạc. Lại nữa, này thiện nam tử ! Có ba thứ thọ, một là khổ thọ, hai là lạc thọ, ba là bất khổ bất lạc thọ. Chẳng khổ chẳng vui cũng là khổ. Niết Bàn tuy đồng chẳng khổ, chẳng vui, nhưng gọi là Ðại Lạc. Do Ðại Lạc nên gọi là Ðại Niết Bàn. Hai là Ðại Tịch Tịnh nên gọi là Ðại Lạc. Tính Niết Bàn là Ðại Tịch Tịnh. Vì sao vậy? Vì xa lìa tất cả pháp rối loạn, ồn ào. Do Ðại Tịch Tịnh nên gọi là Ðại Niết Bàn. Ba là biết tất cả nên gọi là Ðại Lạc. Chẳng phải biết tất cả thì chẳng gọi là Ðại Lạc. Các đức Phật Như Lai biết tất cả nên gọi là Ðại Lạc. Do Ðại Lạc nên gọi là Ðại Niết Bàn. Bốn là thân chẳng hoại nên gọi là Ðại Lạc. Thân nếu có thể hoại thì chẳng gọi là Lạc. Thân của Như Lai là thân Kim Cương không hoại, chẳng phải là thân phiền não, là thân vô thường nên gọi là Ðại Lạc. Do Ðại Lạc nên gọi là Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Danh tự (tên) của thế gian, hoặc có nhân duyên, hoặc không nhân duyên. Có nhân duyên là như ông Xá Lợi Phất có mẹ tên là Xá Lợi rồi nhân tên mẹ đặt tên con nên gọi là Xá Lợi Phất. Như đạo nhân Ma Du La sinh ra ở nước Ma Du La, rồi nhân nước mà đặt tên nên gọi là đạo nhân Ma Du La. Như ông Mục Kiền Liên, Mục Kiền Liên tức là họ, rồi nhân họ đặt tên nên gọi là Mục Kiền Liên. Như ta sinh ra ở dòng họ Cù Ðàm, rồi nhân họ đặt tên, xưng là Cù Ðàm. Như đạo nhân Tỳ Xá Khư, Tỳ Xá Khư tức là tên một vì sao. Nhân lấy sao làm tên nên gọi là Tỳ Xá Khư. Như tay có sáu ngón, nhân sáu ngón nên gọi là người sáu ngón. Như kẻ làm tôi cho Phật, làm tôi cho trời, nhân Phật, nhân trời nên gọi kẻ đó là Phật nô, Thiên nô. Nhân ẩm thấp sinh ra nên gọi là thấp sinh. Như nhân âm thanh nên tên là Ca Ca La, tên Cứu Cứu La, Ðán Ðán La. Những tên như vậy.v.v… gọi là tên nhân duyên. Tên không nhân duyên là như : hoa sen, đất nước, lửa, gió, hư không. Như Mạn Ðà Bà thì một là tên, hai là thật. Một là gọi điện đường, hai là gọi nước uống. Nhà chẳng uống nước cũng lại được gọi là Mạn Ðà Bà. Như Tát Ba Xa Ða tên là Xà Cái mà thật chẳng phải là xà cái. Ðó gọi là tên không nhân duyên mà chỉ cưỡng đặt tên gọi. Như Ðể La Bà Di tên là Thực Du nhưng thật ra chẳng ăn dầu, chỉ là khiên cưỡng đặt tên gọi là Thực Du. Ðó gọi là áp đặt tên gọi không có nhân duyên. Này thiện nam tử ! Ðại Niết Bàn này cũng lại như vậy, không có nhân duyên mà là áp đặt tên gọi. Này thiện nam tử ! Ví như hư không chẳng nhân cái tiểu không mà gọi là đại vậy. Niết Bàn cũng thế, chẳng nhân tiểu tướng mà gọi Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ví như có pháp chẳng thể xưng lường, chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là đại (lớn). Niết Bàn cũng vậy, chẳng thể xưng lường, chẳng thể nghĩ bàn nên  được gọi là Ðại bát Niết Bàn. Do thuần tịnh nên gọi là Ðại Niết Bàn. Sao gọi là thuần tịnh ? Tịnh có bốn thứ ? Những gì là bốn ? Một là hai mươi lăm cõi hữu gọi là bất tịnh mà có thể vĩnh viễn đoạn tuyệt nên được gọi là tịnh. Tịnh tức là Niết Bàn mà Niết Bàn như vậy cũng được gọi là có. Nhưng Niết Bàn này thật chẳng phải là có. Các đức Phật Như Lai theo thế tục nên nói Niết Bàn có. Ví như người đời, chẳng phải cha mà nói rằng cha, chẳng phải mẹ mà nói rằng mẹ. Thật chẳng phải là cha mẹ mà nói rằng cha mẹ. Niết Bàn cũng vậy, theo thế tục nên chư Phật nói rằng, có Ðại Niết Bàn. Hai là Nghiệp thanh tịnh. Nghiệp của tất cả phàm phu chẳng thanh tịnh nên không Niết Bàn. Nghiệp của các đức Phật Như Lai thanh tịnh nên gọi là Ðại tịnh. Do Ðại tịnh nên gọi là Ðại Niết Bàn. Ba là thân thanh tịnh. Thân nếu vô thường thì gọi là bất tịnh. Thân Như Lai thường nên gọi là Ðại tịnh. Do đại tịnh nên gọi là Ðại Niết Bàn. Bốn là tâm thanh tịnh. Tâm nếu có lậu thì gọi là bất tịnh. Tâm Phật vô lậu nên gọi là đại tịnh. Do đại tịnh nên gọi là Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân tu hành Kinh Ðại Niết Bàn như vậy thì thành tựu đầy đủ công đức phân đầu.

**********

– Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thành tựu công đức thứ hai đầy đủ ? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thì cái xưa chẳng được mà nay được, cái xưa chẳng thấy mà nay thấy, cái xưa chẳng nghe mà nay nghe, cái xưa chẳng đến mà nay đến, cái xưa chẳng biết mà nay biết. Sao gọi là cái xưa chẳng được mà nay được ? Ðó là thần thông, cái xưa chẳng được mà nay mới được. Thần thông có hai thứ, môt là nội, hai là ngoại. Cái gọi là ngoại thì cùng chung với ngoại đạo. Nội lại có hai, một là thần thông của Nhị thừa, hai là thần thông của Bồ tát. Thần thông sở đắc của Bồ tát tu hành Kinh Ðại Niết Bàn chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật. Sao gọi là chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật ? Sự tạo tác biến hóa thần thông của Nhị thừa là một tâm chỉ làm ra một, chẳng làm được nhiều. Bồ tát chẳng vậy, ở trong một tâm thì có thể hiện đầy đủ thân năm đưòng. Sở dĩ vì sao ? Vì do thế lực của Kinh Ðại Niết Bàn như vậy. Ðó gọi là cái xưa chẳng được mà nay được. Lại nữa, sao gọi là cái xưa chẳng được mà nay được? Ðó là thân được tự tại, tâm được tự tại. Vì sao vậy ? Vì việc có thân tâm của tất cả phàm phu chẳng được tự tại mà hoặc tâm theo thân, hoặc thân theo tâm. Sao gọi là tâm theo thân ? Ví như người say thì rượu ở trong thân, bấy giờ thân động thì tâm cũng động theo. Cũng như thân lười thì tâm cũng lười theo. Ðó gọi là tâm theo thân. Lại như, đứa trẻ con, thân nó trẻ nhỏ thì tâm cũng nhỏ theo, còn người lớn thì thân lớn nên tâm cũng lớn theo. Lại như có người, thân thể thô ráp, lòng thường suy nghĩ muốn được dầu mỡ thấm nhuần làm cho mềm mại. Ðó gọi là tâm tùy theo thân. Sao gọi là thân tùy theo tâm. Ðó là đi, lại, ngồi, nằm, tu hành Thí, Giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn. Thân người sầu não thì gầy còm, tiều tụy. Thân người hoan hỷ béo mập, tươi tốt. Thân thể người kinh sợ run rẩy, chao động. Người chuyên tâm nghe pháp thì thân tươi vui. Người buồn khổ thì nước mắt tuông rơi. Ðó gọi là thân tùy theo tâm. Bồ tát chẳng vậy, ở trong thân tâm đều được tự tại. Ðó gọi là cái xưa chẳng được mà nay được. Lại nữa, này thiện nam tử ! Thân tướng thị hiện của Ðại Bồ tát giống như vi trần. Do thân vi trần này nên đều có thể đến khắp vô lượng vô biên những thế giới Phật nhiều như cát sông Hằng, không có sự ngăn ngại mà tâm thường định chỗ ban đầu chẳng di động. Ðó gọi là tâm chẳng tùy theo thân. Ðó cũng gọi là cái xưa chẳng đến mà nay có thể đến. Tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v… đã chẳng thể đến, còn Bồ tát thì có thể đến (đáo). Vậy nên gọi là cái xưa chẳng đến mà nay có thể đến. Tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v… tuy dùng thần thông nhưng chẳng thể biến thân nhỏ như vi trần đến khắp vô lượng những thế giới Phật nhiều như cát sông Hằng. Thân của Thanh Văn, Duyên Giác nếu khi động thì tâm cũng động theo. Bồ tát chẳng vậy, tâm tuy chẳng động nhưng thân thì không đâu chẳng đến. Ðó gọi là tâm Bồ tát chẳng tùy theo thân. Lại nữa, này thiện nam tử ! Bồ tát hóa thân giống như ba ngàn đại thiên thế giới, rồi dùng thân lớn này vào một thân vi trần mà lòng Bồ tát ấy, bấy giờ cũng chẳng nhỏ theo. Thanh Văn, Duyên Giác tuy có thể hóa thân khiến cho lớn như ba ngàn đại thiên thế giới nhưng  mà chẳng thể dùng thân lớn này vào thân vi trần. Ở trong việc này còn tự chẳng thể được, huống là có thể khiến cho tâm chẳng động theo. Ðó gọi là tâm Bồ tát chẳng tùy theo thân. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát dùng một âm thanh có thể khiến cho chúng sinh của ba ngàn đại thiên thế giới đều nghe mà tâm chẳng nghĩ, làm cho âm thanh này khắp các thế giới, khiến cho điều các chúng sinh xưa chẳng nghe mà nay được nghe. Bồ tát này ban đầu cũng chẳng nói rằng, ta khiến cho chúng sinh, cái xưa chẳng nghe mà nay được nghe. Bồ tát, nếu nói rằng, nhân ta nói pháp nên khiến cho các chúng sinh chẳng nghe được nghe, thì phải biết người này nhất định chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì sao vậy ? Vì tất cả chúng sinh chẳng nghe ta là người nói. Như tâm này là tâm sinh tử thì tất cả Bồ tát tâm đó đã hết. Do nghĩa này nên thân tâm sở hữu của Ðại Bồ tát chẳng theo đuổi nhau. Này thiện nam tử ! Thân tâm của tất cả phàm phu theo nhau. Bồ tát chẳng vậy, vì hóa độ chúng sinh nên tuy hiện thân nhỏ nhưng tâm cũng chẳng nhỏ. Vì sao vậy ? Vì tâm tính sở hữu của các Bồ tát… thường rộng lớn nên tuy hiện thân lớn nhưng tâm cũng chẳng lớn. Sao gọi là thân lớn ? Thân như ba ngàn đại thiên thế giới. Sao gọi là tâm nhỏ ? Làm hành động trẻ con. Do nghĩa này nên tâm chẳng tùy theo thân. Ðại Bồ tát đã ở vô lượng atăngkỳ kiếp xa rượu chẳng uống mà tâm cũng động, lòng không bi khổ mà thân cũng chảy nước mắt, thật không kinh sợ mà thân cũng run lẩy bẩy. Do nghĩa này nên phải biết là, thân tâm của Bồ tát tự tại chẳng theo đuổi nhau. Ðại Bồ tát chỉ hiện một thân mà các chúng sinh mỗi mỗi đều thấy khác. Lại nữa, này thiện nam tử! Sao gọi là Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thì điều xưa chẳng nghe mà nay được nghe ? Ðại Bồ tát trước tiên chọn lấy tướng của tiếng như là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng người, tiếng ốc, tiếng trống, tiếng tiêu, tiếng địch (sáo), tiếng ca, tiếng khóc.v.v.. mà tu tập. Do tu tập nên Bồ tát có thể nghe âm thanh của địa ngục sẵn có trong ba ngàn đại thiên thế giới. Bồ tát lại tu tập chuyển đổi được nhĩ căn khác, khác với tai của Thanh Văn, Duyên Giác và trời. Vì sao vậy ? Vì nhĩ căn thanh tịnh sở đắc của Nhị thừa nếu vương vào bốn đại tịnh diệu của sơ thiền thì chỉ nghe sơ thiền, chẳng nghe Nhị thiền cho đến Tứ thiền cũng lại như vậy. Họ tuy có thể cùng một lúc được nghe âm thanh sở hữu của ba ngàn đại thiên thế giới mà chẳng thể nghe được âm thanh của vô lượng vô biên hằng hà sa số thế giới. Do nghĩa này nên sở đắc của Bồ tát khác với nhĩ căn của Thanh Văn, Duyên Giác. Do sự khác này nên điều xưa chẳng nghe mà nay được nghe, tuy nghe âm thanh mà lòng bắt đầu không nghe tướng của âm thanh, chẳng tạo tác tướng có, tướng thường, tướng lạc, tướng ngã, tướng tịnh, tướng chủ, tướng y (nương), tướng tác, tướng nhân, tướng định, tướng quả. Do nghĩa này nên các Bồ tát.v.v… điều xưa chẳng nghe mà nay được nghe.

Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương thưa rằng :

– Như lời đức Phật nói, chẳng tạo tác tướng định, chẳng tạo tác tướng quả thì ý nghĩa này chẳng đúng vậy ! Vì sao vậy ? Vì đức Như Lai trước đã nói rằng, nếu ngươi chưa nghe được một câu, một chữ của Kinh Ðại Niết Bàn này thì nhất định được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðức Như Lai hôm nay sao lại nói rằng, không định, không quả ? Nếu được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì tức là định tướng, tức là quả tướng thì sao mà nói rằng, không định, không quả ? Nghe tiếng ác thì sinh tâm ác. Sinh tâm ác thì đến tam đồ. Nếu đến tam đồ tức là định là quả thì sao nói rằng, không định không quả ?

Lúc bấy giờ, đức Như Lai khen rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông mới có thể hỏi câu hỏi này ! Nếu giả sử, các đức Phật nói rằng, các âm thanh có tướng định quả, thì chẳng phải là tướng của các đức Phật Thế Tôn mà là tướng ma vương, tướng sinh tử, tướng xa Niết Bàn. Vì sao vậy ? Vì phàm là sự diễn nói của tất cả các đức Phật thì không có tướng định, quả. Này thiện nam tử! Ví như trong lưỡi dao soi dáng mặt người, dựng đứng dao thì thấy mặt người dài, cầm ngang dao thì thấy mặt người rộng. Nếu có tướng định thì sao mà dựng đứng thì thấy dài, cầm ngang thì thấy rộng ? Do nghĩa này nên phàm sự diễn nói của các đức Phật Thế Tôn không có tướng định, quả. Này thiện nam tử ! Luận về Niết Bàn thì chân thật chẳng phải là kết quả của âm thanh. Nếu giả sử Niết Bàn là kết quả của âm thanh thì phải biết Niết Bàn chẳng phải là Thường pháp. Này thiện nam tử ! Ví như thế gian, từ nhân duyên sinh ra pháp, có nhân thì có quả, không nhân thì không quả. Nhân vô thường nên quả cũng vô thường. Sở dĩ vì sao ? Vì nhân cũng làm ra quả mà quả cũng làm ra nhân. Do nghĩa này nên tất cả các pháp không có định tướng. Nếu giả sử Niết Bàn từ nhân sinh ra mà nhân vô thường thì quả cũng vô thường. Nhưng Niết Bàn này chẳng từ nhân sinh ra nên thể của Niết Bàn này chẳng phải là quả. Vậy nên Niết Bàn này là thường. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên thể của Niết Bàn không định không quả. Này thiện nam tử ! Luận về Niết Bàn thì cũng có thể nói định, cũng có thể nói quả. Sao gọi là định ? Niết Bàn Thường – Lạc – Ngã – Tịnh là sở hữu của tất cả các đức Phật. Vậy nên là định. Niết Bàn không sinh, lão, hoại. Vậy nên là định. Nhất xiển đề, những kẻ phạm bốn trọng cấm, bài báng Phương Ðẳng tạo tác tội ngũ nghịch mà trừ bỏ bản tâm thì nhất định được Niết Bàn. Vậy nên là định ! Này thiện nam tử ! Như lời ông nói, nếu người nghe ta nói một chữ, một câu của Ðại Niết Bàn thì được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ông đối với nghĩa lời nói này còn chưa giải rõ. Ông hãy lắng nghe ! Ta sẽ vì ông lại phân biệt ! Này thiện nam tử ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe một chữ, một câu của Kinh Ðại Niết Bàn mà chẳng tác khởi tướng chữ, chẳng tác khởi tướng câu, chẳng tác khởi tướng nghe, chẳng tác khởi tướng Phật, chẳng tác khởi tướng nói… Nghĩa như vậy thì gọi là tướng Vô tướng. Do tướng vô tướng nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Như lời ông nói, nghe tiếng ác nên đến ba đường, thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy ? Vì chẳng phải do tiếng ác mà đến ba đường. Ông phải biết, kết quả này chính là do tâm ác. Sở dĩ vì sao ? Vì có thiện nam tử, thiện nữ nhân.v.v… tuy nghe tiếng ác nhưng tâm chẳng sinh ra ác. Vậy nên ông phải rằng, chẳng phải nhân tiếng ác mà sinh ra trong ba đường. Các chúng sinh nhân phiền não kết, tâm ác nhiều thêm nên sinh ba đường ác, chẳng phải nhân tiếng ác. Nếu tiếng có định tướng thì những người có nghe đều ứng sinh ra tâm ác, nhưng lại có người sinh, có không sinh. Vậy nên phải biết rằng, tiếng không có định tướng, tuy lại nhân vào đó nhưng chẳng sinh ra ác tâm.

– Thưa đức Thế Tôn ! Tiếng nếu không định thì vì sao điều Bồ tát xưa chẳng nghe mà nay được nghe ?

– Này thiện nam tử ! Tiếng không định tưởng. Ðiều xưa chẳng nghe mà khiến cho các Bồ tát nay được nghe. Do nghĩa này nên ta nói lời này, điều xưa chẳng nghe mà nay được nghe. Này thiện nam tử ! Sao gọi là cái xưa chẳng thấy mà nay được thấy ? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu tập Kinh Ðại Niết Bàn vi diệu thì trước tiên chọn lấy tướng ánh sáng như là ánh sáng mặt trời, mặt trăng, tinh tú, lửa sân nhà (đình liệu) đèn, đuốc, hỏa châu, dược thảo.v.v… Do tu tập nên được nhãn căn khác, khác với sở đắc của Thanh Văn, Duyên Giác. Những gì là khác ? Thiên nhãn thanh tịnh sở đắc của hàng Nhị thừa, nếu nương vào Nhãn căn bốn đại của Dục giới thì chẳng thấy sơ thiền, nếu nương sơ thiền thì chẳng thấy đất cõi trên, thậm chí mắt mình còn chẳng thể thấy, như muốn thấy nhiều, đến cùng cực ba ngàn đại thiên thế giới. Ðại Bồ tát chẳng tu thiên nhãn, thấy sắc thân đẹp đều là tướng xương. Bồ tát tuy thấy sắc tướng của hằng hà sa số thế giới ở phương khác nhưng chẳng tác khởi sắc tướng, chẳng tác khởi thường tướng, hữu tướng, vật tướng, danh tự tướng, tướng tạo tác nhân duyên.v.v.. Chẳng tác khởi tướng thấy, chẳng nói rằng, tướng mắt vi diệu thanh tịnh mà chỉ thấy tướng nhân duyên chẳng phải nhân duyên. Sao gọi là nhân duyên ? Sắc là duyên của mắt. Nếu giả sử sắc này chẳng phải nhân duyên thì tất cả phàm phu chẳng ứng sinh ra tướng thấy sắc. Do nghĩa này nên sắc gọi là nhân duyên. Chẳng phải nhân duyên là Ðại Bồ tát tuy lại thấy sắc nhưng chẳng sinh ra sắc tướng. Vậy nên chẳng phải là duyên. Do nghĩa này nên thiên nhãn thanh tịnh sở đắc của Bồ tát khác với sở đắc của Thanh Văn, Duyên Giác. Do sự khác này nên cùng một lúc thấy khắp các đức Phật hiện tại của mười phương thế giới. Ðó gọi là điều xưa Bồ tát chẳng thấy mà nay được thấy. Do sự khác này nên có thể thấy vi trần, cái mà Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể thấy. Do sự khác này nên tuy thấy nhưng mắt mình đầu tiên không thấy tướng, thấy tướng vô thường, thấy thân phàm phu tràn đầy ba mươi sáu vật bất tịnh như xem quả A ma lạc trong lòng bàn tay. Do nghĩa này nên nói điều xưa chẳng thấy mà nay được thấy. Nếu thấy sắc tướng sở hữu của chúng sinh thì biết căn người ấy đại thừa hay tiểu thừa. Nếu chạm vào áo cũng biết các căn sai biệt thiện, ác của người đó. Do nghĩa này nên nói, điều xưa chẳng biết mà nay được biết. Do sự biết này nên điều xưa chẳng biết mà nay được biết. Do sự biết này nên điều xưa chẳng thấy mà nay được thấy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao gọi là điều xưa Bồ tát chẳng biết mà nay được biết ? Ðại Bồ tát tuy biết lòng của phàm phu tham, sân, si nhưng ban đầu chẳng tác khởi tướng tâm và tâm số, chẳng tác khởi tướng chúng sinh và cả tướng vật, tu Ðệ nhất nghĩa rốt ráo không tướng. Vì sao vậy ? Vì tất cả Bồ tát thường khéo tu tập tướng không tính. Do tu tập “không” nên điều xưa chẳng biết mà nay được biết. Sao gọi là biết ? Biết không có ngã, không có ngã sở, biết các chúng sinh đều có Phật tính. Do Phật tính nên Nhất xiển đề.v.v… lìa bỏ bản tâm thì đều sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Những điều này đều là điều chẳng thể biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Do nghĩa này nên nói, điều xưa chẳng biết mà nay được biết. Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao gọi là điều xưa chẳng biết mà nay được biết ? Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu, nghĩ đến đời sống, dòng họ, cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, bạn bè, oán ghét của tất cả chúng sinh đời quá khứ. Ở trong một niệm được trí khác lạ, khác với trí tuệ của Thanh Văn, Duyên Giác. Sao gọi là khác ? Trí tuệ sở hữu của Thanh Văn, Duyên Giác nghĩ đến dòng họ, cha mẹ… cho đến kẻ oán ghét của chúng sinh sở hữu trong đời quá khứ mà tác khởi tướng chủng tính…. cho đến tướng oán ghét. Bồ tát chẳng vậy, tuy nghĩ đến dòng họ, cha mẹ… cho đến kẻ oán ghét ở đời quá khứ nhưng nhất định chẳng sinh ra tướng dòng họ, tướng cha mẹ… tướng oán ghét.v.v… thường tác khởi pháp tướng, tướng không tịch. Ðó gọi là điều xưa Bồ tát chẳng biết mà nay được biết. Lại nữa, này thiện nam tử! Sao gọi là điều xưa chẳng biết mà nay được biết ? Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu được trí Tha Tâm (trí biết tâm người khác) khác với sở đắc của Thanh Văn, Duyên Giác. Sao gọi là khác ? Khi Thanh Văn, Duyên Giác dùng một niệm trí để biết lòng người thì chẳng thể biết tâm của địa ngục, súc sinh, ngã quỉ và trời. Bồ tát chẳng vậy, ở trong một niệm biết khắp lòng của chúng sinh trong sáu đường. Ðó gọi là điều xưa Bồ tát chẳng biết mà nay được biết. Lại nữa, này thiện nam tử ! Lại có sự biết khác. Ðại Bồ tát ở trong một tâm, biết từ tâm đầu tiên của Tu đà hoàn, rồi lần lượt đến mười sáu tâm. Do nghĩa này nên nói, điều xưa chẳng biết mà nay được biết. Ðó là Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thành tựu đầy đủ công đức thứ hai.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thành tựu đầy đủ công đức thứ ba ? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn bỏ Từ được Từ (Từ Bi), khi được Từ chẳng Từ nhân duyên. Sao gọi là bỏ Từ được Từ ? Này thiện nam tử ! Từ là gọi thế đế. Ðại Bồ tát bỏ Từ thế đế, được đệ nhất nghĩa từ. Ðệ nhất nghĩa Từ chẳng từ duyên mà được. Lại nữa, sao gọi là bỏ Từ được Từ ? Từ nếu có thể bỏ thì gọi là Từ phàm phu. Từ nếu có thể được thì tức là Từ không duyên của Bồ tát. Bỏ Từ nhất xiển đề, Từ phạm trọng cấm, Từ bài báng Phương Ðẳng, Từ tạo ngũ nghịch để được Từ lân mẫn, được Từ Như Lai, Từ Thế Tôn, Từ không nhân duyên. Sao lại gọi là bỏ Từ được Từ. Bỏ Từ của bọn Huỳnh môn, Từ của người không căn, người hai căn, người nữ, Từ của đồ tể, thợ săn, người nuôi dưỡng gà, heo.v.v… cũng bỏ Từ của Thanh Văn, Bích Chi Phật để được Từ không nhân duyên của những Bồ tát. Hành giả chẳng thấy Từ của mình, chẳng thấy từ của người khác, chẳng thấy trì giới, chẳng thấy phá giới. Tuy tự thấy “bi” nhưng chẳng thấy chúng sinh. Tuy có khổ thọ nhưng chẳng thấy người thọ. Vì sao vậy ? Vì do tu Ðệ nhất chân thật nghĩa. Ðó gọi là Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thành tựu đầy đủ công đức thứ ba.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thành tựu đầy đủ công đức thứ tư? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thành tựu đầy đủ công đức thứ tư thì có mười việc. Những gì là mười ? Một là rễ (căn) sâu khó có thể nhổ bật. Hai là tự thân sinh quyết định tưởng. Ba là chẳng quan sát phước điền và chẳng phải phước điền. Bốn là tu cõi Phật thanh tịnh. Năm là diệt trừ “hữu dư”. Sáu là đoạn trừ nghiệp duyên. Bảy là tu thân thanh tịnh. Tám là rõ biết các duyên. Chín là lìa các oán địch. Mười là đoạn trừ nhị biên. Sao gọi là rễ sâu khó nhổ bật. Cái gọi là rễ (căn) tức là gọi chẳng phóng dật. Chẳng phóng dật là căn gì ? Ðó là căn của Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Những căn bản thiện của tất cả chư Phật đều là chẳng phóng dật. Chẳng phóng dật nên các thiện căn khác đắp đổi thêm lớn. Do nó có thể làm tăng trưởng các thiện căn nên ở trong các thiện, là tối thù thắng. Này thiện nam tử ! Như trong các dấu chân thì dấu chân voi là trên hết. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, đối với các thiện pháp là tối thù thắng. Này thiện nam tử ! Như trong các ánh sáng thì ánh sáng mặt trời là trên hết. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, đối với các thiện pháp là tối thù thắng. Này thiện nam tử ! Như trong các vì vua thì vua Chuyển Luân Thánh là tối đệ nhất. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, đối với các pháp thiện là tối đệ nhất. Này thiện nam tử ! Như trong các dòng chảy thì bốn dòng sông là trên hết. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, đối với các pháp thiện là trên hết. Này thiện nam tử ! Như trong các núi thì núi vua Tu Di là tối đệ nhất. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, đối với các pháp thiện là tối đệ nhất. Này thiện nam tử ! Như trong loài hoa sinh trong nước thì hoa sen xanh là trên hết. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, đối với các pháp thiện là trên hết. Này thiện nam tử ! Như trong loài hoa sinh trên đất thì hoa Bà Lợi Sư là tối thượng. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, đối với các pháp thiện là tối thượng. Này thiện nam tử ! Như trong các loài thú thì sư tử là trên hết. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, đối với các thiện pháp là tối thượng. Này thiện nam tử ! Như trong loài chim bay thì vua chim cánh vàng là tối thượng. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, đối với các thiện pháp là tối thượng. Này thiện nam tử ! Như trong loài thân lớn thì vua A tu la La Hầu là tối thượng. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, đối với các thiện pháp là tối thượng. Này thiện nam tử ! Như trong tất cả chúng sinh, hoặc loài hai chân, bốn chân, nhiều chân hay không không chân thì Như Lai là trên hết. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, ở trong các thiện pháp là tối thượng. Này thiện nam tử ! Như trong các chúng thì Phật, Tăng là trên. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, ở trong các thiện pháp là tối thượng. Này thiện nam tử ! Như trong Phật pháp thì pháp Ðại Niết Bàn này là tối thượng. Pháp chẳng phóng dật cũng lại như vậy, đối với các pháp thiện, là tối thượng. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên rễ (căn) chẳng phóng dật thâm sâu, bền chắc khó bứng lên được. Sao gọi là chẳng phóng dật mà được tăng trưởng? Như là tín căn, giới căn, thí căn, tuệ căn, nhẫn căn, văn (nghe) căn, tấn căn, niệm căn, định căn, thiện tri thức căn… Những căn như vậy mà chẳng phóng dật thì được tăng trưởng. Do chúng tăng trưởng nên thâm sâu bền chắc khó bứng lên được. Do nghĩa này nên gọi là Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thì căn thâm sâu khó bứng lên được.

Sao gọi là đối với thân tạo tác quyết định tưởng? Ðối với tự thân đã sinh tâm quyết định rằng: “Thân này của ta hôm nay ở đời vị lai, nhất định sẽ làm pháp khí Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Tâm cũng như vậy, chẳng tác khởi nhỏ hẹp, chẳng tác khởi biến dị, chẳng tác khởi tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳng tác khởi tâm ma và tâm tự lạc, tâm ưa sinh tử. Ta luôn vì chúng sinh cầu tâm Từ Bi”. Ðó gọi là Bồ tát, ở trong tự thân, sinh ra tâm quyết định “Ta ở đời vị lai sẽ làm pháp khí Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thì ở trong tự thân sinh ra quyết định tưởng.

Sao gọi là Bồ tát chẳng quán phước điền (ruộng phước) và chẳng phải phước điền ? Sao gọi là phước điền? Kẻ ngoại đạo trì giới… lên đến các đức Phật thì đó gọi là phước điền. Nếu có người nghĩ rằng, những bọn như vậy  là chân phước điền thì phải biết tâm này là hẹp hòi, hèn yếu. Ðại Bồ tát đều quán tất cả vô lượng chúng sinh không chẳng phải phước điền. Vì sao vậy ? Vì do khéo tu tập niệm xứ khác. Có niệm xứ khác khéo tu tập là : quán các chúng sinh không có trì giới và cả hủy giới, thường quán lời nói của các đức Phật Thế Tôn. Thí tuy có bốn thứ nhưng đều được quả báo thanh tịnh. Những gì là bốn ? Một là thí chủ thanh tịnh, người thọ thí bất tịnh. Hai là thí chủ bất tịnh, người thọ thí thanh tịnh. Ba là người thí, kẻ thọ thí đều thanh tịnh. Bốn là cả hai đều bất tịnh. Sao gọi là thí chủ thanh tịnh, người thọ thí bất tịnh ? Thí chủ có đủ giới, đa văn, trí tuệ, biết có huệ thí và cả quả báo. Kẻ thọ thí phá giới, chuyên chấp trước tà kiến, không huệ thí, không quả báo. Ðó gọi là thí chủ thanh tịnh, người thọ thí bất tịnh. Sao gọi là người thọ thí thanh tịnh, thí chủ bất tịnh ?  Thí chủ phá giới, chuyên chấp trước tà kiến, nói rằng không huệ thí và cả quả báo. Kẻ thọ thí trì giới, đa văn, trí tuệ, biết có huệ thí và quả báo thí. Ðó gọi là thí chủ bất tịnh, người thọ thí thanh tịnh. Sao gọi là người thí, kẻ thọ đều thanh tịnh ? Người thí, kẻ thọ đều có trì giới, đa văn, trí tuệ, biết có huệ thí và quả báo thí. Ðó gọi là kẻ thí, người thọ cả hai đều thanh tịnh. Sao gọi là cả hai đều bất tịnh ? Người thí, kẻ thọ đều phá giới, tà kiến và nói rằng, không có thí và quả báo thí. Nếu như vậy thì sao lại gọi rằng, được tịnh quả báo ? Do không thí, không quả báo nên gọi là thanh tịnh. Này thiện nam tử ! Nếu có người chẳng thấy bố thí và quả báo thí thì phải biết người này chẳng gọi phá giới, chuyên chấp trước tà kiến. Nếu nương vào Thanh Văn mà nói rằng, chẳng thấy bố thí và quả báo thí thì đó gọi là phá giới, tà kiến. Nếu y vào Kinh Ðại Niết Bàn như vậy mà chẳng thấy huệ thí và quả báo thí thì đó gọi là trì giới, chánh kiến. Ðại Bồ tát có niệm xứ khác để tu tập nên chẳng thấy chúng sinh trì giới, phá giới, người thí, kẻ thọ và quả báo thí. Vậy nên được gọi là trì giới, chánh kiến. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát chẳng quán phước điền và chẳng phải phước điền.

Sao gọi là đất nước Phật thanh tịnh ? Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì độ chúng sinh nên lìa khỏi tâm giết hại. Rồi đem thiện căn này nguyện cùng chung với tất cả chúng sinh. Nguyện cho các chúng sinh được thọ mạng lâu dài, có thế lực lớn, được đại thần thông. Do sức của nhân duyên thệ nguyện này nên ở đời vị lai, khi thành Phật thì tất cả chúng sinh sở hữu của đất nước được thọ mạng lâu dài, có đại thế lực, được đại thần thông. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì độ chúng sinh nên lìa khỏi tâm trộm cắp. Rồi đem thiện căn này nguyện cùng chung với tất cả chúng sinh. Nguyện cho sở hữu đất đai của đất nước chư Phật thuần là bảy báu, chúng sinh giàu có đầy đủ, sở dục thỏa lòng mình. Do lực của nhân duyên thệ nguyện này nên ở đời vị lai, khi thành Phật thì đất nước sở đắc thuần là bảy báu, chúng sinh giàu có đầy đủ, sở dục thỏa lòng mình. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì độ chúng sinh nên lìa khỏi tâm dâm dục. Rồi đem thiện căn này nguyện cùng chung với tất cả chúng sinh. Nguyện cho chúng sinh sở hữu của các cõi Phật không có tâm tham dục, sân nhuế, ngu si, cũng không có hoạn nạn đói khát khổ não. Do lực của nhân duyên thệ nguyện này nên ở đời vị lai, khi thành Phật thì chúng sinh trong đất nước mình xa lìa tâm tham dâm, sân nhuế, ngu si và tất cả không có đói khát khổ não. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì độ chúng sinh nên lìa khỏi tâm vọng ngữ. Rồi đem thiện căn này nguyện cùng chung với tất cả chúng sinh. Nguyện cho các cõi Phật thường có rừng sum suê cây trái, hương hoa, chúng sinh sở hữu được âm thanh vi diệu. Do lực của nhân duyên thệ nguyện này nên vào đời vị lai, khi thành Phật thì đất nước sở hữu thường có rừng sum suê cây trái, hương hoa. Chúng sinh trong cõi ấy đều được âm thanh thượng diệu thanh tịnh. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì độ chúng sinh nên xa  lìa nói hai lưỡi. Rồi đem thiện căn này nguyện cùng chung với tất cả chúng sinh. Nguyện cho chúng sinh sở hữu của các cõi Phật thường chung hòa hợp giảng nói chánh pháp. Do lực của nhân duyên thệ nguyện này nên khi thành Phật thì tất cả chúng sinh sở hữu của đất nước mình đều chung hòa hợp giảng luận pháp yếu. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì độ chúng sinh nên xa lìa ác khẩu. Rồi đem thiện căn này nguyện cùng chung với tất cả chúng sinh. Nguyện cho đất của các cõi Phật bằng phẳng như bàn tay, không cát đá, gai góc ác nhọn… Chúng sinh sở hữu của những cõi ấy, lòng bình đẳng. Do lực nhân duyên của thệ nguyện này nên vào đời vị lai, khi thành Phật thì đất đai của đất nước sở đắc bằng phẳng như bàn tay, không có cát đá, gai gọc nhọn ác và chúng sinh sở hữu thì lòng họ bình đẳng. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì độ chúng sinh nên lìa khỏi lời nói vô nghĩa. Rồi đem thiện căn này nguyện cùng chung với tất cả chúng sinh. Nguyện cho chúng sinh sở hữu của các cõi Phật không có khổ não. Do lực của nhân duyên thệ nguyện này nên vào đời vị lai, khi thành Phật thì tất cả chúng sinh sở hữu của đất nước không có khổ não. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì độ chúng sinh nên xa lìa tham tật (tham lam ganh ghét). Ðem thiện căn này nguyện cùng chung với tất cả chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh của các cõi Phật không có tham tật, não hại, tà kiến. Do lực của nhân duyên thệ nguyện này nên vào đời vị lai, khi thành Phật thì tất cả chúng sinh sở hữu của đất nước đều không tham tật, não hại, tà kiến. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì độ chúng sinh nên xa lìa não hại. Rồi đem thiện căn này nguyện cùng chung với tất cả chúng sinh. Nguyện cho sở hữu của các cõi Phật đều chung tu tập đại từ đại bi; được địa vị nhất tử. Do lực của nhân duyên thệ nguyện này nên vào đời vị lai, khi thành Phật thì tất cả chúng sinh sở hữu của thế giới đều chung tu tập đại từ đại bi, được địa vị nhất tử. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì độ chúng sinh nên xa lìa tà kiến. Rồi đem thiện căn này nguyện cùng chung với tất cả chúng sinh. Nguyện cho chúng sinh sở hữu của các cõi Phật đều được Ma Ha Bát Nhã Balamật. Do lực của nhân duyên thệ nguyện này nên vào đời vị lai, khi thành Phật thì chúng sinh của thế giới đều được thọ trì Ma Ha Bát Nhã Balamật. Ðó gọi là Bồ tát tu tịnh Phật thổ.

Sao gọi là Ðại Bồ tát diệt trừ hữu dư? Hữu dư có ba, một là phiền não dư báo, hai là dư nghiệp, ba là dư hữu. Này thiện nam tử ! Sao gọi là phiền não dư báo? Nếu có chúng sinh quen gần tham dục mà quả báo này thành thục thì đọa vào địa ngục. Từ địa ngục ra thì thọ thân súc sinh như là bồ câu, chim sẻ, uyên ương, anh vũ, kỳ bà kỳ bà, chim Xá lợi dà, thanh tước, cá, rùa, khỉ, nai… Nếu được thân người thì thọ hình dáng huỳnh môn, nữ nhân, người hai căn hay không căn, dâm nữ. Nếu được xuất gia thì phạm giới nặng đầu tiên. Ðó gọi là dư báo. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh đem lòng ân trọng quen gần sân nhuế. Quả báo này thành thục nên rơi vào địa ngục. Từ địa ngục ra thọ thân súc sinh như là rắn độc đủ bốn thứ độc : thấy độc, chạm độc, cắn độc, lìa hơi độc, hoặc là sư tử, cọp, sói, gấu, mèo, chồn, chim ưng, diều hâu.v.v… Nếu được thân người thì đầy đủ mười sáu những luật nghi ác. Nếu được xuất gia thì phạm trọng giới thứ hai. Ðó gọi là dư báo. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu có người tu tập ngu si thì khi quả báo này thành thục, rơi vào địa ngục. Từ địa ngục ra, thọ thân súc sinh như là voi, heo, trâu, dê, trâu nước, rận, bọ chét, nhặng, kiến.v.v.. Nếu được thân người thì điếc, mù, câm, ngọng, tàn phế, lưng gù… các căn chẳng đủ, chẳng thể thọ pháp. Nếu được xuất gia thì các căn ám độn, ưa phạm trọng giới… cho đến tội thấp hèn. Ðó gọi là dư báo. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu có người tu tập kiêu mạn thì khi quả báo thành thục, rơi vào địa ngục. Từ địa ngục ra, thọ thân súc sinh như là trùng phân, lạc đà, lừa, chó, ngựa. Nếu sinh ra trong loài người thì thọ thân nô tỳ, nghèo cùng, ăn xin. Hoặc được xuất gia thì thường bị sự khinh miệt của chúng sinh và phá giới thứ tư. Ðó gọi là dư báo. Những điều như vậy.v.v… gọi là phiền não dư báo. Những dư báo như vậy, Ðại Bồ tát nhờ tu tập Kinh Ðại Niết Bàn nên đều được trừ diệt. Sao gọi là dư nghiệp ? Ðó là gọi nghiệp của tất cả phàm phu, nghiệp của tất cả Thanh Văn, người Tu đà hoàn thọ bảy hữu nghiệp, người Tư đà hàm thọ hai hữu nghiệp, người A na hàm thọ sắc hữu nghiệp. Ðó gọi là dư nghiệp. Những dư nghiệp như vậy, Ðại Bồ tát nhờ khả năng tu tập Kinh Ðại Niết Bàn nên đều được đoạn trừ. Sao gọi là dư hữu ? A la hán được quả A la hán, Bích Chi Phật được quả Bích Chi Phật, không nghiệp không kết mà chuyển thành hai quả. Ðó gọi là dư hữu. Ba thứ pháp hữu dư này, Ðại Bồ tát tu tập kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn nên được diệt trừ. Ðó gọi là Ðại Bồ tát diệt trừ hữu dư.

Sao gọi là Bồ tát tu thanh tịnh thân? Ðại Bồ tát tu giới bất sát có năm thứ tâm là hạ, trung, thượng, thượng trung và thượng thượng… cho đến tu Chánh kiến cũng lại như vậy. Năm mươi thứ tâm này gọi là tâm sơ phát (tâm phát đầu tiên). Ðầy đủ quyết định thành năm mươi tâm thì gọi là mãn túc (đủ đầy). Một trăm như vậy gọi là một trăm phước đức. Ðầy đủ một trăm phước đức thì thành được một tướng. Cứ như vậy đắp đổi thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng thì gọi thân thanh tịnh. Sở dĩ vì sao lại tu tám mươi vẻ đẹp ? Ðời có chúng sinh thờ tám mươi vị thần. Những gì là tám mươi ? Ðó là mười hai mặt trời, mười hai đại thiên, năm vì tinh tú lớn là sao Bắc Ðẩu, sao Mã thiên, sao Hành Ðạo thiên, sao Bà La Ðọa Bạt Xà thiên, sao Công Ðức thiên, hai mươi tám vì sao, Ðịa thiên, Phong thiên, Thủy thiên, Hỏa thiên, Phạm thiên, Lâu Ðà thiên, Nhân Ðề thiên, Câu Ma La thiên, Bát Tý thiên, Ma Ê Thủ La thiên, Bán Xà La thiên, Quỷ Tử Mẫu thiên, Tứ Thiên Vương thiên, Tạo Trú thiên, Bà Tẩu thiên, (18 trời). Ðó gọi là tám mươi. Bồ tát vì chúng sinh này tu tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm. Ðó gọi là thân Bồ tát thanh tịnh. Vì sao vậy ? Vì tám mươi trời đó được sự tín phục của tất cả chúng sinh. Vậy nên Bồ tát tu tám mươi vẻ đẹp mà thân ấy chẳng động khiến cho chúng sinh theo sự tin ấy, mỗi mỗi đều được thấy. Thấy rồi họ đều tôn kính và phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát tu thân thanh tịnh. Này thiện nam tử ! Ví như có người muốn thỉnh vị vua lớn thì cần phải trang nghiêm nhà cửa sở hữu cho cực kỳ thanh tịnh, bày biện đủ thứ trăm món ăn ngon lành, rồi nhiên hậu mới thỉnh vua đến. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, muốn thỉnh vua Pháp Luân Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì trước phải sửa thân cho cực kỳ thanh tịnh, rồi vua pháp Vô thượng mới sẽ đến ở đó. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát cần phải tu thân thanh tịnh. Này thiện nam tử ! Ví như có người muốn uống cam lộ thì trước phải tịnh thân. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, muốn uống pháp vị cam lộ Vô thượng Bát Nhã Balamật thì cần phải trước dùng tám mươi vẻ đẹp mà thanh tịnh thân ấy. Này thiện nam tử! Ví như bảo khí bằng vàng bạc tốt đẹp đựng nước sạch thì trong ngoài đều sạch. Thân thanh tịnh ấy của Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, đựng nước Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì trong ngoài đều thanh tịnh. Này thiện nam tử ! Như áo lụa trắng Ba la nại dễ chịu nhuộm màu. Vì sao vậy ? Vì tính bạch tịnh vậy. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, do thân thanh tịnh nên mau chóng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát tu thân thanh tịnh. Sao gọi là Ðại Bồ tát rõ biết các duyên? Ðại Bồ tát chẳng thấy sắc tướng, chẳng thấy sắc duyên, chẳng thấy sắc thể, chẳng thấy sắc sinh, chẳng thấy sắc diệt, chẳng thấy một tướng, chẳng thấy dị tướng (tướng khác), chẳng thấy người thấy, chẳng thấy tướng mạo, chẳng thấy người thọ. Vì sao vậy? Vì rõ nhân duyên vậy. Như sắc, tất cả pháp cũng như vậy. Ðó gọi là Bồ tát rõ biết các duyên.

Sao gọi là Bồ tát loại các oán địch ? Tất cả phiền não là oán của Bồ tát nên đại Bồ tát thường xa lìa. Ðó gọi là Bồ tát hoại các oán địch. Bồ tát ngũ trụ nhìn thấy các phiền não  chẳng gọi là oán địch. Sở dĩ vì sao ? Vì nhân phiền não nên Bồ tát có sinh, do có sinh nên có thể đắp đổi giáo hóa chúng sinh. Do nghĩa này nên chẳng gọi là oán. Những gì là oán? Ðó là người bài báng Kinh Phương Ðẳng Bồ tát tùy theo chỗ sinh ra, chẳng sợ địa ngục, súc sinh, ngạ quỹ mà chỉ sợ người bài báng Phương Ðẳng như vậy. Tất cả Bồ tát có tám thứ ma gọi là oán gia, xa lìa tám ma này gọi là lìa khỏi oán gia. Ðó gọi là Bồ tát lìa các oán địch.

Sao gọi là Bồ tát xa lìa nhị biên ? Nói nhị biên là gọi hai mươi lăm cõi hữu và ái phiền não. Bồ tát thường lìa khỏi hai mươi lăm cõi hữu và ái phiền não thì đó gọi là Bồ tát lìa nhị biên. Ðó gọi là Ðại Bồ tát tu Ðại Niết bàn thành tựu đầy đủ công đức theo thứ tự.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Quanh Minh Biến Chiếu Cao Quý Ðức Vương bạch rằng :

– Như lời đức Phật nói, nếu có Bồ tát tu tập Kinh Ðại Niết Bàn thì đều tạo tác mười việc công đức. Như vậy thì sao đức Như Lai chỉ tu chín việc mà chẳng tu tịnh thổ (Cõi thanh tịnh) ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Ta, vào thuở xưa, cũng thường tu đủ mười việc như vậy. Tất cả Bồ tát và các đức Như Lai không ai chẳng tu đủ mười việc như vậy. Nếu giả sử thế giới bất tịnh mà tràn đầy các đức Phật Thế Tôn xuất hiện trong đó thì không có việc này. Này thiện nam tử ! Ông nay cho rằng, các đức Phật xuất hiện ở thế giới bất tịnh. Ông phải biết tấm lòng này chẳng tốt, hẹp hòi, hèn yếu. Ông nay phải biết, Ta thật chẳng xuất hiện ở cõi Diêm Phù Ðề. Ví như có người nói rằng, cõi này độc nhất có mặt trời, mặt trăng, thế giới phương khác không có  mặt trời, mặt trăng. Lời nói như vậy không có nghĩa lý. Nếu có Bồ tát phát ngôn như vầy: “Thế giới Phật này uế ác bất tịnh, cõi Phật phương khác thanh tịnh trang nghiêm thì cũng lại như vậy”. Này thiện nam tử !  Phương Tây, cách thế giới Ta bà này độ ba mươi hai lần cát sông Hằng những cõi Phật, tại đó có thế giới tên là Vô Thắng. Cõi đó vì sao tên là Vô Thắng ? Vì việc trang nghiêm sở hữu của cõi ấy đều bình đẳng, không có sai biệt giống như thế giới An Lạc ở phương Tây, cũng như thế giới Mãn Nguyệt ở phương Ðông. Ta ở cõi Vô Thắng đó xuất hiện ở đời. Vì hóa độ chúng sinh nên ta ở trong cõi Diêm Phù Ðề này thị hiện chuyển bánh xe pháp. Chẳng phải chỉ độc một mình thân ta, ở trong cõi này, thị hiện chuyển pháp luân. Tất cả các đức Phật cũng ở trong cõi này mà chuyển bánh xe pháp. Do nghĩa này nên các đức Phật  Thế Tôn chẳng phải chẳng tu hành mười việc như vậy. Này thiện nam tử ! Bồ tát Từ Thị do thệ nguyện nên đời đương lai sẽ khiến cho thế giới này thanh tịnh trang nghiêm. Do nghĩa này nên tất cả thế giới sở hữu của chư Phật không đâu chẳng nghiêm tịnh.

Lại nữa, này Thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát tu Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu thành tựu đầy đủ công đức thứ năm? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu Kinh Ðại Niết bàn thành tựu đầy công đức thứ năm thì có năm việc. Những gì là năm ? Một là các căn đầy đủ, hai là chẳng sinh ra ở vùng biên địa, ba là chư Thiên ái niệm, bốn là thường được sự cung kính của trời, ma, samôn, sát lợi, Bàlamôn.v.v…, năm là được trí túc mạng. Bồ tát do lực của nhân duyên Ðại Niết Bàn này nên đầy đủ năm việc công đức như vậy.

Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Ðức Vương bạch rằng :

– Như lời đức Phật nói, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân tu bố thí thì được thành tựu đầy đủ năm việc công đức, thì sao hôm nay Ngài nói rằng : Nhân Ðại Niết Bàn được năm việc này ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Việc như vậy, ý nghĩa của nó đều khác. Hôm nay ta sẽ vì ông phân biệt, giải nói. Bố thí được năm việc là chẳng định, chẳng thường, chẳng tịnh, chẳng thắng và chẳng khác. Ðó chẳng phải là vô lậu, chẳng thể lợi ích, an lạc, thương xót tất cả chúng sinh. Nếu nương vào Kinh Ðại Niết Bàn như vậy thì năm việc sở đắc là định, là thường, là tịnh, là thắng là khác. Ðó là vô lậu có thể lợi ích, an lạc, thương xót tất cả chúng sinh. Này thiện nam tử ! Luận về bố thí thì được lìa khỏi đói khát. Kinh Ðại Niết Bàn có thể khiến cho chúng sinh đều được lìa khỏi bệnh khát ái (khao khát ái dục) của hai mươi lăm cõi hữu. Nhân duyên bố thí khiến cho sinh tử nối tiếp nhau. Kinh Ðại Niết Bàn có khiến cho sinh tử đoạn trừ, chẳng nối tiếp nhau. Nhân sinh tử nên chịu pháp phàm phu, nhân đại Niết Bàn được làm Bồ tát. Nhân duyên bố thí có thể đoạn trừ tất cả bần cùng khổ não, Kinh Ðại Niết Bàn có thể đoạn trừ tất cả sự nghèo thiện pháp. Nhân duyên bố thí có phân biệt, có quả báo, nhân duyên Ðại Niết Bàn được Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, không phân biệt, không quả báo. Ðều gọi là Ðại Bồ tát tu Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu thành tựu đầy đủ công đức thứ năm.

Này thiện nam tử ! Sao gọi là Bồ tát tu Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu thành tựu đầy đủ công đức thứ sáu ? Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn được Kim Cương tam muội. Bồ tát an trụ trong tam muội này đều có thể phá tan tất cả các pháp, thấy tất cả pháp đều là Vô thường, đều là động tướng, nhân duyên của khủng bố, bệnh khổ, trộm cướp, từng niệm từng niệm diệt hoại không có chân thật, tất cả đều là cảnh giới của ma, không thể thấy tướng. Ðại Bồ tát trụ ở tam muội này, tuy bố thí cho chúng sinh nhưng thậm chí chẳng thấy một chúng sinh thật. Vì chúng sinh nên tinh cần tu tập Thi Balamật (trì giới độ vô cực)… cho đến tu tập Bát nhã Balamật cũng lại như vậy, nếu Bồ tát thấy có một chúng sinh chẳng thể rốt ráo thành tựu đầy đủ Ðàn Balamật cho đến Bát nhã Balamật. Này thiện nam tử ! Ví như chỗ mô phỏng theo Kim cương. Không gì chẳng tan nát mà chính Kim cương không có gẫy tổn. Kim cương tam muội cũng lại như vậy, pháp không theo không gì chẳng tan nát mà chính tam muội không có gẫy tổn. Này thiện nam tử ! Như trong các báu Kim cương là tối thắng. Kim cương tam muội sở đắc của Bồ tát cũng lại như vậy, đối với các tam muội là tối đệ nhất. Vì sao vậy ? Vì đại Bồ tát tu tam muội này thì tất cả tam muội đều đến qui  thuộc. Này thiện nam tử ! Như các tiểu vương đều đến qui thuộc Chuyển luân Thánh vương. Tất cả tam muội cũng lại như vậy đều đến  qui thuộc Kim cương tam muội. Này thiện nam tử ! Ví như có người là oán thù của nước, là sự chán ghét tai họa của người. Nếu có người giết hắn thì tất cả người đời không ai chẳng xưng tán công đức người này. Kim cương tam muội cũng lại như vậy, Bồ tát tu tập có thể hoại oán địch của tất cả chúng sinh. Vậy nên thường được tôn kính của tất cả tam muội. Này thiện nam tử! Ví như có người mà sức rất mạnh mẽ không ai đương cự được. Nhưng lại có người mà sức có thể hàng phục được người đó thì phải biết người này được đời khen ngợi. Kim cương tam muội cũng lại như vậy, sức có thể tiêu diệt, hàng phục pháp khó hàng phục. Do nghĩa này nên tất cả tam muội đều đến qui thuộc. Này thiện nam tử ! Ví như có người tắm ở tại biển lớn thì phải biết người này đã sử dụng nước của những dòng sông, dòng suối và ao. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, tu tập Kim cương tam muội như vậy thì phải biết là đã tu tập tất cả các tam muội còn lại. Này thiện nam tử ! Như trong núi Hương Sơn có một dòng nước suối tên là A nậu đạt. Suối ấy đầy đủ nước tám vị. Có người uống nước suối ấy thì không có các bệnh khổ. Kim cương tam muội cũng lại như vậy, đủ tám chánh đạo mà Bồ tát tu tập thì đoạn trừ những trọng bệnh ghẻ lở phiền não. Này thiện nam tử ! Như người cúng dường trời Ma ê thủ la thì phải biết người này đã là cúng dường tất cả  chư thiên. Kim cương tam muội cũng lại như vậy, nếu có người tu tập thì phải biết người này đã tu tập tất cả các tam muội còn lại. Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát an trụ ở Kim cương tam muội như vậy thì thấy tất cả pháp không có chướng ngại như xem quả Amalặc ở trong lòng bàn tay. Bồ tát tuy lại được thấy như vậy nhưng nhất định chẳng tác khởi tư tưởng thấy tất cả pháp. Này thiện nam tử ! Ví như có người ngồi ngã tư đường thấy các chúng sinh đi, lại, ngồi, nằm. Kim cương tam muội cũng lại như vậy, thấy tất cả pháp sinh, diệt, hiện ra, mất đi. Này thiện nam tử ! Ví như núi cao, có người leo lên đó, trông xa các phương đều tỏ rõ. Núi định Kim cương cũng lại như vậy, Bồ tát leo lên đó xa trông các pháp, không pháp nào chẳng sáng tỏ. Này thiện nam tử ! Ví như tháng mùa Xuân trời tuông mưa ngọt. Những giọt mưa ấy đan xen không chỗ trống, người mắt sáng thấy chúng rõ ràng. Bồ tát cũng vậy, được mắt thanh tịnh Kim cương định, thấy từ xa những thế giới sở hữu của phương Ðông. Trong số ấy, hoặc có đất nước thành hay hoại… tất cả đều thấy rõ ràng không ngăn ngại… cho đến mười phương cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như núi Do Càn Ðà, khi bảy mặt trời đồng thời xuất hiện thì cây cối, rừng rậm sở hữu của núi ấy, tất cả đều cháy hết. Bồ tát tu tập Kim cương tam muội cũng lại như vậy, tất cả rừng rậm phiền não sở hữu tức thời tiêu diệt. Này thiện nam tử! Ví như Kim cương tuy có thể diệt phá tất cả vật nhưng nhất định chẳng sinh ra ý niệm : “Ta có thể diệt phá”. Kim cương tam muội cũng lại như vậy, Bồ tát tu rồi có thể phá phiền não nhưng nhất định chẳng sinh ý niệm : “Ta có thể hoại tan kết sử”. Này thiện nam tử ! Ví như đại địa có thể trì giữ vạn vật, nhưng nhất định chẳng sinh ý niệm : “Sức ta có thể trì giữ”. Lửa cũng chẳng nghĩ : “Ta có thể đốt cháy vật”. Nước cũng chẳng nghĩ : “Ta có thể thấm nhuần”. Gió cũng chẳng nghĩ : “Ta có thể lay động vật”. Không cũng chẳng nghĩ : “Ta có thể dung thọ hết”. Niết bàn cũng lại chẳng sinh ra ý nghĩ rằng : “Ta khiến cho chúng sinh được diệt độ”. Kim Cương tam muội cũng lại như vậy, tuy có thể diệt trừ tất cả phiền não mà đầu tiên không có lòng nói rằng : “Ta có thể diệt”. Nếu có Bồ tát an trụ ở Kim Cương tam muội như vậy thì ở trong một niệm, biến thân Phật mà số ấy không lường, đầy khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương. Bồ tát này tuy làm sự biến hóa này nhưng tâm Bồ tát ấy đầu tiên không có tư tưởng kiêu mạn. Vì sao vậy ? Vì Bồ tát thường nghĩ: “Ai có định này thì có thể làm sự biến hóa đó ? Chỉ có Bồ tát an trụ ở Kim Cương tam muội như vậy mới có thể làm vậy”. Ðại Bồ tát an trụ ở Kim Cương tam muội như vậy thì ở trong một niệm, đi đến khắp mười phương hằng hà sa số thế giới của chư Phật, rồi trở lại chỗ cũ của mình. Bồ tát tuy có lực này nhưng cũng chẳng nghĩ rằng : “Ta có thể như vậy”. Vì sao vậy ? Vì do lực của nhân duyên tam muội vậy. Ðại Bồ tát an trụ ở Kim Cương tam muội như vậy thì ở trong một niệm, có thể đoạn trừ phiền não sở hữu của chúng sinh trong mười phương hằng hà sa số thế giới mà tâm đầu tiên không có tư tưởng đoạn trừ phiền não của các chúng sinh. Vì sao vậy ? Vì do lực của nhân duyên tam muội này vậy. Bồ tát trụ ở Kim Cương tam muội này thì dùng một âm thanh sở hữu diễn nói mà tất cả chúng sinh tùy theo chủng loại đều được giải rõ, thị hiện một sắc mà tất cả chúng sinh mỗi mỗi đều thấy đủ thứ sắc tướng, an trụ một chỗ thân chẳng di dịch mà có thể khiến cho chúng sinh tùy theo phương diện của mình, mỗi mỗi đều thấy, diễn nói một pháp hoặc là giới hay nhập thì tất cả chúng sinh đều tùy theo sự lý giải của mình mà được nghe hết. Bồ tát an trụ ở tam muội như vậy, tuy thấy chúng sinh mà tâm ban đầu không có tướng chúng sinh, tuy thấy nam nữ mà không tướng nam nữ, tuy thấy sắc pháp mà không có tướng sắc… cho đến thấy thức cũng không tướng thức, tuy thấy ngày đêm mà không tướng ngày đêm, tuy thấy tất cả mà không có tướng tất cả, tuy thấy các kết của tất cả phiền não mà cũng không có tướng của tất cả phiền não, tuy thấy tám Thánh đạo mà không tướng Thánh đạo, tuy thấy Bồ Ðề mà không tướng Bồ Ðề, tuy thấy Niết bàn mà không tướng Niết Bàn. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì tất cả các pháp vốn không có tướng vậy. Bồ tát do lực của tam muội này nên thấy tất cả pháp như vốn không tướng. Vì sao gọi là Kim Cương tam muội ? Này thiện nam tử ! Ví như Kim Cương ở tại trong ngày thì màu sắc chẳng định. Kim Cương tam muội cũng lại như vậy, ở tại đại chúng thì sắc cũng chẳng định. Vậy nên gọi là Kim Cương tam muội. Này thiện nam tử ! Ví như Kim Cương thì tất cả người đời chẳng thể đánh giá (bình giá). Kim Cương tam muội cũng lại như vậy, công đức sở hữu của tam muội này thì tất cả người, trời chẳng thể đánh giá, đo lường. Vậy nên lại gọi là Kim Cương tam muội. Này thiện nam tử ! Ví như người nghèo được báu Kim Cương thì được xa lìa bần cùng khốn khổ, ác quỷ tà độc. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, được tam muội này thì có thể xa lìa phiền não, các khổ, các ma tà độc. Vậy nên lại gọi là Kim Cương tam muội. Ðó gọi là Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thành tựu đầy đủ công đức thứ sáu.

*********

– Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu thành tựu đầy đủ công đức thứ bảy ? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu tác khởi suy nghĩ này : “Pháp nào có thể vì Ðại Bát Niết Bàn mà tạo tác nhân gần ?” thì liền biết có bốn thứ pháp vì Ðại Niết Bàn mà làm nhân gần. Nếu nói rằng, siêng tu tất cả khổ hạnh là nhân duyên gần Ðại Niết Bàn thì nghĩa này chẳng đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì nếu lìa khỏi bốn pháp mà được Niết Bàn thì không có điều này. Những gì là bốn pháp ? Một là thân cận bạn lành, hai là chuyên tâm nghe pháp, ba là buộc ý niệm tư duy, bốn là như pháp tu hành. Này thiện nam tử ! Ví như có người, thân mắc mọi thứ bệnh hoặc nóng, hoặc lạnh, ho lao, sốt rét và mọi thứ tà quỉ độc hại… đi đến chỗ thầy thuốc giỏi. Thầy thuốc giỏi liền vì người ấy, theo bệnh nói toa thuốc. Người này chí tâm khéo thọ lời dạy của thầy thuốc, rồi theo lời dạy hòa hợp thuốc, theo đúng như pháp uống thuốc, uống xong bệnh khỏi, thân được an vui. Người có bệnh là ví các Bồ tát. Vị đại lương y là ví cho thiện tri thức. Lời nói của lương y là ví kinh Phương Ðẳng. Khéo thọ lời dạy của thầy thuốc là ví cho sự khéo suy nghĩ nghĩa của kinh Phương Ðẳng. Theo lời dạy hòa hợp thuốc là ví cho việc theo đúng như pháp tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo. Bịnh trừ khỏi là ví cho việc diệt phiền não. Ðược an vui là ví cho việc được Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh. Này thiện nam tử ! Ví như có vị vua muốn theo đúng như pháp cai trị khiến cho dân an vui. Ngài hỏi các bề tôi trí tuệ, pháp ấy là gì ? Các bề tôi liền đem pháp xưa của tiên vương mà vì vua nói ra. Vua đã nghe rồi, chí tâm tin làm, đúng như pháp trị nước, không có các oán địch. Vậy nên khiến cho dân an vui, không hoạn nạn. Này thiện nam tử ! Vua là ví các vị Bồ tát. Các bề tôi trí tuệ là ví thiện tri thức. Lời nói pháp trị của bề tôi trí tuệ vì vua là ví mười hai bộ kinh. Vua đã nghe rồi chí tâm tin làm là ví các vị Bồ tát ràng buộc lòng suy nghĩ thậm thâm sở hữu của mười hai bộ kinh. Theo đúng như pháp trị nước là ví các Bồ tát theo đúng như pháp tu hành như là sáu Balamật. Do có thể tu tập sáu Balamật nên không các oán địch là vì các Bồ tát đã lìa khỏi những ác tặc phiền não kết. Ðược an vui là ví các Bồ tát được Ðại Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh. Này thiện nam tử ! Ví như có người mắc bệnh hủi. Có người thiện tri thức nói với ông rằng : “Ngươi nếu có thể đến bên núi Tu Di thì bệnh có thể được khỏi. Sở dĩ vì sao ? Vì ở đó có thuốc hay, vị như cam lộ. Nếu có thể được uống thì bệnh không gì chẳng khỏi”. Người bệnh ấy chí tâm tin việc này, rồi liền đi đến núi đó, tìm uống cam lộ thì bệnh ấy trừ khỏi, thân được an vui. Người bệnh hủi ví cho các phàm phu. Thiện tri thức ví cho các Ðại Bồ tát.v.v… Chí tâm tín thọ ví cho bốn vô lượng tâm. Núi Tu Di ví cho tám Thánh đạo. Vị cam lộ ví cho Phật tính. Bệnh hủi trừ khỏi ví cho diệt phiền não. Ðược yên vui ví cho được Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh. Này thiện nam tử ! Ví như có người nuôi các đệ tử thông minh đại trí. Người này ngày đêm thường dạy bảo họ chẳng mệt mỏi. Các Bồ tát .v.v.. cũng lại như vậy, tất cả chúng sinh có tin hay chẳng tin đều thường giáo hóa không có mệt chán. Này thiện nam tử! Thiện tri thức là gọi Phật, Bồ tát, Bích Chi Phật, Thanh Văn, kẻ tin Phương Ðẳng trong loài người. Vì sao gọi là thiện tri thức vậy ? Thiện tri thức thì có thể dạy bảo chúng sinh xa lìa mười ác, tu hành mười thiện. Do nghĩa này nên gọi là thiện tri thức. Lại nữa, thiện tri thức là theo đúng như pháp mà nói, theo đúng như nói mà làm. Sao gọi là theo đúng như pháp mà nói, theo đúng như lời nói mà làm ? Tự chẳng sát sinh, dạy người chẳng sát sinh… cho đến tự làm theo chánh kiến, dạy người chánh kiến. Người nếu có thể như vậy thì được gọi là chân thiện tri thức. Tự tu Bồ Ðề, cũng dạy người tu hành Bồ Ðề, do nghĩa này nên gọi là thiện tri thức. Tự có thể tu hành Tín, Giới, Bố thí, Ða văn, Trí tuệ… cũng có thể dạy người Tín, Giới, Bố thí, Ða văn, Trí tuệ… lại do nghĩa này nên gọi là thiện tri thức. Người thiện tri thức thì có thiện pháp vậy. Những gì là thiện pháp ? Việc mình làm chẳng cầu vui cho mình, thường vì chúng sinh mà cầu an vui. Thấy người khác có lỗi chẳng nói ra sở đoản của họ. Miệng thường tuyên nói toàn là việc thiện. Do những nghĩa này nên gọi là thiện tri thức. Này thiện nam tử ! Như vầng trăng trong không từ ngày mùng một đầu tiên đến ngày mười lăm tăng trưởng dần dần. Thiện tri thức cũng lại như vậy, khiến cho những người học xa dần ác pháp, tăng trưởng thiện pháp. Này thiện nam tử ! Nếu có người thân cận thiện tri thức mà vốn chưa có giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến thì liền có những thứ đó, chưa đầy đủ thì được rộng thêm. Vì sao vậy? Vì do thân cận thiện tri thức ấy. Nhân sự thân cận này được liễu đạt nghĩa thậm thâm của mười hai bộ kinh. Nếu người có thể nghe nghĩa thậm thâm của mười hai bộ kinh này thì gọi là Thính pháp (nghe pháp).

Nghe pháp thì tức là nghe kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng này. Nghe kinh Phương Ðẳng thì gọi là chân thính pháp. Chân thính pháp thì tức là thính thọ kinh Ðại Niết Bàn. Trong kinh Ðại Niết Bàn nghe có Phật tính, Như Lai rốt ráo chẳng Bát Niết Bàn. Vậy nên gọi là chuyên tâm thính pháp mà chuyên tâm thính pháp gọi tám Thánh đạo. Do tám Thánh đạo có thể đoạn trừ tham dục, sân nhuế, ngu si nên gọi là Thính pháp. Luận về thính pháp thì gọi là mười một không. Do những không này đối với tất cả pháp chẳng tạo tác tướng mạo. Luận về thính pháp thì gọi sự bắt đầu phát tâm đến rốt ráo tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nhân tâm ban đầu mà được Ðại Niết Bàn, chẳng do nghe được Ðại Niết Bàn mà do tu tập nên được Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ví như người bệnh tuy nghe lời dạy bảo của thầy thuốc và tên các vị thuốc thì chẳng thể khỏi bệnh mà cần phải uống thuốc mới được trừ khỏi bệnh. Tuy nghe pháp mười hai nhân duyên thậm thâm thì chẳng thể đoạn diệt tất cả phiền não mà cần phải ràng buộc ý niệm khéo suy nghĩ mới có thể được đoạn trừ. Ðó gọi là ràng buộc tư duy thứ ba.

Lại nữa, do nghĩa gì gọi là ràng buộc ý niệm tư duy ? Ðó gọi là ba tam muội : Không tam muội, Vô tướng tam muội, Vô tác tam muội. Không là đối với hai mươi lăm cõi hữu chẳng thấy một cái gì thật cả. Vô tác là đối với hai mươi lăm cõi hữu chẳng tác khởi nguyện cầu. Vô tướng là không có mười tướng, là sắc tướng, thanh tướng, hương tướng, vị tướng, xúc tướng, sinh tướng, trụ tướng, diệt tướng, nam tướng, nữ tướng. Tu tập ba tam muội như vậy thì đó gọi là Bồ tát ràng buộc ý niệm tư duy.

Sao gọi là đúng như pháp tu hành ? Như pháp tu hành tức là tu Ðàn Balamật… cho đến bát nhã Balamật, biết tướng chân thật của ấm, giới, nhập cũng biết Thanh Văn, Duyên Giác và chư Phật đồng ở một đạo, mà pháp Niết Bàn tức là Thường Lạc Ngã Tịnh, chẳng sinh, chẳng già, chẳng bệnh, chẳng chết, chẳng đói, chẳng khát, chẳng khổ, chẳng não, chẳng thoái, chẳng mất. Này thiện nam tử ! Giải được nghĩa thậm thâm của Ðại Niết Bàn thì biết các đức Phật nhất định chẳng rốt ráo vào Niết Bàn.

Này thiện nam tử ! Thiện tri thức chân thật đệ nhất là gọi Bồ tátchư Phật Thế Tôn. Vì sao vậy ? Vì các ngài thường dùng ba thứ thiện để điều ngự. Những gì là ba ? Một là lời nói êm dịu rốt ráo, hai là lời quở trách rốt ráo, ba là lời êm dịu quở trách. Do nghĩa này nên Bồ tát, chư Phật tức là thiện tri thức rốt ráo vậy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Phật và Bồ tát là bậc Ðại y (thầy thuốc) nên gọi là Thiện tri thức. Vì sao vậy ? Vì các vị biết bệnh, biết thuốc và ứng với bệnh mà cho thuốc. Ví như vị lương y giỏi tám thứ thuật; trước tiên xem tướng của bệnh. Tướng bệnh có ba thứ. Những gì là ba ? Ðó là phong, nhiệt, thủy. Người bệnh về phong (gió) thì trao cho tô du (dầu váng sữa). Người bệnh về nhiệt thì trao cho thạch mật (đường táng). Người bệnh về nước thì trao cho nước nấu gừng. Do biết căn bệnh cho thuốc được khỏi nên gọi là lương y. Phật và Bồ tát cũng lại như vậy, biết bệnh của các phàm phu có ba thứ, một là tham dục, hai là sân nhuế, ba là ngu si. Người bệnh tham dục thì dạy quán tướng xương khô. Người bệnh sân nhuế thì dạy quán tướng từ bi. Người bệnh ngu si thì dạy quán tướng mười hai nhân duyên. Do nghĩa này nên các đức Phật Bồ tát gọi là thiện tri thức. Này thiện nam tử ! Ví như vị thuyền sư giỏi đưa người nên gọi là Ðại thuyền sư. Các đức Phật, Bồ tát cũng lại như vậy, đưa các chúng sinh qua biển lớn sinh tử. Do nghĩa này nên gọi là thiện tri thức. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nhân Phật, Bồ tát khiến cho các chúng sinh tu được đầy đủ căn bản thiện pháp nên này thiện nam tử ! Ví như núi Tuyết mới là chỗ của đủ thứ cội rễ thượng dược vi diệu. Phật và Bồ tát cũng lại như vậy, đều là chỗ căn bản của tất cả thiện căn. Do nghĩa này nên gọi là thiện tri thức. Này thiện nam tử ! Trong núi Tuyết có thứ thượng hương dược tên là Tatta mà có người nhìn thấy nó thì được sống lâu không lường, không có bệnh khổ, tuy có bốn thứ độc nhưng chẳng thể gây tổn thương. Nếu có người chạm đến nó thì tăng trưởng thọ mạng đầy một trăm hai mươi năm. Nếu có người nghĩ đến nó thì được trí túc mạng (trí biết đời trước). Vì sao vậy ? Vì thế lực của thuốc vậy. Các đức Phật Bồ tát cũng lại như vậy, nếu có người thấy liền đoạn trừ tất cả phiền não, tuy có bốn ma nhưng chẳng thể can loạn. Nếu có người chạm được thì mạng chẳng thể chết yểu, chẳng sinh, chẳng chết, chẳng thoái, chẳng mất. Như là người chạm xúc, nếu ở bên đức Phật thính thọ diệu pháp. Nếu có người nghĩ đến thì được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên các đức Phật, Bồ tát gọi là thiện tri thức. Này thiện nam tử ! Như trong núi Hương có cái ao A nậu đạt. Do cái ao này nên có bốn dòng sông lớn, gọi là Hằng Hà, Tân Ðầu, Tư Ðà, Bác Xoa. Chúng sinh ở thế gian thường nói rằng : “Nếu người có tội tắm ở bốn dòng sông này thì mọi tội được trừ diệt”. Ông phải biết là lời nói này hư dối chẳng thật. Trừ việc đã qua này, thì những gì là thật ? Các đức Phật, Bồ tát mới chính là thật. Sở dĩ vì sao ? Vì nếu người thân cận các vị ấy thì được diệt trừ tất cả mọi tội. Do nghĩa này nên gọi là thiện tri thức. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như những thứ thuộc sở hữu của đại địa như cây thuốc, tất cả rừng rậm, trăm thứ lúa, mía đường, hoa quả…. gặp thời tiết nóng hạn lớn, sắp muốn khô chết. Vua rồng Nan Ðà và Bà Nan Ðà thương xót chúng sinh, từ biển cả xuất hiện, tuông xuống mưa cam lộ thì tất cả rừng rậm, trăm thứ lúa, cỏ cây thấm nhuần mà sống trở lại. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, sở hữu thiện căn của họ sắp muốn tiêu diệt. Các đức Phật Bồ tát phát sinh đại từ bi, từ biển trí tuệ, tuông mưa cam lộ, khiến cho các chúng sinh trở lại được đầy đủ mười pháp thiện. Do nghĩa này nên các đức Phật, Bồ tát gọi là thiện tri thức. Này thiện nam tử ! Ví như vị lương y giỏi tám thứ thuật, thấy các người bệnh, chẳng quan sát phân biệt dòng họ, đoan chính, xấu hèn, tiền tài, của báu… mà đều vì họ trị liệu. Vậy nên đời xưng tụng là bậc đại lương y. Các đức Phật, Bồ tát cũng lại như vậy, thấy các chúng sinh có bệnh phiền não, chẳng cần quan sát dòng họ, đoan chính, xấu hèn, tiền tài, của báu đều sinh lòng thương xót vì họ nói pháp. Chúng sinh nghe rồi, bệnh phiền não tiêu trừ. Do nghĩa này nên các đức Phật, Bồ tát gọi là thiện tri thức. Do nhân duyên gần gũi bạn lành này nên được gần với Ðại Bát Niết Bàn.

Sao gọi là nhân duyên Bồ tát nghe pháp mà được gần với Ðại Bát Niết Bàn? Tất cả chúng sinh do nghe pháp nên đủ tín căn mà được tín căn nên ưa hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ… được quả Tu đà hoàn… cho đến quả Phật. Vậy nên phải biết rằng, được các thiện pháp đều là thế lực của nhân duyên thính pháp này. Này thiện nam tử ! Ví như ông trưởng giả chỉ có một đứa con. Ông sai con đi đến nước khác để trao đổi những điều cần thiết. Ông đưa con ra chỗ đường giao thông đông đúc mà lại răn dạy rằng, nếu gặp dâm nữ thì dè chừng chớ thân ái. Nếu thân ái thì chôn thân mất mạng và cả của báu ! Người tệ ác cũng chớ giao du. Người con ấy kính thuận lời dạy bảo của cha nên thân tâm yên ổn, thu hoạch được nhiều của cải quí báu. Ðại Bồ tát vì các chúng sinh phu diễn pháp yếu cũng lại như vậy, hiện bày cho các chúng sinh và bốn bộ chúng sự thông suốt hay tắc nghẽn của các con đường để những chúng này, do nghe pháp nên xa lìa các ác, đầy đủ thiện pháp. Do nghĩa này nên nhân duyên nghe pháp thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ví như gương sáng soi dáng mặt người thì không gì chẳng sáng rõ. Gương sáng nghe pháp cũng lại như vậy, có người soi vào đó thì thấy thiện, ác rõ ràng, không bị ngăn che. Do nghĩa này nên nhân duyên nghe pháp thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ví như người thương nhân muốn đến bến báu mà chẳng biết đường đi, có người chỉ đường, người ấy theo lời chỉ liền đến được bến báu, thu hoạch được nhiều trân bảo chẳng thể kể xiết. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, muốn đến chỗ thiện để thu nhặt lấy sự quí báu của đạo mà chẳng biết tướng thông suốt hay tắt nghẽn của con đường ấy, được Bồ tát bày đường, chúng sinh theo rồi được đến chỗ thiện, thu hoạch được báu Ðại Niết Bàn Vô Thượng. Do nghĩa này nên nhân duyên nghe pháp thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ví như con voi say điên cuồng lồng lộn, bạo ác muốn giết hại nhiều. Có người quản tượng dùng móc sắt lớn, thiện nghệ móc vào đỉnh đầu voi ấy thì tức thời nó điều thuận, lòng ác hết sạch. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, vì say mê tham dục, sân nhuế, ngu si nên muốn tạo nhiều việc ác. Các vị Bồ tát dùng móc nghe pháp, khéo léo móc lấy khiến cho họ trụ dừng, lại chẳng được khởi tâm tạo các việc ác. Do nghĩa này nên nhân duyên nghe pháp thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Vậy nên ở khắp nơi nơi trong kinh, ta nói rằng, đệ tử của ta chuyên tâm thính thọ mười hai bộ kinh thì lìa khỏi năm ấm, tu thất giác phận. Do tu tập bảy giác phận nên được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Do nghe pháp nên người Tu đà hoàn lìa khỏi các khủng bố. Sở dĩ vì sao ? Vì như ông trưởng giả Tu Ðạt, thân gặp trọng bệnh, lòng buồn rầu lo sợ. Ông nghe ông Xá Lợi Phất nói về Tu đà hoàn có bốn công đức và mười thứ an ủi dỗ dành. Nghe những điều này rồi, thì sự khủng bố liền trừ diệt. Do nghĩa này nên nhân duyên nghe pháp thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Vì sao vậy ? Vì ông được mở pháp nhãn vậy. Ðời có ba loại người, một là người không mắt, hai là người một mắt, ba là người hai mắt. Người không mắt thì thường chẳng nghe pháp. Người một mắt thì tuy tạm nghe pháp nhưng lòng họ chẳng trụ. Người hai mắt thì chuyên tâm thính thọ, theo đúng điều đã nghe mà thực hành. Do nghe pháp nên được biết ba loại người như vậy của thế gian. Do nghĩa này nên nhân duyên nghe pháp thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Như ta thuở trước khi ở thành Câu Thi Na, ông Xá Lợi Phất, thân gặp bệnh khổ. Khi ta để lại lời dặn dò Tỳ-kheo A Nan, rộng vì mọi người nói pháp. Ông Xá Lợi Phất nghe việc này rồi, bảo bốn người đệ tử rằng : “Các ông hãy khiêng giường của ta đi đến chỗ đức Phật, ta muốn nghe pháp!” Bốn người đệ tử vâng lệnh khiêng đến, ông đã nghe được pháp, nhờ lực nghe pháp nên bệnh khổ trừ khỏi, thân được yên ổn. Do nghĩa này nên nhân duyên nghe được gần với Ðại Bát Niết Bàn.

Sao gọi là Bồ tát nhân duyên tư duy mà được với Ðại Bát Niết Bàn ? Nhân tư duy này mà lòng được giải thoát. Vì sao vậy ? Vì tất cả chúng sinh thường bị sự trói buộc của năm dục nhờ tư duy nên được giải thoát. Do nghĩa này nên nhân duyên tư duy thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh thường bị sự điên đảo của bốn pháp Thường Lạc Ngã Tịnh. Do tư duy nên được thấy các pháp vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Thấy như vậy rồi thì bốn điên đảo liền đoạn trừ. Do nghĩa này nên nhân duyên tư duy thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử ! Tất cả các pháp có bốn thứ tướng. Những gì là bốn? Một là sinh tướng, hai là lão tướng, ba là bệnh tướng, bốn là diệt tướng. Do bốn tướng này có thể khiến cho tất cả chúng sinh phàm phu cho đến Tu đà hoàn sinh ra đại khổ não. Nếu người có thể ràng buộc ý niệm khéo tư duy thì tuy gặp bốn tướng này nhưng chẳng sinh ra mọi khổ não. Do nghĩa này nên nhân duyên tư duy thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử ! Tất cả thiện pháp không gì chẳng nhân tư duy này mà được. Vì sao vậy ? Vì có người tuy ở vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp chuyên tâm nghe pháp, nhưng nếu chẳng tư duy thì nhất định chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên nhân duyên tư duy thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh tin Phật, Pháp, Tăng không có biến dịch mà sinh lòng cung kính thì phải biết đều chính là sức của nhân duyên ràng buộc ý niệm tư duy và nhân được đoạn trừ tất cả phiền não. Do nghĩa này nên nhân duyên tư duy thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn.

Sao gọi là Bồ tát như pháp tu hành ? Này thiện nam tử ! Ðoạn trừ ác pháp, tu tập thiện pháp. Ðó gọi là Bồ tát như pháp tu hành. Lại nữa, sao gọi là như pháp tu hành ? Thấy tất cả pháp trống rỗng, không sở hữu, vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Do sự thấy này nên thà xả bỏ thân mạng, chẳng phạm cấm giới. Ðó gọi là Bồ tát như pháp tu hành. Lại nữa, sao gọi là như pháp tu hành ? Tu có hai thứ, một là chân thật, hai là chẳng thật. Chẳng thật thì chẳng biết Niết Bàn, Phật tính, Như Lai, Pháp, Tăng thật tướng, hư không.v.v… Ðó gọi là chẳng thật. Sao gọi là chân thật ? Có thể biết Niết Bàn, Phật tính, Như Lai, Pháp, Tăng, thật tướng, hư không.v.v… Ðó gọi là chân thật. Sao gọi là biết tướng Niết Bàn ? Tướng Niết Bàn, phàm có tám việc. Những gì là tám ? Một là tận (hết), hai là thiện tính, ba là thật, bốn là chân, năm là thường, sáu là lạc, bảy là ngã, tám là tịnh. Ðó gọi là Niết Bàn. Lại có tám việc. Những gì là tám ? Một là giải thoát, hai là thiện tính, ba là chẳng thật, bốn là chẳng chân, năm là vô thường, sáu là vô lạc, bảy là vô ngã, tám là vô tịnh. Lại có sáu tướng, một là giải thoát, hai là thiện tính, ba là chẳng thật, bốn là chẳng chân, năm là an lạc, sáu là thanh tịnh. Nếu có chúng sinh nương theo đạo thế tục, đoạn trừ phiền não thì Niết Bàn như vậy có tám việc giải thoát chẳng thật. Vì sao vậy? Vì chẳng thường vậy. Do vô thường nên không có thật, không có thật thì không có chân; tuy đoạn phiền não nhưng rồi sẽ khởi trở lại nên vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Ðó gọi là tám việc giải thoát của Niết Bàn. Sao gọi là sáu tướng ? Thanh Văn, Duyên Giác đoạn được phiền não nên gọi là giải thoát mà chưa có thể được Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nên gọi là chẳng thật. Do chẳng thật nên gọi là chẳng chân, đời vị lai sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nên gọi là vô thường. Do được tám Thánh đạo vô lậu nên gọi là tịnh lạc. Này thiện nam tử ! Nếu biết như vậy thì chính là biết Niết Bàn, chẳng gọi là Phật tính, Như Lai, Pháp, Tăng, thật tính, hư không.  Sao gọi là Bồ tát biết Phật tính ? Phật tính có sáu. Những gì là sáu ? Một là thường, hai là tịnh, ba là thật, bốn là thiện, năm là sẽ thấy, sáu là chân. Lại có bảy việc, một là khả chứng, sáu cái còn lại như trên. Ðó gọi là Bồ tát biết đến Phật tính. Sao gọi là Bồ tát biết tướng Như Lai ? Như Lai tức là tướng giác, tướng thiện, Thường Lạc Ngã Tịnh, giải thoát, chân thật thị hiện đạo có thể thấy. Ðó gọi là Bồ tát biết tướng Như Lai. Sao gọi là Bồ tát biết tướng của pháp ? Pháp thì hoặc thiện hay chẳng thiện, hoặc thường hay chẳng thường, hoặc lạc hay chẳng lạc (vui), hoặc ngã hay vô ngã, hoặc tịnh hay bất tịnh, hoặc biết hay chẳng biết, hoặc giải hay chẳng giải, hoặc chân hay chẳng chân, hoặc tu hay chẳng tu, hoặc thầy (sư) hay chẳng phải thầy, hoặc thật hay chẳng thật. Ðó gọi là Bồ tát biết đến tướng của pháp. Sao gọi là Bồ tát biết đến tướng của Tăng? Tăng thì hoặc là Thường, lạc, ngã, tịnh, là tướng đệ tử, tướng có thể thấy, thiện, chân, chẳng thật. Vì sao vậy ? Vì tất cả Thanh Văn đều đắc Phật đạo vậy. Vì sao gọi là chân ? Vì giác ngộ pháp tính. Ðó gọi là Bồ tát biết đến tướng của Tăng. Sao gọi là Bồ tát biết đến thật tướng ? Thật tướng thì hoặc thường hay vô thường, hoặc lạc hay vô lạc, hoặc ngã hay vô ngã, hoặc tịnh hay vô tịnh, hoặc thiện hay bất thiện, hoặc có hay không, hoặc Niết Bàn hay chẳng phải Niết Bàn, hoặc giải thoát hay chẳng phải giải thoát, hoặc biết hay chẳng biết, hoặc đoạn hay chẳng đoạn, hoặc chứng hay chẳng chứng, hoặc tu hay chẳng tu, hoặc thấy hay chẳng thấy. Ðó gọi là thật tướng, chẳng phải là Niết Bàn, Phật tính, Như Lai, Pháp, Tăng, hư không. Ðó gọi là Bồ tát nhân tu Ðại Niết Bàn như vậy nên biết được Niết Bàn, Phật tính, Như Lai, Pháp, Tăng, thật tướng, hư không..v.v… tướng pháp sai biệt. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu chẳng thấy hư không. Vì sao vậy ? Vì Phật và Bồ tát tuy có năm mắt nhưng đã chẳng thấy. Chỉ có tuệ nhãn mới có thể thấy hư không đó. Sự thấy của tuệ nhãn là không có pháp có thể thấy. Vậy nên gọi là thấy. Nếu thấy không có vật gọi là hư không thì hư không như vậy mới gọi là thật. Do sự thật này nên gọi là vô thường. Do vô thường nên không lạc, ngã, tịnh. Này thiện nam tử ! Trống không gọi là không có pháp, không có pháp gọi là trống không (không). Ví như thế gian không có vật gọi là trống không. Tính hư không cũng lại như vậy, không sở hữu nên gọi là hư không. Này thiện nam tử ! Tính của chúng sinh cùng tính hư không đều không  thật tính. Vì sao vậy ? Vì như người nói rằng, trừ diệt vật có, nhiên hậu làm ra không, nhưng mà hư không này thật chẳng thể làm. Vì sao vậy ? Vì không sở hữu vậy. Do không có nên phải biết là không có không. Tính của hư không này nếu có thể làm thì gọi là vô thường mà nếu vô thường thì chẳng gọi là hư không. Này thiện nam tử ! Như người thế gian nói rằng, hư không không sắc, không ngăn ngại, thường trụ chẳng biến dịch. Vậy nên đời xưng pháp hư không là “đại” thứ năm. Này thiện nam tử ! Mà hư không này thật không có tính. Do ánh sáng nên gọi là hư không, thật ra không có hư không. Giống như thế đế thật ra không có tính ấy, nhưng vì chúng sinh nên nói có thế đế. Này thiện nam tử ! Thể của Niết Bàn cũng lại như vậy, không có trụ xứ, những là chỗ đoạn phiền não của các đức Phật nên gọi là Niết Bàn. Niết Bàn tức là Thường, lạc, ngã, tịnh. Niết Bàn tuy lạc nhưng chẳng phải thọ lạc mới là niềm vui Tịch diệt thượng diệu. Các đức Phật Như Lai có hai thứ lạc, một là Tịch diệt lạc, hai là Giác tri lạc. Thể của Thật tướng có ba thứ lạc, một là Thọ lạc, hai là Tịch diệt lạc, ba là Giác tri lạc. Phật tính có một lạc, do thường kiến nên khi được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì gọi là Bồ Ðề lạc.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu chỗ đoạn phiền não là Niết Bàn thì việc này chẳng vậy ! Vì sao ? Vì đức Như Lai thuở trước mới thành đạo Phật, đến bên dòng sông Ni Liền Thiền. Bấy giờ, ma vương cùng quyến thuộc đến chỗ đức Phật mà nói lên rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Thời gian Niết Bàn đến rồi ! Vì sao đức Phật chẳng vào Niết Bàn ?” Ðức Phật bảo rằng : “Này ma vương ! Ta nay chưa có nhiều đệ tử đa văn, giỏi giữ gìn cấm giới, trí thông minh, linh lợi, có thể giáo hóa chúng sinh. Vậy nên ta chẳng vào !” Nếu nói rằng, chỗ đoạn phiền não là Niết Bàn thì các Bồ tát.v.v… ở vô lượng kiếp đã đoạn dứt phiền não thì vì sao chẳng được xưng là Niết Bàn. Cùng đều là chỗ đoạn nhưng vì duyên gì độc xưng chư Phật có Niết Bàn còn Bồ tát thì không vậy ? Nêu đoạn phiền não chẳng phải Niết Bàn thì vì sao đức  Như Lai thuở trước bảo ông Bàlamôn Sinh Danh rằng : “Thân này của ta hôm nay tức là Niết Bàn !” Lại khi đức Như Lai ở tại nước Tỳ Xá Ly, Ma vương lại khải thỉnh đức Như Lai, thuở xưa vì chưa có đệ tử đa văn, trì giới, trí thông minh, linh lợi có thể giáo hóa chúng sinh nên chẳng vào Niết Bàn, nay đã đầy đủ vì sao chẳng vào ? Bấy giờ, đức Như Lai liền bảo Ma rằng : “Ông nay chớ sinh tư tưởng lo chậm ! Lùi về sau ba tháng nữa, ta sẽ vào Niết Bàn !” Thưa đức Thế Tôn ! Nếu giả sử diệt độ chẳng phải là Niết Bàn thì vì sao đức Như Lai tự hẹn ba tháng sẽ Bát Niết Bàn ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu đoạn phiền não là Niết Bàn thì đức Như Lai thuở trước mới ở tại dưới cây Bồ Ðề Ðạo Tràng, khi đoạn trừ phiền não liền chính là Niết Bàn thì vì sao nay lại nói lùi về sau ba tháng, sẽ bát Niết Bàn ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu giả sử, bấy giờ Niết Bàn thì sao mới vì các lực sĩ của thành Câu Thi Na mà nói rằng, hậu dạ sẽ Bát Niết Bàn ? Ðức Như Lai thành thật mà sao phát ra lời nói hư dối này ?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương rằng :

– Này thiện nam tử ! Nếu nói rằng, Như Lai được tướng Quảng trường thiệc thì phải biết Như Lai ở vô lượng kiếp đã lìa khỏi vọng ngữ. Tất cả các đức Phật và các vị Bồ tát, phàm đã nói ra là thành thật chắc chắn, không hư dối. Này thiện nam tử ! Như lời ông nói, ma Ba Tuần thuở trước, khải thỉnh ta vào Niết Bàn, này thiện nam tử ! Nhưng mà vua ma này chân thật chẳng biết định tướng của Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì ý của Ba Tuần cho là chẳng giáo hóa chúng sinh, mặc nhiên mà trụ tức là Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ví như người đời thấy người chẳng nói, không có sự tạo tác liền cho là người này như chết, không khác. Ma Ba Tuần cũng lại như vậy, ý cho là Như Lai chẳng hóa độ chúng sinh; lặng thinh không lời nói thì liền cho là Như Lai vào Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Như Lai chẳng nói Phật, Pháp, chúng Tăng không tướng sai biệt mà chỉ nói hai pháp Thường trụ, Thanh tịnh không sai biệt vậy. Này thiện nam tử ! Phật cũng chẳng nói, Phật và Phật tính, Niết Bàn không có tướng sai biệt mà chỉ nói, thường hằng, bất biến không sai biệt vậy. Này thiện nam tử ! Phật cũng chẳng nói, Niết Bàn Thật tướng không có tướng sai biệt mà chỉ nói, thường có thật chẳng biến dịch không sai biệt vậy. Này thiện nam tử ! Lúc bấy giờ, các đệ tử Thanh Văn của ta sinh ra tranh tụng như các Tỳ-kheo ác của Câu Ðàm Di trái phản lời dạy của ta, phạm nhiều cấm giới, nhận vật bất tịnh, tham cầu lợi dưỡng, hướng về những người bạch y mà tự ngợi khen rằng : “Ta được vô lậu, gọi là quả Tu đà hoàn”… cho đến “Ta được quả A la hán”, hủy nhục người khác, đối với Phật, Pháp, Tăng, giới luật, hòa thượng chẳng sinh lòng cung kính. Ông ở trước ta nói rằng, những vật như vầy đức Phật cho phép nuôi chứa, những vật như vầy đức Phật cho phép nuôi chứa. Ta cũng nói rằng, những vật như vậy ta quả thật chẳng cho phép. Họ lại phản lời ta rằng, những vật như vậy quả thật là Phật cho phép. Những người ác như vậy chẳng tin lời nói của ta. Vì những người này nên ta bảo ma Ba Tuần : “Người chớ lo chậm, lui về sau ba tháng, ta sẽ bát Niết Bàn !” Này thiện nam tử ! Nhân những ác Tỳ-kheo như vậy nên khiến cho những đệ tử Thanh Văn thọ học chẳng thấy thân ta, chẳng nghe pháp của ta, liền nói rằng, đức Như Lai vào với Niết Bàn. Chỉ có các Bồ tát có thể thấy thân ta thường trụ, nghe pháp của ta nên chẳng nói rằng, ta vào Niết Bàn. Ðệ tử Thanh Văn tuy lại phát ra lời rằng, Như Lai Niết Bàn. Nhưng mà ta thật chẳng vào với Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Nếu đệ tử Thanh Văn sở hữu của ta, có người nói rằng, Như Lai vào Niết Bàn thì phải biết người này chẳng phải là đệ tử của ta, đó là bè đảng của ma, là người ác tà kiến, chẳng phải là chánh kiến vậy. Nếu có người nói rằng, Như Lai chẳng vào Niết Bàn thì phải biết người đó là chân đệ tử của ta, chẳng phải là bè đảng của ma, là người chánh kiến, chẳng phải là tà kiến vậy. Này thiện nam tử ! Ta ban đầu chẳng thấy trong đệ tử có người nói rằng, Như Lai chẳng giáo hóa chúng sinh, mặc nhiên mà trụ gọi là Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ví như ông trưởng giả có nhiều vợ con, bỏ đi đến phương khác mà chưa được khoảnh khắc trở về. Các con đều cho là người cha đã đi mãi mà ông trưởng giả này thật chẳng chết mất. Các con ông điên đảo đều sinh ra tư tưởng chết mất. Ðệ tử Thanh Văn cũng lại như vậy, chẳng thấy ta nên liền cho là Như Lai đã ở vùng Ta La Song Thọ của thành Câu Thi Na mà Bát Niết Bàn, nhưng ta thật chẳng Bát Niết Bàn mà đệ tử Thanh Văn sinh ra Niết Bàn tưởng. Này thiện nam tử ! Ví như đèn sáng, có người che nó, người còn lại không biết, cho là đèn đã tắt. Nhưng ánh sáng đèn này thật ra cũng chẳng tắt mà do chẳng biết nên sinh tư tưởng đèn tắt đó thôi. Ðệ tử Thanh Văn cũng lại như vậy, tuy có tuệ nhãn nhưng do phiền não che khuất nên khiến cho tâm điên đảo, chẳng thấy chân thân mà liền vọng sinh ra tư tưởng diệt độ. Nhưng ta chân thật chẳng rốt ráo diệt độ. Này thiện nam tử ! Như người mù bẩm sinh chẳng thấy mặt trời, mặt trăng. Do chẳng thấy nên họ chẳng biết tướng ngày đêm, sáng tối. Do chẳng biết nên họ liền nói không có mặt trời, mặt trăng chân thật. Thật sự có mặt trời mặt trăng mà người mù chẳng thấy. Do chẳng thấy mà sinh ra tư tưởng điên đão nên họ nói rằng, không mặt trời, mặt trăng. Ðệ tử Thanh Văn  cũng lại như vậy, như người mù bẩm sinh kia, chẳng thấy Như Lai, liền cho là Như Lai vào với Niết Bàn. Nhưng Như Lai thật chẳng vào Niết Bàn, do điên đảo tưởng nên họ sinh tâm như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như mây mù che khuất mặt trời, mặt trăng. Người ngu si liền nói rằng, không có mặt trời mặt trăng mà mặt trời mặt trăng là thật có, nhưng vì bị che khuất nên chúng sinh chẳng thấy đó thôi. Ðệ tử Thanh Văn cũng lại như vậy, vì các phiền não che khuất mắt trí tuệ nên chẳng thấy Như Lai, liền nói rằng Như Lai vào với Diệt Ðộ vậy. Này thiện nam tử ! Chính là Như Lai thị hiện hạnh Anh nhi chẳng phải là Diệt độ. Này thiện nam tử ! Như khi mặt trời của cõi Diêm phù đề lặn thì chúng sinh chẳng thấy vì núi Ðen ngăn che. Nhưng mặt trời này, tính chân thật, không lặn mất, do chúng sinh chẳng thấy nên sinh ra tư tưởng lặn mất. Ðệ tử Thanh Văn cũng lại như vậy, bị sự chê phủ của những núi phiền não nên chẳng thấy thân ta. Do chẳng thấy nên họ liền đối với Như Lai sinh ra tư tưởng Diệt độ mà ta chân thật chẳng rốt ráo diệt độ mãi. Vậy nên, ở thành Tỳ Xá Ly, ta bảo ma Ba Tuần rằng : “Lùi về sau ba tháng nữa, ta sẽ Niết Bàn!” Này thiện nam tử ! Như Lai huyền kiến (thấy thông qua lẽ huyền bí, thấy trước) Bồ tát Ca Diếp lùi về sau ba tháng thì căn lành sẽ thành thục, cũng thấy trước ông Tu Bạt Ðà La ở núi Hương an cư xong rồi sẽ đến chỗ ta. Vậy nên ta bảo vua ma Ba Tuần, lùi về sau ba tháng sẽ vào Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Có các lực sĩ mà số họ đến năm trăm người trọn xong ba tháng nữa, cũng sẽ được phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ta vì những điều đó nên bảo với Ba Tuần rằng, lùi về sau ba tháng sẽ Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Như ông Thuần Ðà.v.v… và năm trăm người con gái Ly Xa Am La quả, lùi về sau ba tháng thì thiện căn của đạo tâm Vô Thượng sẽ thành thục. Vì những người đó nên ta bảo Ba Tuần, lùi về sau ba tháng sẽ Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ông Tu Na Sát Ða gần gũi ngoại đạo Ni Kiền Tử.v.v… Ta vì người đó nói pháp trọn mười hai năm mà người đó tà kiến chẳng tin, chẳng thọ. Ta biết rễ cây tà kiến của người này lùi về sau ba tháng nhất định có thể nhổ đứt. Ta vì việc này nên bảo với Ba Tuần rằng, lùi về sau ba tháng sẽ Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Vì nhân duyên gì mà thuở trước, ở bên dòng sông Ni Liên, ta bảo với ma Ba Tuần, ta nay chưa có đệ tử nhiều trí tuệ, vậy nên chẳng được vào Niết Bàn? Khi ta muốn vì năm vị Tỳ-kheo.v.v.. ở thành Ba La Nại chuyển pháp luân. Tiếp theo ta lại muốn vì năm vị Tỳ-kheo.v.v.. như là Gia Xa, Phú Na, Tỳ Ma La Xà, Kiều Phạm Ba Ðề, Tu Bà Hầu, tiếp theo lại muốn vì bọn ông trưởng giả Úc Dà gồm năm mươi người.v.v… thứ đến lại muốn vì vua Tần Bà Ta La của nước Ma Dà Ðà cũng vô lượng người trời.v.v… thứ đến lại muốn vì Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp  với môn đồ gồm năm trăm Tỳ-kheo, thứ đến lại muốn vì hai người anh em Na Ðề Ca Diếp, Dà Gia Ca Diếp và năm trăm đệ tử, thứ đến lại muốn vì ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên với hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo.v.v.. chuyển bánh xe diệu pháp. Vậy nên ta bảo vua ma Ba Tuần rằng, chẳng Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Có cái tên là Niết Bàn chẳng phải Ðại Niết Bàn. Sao gọi là Niết Bàn chẳng phải Ðại Niết Bàn ? Do chẳng thấy Phật tính nên vô thường, vô ngã, chỉ có lạc và tịnh. Do nghĩa này nên tuy đoạn phiền não nhưng chẳng được gọi là Ðại Niết Bàn. Nếu thấy Phật tính, có thể đoạn phiền não thì đó gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Do thấy Phật tính nên được gọi là Thường Lạc Ngã Tịnh. Do nghĩa này nên đoạn trừ phiền não thì cũng được xưng là Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Niết là nói rằng “chẳng”. Bàn là nói rằng “Diệt”. Nghĩa Chẳng Diệt (Bất Diệt) gọi là Niết Bàn. Lại chữ Bàn nghĩa là che (phú). Nghĩa Chẳng Che (Bất Phú) mới gọi là Niết Bàn. Bàn nghĩa là khứ lai, chẳng khứ, chẳng lai mới gọi là Niết Bàn. Bàn nghĩa là thủ (lấy), chẳng thủ mới gọi là Niết Bàn. Bàn nghĩa là bất định, định không bất định mới gọi là Niết Bàn. Bàn nghĩa là mới (tâm), không mới nên mới gọi là Niết Bàn. Bàn nghĩa là chướng ngại, nghĩa không chướng ngại mới gọi là Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Có đệ tử Ưu Lâu Ca Ca Tỳ La.v.v… nói rằng, Bàn là gọi tướng nghĩa không tướng thì mới gọi là Niết Bàn. Này thiện nam tử! Bàn là nói có, nghĩa không có mới gọi là Niết Bàn. Bàn gọi là hòa hợp, nghĩa không hòa hợp mới gọi là Niết Bàn. Bàn là nói khổ, nghĩa không khổ mới gọi là Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ðoạn trừ phiền não thì chẳng gọi là Niết Bàn, chẳng sinh ra phiền não mới gọi là Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Các đức Phật Như Lai chẳng khởi phiền não thì đó gọi là Niết Bàn. Trí tuệ sở hữu đối với pháp không ngăn ngại thì đó là Như Lai. Như Lai chẳng phải là phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát thì đó gọi là Phật tính. Thân tâm trí tuệ của Như Lai đầy khắp vô lượng vô biên atăngkỳ cõi, không có sự chướng ngại thì đó gọi là hư không. Như Lai thường trụ không có biến dịch thì gọi rằng Thật tướng. Do nghĩa này nên Như Lai chân thật chẳng rốt ráo Niết Bàn. Ðó gọi là Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu thành tựu đầy đủ công đức thứ bảy.

Này thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu thành tựu đầy đủ công đức thứ tám ? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thì đoạn trừ năm việc, lìa xa năm việc, thành tựu sáu việc, tu tập năm việc, thủ hộ một việc, thân cận bốn việc, tin thuận một sự thật, lòng giỏi giải thoát, tuệ khéo giải thoát. Này thiện nam tử ! Sao gọi là Bồ tát đoạn trừ năm việc ? Ðó là đoạn trừ năm ấm, sắc, thọ, tưởng, hành thức. Cái gọi là ấm, nghĩa ấy thế nào ? Có thể khiến cho chúng sinh, sinh tử nối tiếp nhau, chẳng lìa khỏi gánh nặng, phân tán tụ hợp bị sự nhiếp lấy của ba đời, tìm cầu nghĩa thật của nó rõ ràng chẳng thể được… do những nghĩa này nên gọi là ấm. Ðại Bồ tát tuy thấy sắc ấm nhưng chẳng thấy tướng của sắc ấy. Vì sao vậy ? Vì ở trong mười sắc mà tìm kiếm tính của nó đều chẳng thể được. Vì thế giới nên nói rằng là ấm. Thọ có một trăm lẻ tám. Tuy thấy Thọ ấm nhưng đầu tiên không có thọ tướng. Vì sao vậy ? Thọ tuy một trăm lẻ tám nhưng lý không nhất định chân thật. Vậy nên Bồ tát chẳng thấy Thọ ấm. Tưởng, Hành, Thức.v.v… cũng lại như vậy. Ðại Bồ tát thấy sâu năm ấm chính là nơi phát sinh ra căn bản của phiền não vậy. Do nghĩa này nên dùng phương tiện khiến cho chúng đoạn trừ. Sao gọi là Bồ tát xa lìa năm việc ? Ðó là xa lìa năm kiến. Những gì là năm ? Một là thân kiến, hai là biên kiến, ba là tà kiến, bốn là giới thủ (giới là cấm giới), năm là kiến thủ (thủ là lấy). Nhân năm kiến này sinh ra sáu mươi hai kiến. Nhân những kiến này mà sinh tử chẳng dứt. Vậy nên Bồ tát phòng hộ chẳng gần gũi. Sao gọi là Bồ tát thành tựu sáu việc ? Ðó là sáu niệm xứ. Những gì là sáu ? Một là niệm Phật, hai là niệm Pháp, ba là niệm Tăng, bốn là niệm Thiên, năm là niệm Thí (bố thí), sáu là niệm Giới (giới cấm). Ðó gọi là Bồ tát thành tựu sáu việc. Sao gọi là Bồ tát tu tập năm việc ? Ðó là tu tập năm định, một là Tri định, hai là Tịch định, ba là thân tâm thọ khoái lạc định, bốn là Vô lạc định, năm là Thủ Lăng Nghiêm định. Tu tập năm thứ định tâm như vậy thì được gần với Ðại Bát Niết Bàn. Vậy nên Bồ tát lòng phải siêng năng tu tập. Sao gọi là Bồ tát thủ hộ một việc ? Ðó là thủ hộ tâm Bồ Ðề. Ðại Bồ tát thường phải siêng thủ hộ tâm Bồ Ðề, giống như người đời thủ hộ con một, cũng như kẻ chột hộ giữ một mắt còn lại, như người đi giữa đồng trống thủ hộ kẻ dẫn đường. Bồ tát thủ hộ tâm Bồ Ðề cũng lại như vậy. Nhân thủ hộ tâm Bồ Ðề như vậy nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nhân được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nên Thường Lạc Ngã Tịnh đầy đủ mà có, tức là Ðại Bát Niết Bàn Vô Thượng. Vậy nên Bồ tát thủ hộ một pháp. Sao gọi là Bồ tát thân cận bốn việc ? Ðó là bốn vô lượng tâm. Những gì là bốn ? Một là Ðại Từ, hai là Ðại Bi, ba là Ðại Hỷ, bốn là Ðại Xả. Nhân bốn tâm này có thể khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh phát tâm Bồ Ðề. Vậy nên Bồ tát bộc lòng thân cận. Sao gọi là Bồ tát tin thuận một thật ? Bồ tát biết rõ tất cả chúng sinh đều về một đạo. Một đạo là gọi Ðại Thừa vậy. Các đức Phật, Bồ tát vì chúng sinh nên phân thừa đó làm ba. Vậy nên Bồ tát tin thuận chẳng nghịch lại. Sao gọi là Bồ tát, tâm giỏi giải thoát ? Tâm tham, sân, si đoạn diệt vĩnh viễn thì đó gọi là tâm Bồ tát giỏi giải thoát. Sao gọi là Tuệ Bồ tát giỏi giải thoát ? Ðại Bồ tát đối với tất cả pháp biết không có chướng ngại. Ðó gọi là tuệ Bồ tát giỏi giải thoát. Nhân tuệ giải thoát nên điều xưa chẳng nghe mà nay được nghe, điều xưa chẳng thấy mà nay được thấy, nơi xưa chẳng đến mà nay được đến.

Lúc bấy giời, Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, tâm giải thoát thì nghĩa chẳng vậy ! Vì sao vậy ? Vì tâm vốn không ràng buộc. Sở dĩ vì sao ? Vì tâm này vốn tính chẳng bị sự trói buộc của các kết tham dục,, sân nhuế, ngu si. Nếu vốn không ràng buộc thì sao mà nói rằng, tâm khéo giải thoát ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu bản tính của tâm chẳng bị sự ràng buộc của tham kết thì nhờ nhân duyên gì mà có thể buộc ? Như người bấu vào sừng mà sừng vốn không tướng sữa thì tuy thêm công lực, sữa cũng không từ đó ra. Người bấu vào vú thì chẳng như vậy, sữa tuy ít nhưng thêm công lực thì ra nhiều. Tâm cũng như vậy, vốn không tham thì sao nay lại có ? Nếu tâm vốn không tham mà sau mới có thì các đức Phật, Bồ tát vốn không tướng tham thì nay đều nên có ! Thưa đức Thế Tôn ! Ví như người con gái bằng đá vốn không tướng con, tuy thêm nhiều công lực với vô lượng nhân duyên nhưng con chẳng thể được. Tâm cũng như vậy, vốn không tướng tham thì tuy tạo đủ mọi duyên nhưng tham không từ đó sinh ra. Thưa đức Thế Tôn ! Như dùi gỗ ẩm ướt thì lửa chẳng thể được. Tâm cũng như vậy, tuy dùi cầu tham nhưng chẳng thể được…. thì sao gọi là tham kết có thể ràng buộc tâm ? Thưa đức Thế Tôn ! Ví như ép cát thì dầu chẳng thể được. Tâm cũng như vậy, tuy lại ép tâm nhưng tham chẳng thể được. Phải biết rằng, tham và tâm hai lý đều khác mà giả sử lại có tham đó thì đâu có thể làm bẩn tâm ? Thưa đức Thế Tôn ! Ví như có người mắc áo ở hư không thì nhất định chẳng trụ, đặt tham vào tâm cũng lại như vậy, dù cho đủ thứ nhân duyên cũng chẳng thể khiến cho tham ràng buộc được tâm. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu tâm không tham gọi là giải thoát thì các đức Phật, Bồ tát vì sao chẳng nhổ gai nhọn trong hư không. Thưa đức Thế Tôn ! Tâm đời quá khứ chẳng gọi là giải thoát, tâm đời vị lai cũng không gọi là giải thoát, tâm đời hiện tại chẳng cùng chung đạo thì tâm của những đời nào gọi là được giải thoát? Thưa đức Thế Tôn ! Như vậy đèn quá khứ chẳng thể diệt tối, đèn đời vị lai cũng chẳng diệt tối, đèn đời hiện tại lại chẳng diệt chẳng diệt tối. Vì sao vậy ? Vì ánh sáng cùng bóng tối, cả hai chẳng tồn tại đồng thời. Tâm cũng lại như vậy thì làm sao mà nói rằng, tâm được giải thoát ? Thưa đức Thế Tôn ! Tham cũng là có, nếu tham không có thì khi thấy tướng nữ chẳng nên sinh tham. Nếu nhân tướng nữ mà được sinh ra thì phải biết là tham chân thật là có và do có tham nên đọa ba đường ác. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như có người thấy bức vẽ hình người con gái cũng lại sinh tham. Do sinh ra tham nên được đủ thứ tội. Nếu vốn không tham thì sao thấy bức họa mà sinh ra tham ? Nếu tâm không tham thì sao đức Như Lai nói rằng, tâm Bồ tát được giải thoát ? Nếu tâm có tham thì sao thấy tướng rồi nhiên hậu mới sanh ? Còn chẳng thấy tướng thì chẳng sinh ra vậy ? Con nay hiện thấy có quả báo ác thì phải biết là có tham dục, sân nhuế, ngu si cũng lại như vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như chúng sinh có thân vô ngã mà các phàm phu ngang ngược kể ngã tưởng, tuy có ngã tưởng nhưng chẳng đọa ba đường thì sao người tham đối với không tướng nữ mà khởi lên nữ tưởng thì đọa ba đường ác ? Thưa đức Thế Tôn ! Ví như dùi cây mà sinh ra lửa. Nhưng tính lửa này trong mọi duyên không có thì do nhân duyên gì mà được sinh ra vậy ? Thưa đức Thế Tôn ! Tham cũng như vậy, trong sắc không có tham và hương, vị, xúc, pháp cũng lại không tham thì sao đối với sắc, hương, vị, xúc, pháp mà sinh ra tham vậy ? Nếu trong mọi duyên đều không tham thì sao chỉ một mình chúng sinh sinh ra tham, còn các đức Phật, Bồ tát mà chẳng sinh vậy ? Thưa đức Thế Tôn ! Tâm cũng chẳng định. Nếu tâm định thì không có tham dục, sân nhuế, ngu si. Nếu tâm chẳng định thì làm sao mà nói rằng, tâm được giải thoát ? Tham cũng chẳng định mà nếu chẳng định thì làm sao nhân đó sinh ra ba đường ác ? Tham và cảnh giới, cả hai đều bất định. Vì sao vậy ? Vì đều duyên vào một sắc rồi hoặc sinh ra tham, hoặc sinh ra sân, hoặc sinh ra ngu si. Vậy nên tham cùng với cảnh giới, cả hai đều bất định. Nếu chúng đều bất định thì vì sao đức Như Lai nói rằng, Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thì tâm được giải thoát ?

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Tâm cũng chẳng bị sự ràng buộc của tham kết, cũng chẳng phải chẳng ràng buộc, chẳng phải là giải thoát, chẳng phải chẳng giải thoát, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải hiện tại – chẳng phải quá khứ – chẳng phải vị lai. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì tất cả các pháp không tự tính. Này thiện nam tử ! Có các ngoại đạo nói rằng : “Nhân duyên hòa hợp thì có kết quả sinh ra. Nếu trong mọi duyên vốn không tính sinh mà có thể sinh ra quả thì hư không chẳng sinh cũng ứng sinh ra quả. Hư không chẳng sinh chẳng phải là nhân mà do trong mọi duyên vốn có tính quả. Vậy nên tập hợp mà được sinh ra quả. Sở dĩ vì sao ? Vì như Ðề Bà Ðạt muốn tạo tường vách thì lấy bùn đất chẳng lấy màu sắc, muốn tạo bức tượng vẽ thì gom màu sắc chẳng lấy cỏ cây, làm thì lấy vải lụa chẳng lấy bùn cây, làm nhà thì lấy bùn chẳng lấy vải lụa… Do người lấy nên phải biết là trong đó đều có thể sinh ra quả. Do có thể sinh ra quả nên phải biết là trong nhân nhất định trước có tính. Nếu không tính thì trong một vật cần phải sinh ra tất cả các vật. Nếu đó có thể lấy, có thể tạo tác, có thể sinh ra thì phải biết là trong đó nhất định có quả trước. Nếu không có quả thì người chẳng lấy, chẳng làm, chẳng sinh ra mà chỉ có hư không không lấy, không làm nên có thể sinh ra tất cả vạn vật. Do có nhân nên như hạt Ni câu đà trụ ở cây Ni câu đà, trong sữa có đề hồ, trong tơ có vải, trong bùn có bình”. Này thiện nam tử ! Tất cả phàm phu mù tối vô minh tạo tác ra định thuyết này : Sắc có nghĩa tham trước, tâm có tính tham, lại nói rằng, tâm phàm phu có tính tham, cũng có tính giải thoát, gặp nhân duyên tham thì tâm sinh ra tham, nếu gặp giải thoát thì tâm giải thoát. Tuy họ làm ra lý thuyết này nhưng nghĩa đó chẳng đúng. Có những phàm phu lại nói rằng : “Trong tất cả nhân đều không có quả. Nhân có hai thứ, một là vi tế, hai là thô đại. Tế (nhỏ) tức là thường, thô (to) thì vô thường. Từ nhân vi tế chuyển thành nhân thô đại, rồi từ nhân thô này chuyển lại thành quả. Nhân thô vô thường nên quả cũng vô thường”. Này thiện nam tử ! Có các phàm phu lại nói rằng : “Tâm cũng không nhân, tham cũng không nhân. Do thời tiết nên sinh ra tâm tham”. Bọn người như vậy do chẳng thể biết nhân duyên của tâm nên luân hồi trong sáu đường, chịu đủ sinh tử. Này thiện nam tử ! Ví như con chó bị cột vào trụ, trọn ngày chạy quanh cây trụ, chẳng thể được rời khỏi. Tất cả phàm phu cũng lại như vậy, bị gông vô minh trói buộc vào trụ sinh tử, chạy quanh hai mươi lăm cõi hữu, chẳng thể được rời khỏi. Này thiện nam tử ! Ví như có người rơi vào nhà xí (nhà cầu) đã được ra khỏi rồi mà lại trở vào, như người khỏi bệnh mà lại bị mầm bệnh, như người đi đường gặp nơi hoang vắng, đã qua được rồi mà lại quay trở lại, lại như rửa sạch rồi trở lại trét bùn đất. Tất cả phàm phu cũng lại như vậy, đã được giải thoát chỗ không sở hữu, chỉ chưa được thoát khỏi Phi Phi Tưởng Xứ mà lại đi đến trở lại ba đường ác. Vì sao vậy ? Vì tất cả phàm phu chỉ quan sát ở kết quả, chẳng quan sát nhân duyên. Như con chó đuổi theo hòn đất, chẳng đuổi theo người. Người phàm phu cũng lại như vậy, chỉ quan sát kết quả, chẳng quan sát nhân duyên. Do chẳng quan sát nhân duyên nên từ Phi Tưởng lùi trở lại ba đường ác. Này thiện nam tử ! Các đức Phật, Bồ tát trọn chẳng định nói, trong nhân có quả, trong nhân không quả và có không quả, chẳng phải có chẳng phải không quả. Nếu nói rằng, trong nhân trước tiên định có quả và định không quả, định có không quả, định chẳng phải có chẳng phải không quả thì phải biết những người này đều là bè đảng của ma, hệ thuộc với ma, tức là ái nhân mà ái nhân như vậy thì chẳng thể đoạn trừ vĩnh viễn sự ràng buộc của sinh tử, chẳng biết tướng của tâm và cả tướng của tham. Này thiện nam tử ! Các đức Phật, Bồ tát hiển bày Trung đạo. Vì sao vậy ? Vì các ngài tuy nói các pháp chẳng phải có, chẳng phải không mà chẳng quyết định. Sở dĩ vì sao ? Vì nhân mắt, nhân sắc, nhân ánh sáng, nhân tâm, nhân niệm thì thức được sinh ra. Thức này quyết định chẳng ở trong mắt, trong sắc, trong ánh sáng, trong tâm, trong niệm, cũng chẳng phải trung gian, chẳng phải có, chẳng phải không, từ duyên sinh ra nên gọi đó là hữu (có), không tự tính nên gọi đó là vô (không). Vậy nên Như Lai nói rằng, các pháp chẳng phải có, chẳng phải không. Này thiện nam tử ! Các đức Phật, Bồ tát trọn chẳng định nói, tâm có tịnh tính và bất tịnh tín. Tâm tịnh hay bất tịnh không trụ xứ, từ duyên sinh ra tham nên nói rằng, chẳng phải không; vốn không tính tham nên nói rằng, chẳng phải có. Này thiện nam tử ! Từ nhân duyên nên tâm sinh ra tham, từ nhân duyên nên tâm giải thoát. Này thiện nam tử ! Nhân duyên có hai, một là theo với sinh tử, hai là theo Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Có nhân duyên nên tâm chung với tham sinh ra, chung với tham diệt hết. Có nhân duyên nên tâm chung với tham sinh ra, chẳng chung với tham diệt. Có nhân duyên nên tâm chẳng chung với tham sinh ra, chung với tham đều diệt. Có nhân duyên nên tâm chẳng chung với tham sinh ra, chẳng chung với tham diệt. Sao gọi là tâm chung với tham sinh ra, chung với tham đều diệt ? Này thiện nam tử ! Nếu có phàm phu chưa đoạn trừ tâm tham, tu tập tâm tham thì người như vậy, tâm chung với tham sinh ra, tâm chung với tham diệt. Tất cả chúng sinh chẳng đoạn tâm tham thì tâm chung với tham sinh ra, tâm chung với tham diệt. Như chúng sinh cõi Dục, tất cả đều có vị thiền sơ địa, hoặc tu hay chẳng tu thường được thành tựu, gặp nhân duyên nên liền được ngay, nói nhân duyên là gọi hỏa tai vậy. Tất cả phàm phu cũng lại như vậy, hoặc tu hay chẳng tu, thì tâm chung với tham sinh, tâm chung với tham diệt. Vì sao vậy ? Vì chẳng đoạn trừ tham vậy. Sao gọi là tâm chung với tham sinh, chẳng chung với tham diệt ? Ðệ tử Thanh Văn có nhân duyên nên sinh ra tâm tham. Rồi họ sợ tâm tham nên tu quán tưởng xương trắng. Ðó gọi là tâm chung với tham sinh, chẳng chung với tham diệt. Lại có tâm chung với tham sinh, chẳng chung với tham diệt. Như người Thanh Văn chưa chứng được bốn quả, có nhân duyên nên sinh ra tâm tham, khi chứng bốn quả thì tâm tham được diệt. Ðó gọi là tâm chung với tham sinh, chẳng chung với tham diệt. Bậc Ðại Bồ tát khi được Bất Ðộng Ðịa thì tâm chung với tham sinh, chẳng chung với tham diệt. Sao gọi là tâm chẳng chung với tham sinh, chung với tham đều diệt ? Nếu Ðại Bồ tát đoạn trừ tham tâm, rồi vì chúng sinh nên thị hiện có tham. Do thị hiện nên có thể khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh hỏi han thính thọ thiện pháp, thành tựu đầy đủ. Ðó gọi là chẳng chung với tham sinh, chung với tham đều diệt. Sao gọi là chẳng chung với tham sinh, chẳng chung với tham diệt ? Ðó là A la hán, Duyên Giác, chư Phật, Bồ tát trừ hàng Bất Ðộng địa. Ðó gọi là chẳng chung với tham sinh, chẳng chung với tham diệt. Do nghĩa này nên các đức Phật, Bồ tát chẳng quyết định nói rằng, tâm thì tính vốn tịnh, tính vốn chẳng tịnh. Này thiện nam tử ! Tâm này chẳng cùng với tham kết hòa hợp, cũng lại chẳng cùng với sân si hòa hợp. Này thiện nam tử ! Ví như mặt trời, mặt trăng bị sự che phủ của khói, bụi, mây, mù và a tu la. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sinh chẳng thể được thấy. Tuy họ chẳng thể thấy tính của mặt trời, mặt trăng nhưng nhất định chúng chẳng cùng năm sự che chắn kia hòa hợp. Tâm cũng như vậy, do nhân duyên nên sinh ra tham kết. Chúng sinh tuy nói tâm cùng với tâm hòa hợp nhưng mà tính của tâm này thật chẳng cùng hòa hợp. Nếu tâm tham này tức là tính tham hay tâm chẳng tham này tức là tính chẳng tham thì tâm chẳng tham chẳng thể là tham và tâm tham kết chẳng thể chẳng tham. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên tham dục kết chẳng thể làm bẩn tâm. Các đức Phật, Bồ tát phá hoại vĩnh viễn tham kết. Vậy nên nói rằng, tâm được giải thoát. tất cả chúng sinh từ nhân duyên nên sinh ra tham kết, từ nhân duyên nên tâm được giải thoát. Này thiện nam tử ! Ví như núi Tuyết, chỗ cheo leo cao chót vót, người cùng vượn đều chẳng thể đi, hoặc lại có chỗ vượn có thể đi, người chẳng thể đi, hoặc lại có chỗ người cùng vượn, cả hai có thể đi. Này thiện nam tử ! Chỗ người cùng vượn có thể đi là như nơi các thợ săn thuần dùng nhựa keo đặt lên đó dùng để bẫy bắt vượn. Con vượn dại nên đưa tay chạm vào, chạm rồi dính tay. Vượn muốn thoát tay nên lấy chân đạp thì chân lại mắc vào theo. Muốn thoát chân nên vượn dùng miệng cắn vào đó thì miệng lại dính luôn. Như vậy năm chỗ đều không được giải thoát. Ðến đây, người thợ săn dùng gậy xâu qua con vượn khiêng trở về nhà. Chỗ cao của núi Tuyết ví cho sự được chánh đạo của Phật, Bồ tát. Nhỉ hầu (vượn) là ví các phàm phu. Thợ săn là ví ma Ba Tuần. Nhựa keo là ví tham dục kết. Người cùng vượn đều chẳng thể đi là ví những phàm phu, ma vương Ba Tuần đều chẳng thể đi. Vượn có thể đi, người chẳng thể đi là ví những người có trí tuệ của ngoại đạo, những ác ma.v.v… tuy do năm dục nhưng chẳng thể ràng buộc. Người cùng vượn đều có thể đi là ví tất cả phàm phu và ma Ba Tuần thường ở trong sinh tử, chẳng thể tu hành. Người phàm phu bị năm dục trói buộc, khiến cho ma Ba Tuần tự tại đem đi như người thợ săn kia đánh bẫy nhựa bắt vượn khiêng về nhà. Này thiện nam tử ! Ví như vị quốc vương an trụ ở nước mình thì thân tâm an vui, nếu đến cõi khác thì bị mọi khổ sở. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, nếu có thể tự trụ ở cảnh giới của mình thì được an vui, nếu đến cảnh giới khác thì gặp ác ma chịu những khổ não. Tự cảnh giới là gọi bốn niệm xứ. Cảnh giới khác là gọi năm dục vậy. Sao gọi là hệ thuộc với ma ? Có những chúng sinh, vô thường thấy thưòng – thường thấy vô thường, khổ thấy ra vui – vui thấy ra khổ, chẳng tịnh thấy tịnh – tịnh thấy chẳng tịnh, vô ngã thấy ngã – ngã thấy vô ngã, chẳng phải thật giải thoát dối thấy giải thoát – chân thật giải thoát thấy chẳng phải giải thoát, chẳng phải Thừa thấy Thừa – Thừa thấy chẳng phải Thừa… Người như vậy gọi là hệ thuộc ma mà hệ thuộc ma thì lòng chẳng thanh tịnh. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu thấy các pháp chân thật là có định tướng riêng biệt thì phải biết người này khi thấy sắc thì liền tạo ra sắc tướng… cho đến thấy thức cũng tạo ra thức tướng, thấy nam tạo ra nam tướng, thấy nữ tạo ra nữ tướng, thấy ngày tạo ra tướng ngày, thấy tháng tạo ra tướng tháng, thấy năm tạo ra tướng năm, thấy ấm tạo ra tướng ấm, thấy nhập tạo ra tướng nhập, thấy giới tạo ra tướng giới. Người thấy như vậy thì gọi hệ thuộc ma mà hệ thuộc ma thì tâm chẳng thanh tịnh. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu thấy ngã là sắc, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc và sắc thuộc về ngã… cho đến thấy ngã là thức, trong thức có ngã, trong ngã có thức và thức thuộc về ngã… thì người thấy như vậy là hệ thuộc với ma, chẳng phải là đệ tử của ta. Này thiện nam tử ! Ðệ tử Thanh Văn của ta xa lìa mười hai bộ kinh của Như Lai, tu tập đủ thứ kinh sách của ngoại đạo, chẳng tu nghiệp xuất gia tịch tịnh, toàn kinh doanh việc tại gia thế tục. Những gì gọi là việc tại gia ? Nhận nuôi chứa tất cả vật bất tịnh như nô tỳ, điền trạch, voi ngựa, xe cộ, la lừa, gà trỉ, chó vượn, heo dê, đủ thứ lúa, mì…, xa lìa Sư Tăng, gần gũi bạch y, trái phản lời dạy của Thánh và hướng về những người bạch y nói rằng : “Ðức Phật cho phép Tỳ-kheo nhận nuôi chứa đủ thứ vật bất tịnh. Ðó gọi là tu tập việc tại gia. Có các đệ tử chẳng vì Niết Bàn, chỉ vì lợi dưỡng mà thân cận thính thọ mười hai bộ kinh. Vật của Chiêu Ðề tăng và vật của tăng mạn (?), áo mặc, ăn tham như tự của mình có, san tham tiếc rẻ của nhà người khác, khen ngợi gần gũi quốc vương và các vương tử, bói quẻ cát hung, tính vận đầy vơi (giàu nghèo), cờ vay, đánh bạc, đánh sư bồ (một lối đánh bạc), ném bầu (một cách đánh bạc), gần gũi Tỳ-kheo ni và những xử nữ (gái chưa chồng), nuôi hai sa di, thường giao du với nhà thợ săn, đồ tể, bán rượu và chỗ ở của bọn chiên đà la, đủ thứ buôn bán, tay tự làm ăn, nhận sự sai khiến của lân quốc, thông báo tin tức… Những người hành động như vậy thì phải biết là quyến thuộc của ma, chẳng phải đệ tử của ta. Do nhân duyên  này nên tâm chung với tham sinh, tâm chung với tham diệt… cho đến tâm chung với si sinh, tâm chung với si diệt (si và tâm chung sinh, chung diệt) cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Do nhân duyên này nên tính của tâm chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Vậy nên ta nói rằng, tâm được giải thoát. Nếu có người chẳng nhận, chẳng nuôi chứa tất cả vật bất tịnh, vì Ðại Niết Bàn thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, sao chép, giải nói thì phải biết những người đó là đệ tử chân chính của ta, chẳng hành động theo cảnh giới của ác ma Ba Tuần tức là tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Do tu tập nên họ chẳng chung với tham sinh, chẳng chung với tham diệt. Ðó gọi là Bồ tát tu kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu thành tựu đầy đủ công đức thứ tám.

*********

– Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát tu Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu thành tựu đầy đủ công đức thứ chín ? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu, đầu tiên phát khởi năm việc đều được thành tựu. Những gì là năm ? Một là Tín, hai là Trực tâm, ba là Giới (cấm), bốn là thân cận bạn lành, năm là đa văn. Sao gọi là Tín? Ðại Bồ tát tin vào bố thí Tam bảo có quả báo, tin vào đạo Nhất Thừa hai đế, lại không đường khác nhưng vì muốn cho chúng sinh mau được giải thoát nên các đức Phật Bồ tát phân biệt làm ba, tin đệ nhất nghĩa đế, tin thiện phương tiện … Ðó gọi là tín. Người tin như vậy  thì hoặc các Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên ma, Phạm thiên, tất cả chúng sinh chẳng thể hoại họ. Nhân sự tin này nên được tính của Thánh nhân. Tu hành bố thí hoặc nhiều hay ít đều được gần với Ðại Bát Niết Bàn, chẳng rơi vào sinh tử. Giới cấm, đa văn, trí tuệ cũng lại như vậy. Ðó gọi là Tín. Tuy có tín này mà cũng chẳng thấy. Ðó gọi là Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thành tựu việc đầu tiên.

Sao gọi là Trực tâm ? Ðại Bồ tát đối với các chúng sinh tác khởi tâm chất trực (ngay thẳng chân chất). Tất cả chúng sinh nếu gặp nhân duyên thì sinh ra nịnh hót quanh co còn Bồ tát chẳng vậy. Vì sao vậy ? Vì giỏi lý giải các pháp đều do nhân duyên. Ðại Bồ tát tuy thấy những tội lỗi ác của chúng sinh nhưng nhất định chẳng nói ra. Vì sao vậy ? Vì sợ họ sinh ra phiền não mà nếu sinh phiền não thì rơi vào đường ác. Như vậy Bồ tát nếu thấy có ít việc thiện của chúng sinh thì khen ngợi họ. Sao gọi là thiện ? Ðó gọi là Phật tính, khen ngợi Phật tính nên khiến cho các chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Bấy giờ Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, Ðại Bồ tát khen Phật tính khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thì nghĩa này chẳng phải vậy. Vì sao vậy ? Vì đức Như Lai lúc ban đầu khai Kinh Niết Bàn, nói có ba thứ. Một là nếu có người bệnh mà được lương y, thuốc và người xem bệnh thì bệnh dễ khỏi. Như người bệnh ấy chẳng được thì chẳng thể lành bệnh. Hai là nếu được hay chẳng được đều chẳng thể khỏi bệnh. Ba là nếu được hay chẳng được đều có thể khỏi bệnh. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, nếu gặp bạn lành, các đức Phật, Bồ tát nghe nói diệu pháp thì có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Như những chúng sinh ấy chẳng gặp thì chẳng thể phát tâm như là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, Bích Chi Phật. Hai là tuy người ấy gặp bạn lành, các đức Phật, Bồ tát, nghe nói diệu pháp cũng chẳng thể phát tâm, hoặc họ chẳng gặp nên cũng chẳng thể phát tâm như là bọn Nhất xiển đề. Ba là hoặc gặp hay chẳng gặp, tất cả đều có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác như là Bồ tát. Nếu nói rằng, gặp cùng chẳng gặp đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì đức Như Lai hôm nay làm sao nói rằng, nhân khen Phật tính khiến cho các chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu gặp bạn lành, các đức Phật, Bồ tát, nghe nói diệu pháp và cả chẳng gặp mà đều chẳng thể phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì phải biết nghĩa này cũng lại chẳng phải vậy. Vì sao vậy ? Vì người như vậy sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Bọn Nhất xiển đề do có Phật tính nên hoặc nghe hay chẳng nghe đều cũng sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ! Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói thì những gì gọi là Nhất xiển đề vậy? Ðó là kẻ đoạn dứt thiện căn. Nghĩa như vậy cũng lại chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì chẳng đoạn dứt Phật tính. Như vậy là lý Phật tính chẳng thể đoạn thì làm sao đức Phật nói đoạn các thiện căn. Như đức Phật thuở trước nói mười hai bộ kinh, thiện có hai thứ, một là Thường, hai là Vô thường. Thường là chẳng đoạn, vô thường thì có thể đoạn nên đọa địa ngục. Thường chẳng thể đoạn thì vì sao chẳng ngăn chận ? Phật tính chẳng đoạn thì chẳng phải Nhất xiển đề mà vì sao đức Như Lai nói như vậy là Nhất xiển đề ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu nhân Phật tính phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì vì sao đức Như Lai rộng vì chúng sinh nói mười hai bộ Kinh ? Thưa đức Thế Tôn! Ví như bốn dòng sông, xuất phát từ ao A Nậu Ðạt. Nếu có trời, người, các đức Phật Thế Tôn nói rằng những dòng sông này chẳng chảy vào biển cả mà sẽ trở lại nguồn cũ thì không có điều này. Tâm Bồ Ðề cũng lại như vậy, nếu người có Phật tính thì hoặc nghe hay chẳng nghe, hoặc giới (cấm) hay chẳng phải giới, hoặc thí hay chẳng phải thí, hoặc tu hay chẳng phải tu, hoặc trí hay chẳng phải trí… đều nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Thưa đức Thế Tôn ! Như mặt trời từ trong núi Ưu Ðà Diên hiện ra đi đến hướng chánh Nam (?). Nếu mặt trời nghĩ  rằng, ta chẳng đến phương Tây mà trở lại phương Ðông thì không có điều này. Phật tính cũng vậy, nếu chẳng nghe, chẳng giới, chẳng thí, chẳng tu, chẳng trí…. chẳng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì không có điều này. Thưa đức Thế Tôn ! Các đức Phật Như Lai nói rằng, tính của nhân quả chẳng phải có, chẳng phải không, nghĩa như vậy cũng chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì như trong sữa ấy không có tính cao sữa thì không có cao sữa (lạc), hạt Ni câu đà không tính năm trượng thì chẳng thể sinh chất cây năm trượng. Nếu trong Phật tính không cây Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì làm sao sinh ra cây Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác được? Do nghĩa này nên lời nói, nhân quả chẳng phải có, chẳng phải không thì nghĩa như vậy làm sao tương ứng ?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ðời có hai loại người rất là hiếm có như hoa Ưu đàm. Một là người chẳng làm pháp ác, hai là người có tội có thể sám hối. Người như vậy rất là hiếm có. Lại có hai loại người, một là làm ơn, hai là nghĩ đến ơn. Lại có hai loại người, một là người hỏi han thính thọ pháp mới, hai là người ôn cũ chẳng quên. Lại có hai hạng người, một là người tạo ra cái mới, hai là người sửa cái cũ. Lại có hai loại người, một là người ưa nghe pháp, hai là người ưa nói pháp. Lại có hai loại người, một là người giỏi vấn nạn, hai là người giỏi giải đáp. Người giỏi vấn nạn là thân ông đó ! Người giỏi giải đáp gọi là Như Lai vậy ! Này thiện nam tử ! Nhân sự khéo hỏi này, ta liền được chuyển bánh xe pháp Vô Thượng, có thể làm khô cây đại thọ mười hai nhân duyên, có thể độ vô biên dòng sông lớn sinh tử, có thể cùng ma vương Ba Tuần chung chiến đấu, có thể xô ngã sự kiến lập thắng tràng của Ba Tuần. Này thiện nam tử ! Như trước ta đã nói, ba thứ mà người bệnh gặp là lương y, người xem bệnh, thuốc tốt và cả việc chẳng gặp được thì bệnh đều được khỏi. Nghĩa này ra sao ? Nghĩa này là nếu được hay chẳng được gọi là định thọ mạng. Sở dĩ vì sao ? Vì người này đã ở trong vô lượng đời, tu ba thứ thiện là thượng, trung, hạ. Do tu ba thứ thiện như vậy nên được định thọ mạng như người Uất Ðan Việt thọ mạng một ngàn năm. Có người gặp bệnh, nếu được lương y, thuốc tốt, người coi bệnh và cả việc chẳng được đều được khỏi bệnh. Vì sao vậy ? Vì đã được định mệnh. Này thiện nam tử ! Như lời ta nói, nếu có người bệnh được gặp lương y, thân tốt, người trông bệnh thì bệnh được trừ khỏi, nếu chẳng gặp thì chẳng được khỏi. Nghĩa này ra sao ? Này thiện nam tử ! Người như vậy thọ mạng chẳng định, mạng tuy chẳng tận nhưng có chín nhân duyên có thể làm chết yểu thọ mạng ấy. Những gì là chín ? Một là biết  ăn chẳng yên mà lại ăn. Hai là ăn nhiều. Ba là đồ ăn trước chưa tiêu mà lại ăn nữa. Bốn là đi đại tiểu tiện lợi chẳng theo thời tiết. Năm là khi bệnh chẳng theo lời dạy của thầy thuốc. Sáu là chẳng theo lời dạy bảo của người coi bệnh. Bảy là cố cưỡng lại chẳng thổ ra. Tám là đi đêm, do đi đêm nên bị ác quỷ đánh. Chín là phòng nhà lỗi sai. Do những nhân duyên này nên ta nói người bệnh nếu gặp lương y, thuốc tốt thì bệnh có thể khỏi còn nếu chẳng gặp thì chẳng thể bớt. Này thiện nam tử ! Như trước ta nói, nếu gặp hay chẳng gặp đều chẳng thể khỏi. Nghĩa này ra sao ? Có người mạng tận, nếu gặp hay chẳng gặp đều chẳng thể khỏi. Vì sao vậy ? Vì mạng đã hết vậy. Do nghĩa này nên ta nói người bệnh, nếu gặp lương y, thuốc tốt và cả chẳng gặp đều chẳng thể được khỏi. Chúng sinh cũng vậy, người phát tâm Bồ Ðề nếu gặp bạn lành, các đức Phật, Bồ tát hỏi han, thính thọ thâm pháp hay chẳng gặp được thì đều sẽ thành tựu. Vì sao vậy ? Vì người ấy có thể phát tâm Bồ Ðề như người Uất Ðan Việt được định thọ mạng. Như lời ta nói, từ Tu đà hoàn đến Bích Chi Phật nếu nghe lời nói thâm pháp của bạn lành, các đức Phật, Bồ tát thì phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, còn nếu chẳng gặp các đức Phật, Bồ tát nghe nói thâm pháp thì chẳng thể phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Như người mạng bất định vì chín nhân duyên nên mạng chết yểu. Như người bệnh đó gặp lương y, thuốc tốt thì bệnh được khỏi còn nếu chẳng gặp thì bệnh chẳng khỏi. Vậy nên ta nói gặp Phật, Bồ tát, nghe nói thâm pháp thì có thể phát tâm, còn nếu chẳng gặp thì chẳng thể phát tâm. Như ta trước đã nói, nếu gặp bạn lành, các đức Phật, Bồ tát, nghe nói thâm pháp và nếu chẳng gặp cũng đều chẳng thể phát tâm thì nghĩa này ra sao ? Này thiện nam tử ! Bọn Nhất xiển đề nếu gặp bạn lành, các đức Phật, Bồ tát nghe nói thâm pháp và cả chẳng gặp đều chẳng được lìa khỏi tâm Nhất xiển đề. Vì sao vậy ? Vì đoạn thiện pháp vậy. Còn sở dĩ vì sao bọn Nhất xiển đề cũng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ? Nếu chúng có thể phát tâm Bồ Ðề thì chẳng lại gọi là Nhất xiển đề. Này thiện nam tử ! Do nhân duyên gì nói rằng, Nhất xiển đề được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ? Bọn Nhất xiển đề thật chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác như người mạng tận tuy gặp lương y, thuốc tốt, người coi bệnh nhưng chẳng thể được khỏi. Vì sao vậy ? Vì mạng hết vậy. Này thiện nam tử ! Nhất siển gọi là tin, đề gọi là chẳng đủ. Tin chẳng đủ nên gọi là Nhất xiển đề. Phật tính chẳng phải tin, chúng sinh chẳng phải đủ. Do chẳng đủ nên sao gọi là có thể đoạn ? Nhất siển gọi là thiện phương tiện, đề gọi là chẳng đủ. Tu thiện phương tiện chẳng đầy đủ nên gọi là Nhất xiển đề. Phật tính chẳng phải là tu thiện phương tiện, chúng sinh chẳng phải đủ. Do chẳng đủ nên sao gọi là có thể đoạn? Nhất siển gọi là tấn, đề gọi là chẳng đủ. Tấn chẳng đủ nên gọi là Nhất xiển đề. Phật tính chẳng phải tấn, chúng sinh chẳng phải đủ. Do chẳng đủ nên sao gọi là có thể đoạn ? Nhất siển gọi là niệm, đề gọi là chẳng đủ. Niệm chẳng đủ nên gọi là Nhất xiển đề. Phật tính chẳng phải niệm, chúng sinh chẳng phải đủ. Do chẳng đủ nên sao gọi là có thể đoạn ? Nhất siển gọi là định, đề gọi là chẳng đủ. Ðịnh chẳng đủ nên gọi là Nhất xiển đề. Phật tính chẳng phải định, chúng sinh chẳng phải đủ. Do chẳng đủ nên sao gọi là có thể đoạn ? Nhất siển gọi là tuệ, đề gọi là chẳng đủ. Tuệ chẳng đủ nên gọi là Nhất xiển đề. Phật tính chẳng phải tuệ, chúng sinh chẳng phải đủ. Do chẳng đủ nên sao gọi là có thể đoạn ? Nhất siển gọi là vô thường thiện, đề gọi là chẳng đủ. Do vô thường thiện chẳng đủ nên gọi là Nhất xiển đề. Phật tính chẳng phải vô thường thiện chẳng phải bất thiện. Vì sao vậy ? Vì pháp yếu thiện từ phương tiện mà được mà Phật tính này chẳng phải phương tiện được. Vậy nên chẳng phải thiện. Vì sao lại gọi là chẳng phải bất thiện vậy? Vì có thể được thiện quả vậy. Thiện quả tức là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại thiện pháp thì sinh rồi được mà Phật tính này chẳng phải sinh rồi được. Vậy nên chẳng phải thiện. Do đoạn trừ sinh mà được các thiện pháp nên gọi là Nhất xiển đề. Này thiện nam tử ! Như lời ông nói, nếu Nhất xiển đề có Phật tính thì sao chẳng ngăn chận tội địa ngục ? Này thiện nam tử ! Trong Nhất xiển đề có Phật tính. Này thiện nam tử ! Ví như có vị vua nghe tiếng đàn không hầu. AÂm thanh đàn ấy thanh diệu, lòng liền đắm trước, tình ái niệm vui thích, không rời bỏ, liền bảo vị đại thần rằng : “AÂm thanh vi diệu như vậy từ đâu phát ra ?” Vị đại thần đáp rằng : “Âm thanh vi diệu như vậy từ cây đàn không hầu phát ra !” Nhà vua lại nói rằng : “Hãy đem âm thanh đó lại đây !” Lúc bấy giờ vị đại thần liền mang cây đàn không hầu đặt ở trước đức vua mà nói rằng : “Thưa đại vương! Ngài phải biết, đây tức là âm thanh”. Nhà vua nói rằng : “Ðàn không hầu hãy phát ra tiếng ! Hãy phát ra tiếng !” Nhưng mà tiếng đàn không hầu cũng chẳng phát ra. Lúc bấy giờ, vị đại vương liền cắt đứt dây của đàn ấy mà tiếng cũng chẳng phát ra. Ông đem da, gỗ của đàn ấy chẻ, xé ra hết để tìm kiếm tiếng đàn ấy mà cuối cùng chẳng thể được. Bấy giờ, vị đại vương liền giận vị đại thần, sao mà nói dối như vậy ? Vị đại thần bạch vua rằng : “Bàn về việc thử lấy âm thanh thì phương pháp chẳng như vậy mà nên dùng mọi duyên và phương tiện khéo léo thì âm thanh mới phát ra vậy. Chúng sinh, Phật cũng lại như vậy, không có trụ xứ, do phương tiện khéo nên có thể được thấy. Do có thể thấy nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Bọn Nhất xiển đề chẳng thấy Phật tính thì làm sao có thể ngăn chận tội của ba đường ác. Này thiện nam tử ! Nếu Nhất xiển đề tin có Phật tính thì phải biết người này chẳng đến ba đường, người này cũng chẳng gọi là Nhất xiển đề vậy. Do chẳng tự tin có Phật tính nên liền rơi vào ba đường mà rơi vào ba đường nên gọi là Nhất xiển đề.

Này thiện nam tử ! Như lời ông nói, nếu sữa không tính của váng sữa thì chẳng nên sinh ra váng sữa, hạt cây Ni câu đà không tính năm trượng thì chẳng nên có chất năm trượng. Người ngu si nói lời như vậy, còn kẻ trí thì nhất định chẳng phát ngôn như vậy. Vì sao vậy? Vì do vô tính vậy. Này thiện nam tử ! Như trong sữa có tính cao sữa thì chẳng cần lại nhờ sức mọi duyên. Này thiện nam tử ! Như sữa và nước đá nằm xen nhau đến cả tháng cũng nhất định chẳng thành cao sữa. Nếu dùng một giọt nước nhựa cây pha cầu cho vào trong sữa liền trở thành cao sữa. Nếu sữa vốn có cao sữa thì vì sao phải đợi duyên. Phật tính của chúng sinh cũng lại như vậy, nhờ mọi duyên nên liền có thể thấy, nhờ mọi duyên nên được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu cái đợi mọi duyên, rồi nhiên hậu mới thành thì tức là vô tính. Do vô tính nên có thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát thường khen cái thiện của con người và chẳng ca tụng cái khiếm khuyết của họ. Ðó gọi là tâm chất trực.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao gọi là lòng Bồ tát chất trực vậy? Ðại Bồ tát thường chẳng phạm ác. Giả sử các vị có lỗi lầm thì tức thời sám hối, đối với thầy, bạn đồng học nhất định chẳng che giấu, xấu hổ tự trách, chẳng dám làm nữa, ở trong tội nhẹ sinh ra tư tưởng tội rất nặng, nếu có người cật vấn thì đáp rằng, thật sự phạm tội. Người lại hỏi : “Tội này là tốt hay chẳng tốt ?” thì đáp rằng : “Chẳng tốt !” Người lại hỏi : “Tội này là thiện hay bất thiện ?” Ðáp rằng : “Bất thiện !” Người lại hỏi : “Tội này là thiện quả hay bất thiện quả ?” Ðáp rằng : “Là tội thật chẳng phải là thiện quả !” Người lại hỏi : “Ai đã tạo ra tội này ? Chắc chẳng phải là sở tác của Phật, Pháp, Tăng ?” Ðáp rằng : “Chẳng phải của Phật, Pháp, Tăng mà là sở tác của ta vậy.  Ðó là sự tập hợp cấu thành của phiền não”. Do trực tâm nên tin có Phật  tính mà tin Phật tính thì chẳng bị gọi là Nhất xiển đề. Do trực tâm nên gọi là đệ tử của Phật. Nếu thọ y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược của chúng sinh, mỗi thứ đều ngàn vạn mà chẳng đủ cho là nhiều. Ðó là tâm chất trực của Bồ tát vậy.

Sao gọi là Bồ tát tu trì giới ? Ðại Bồ tát thọ trì cấm giới chẳng vì để sinh lên trời, chẳng vì khủng bố… cho đến chẳng thọ giới chó, giới gà, giới trâu, giới trĩ, chẳng tạo tác phá giới, chẳng làm khuyết giới, chẳng làm giả giới, chẳng làm tạp giới, chẳng làm Thanh Văn giới mà thọ trì Ðại Bồ tát giới, Thi Balamật giới, được cụ túc giới, chẳng sinh ra kiêu mạn. Ðó gọi là Bồ tát tu Ðại Niết Bàn, đủ giới thứ ba.

Sao gọi là Bồ tát thân cận bạn lành ? Ðại Bồ tát thường vì chúng sinh nói về thiện đạo, chẳng nói ác đạo, nói ác đạo chẳng phải là quả báo thiện. Này thiện nam tử ! Thân ta tức là chân thiện tri thức của tất cả chúng sinh. Vậy nên ta có thể đoạn trừ tà kiến sở hữu của Bàlamôn Phú Dà La. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh thân cận ta thì tuy có nhân duyên ứng sinh vào địa ngục, nhưng liền được sinh lên trời. Như Tu na sát đa.v.v… ứng đọa vào địa ngục, do thấy ta nên liền được đoạn trừ nhân duyên địa ngục, sinh lên cõi trời Sắc. Tuy  có Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên.v.v… nhưng chẳng gọi là thiện tri thức chân thật của chúng sinh. Vì sao vậy ? Vì nhân duyên sinh tâm Nhất xiển đề. Này thiện nam tử ! Thuở trước, ta trụ ở nước Ba La Nại, ông Xá Lợi Phất dạy hai người đệ tử, một người quán tưởng xương trắng, một người dạy cho quán sổ tức (phép quán đếm hơi thở). Trải qua nhiều năm cả hai đều chẳng được định. Do nhân duyên này liền sinh ra tà kiến nên nói rằng : “Không có pháp Niết Bàn vô lậu. Nếu pháp ấy có thì ta nên được. Vì sao vậy ? Vì ta có thể giỏi trì sự thọ giới vậy”. Vào lúc ấy, ta thấy những Tỳ kheo đó sinh ra tà tâm này nên gọi ông Xá Lợi Phất mà quở trách rằng: “Ông chẳng khéo dạy ! Thế nào mới làm hai người đệ tử này điên đảo nói pháp ? Hai người đệ tử của ông, tính của họ đều khác. Một người là chủ giặt quần áo, một người là thợ vàng. Người thợ vàng nên dạy họ sổ tức, người giặt quần áo nên dạy họ quán tưởng bạch cốt. Do ông dạy nhầm nên khiến cho hai người này sinh ra tà ác”. Lúc bấy giờ, ta vì hai người này, đúng như sự đáp ứng của họ mà nói pháp. Hai người nghe rồi, được quả A la hán. Vậy nên ta là chân thiện tri thức của tất cả chúng sinh, chứ chẳng phải ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên.v.v… Nếu giả sử chúng sinh có kết rất nặng mà được gặp ta thì ta dùng phương tiện liền vì họ đoạn trừ. Như ông Nan Ðà em ta có ái dục rất nặng, ta dùng đủ thứ phương tiện khéo léo mà vì ông ấy đoạn trừ. Ông Ương Quật Ma La có sân nhuế nặng nhờ thấy ta nên sân nhuế liền đoạn trừ. Vua A Xà Thế có ngu si nặng, nhờ thấy ta nên lòng ngu si liền diệt. Như ông trưởng giả Bà Hy Dà, ở vô lượng kiếp, tích tập, thành tựu phiền não rất nặng, nhờ thấy ta nên liền đoạn diệt. Giả sử có người hạ tiện tệ ác mà gần gũi với ta làm đệ tử thì do nhân duyên này nên được tất cả người, trời cung kính, ái niệm. Tà kiến của ông Thi Lợi Cúc Ða xí thạnh, nhân thấy ta nên tà kiến liền diệt, nhân thấy ta nên đoạn trừ nhân của địa ngục, tạo tác duyên sinh lên trời. Như người Chiên đà la nghẹn thở, khi mạng sắp hết, nhân thấy ta nên trở lại được thọ mạng. Như ông Kiều Thi Ca, cuồng tâm thác loạn, nhân thấy ta nên trở lại được tâm như cũ. Như Cù Ðàm Di gầy ốm, con của nhà đồ tể, thường làm nghiệp ác, nhờ thấy ta nên liền lìa bỏ. Như Siển đề Tỳ kheo nhân thấy ta nên thà bỏ thân mạng, chẳng hủy phạm cấm giới. Như Tỳ kheo buộc cỏ (mặc áo cỏ ?) mà do nghĩa này nên Tỳ kheo A Nan nói là bán phạm hạnh, gọi là Thiện tri thức. Ta nói rằng, chẳng vậy ! Phải đầy đủ phạm hạnh mới gọi là Thiện tri thức. Ðó là Bồ tát tu Ðại Niết Bàn đầy đủ thân cận thiện tri thức thứ tư.

Sao gọi là Bồ tát đầy đủ đa văn ? Ðại Bồ tát vì Ðại Niết Bàn, mười hai bộ Kinh mà sao chép, đọc tụng, phân biệt, giải nói. Ðó gọi là Bồ tát đầy đủ đa văn. Trừ mười một bộ kinh mà chỉ thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói kinh Tỳ Phật Lược thì cũng gọi là Bồ tát đầy đủ đa văn. Trừ mười hai bộ kinh, nếu Bồ tát có thể thọ trì Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu, ghi chép, đọc tụng, phân biệt, giải nói thì đó cũng gọi là Bồ tát đầy đủ đa văn. Trừ toàn thể đầy đủ Kinh điển này mà nếu Bồ tát có thể thọ trì một bài kệ bốn câu, lại trừ luôn bài kệ này mà nếu Bồ tát có thể thọ trì câu : Như Lai thường trụ, tính không biến dịch thì đó gọi là Bồ tát đầy đủ đa văn. Lại trừ luôn việc này mà nếu hành giả biết là : Như Lai thường chẳng nói pháp, thì cũng gọi là Bồ tát đầy đủ đa văn. Vì sao vậy ? Vì pháp vô tính vậy. Như Lai tuy nói tất cả các pháp nhưng thường không có điều gì để nói. Ðó gọi là Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thành tựu đầy đủ đa văn thứ năm.

Này thiện nam tử ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân vì Ðại Niết Bàn thành tựu đầy đủ năm việc như vậy thì việc khó làm có thể làm, điều khó nhẫn có thể nhẫn (nhịn), của khó thí có thể thí (cho). Sao gọi là việc Bồ tát khó làm có thể làm ? Như nghe có người ăn một hạt mè mà được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì tin lời nói này nên cho đến vô lượng atăngkỳ kiếp, thường ăn một hạt mè. Hoặc nghe nói, vào lửa được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì ở vô lượng kiếp, ở tại địa ngục A tỳ để vào đám lửa hừng hực. Ðó gọi là việc khó làm Bồ tát có thể làm. Sao gọi là điều khó nhẫn Bồ tát có thể nhẫn ? Nếu nghe nhân duyên chịu khổ tay, gậy, dao, đá…, chặt, đánh mà được Ðại Niết Bàn thì liền ở vô lượng atăngkỳ kiếp, thân chịu đủ những thứ đó mà chẳng lấy làm khổ sở. Ðó gọi là việc khó nhẫn Bồ tát có thể nhẫn. Sao gọi là của khó thí Bồ tát có thể thí ? Như nghe nói, có thể dùng đất nước, thành quách, vợ con, đầu mắt, não tủy ban cho người mà được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì liền ở vô lượng atăngkỳ kiếp, dùng đất nước, thành quách, vợ con, đầu mắt, não tủy sở hữu của mình mà ban cho người. Ðó gọi là của khó thí Bồ tát có thể thí. Bồ tát tuy lại có thể làm việc khó làm nhưng nhất định chẳng nghĩ rằng : “Chính là việc làm của ta !”… cho đến của khó cho có thể cho cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con yêu thương rất nặng tình, dùng quần áo đẹp, đồ ăn ngon thượng diệu, tùy thời nuôi dưỡng, không gì thiếu thốn. Giả sử đứa con ấy đối với cha mẹ đã dấy khởi lòng khinh mạn, ác khẩu mạ nhục, nhưng cha mẹ vì yêu thương nên chẳng sinh ra sân hận, cũng chẳng nghĩ rằng : “Ta cho đứa trẻ này quần áo, đồ ăn, thức uống…” Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, nhìn các chúng sinh giống như đứa con một. Nếu đứa con gặp bệnh thì cha mẹ cũng bệnh theo. Vì con cầu thầy thuốc, siêng năng gia công trị liệu, cứu chữa. Khi bệnh đã khỏi rồi, cha mẹ nhất định chẳng sinh ý niệm : “Ta vì đứa trẻ này trị liệu bệnh khổ !” Bồ tát cũng vậy, thấy các chúng sinh gặp bệnh phiền não, sinh lòng ái niệm mà vì họ nói pháp. Chúng sinh nhờ nghe pháp nên các phiền não được đoạn trừ. Phiền não đoạn rồi, Bồ tát nhất định chẳng nghĩ rằng : “Ta vì chúng sinh đoạn trừ phiền não !” Nếu Bồ tát phát sinh ý niệm này thì nhất định chẳng được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Bồ tát chỉ tác khởi ý niệm này : “Không một chúng sinh được ta vì họ nói pháp khiến cho họ được đoạn trừ phiền não”. Ðại Bồ tát đối với các chúng sinh chẳng giận, chẳng mừng. Vì sao vậy ? Vì giỏi có thể tu tập Không tam muội vậy. Bồ tát nếu tu Không tam muội thì sẽ sinh giận, sinh mừng đối với ai đây ? Này thiện nam tử ! Ví như rừng núi bị lửa dữ đốt cháy hoặc con người đốn chặt hay bị nước cuốn trôi thì rừng cây này sẽ sinh ra giận, sinh ra mừng với ai đây ? Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, đối với các chúng sinh, không giận, không mừng. Vì sao vậy ? Vì tu Không tam muội vậy.

Bấy giờ Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Tính của tất cả các pháp tự Không sao ? Không không nên không ? Nếu tính tự Không thì chẳng cần tu Không, rồi nhiên hậu thấy Không. Sao đức Như Lai nói rằng, do tu Không mà thấy Không vậy? Nếu tính tự chẳng Không thì tuy tu Không nhưng chẳng thể khiến cho nó không !

– Này thiện nam tử ! Tính của tất cả các pháp vốn tự Không. Vì sao vậy ? Vì tính của tất cả pháp chẳng thể được vậy. Này thiện nam tử ! Tính của sắc chẳng thể được. Sao gọi là tính của sắc ? Tính của sắc chẳng phải là đất, nước lửa, gió, chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, chẳng phải có, chẳng phải Không thì sao sẽ nói rằng, sắc có tự tính. Do tính chẳng thể được nên nói là Không. Tất cả các pháp cũng lại như vậy. Do sự giống nhau, tiếp nối nhau nên các phàm phu thấy rồi mà nói rằng, tính các pháp chẳng không tịch. Ðại Bồ tát đầy đủ năm việc nên thấy tính của pháp vốn không tịch. Này thiện nam tử ! Nếu Samôn và Bàlamôn thấy tính của tất cả pháp chẳng không thì phải biết người đó chẳng phải là Samôn, chẳng phải là Bàlamôn, chẳng được tu tập Bát nhã Balamật, chẳng được vào với Ðại Bát Niết Bàn, chẳng được hiện thấy các đức Phật, Bồ tát mà họ là quyến thuộc của ma. Này thiện nam tử ! Tính của tất cả các pháp vốn tự không và cũng nhân Bồ tát tu tập không nên thấy các pháp không. Này thiện nam tử ! Như tính của tất cả pháp vô thường nên diệt có thể diệt nó. Nếu nó chẳng phải vô thường thì diệt chẳng thể diệt. Pháp hữu vi có tướng sinh nên sinh có thể sinh ra nó, có tướng diệt nên diệt có thể diệt nó. Tất cả các pháp có tướng khổ nên khổ có thể khiến cho nó khổ. Này thiện nam tử! Như tính của muối mặn có thể làm mặn vật khác, tính của đường ngọt có thể làm ngọt vật khác, tính rượu đắng rót trả lại có thể rót trả lại vật khác, gừng vốn tính cay có thể làm cay vật khác, quả Ha lê lặc đắng có thể làm đắng vật khác, quả Am la nhạt có thể làm nhạt vật khác, tính độc có thể hại khiến cho vật khác hại, tính của cam lộ khiến cho người chẳng chết, nếu đem hòa hợp với vật khác cũng có thể chẳng chết. Bồ tát tu không cũng lại như vậy, do tu không nên thấy tính của tất cả pháp đều không tịch.

Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương lại nói rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu muối có thể khiến cho chẳng phải mặn trở thành mặn mà tu Không tam muội nếu như vậy thì phải biết định này chẳng phải thiện, chẳng phải diệu, tính định ấy điên đảo. Nếu Không tam muội chỉ thấy không mà không là không có pháp thì thấy cái gì ?

– Này thiện nam tử ! Không tam muội này thấy pháp chẳng không có thể khiến cho nó không tịch nhưng chẳng phải điên đảo. Như muối làm cho vật chẳng phải mặn trở thành mặn. Tam muội Không này cũng lại như vậy, pháp chẳng không làm trở thành không. Này thiện nam tử ! Tham là hữu tính, chẳng phải là không tính. Tham nếu là không thì chúng sinh chẳng nên vì nhân duyên này mà rơi vào địa ngục. Nếu rơi vào địa ngục thì sao gọi tính tham sẽ là không vậy ? Này thiện nam tử ! Tính của sắc là có thì những tính gì gọi là điên đảo ? Do điên đảo nên chúng sinh sinh ra tham. Nếu tính sắc này chẳng phải điên đảo thì sao có thể khiến cho chúng sinh sinh ra tham ? Do sinh ra tham nên phải biết tính của sắc chẳng phải chẳng có. Do nghĩa này nên tu Không tam muội chẳng phải là điên đảo. Này thiện nam tử ! Tất cả phàm phu nếu thấy nữ nhân liền sinh ra nữ tướng. Bồ tát chẳng vậy, tuy thấy nữ nhân nhưng chẳng sinh ra nữ tướng. Do chẳng sinh ra nữ tướng nên tham chẳng sinh ra mà tham chẳng sinh nên chẳng phải điên đảo. Do người thế gian thấy có nữ nên Bồ tát theo đó nói rằng, có nữ nhân. Còn nếu khi thấy nam mà nói là nữ thì đó là điên đảo. Vậy nên ta vì ông Xà Ðề nói rằng : “Này ông Bàlamôn ! Nếu lấy ngày làm đêm thì tức là điên đảo, lấy đêm làm ngày thì cũng là điên đảo. Ngày là tướng ngày, đêm là tướng đêm thì sao gọi điên đảo được ? Này thiện nam tử ! Tất cả Bồ tát trụ ở chín địa thấy pháp có tính mà do sự thấy này nên chẳng thấy Phật tính. Nếu thấy Phật tính thì chẳng lại thấy tính của tất cả pháp. Do tu Không tam muội như vậy nên chẳng thấy tính của pháp mà do chẳng thấy nên thấy Phật tính. Các đức Phật, Bồ tát có hai thứ nói, một là hữu tính, hai là vô tính. Vì chúng sinh nên nói có pháp tính, vì các hiền thánh nên nói không pháp tính. Vì chẳng “Không” thì thấy pháp không nên tu không tam muội khiến cho được thấy “Không”. Không pháp tính thì cũng tu Không nên không. Do nghĩa này nên tu không thì thấy không. Này thiện nam tử ! Ông nói rằng, thấy không không là không có pháp thì thấy cái gì ? Này thiện nam tử! Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Ðại Bồ tát quả thật không sở kiến. Không sở kiến thì tức là không sở hữu không sở hữu thì tức là tất cả pháp. Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn thì đối với tất cả pháp đều không sở kiến. nếu có thấy thì chẳng thấy Phật tính, chẳng thể tu tập Bát nhã Balamật, chẳng được vào với Ðại Bát Niết Bàn. Vậy nên Bồ tát thấy tính của tất cả pháp không sở hữu. Này thiện nam tử ! Bồ tát chẳng những chỉ nhân thấy tam muội mà thấy không, Bát nhã Balamật cũng không, Thiền Balamật cũng không, Tỳ lê gia Balamật cũng không, Sằn đề Balamật cũng không, Thi Balamật cũng không, Ðàn Balamật cũng không, sắc cũng không,  nhãn cũng không, thức cũng không, Như Lai cũng không, Ðại Bát Niết Bàn cũng không… Vậy nên Bồ tát thấy tất cả pháp đều là không. Vậy nên khi ta ở tại thành Ca Tỳ La có bảo ông A Nan rằng : “Ông chớ sầu não kêu gào khóc lóc !” Ông A Nan liền đáp rằng : “Thưa đức Như Lai Thế Tôn ! Thân thuộc của con hôm nay đều bị diệt hết thì con làm sao chẳng buồn khóc vậy ? Ðức Như Lai cùng con đều sinh ra ở thành này, cùng đồng họ Thích, thân thích, quyến thuộc mà sao đức Như Lai một mình chẳng sầu não, nét mặt sáng ngời?” Này thiện nam tử ! Ta lại bảo rằng : “Này A Nan ! Ông thấy thành Ca Tỳ La chân thật là có, còn ta thấy không tịch, không sở hữu ! Ông thấy dòng họ Thích là thân thích, còn ta tu Không nên đều không sở kiến ! Do nhân duyên này nên ông sinh ra sầu khổ, còn thân ta thì dung nhan lại ngời sáng. Các đức Phật, Bồ tát tu tập Không tam muội như vậy nên chẳng sinh ra sầu não. Ðó gọi là Bồ tát tu Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu thành tựu đầy đủ công đức thứ chín. Này thiện nam tử ! Sao gọi là Bồ tát tu Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu thành tựu đầy đủ công đức thứ mười sau cùng ? Này thiện nam tử ! Bồ tát tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo, vào Ðại Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh, vì các chúng sinh phân biệt giải nói kinh Ðại Niết Bàn, hiển bày Phật tính. Nếu Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, Bích Chi Phật, Bồ tát tin lời nói này thì đều được vào với Ðại Bát Niết Bàn. Nếu họ chẳng tin thì luân hồi sinh tử.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Những chúng sinh nào đối với kinh này chẳng sinh lòng cung kính ?

– Này thiện nam tử ! Sau khi ta Niết Bàn, có đệ tử Thanh Văn ngu si, phá giới, ưa sinh ra tranh cãi, bỏ mười hai bộ Kinh mà đi đọc tụng đủ thứ sách điển của ngoại đạo, làm văn khen ngợi, tự tay ghi chép. Họ nhận nuôi chứa tất cả vật bất tịnh mà nói là Phật cho phép. Người như vậy đem chiên đàn tốt đổi lấy gỗ thường, đem vàng đổi lấy đá quặng, bạc đổi lấy bạch lạp (hợp kim thiếc pha chì), lụa đổi vải sô, đem vị cam lộ đổi lấy ác độc. Sao gọi là chiên đàn đổi lấy gỗ thường ? Như đệ tử của ta vì sự cúng dường nên hướng về những người bạch y, diễn nói kinh pháp. Tính tình buông thả, chẳng ưa nghe pháp, bạch y ở trên cao, Tỳ kheo ở dưới thấp, thêm dùng đủ thứ đồ ăn ngon mà cung cấp cho họ mà họ còn chẳng chịu nghe. Ðó gọi là đem chiên đàn đổi lấy gỗ thường. Sao gọi là đem vàng đổi lấy đá quặng ? Ðá quặng ví cho sắc, thanh, hương, vị, xúc. Vàng đem ví cho Giới. Các đệ tử của ta dùng nhân duyên sắc phá sự thọ giới. Ðó gọi là đem vàng đổi lấy quặng đá. Sao gọi là đem bạc đổi lấy bạch lạp. Bạc ví cho mười thiện, bạch lạp ví cho mười ác. Các đệ tử của ta buông bỏ mười thiện, làm mười pháp ác. Ðó gọi là đem bạc đổi lấy bạch lạp. Sao gọi là đem lụa đổi lấy vải thô. Vải thô ví cho không tàm không quí, lụa ví cho tàm quí (hổ thẹn). Các đệ tử của ta buông bỏ tàm quí, tập quen không tàm quí. Ðó gọi là đem lụa đổi lấy vải thô. Sao gọi là cam lộ đổi lấy độc dược. Ðộc dược là ví cho đủ thứ lợi dưỡng, cam lộ là ví cho các pháp vô lậu. Các đệ tử của ta vì lợi dưỡng nên hướng về các bạch y mà tự khen mình rằng, được vô lậu. Ðó gọi là đem cam lộ đổi lấy độc dược. Do những ác Tỳ kheo như vậy nên đang khi Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này lưu hành trải rộng cõi Diêm Phù Ðề mà có các đệ tử thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh này và diễn nói, lưu bố thì bị những Tỳ kheo ác như vậy giết hại họ. Những ác Tỳ kheo đó cùng nhau tụ hội, chung nhau lập định chế nghiêm ngặt : “Nếu có người thọ trì kinh Ðại Niết Bàn, sao chép, đọc tụng, phân biệt, diễn nói thì tất cả chẳng được ở chung, ngồi chung đàm luận nói năng. Vì sao vậy ? Vì Kinh Niết Bàn chẳng phải là của Phật, là sự tạo ra của tà kiến mà người tà kiến tức là Lục sư ngoại đạo. Lời nói của lục sư thì chẳng phải là Kinh điển của Phật. Sở dĩ vì sao ? Vì tất cả các đức Phật đều nói là các pháp vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Nếu nói rằng, các pháp Thường Lạc Ngã Tịnh thì đâu phải là lời nói Kinh của Phật. Các đức Phật, Bồ tát cho phép các Tỳ kheo nuôi chứa đủ thứ vật, còn lời nói của Lục sư thì chẳng cho phép đệ tử nuôi chứa tất cả vật. Nghĩa như vậy thì đâu phải là lời nói của Phật. Các đức Phật, Bồ tát chẳng cấm chế đệ tử đoạn dứt năm vị của trâu và cả ăn thịt máu, còn Lục sư chẳng cho phép ăn năm thứ muối, năm thứ vị của trâu và cả mỡ, máu. Nếu đoạn dứt điều đó thì đâu phải là chánh điển của Phật. Các đức Phật, Bồ tát diễn nói ba thừa mà trong Kinh này thuần nói Nhất thừa, gọi là Ðại Niết Bàn. Như lời nói Kinh này thì đâu phải là chánh điển của Phật. Các đức Phật rốt ráo vào với Niết Bàn, còn Kinh này nói rằng, Phật Thường Lạc Ngã Tịnh chẳng vào Niết Bàn. Kinh này chẳng ở trong số mười hai bộ Kinh tức là lời nói của ma, chẳng phải là lời nói của Phật”. Này thiện nam tử ! Người như vậy tuy là đệ tử của ta nhưng chẳng thể tin thuận Kinh Niết Bàn này. Này thiện nam tử ! Ðương lúc ấy, nếu có chúng sinh tin Kinh điển này, thậm chí chỉ nửa câu kệ thì phải biết người này là chân đệ tử của ta. Nhân họ tin như vậy nên liền thấy Phật tính vào với Niết Bàn.

Bấy giờ, Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Hay thay ! Hay thay ! Ngày hôm nay đức Như Lai khéo có thể khai thị Kinh Ðại Niết Bàn ! Thưa đức Thế Tôn ! Con nhân việc này liền được giải ngộ từng nửa câu, từng câu của Kinh Ðại Niết Bàn. Do giải được một câu đến nửa câu nên thấy ít Phật tính! Như lời đức Phật nói thì con cũng sẽ được vào Ðại Niết Bàn. Ðó gọi là Bồ tát tu Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu thành tựu đầy đủ công đức thứ mười.