Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VI. ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN ĐỆ NHỊ
(TT)

KINH VĂN:

Đắc Phật biện tài, trụ Phổ Hiền hạnh, thiện năng phân biệt chúng sinh ngữ ngôn, khai hóa hiển thị chân thật chi tế, siêu quá thế gian chư sở hữu pháp, tâm thường đế trụ độ thế chi đạo. Ư nhất thiết vạn vật tùy ý tự tại, vị chư thứ loại tác bất thỉnh chi hữu. Thọ trì Như Lai thậm thâm pháp tạng, hộ Phật chủng tánh, thường sử bất tuyệt. Hưng đại bi, mẫn hữu tình, diễn từ biện, thọ pháp nhãn, đỗ ác thú, khai thiện môn. Ư chư chúng sinh, thị nhược tự kỷ, chửng tế phụ hà, giai độ bỉ ngạn, tất hoạch chư Phật vô lượng công đức. Trí tuệ thánh minh, bất khả tư nghị. Như thị đẳng chư đại Bồ Tát, vô lượng vô biên, nhất thời lai tập.

VIỆT DỊCH:

Được biện tài của Phật, trụ Phổ Hiền hạnh, khéo có thể phân biệt tiếng nói của chúng sinh, khai hóa hiển thị chân   thật chi tế, vượt xa các pháp sở hữu của thế gian, tâm thường trụ chắc chắn nơi đạo độ thế. Đối với tất cả vạn vật tùy ý tự tại, vì các thứ loại làm bạn không thỉnh. Thọ trì pháp tạng thậm thâm của Như Lai, hộ trì chủng tánh của Phật khiến cho thường chẳng đoạn tuyệt. Phát lòng Đại Bi, thương xót hữu tình, diễn từ biện, trao pháp nhãn, lấp nẽo ác, mở cửa lành. Đối với các chúng sinh xem như chính mình, cứu giúp phò trợ khiến đều vượt lên bờ kia, đều đạt được vô lượng công đức của chư Phật. Trí tuệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn. Các đại Bồ Tát như vậy vô lượng vô biên cùng lúc nhóm đến.

GIẢNG:

“Đắc Phật biện tài” (Được biện tài của Phật): “Biện tài” là tài năng tuyên nói pháp nghĩa một cách khéo léo. Trong Pháp Hoa Sớ, ngài Gia Tường giảng: “Đáp ứng nhanh chóng từng căn cơ là Biện, lời lẽ bóng bẫy là Tài”.

Sách Hội Sớ giảng: “Ngôn âm dứt Hoặc là Biện, tùy cơ hay khéo là Tài, không điều gì chẳng phát xuất từ thánh trí”. Trong ba thuyết, thuyết này hay nhất.

Tịnh Ảnh Sớ lại bảo Như Lai đắc bốn trí vô ngại, dùng trí vô ngại hưng khởi Tứ Vô Ngại Biện (bốn thứ biện tài):

1. Nghĩa vô ngại biện: Biết rõ nghĩa lý của hết thảy các pháp vì thông đạt chẳng úng trệ.

2. Pháp vô ngại biện: Thấu đạt danh tự của hết thảy các pháp vì phân biệt chẳng úng trệ.

3. Từ vô ngại biện: Thông đạt tự tại, diễn giảng luận biện rất thông đối với danh từ, nghĩa lý của các pháp thuận theo ngôn ngữ khác biệt của hết thảy chúng sinh ở các nơi khác nhau mà vì họ diễn nói, khiến ai nấy đều được hiểu.

4. Nhạo thuyết vô ngại biện: Vui thuyết không hề bị chướng ngại, không thối lui, không sợ sệt, không bị ai đốn phá. Tùy theo căn tánh và pháp muốn được nghe của hết thảy chúng sinh mà vì họ diễn thuyết viên dung chẳng trệ.

Thuyết trên đây cho rằng các bậc Đại Sĩ khế hợp thánh trí đắc vô ngại biện tài, khéo thích ứng căn cơ, giảng giải rộng rãi, bàn luận khéo léo nên bảo: “Đắc Phật biện tài”.

Hiện tại, có một số đồng tu tại gia, xuất gia phát tâm muốn học giảng kinh, nhất định phải học biện tài của Phật. Nên biết: Biện tài của Phật lưu lộ từ trong tánh đức không phải do học mà có.

– Không do học mà có, vậy phải làm thế nào mới có được?

– Phía trước đã nói, phải được Định! Muốn khai mở trí tuệ, vẫn là từ phương pháp cũ mới có hiệu quả, đó là dạy bạn phải bắt đầu từ tu Định. Sau khi được Định mới học giảng kinh thì sự tiếp thu của bạn sẽ rất nhanh chóng, dễ dàng, vừa nghe liền khai ngộ. Tâm định có thể sinh trí tuệ.

– Hiện tại vì sao bạn học khổ cực đến như vậy?

– Vì bạn có vọng tưởng, có tạp niệm, có phiền não, có lo lắng, có vướng bận, bạn không có trí tuệ! Lên đài giảng kinh một giờ đồng hồ, bạn phải chuẩn bị hết mấy mươi giờ, rất khổ cực! Đến lúc nào bạn chuẩn bị chỉ một tiếng đồng hồ mà có thể giảng được mười tiếng rất tự tại, thì bạn an lạc.

Hiện tại, mọi người không chịu tu Định, vừa mở đầu liền muốn nghiên cứu kinh điển, nghiên cứu chú giải của người xưa. Cách này không được! Vĩnh viễn không thể khai ngộ! Hiện tại, tuy chúng ta không có thiền đường nhưng có Niệm Phật Đường. Tốt nhất, trước tiên nên đến Niệm Phật Đường thành thật, trung thực niệm Phật. Niệm được ba năm, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều không còn. Mỗi ngày từ sớm đến tối chỉ có một câu A Di Đà Phật, không nghĩ tưởng xằng bậy, tất cả vạn duyên đều buông bỏ, tâm bạn định lại. Sau đó đến nghe tôi giảng kinh, tính khả năng khai ngộ của bạn sẽ rất cao.

“Trụ Phổ Hiền hạnh”: “Phổ Hiền hạnh” chính là Hoa Nghiêm tam-muội mà phía trước đã nói. Chúng ta thấy bộ kinh này vừa mở đầu là “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền Đại Sĩ chi đức”. Ở đây, kinh chép “Trụ Phổ Hiền hạnh”, ý nói các Đại Sĩ đều an trụ trong đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.

Hạnh Phổ Hiền đơn giản mà nói: Trong tâm chỉ có ý niệm lợi ích chúng sinh, tạo phước xã hội, tạo phước nhân sinh, không có chút gì tự tư tự lợi. Cũng có thể nói: Hạnh Phổ Hiền là dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm từ bi làm tất cả công việc lợi ích chúng sinh, đây là hạnh Bồ Tát cao cấp, thù thắng nhất trong hạnh Phổ Hiền.

– Hạnh Phổ Hiền dáng vẻ ra sao?

– Dáng vẻ của hạnh Phổ Hiền chính là trong sinh hoạt thường ngày, đối nhân xử thế tiếp vật; cách nghĩ, cách thấy hoàn toàn tương ưng với tự tánh. Trên biểu hiện không hề khác biệt nhưng trên tâm lý thì có thay đổi: Lúc trước, mỗi niệm có ta, vì ta, vì lợi ích của ta v.v… Hiện tại, mỗi niệm đều vì lợi ích tất cả chúng sinh, vì đại chúng xã hội; người thế gian gọi là hy sinh phụng hiến. Thế nhưng ý niệm “hy sinh phụng hiến” cũng không nên có; nếu có ý niệm này, bạn vẫn còn có “ngã, sở”, vẫn là phàm phu chưa đạt đến tiêu chuẩn của hạnh Phổ Hiền.

– Phàm phu tu cái gì?

– Tu thiện hạnh! Nhân thiện tương lai ắt được quả báo thiện, đây không phải là hạnh Phổ Hiền. Quả báo của hạnh Phổ Hiền không ở trong ba đường thiện mà ở “Pháp Giới Nhất Chân”. Việc này chúng ta học Phật không thể không biết.

Hạnh Phổ Hiền, nếu tường tận mà nói chính là một bộ Kinh Hoa Nghiêm hoàn chỉnh. Triễn khai Kinh Hoa Nghiêm từ “như thị ngã văn” đến “tín thọ phụng hành”, mỗi chữ, mỗi câu đều là hạnh Phổ Hiền. Một người ngay trong cuộc sống có được duyên phận, học tập này là đại phước báo. Cái phước báo này không phải chỉ một đời mà chân thật là trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp.

Kinh Hoa Nghiêm, gần đây chí ít có hơn hai trăm năm không có người giảng. Ngày nay, chúng ta gặp được hội này quyết không phải là ngẫu nhiên. Gặp được rồi cũng chưa chắc bạn sẽ sinh tâm hoan hỉ! Nếu có thể sinh tâm hoan hỉ, đây là nhiều đời nhiều kiếp thiện căn, phước đức, nhân duyên của bạn đã chín muồi, không phải là việc dễ dàng! Chúng ta nay được thân người, gặp được cơ hội học tập này quyết không nên để lỡ qua. Tuy không thể thực tiễn viên mãn được hạnh Phổ Hiền, chỉ học được một, hai điều trong hạnh Phổ Hiền, đời này chắc chắn cũng có được thọ dụng bất tận. Đây là sự thật.

“Thiện năng phân biệt chúng sinh ngữ ngôn(Khéo hay phân biệt ngữ ngôn của chúng sinh): Chúng sinh vô biên nên ngôn ngữ của chúng sinh cũng vô lượng. Đây là nói đột phá được chướng ngại trên ngôn ngữ. Ngôn ngữ chúng ta rất tường tận, đặc biệt là ở Singapore, khu vực tuy rất nhỏ nhưng qui tụ rất nhiều chủng tộc, việc tuyển chọn quan viên cũng phải chọn lấy bốn loại ngôn ngữ: Anh ngữ, Hoa ngữ, Mã Lai ngữ, Ấn Độ ngữ. Sự việc này đối với chư Phật, Bồ Tát thì không có chướng ngại. Phật, Bồ Tát chỉ dùng một âm thinh nói pháp, chúng sinh tùy loại đều hiểu được. Chỗ này rất diệu! Mỗi chúng sinh nghe Phật giảng đều là ngôn ngữ của chính mình, thật không thể nghĩ bàn! Thử nghĩ:

– Chúng ta có thể làm được hay không?

– Nghĩ lại cũng thật có chút khả năng này!

– Do đâu?

– Do hiện tại dùng vi tính thì có thể làm được! Trí tuệ của Phật so với vi tính chắc chắn vượt xa hơn trăm ngàn vạn ức lần.

Cho nên, hiện tại chúng ta xem thao tác, vận dụng của vi tính, nghĩ đến năng lực này của Phật đích thực là thật không phải giả. Sức công đức biện tài vô ngại của Phật và chư vị Pháp Thân Đại Sĩ có thể “nhập chúng ngôn âm, khai hóa nhất thiết” (Nhập các ngôn âm, khai hóa hết thảy) (bản Ngụy dịch). Nói theo thế pháp là có thiên tài ngôn ngữ, trong Phật pháp gọi là “vô ngại biện tài”, không những các ngài có thể thấu triệt hết thảy ngôn ngữ của chúng sinh mà còn có thể sử dụng ngôn ngữ của họ để thuyết pháp, chỉ dạy, giúp họ khai ngộ. Cho nên chư Phật và Pháp Thân Đại Sĩ không có chướng ngại trong việc hoằng pháp lợi sinh, các ngài không cần phải có người thông dịch.

Ngày nay, Phật pháp hoằng dương trên toàn thế giới, thực tế mà nói, chướng ngại ngôn ngữ là nhân tố hàng đầu. Đối với những người ngôn ngữ bất đồng, văn tự bất đồng, không thể trực tiếp đem Phật pháp thù thắng vi diệu giới thiệu đến cho họ, cần phải thông qua phiên dịch.

Thời xưa, hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Phật pháp truyền đến Trung Quốc, lúc đó kinh điển là tiếng Phạn, đến Trung Quốc nhất định phải phiên dịch thành Hoa văn, người Trung Quốc mới có thể xem hiểu được.

– Thông qua phiên dịch lần này, ý nghĩa nguyên văn của Thế Tôn có bị phiên dịch sai không?

– Việc này ngay trong tưởng nghĩ của chúng ta, nhất định không thể nào tránh khỏi một ít sai lầm! Thông thường bạn viết một thiên văn chương, nhờ người khác phiên dịch ra ngoại ngữ, cùng ý nghĩa ban đầu của bạn chắc chắn không như nhau. Rất khó nói!

– Nếu ý nghĩa của Phật dịch sai, sẽ khiến chúng sinh ngộ nhận, vậy phải làm sao?!

– Điểm này dẫn khởi người hiện tại học Phật có hoài nghi đối với kinh điển! Cho nên, có số người nhất định phải tìm kinh điển nguyên bản văn Phạn.

– Đến đâu để tìm? Trong khi kinh điển nguyên bản đều bị thất truyền! Người Trung Quốc có tận hết trách nhiệm này chăng?

– Thời xưa, số lượng lớn kinh điển tiếng Phạn lưu truyền đến Trung Quốc, sau khi phiên dịch thành Trung văn, họ liền không cần đến kinh điển tiếng Phạn nữa, nên không hề lưu giữ để lưu truyền lại. Đây thật là điều đáng tiếc!

Những năm đầu học Phật, tôi đã đem việc này thỉnh giáo với tiên sinh Phương Đông Mỹ: Những điển tích trân quí như vậy, vì sao cổ nhân không cố gắng bảo tồn lưu lại?! Bạn xem! Người xưa Trung Quốc vốn lo sợ kinh Phật tương lai khi gặp nạn lớn sẽ bị thất truyền, nên đem nó khắc thành “Thạch Kinh” thường trụ danh sơn, lưu truyền đến đời sau.

Mấy năm trước ở Phòng Sơn, Trung Quốc phát hiện được “Thạch Kinh”. Đây là dụng tâm của người xưa lo sợ kinh Phật bị thất truyền nên đem toàn bộ kinh văn khắc lên trên đá. Toàn bộ Đại Tạng Kinh, phân biệt Tạng ở trong bảy động đá. Tôi đến Phòng Sơn tham quan khen ngợi thật không sao kể xiết! Công trình đó không thua gì Vạn Lý Trường Thành. Căn cứ vào ghi chép của họ, bộ Kinh  Tạng này tổng cộng đã khắc gần ba, bốn trăm năm mới hoàn công! Biết bao là nhân lực, tài lực để hoàn tất công tác này!

– Nhưng vì sao họ không chịu lưu giữ nguyên bản văn Phạn lại?

Phương tiên sinh nghe qua lời tôi liền phát ra trận cười  thật lớn, khiến tôi cũng cười theo ràn rụa! Ông nói với tôi:

– Việc này chú không biết! Người xưa Trung Quốc không giống người Trung Quốc hiện nay. Người Trung Quốc hiện nay không có lòng tự tin dân tộc, đều cảm thấy không bằng người khác. Người Trung Quốc ngày trước lòng tự tin mạnh mẽ, các dân tộc khác không thể sánh bằng, đây là thế giới đệ nhất! Kinh Phật dịch thành Trung văn, không những ý nghĩa của kinh, một chút sai sót cũng không có, tiền nhân Trung Quốc có thể khẳng định chắc chắn đến như vậy; hơn nữa, văn tự còn hoa mỹ hơn so với nguyên văn tiếng Phạn. Đó là nói với thiên hạ về sau: Đọc kinh điển Trung văn là đủ! Không cần phải đọc bản tiếng Phạn.

Bạn xem! Loại khí khái này, chúng ta không hề nghĩ đến người Trung Quốc đích thật có niềm tự tin, đáng được tự hào về dịch thuật kinh Phật.

Có lần, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam nói với tôi: Năm xưa, có rất nhiều bậc tu hành chứng quả, khế nhập được cảnh giới, đều tham gia công tác phiên dịch ở dịch trường, nên họ phiên dịch không có vấn đề. Ý nghĩa phiên dịch hoàn toàn không sai, quyết không như hiện tại chúng ta, không hiểu tường tận lại tự cho là đúng thì không được! Đó là sai lầm đến trăm lần! Người trước, chân thật là có tu, có chứng. Người ngày nay chỉ có tín, có học. Cái “tu” thì không thể nói đến, đừng nói chi đến “chứng” thì lại càng không có! Ngày nay học Phật, thành quả của chúng ta kém rất xa so với người trước đạo lý chính ngay chỗ này!

Cho nên, trên kinh nói: “Thiện năng phân biệt chúng sinh ngữ ngôn”, chúng ta sâu sắc tin tưởng việc này là có thể. Thế nhưng, đây không phải là cảnh giới của chúng ta. Ngày nay, chúng ta vẫn phải thông qua phiên dịch. Công tác phiên dịch rất gian nan, phải chân thật đem công tác phiên dịch làm cho tốt, vẫn phải dựa vào công phu tu hành, mới chân thật có thể làm được tốt.

“Khai hóa hiển thị chân thật chi tế”:

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Câu này nói rõ nguyên nhân vì sao chư Phật Như Lai đến thị hiện ở thế gian này. Chúng sinh có cảm, các ngài liền có ứng. Cái cảm này phát ra làn sóng mà khoa học hiện nay gọi là sóng điện. Cái sóng điện này thật vi tế, chính mình không hề có cảm giác, nhưng chư Phật, Bồ Tát đều tiếp nhận được. Các ngài cao minh hơn chúng ta nhiều! Thị hiện đến thế gian này, các ngài dùng đủ loại thân phận khác nhau: Nam nữ, già trẻ, các ngành, các nghề v.v…

Trên Kinh Hoa Nghiêm, chúng ta xem thấy Thiện Tài đồng tử, năm mươi ba lần tham học chính là biểu thị câu nói này “khai hóa hiển thị chân thật chi tế”. “Chân thật chi tế” chính là “Tri Kiến Phật”, là Tri kiến giác ngộ, là Phật tri, Phật kiến, là cái thấy biết hoàn toàn chính xác phù hợp với chân tướng của vũ trụ nhân sinh. “Khai” là khai mở, “Hóa” là tường tận, là khế nhập cảnh giới, lúc đầu mê hoặc điên đảo, hiện tại liền hoác nhiên đại ngộ. “Hiển thị” là hiển bày, “Tế” là cứu cánh biên tế, là đỉnh điểm, là rốt ráo, không có bờ mé.

Mục tiêu chung cực của Kinh Pháp Hoa là “khai hóa, hiển thị chúng sinh ngộ, nhập, Phật tri kiến”, cùng với “khai hóa, hiển thị chân thật chi tế” ở đây là cùng một ý nghĩa. “Khai Phật Tri Kiến” là ngôn giáo, vì người khác diễn nói. “Hiển thị chân thật chi tế” là “Thị Phật tri kiến”, là thân giáo, biểu diễn làm ra dáng vẻ gương mẫu  để người khác xem thấy học tập. “Chân Thật Chi tế” cũng có nghĩa là “Thật Tướng của các pháp” như Kinh Bát Nhã thường nói.

Theo chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: “Toàn thể một bộ diệu Pháp Tịnh Độ đều là Phật tri kiến, chỗ nào cũng là cảnh giới Hoa Nghiêm. Vì vậy, trong kinh này câu nào cũng là khai hóa, hiển thị Chân Thật Tế, đều là khai, thị, ngộ, nhập tri kiến của Phật.

Sách Hội Sớ nói: “Khai hiển chân thật là hiển thị, nghĩa là đem mười pháp giới qui về Nhất Thừa, quyết định thành Bồ Đề. Chân Thật Tế là dùng Nhất Phật Thừa để làm pháp tối hậu vậy”.

Sách Bình Giải lại viết: “Nếu y theo Tiểu Thừa thì thiên chân là Thật Tế. (Thiên chân là chân lý chưa rốt ráo, nghĩa là cái thấy của Tiểu Thừa chưa trọn vẹn, mới chỉ chứng “Ngã Không”, chưa chứng được “Pháp Không” nên gọi là “Thiên” (lệch lạc). Nếu xét theo Tiệm giáo thì ly nhị biên (rời hai bên Có và Không) là Thật Tế. Nếu xét theo Thánh Đạo Thật Giáo thì Thật Tướng của các pháp là Chân Thật Tế. Nếu xét theo Tịnh Độ, quang xiển đạo giáo là quyền phương tiện (quang xiển là hoằng dương cho đạo pháp được sáng ngời, rạng rỡ, không bị khuất lấp, ẩn tàng), thệ nguyện nhất Phật thừa là Chân Thật Tế, là biển nhất thật Chân Như vậy. Thánh đạo thủ lý nhưng không duy lý, Tịnh Độ dùng Sự nhưng chẳng chỉ biết có Sự (đây chính là: Sự tức Lý, sự sự vô ngại). Nếu theo cách hiểu của chúng sinh thì có Sự, Lý, Không, Hữu sai khác, nhưng nếu đứng trên quan điểm chư Phật tấm tắc ngợi khen thì chỉ có thệ nguyện nhất Phật thừa, biển nhất thật Chân Như này là Chân Thật Tế”.

Rõ ràng Sách Hội Sớ và Bình Giải cùng xem Nhất Phật Thừa của Tịnh Tông là Chân Thật Tế và cũng là Tri Kiến của Phật vậy. Cũng theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Chân Thật Tế chính là tự tâm. Hiểu rõ bản tâm của chính mình, thấy được bản tánh của chính mình là “Khai hóa, hiển thị Chân Thật Tế”, nhưng trong pháp môn Niệm Phật cũng lại là bất nhị: Tâm này là Phật, tâm này làm Phật. Vì vậy, tâm mình niệm Phật chính là Chân Thật Tế nên nói rằng: “ Một tiếng Phật hiệu, một tiếng tâm”. Kinh cũng dạy: “Nhược nhân đản niệm A Di Đà, thị danh vô thượng thâm diệu thiền”. (Nếu ai chỉ niệm A Di Đà thì gọi là vô thượng thâm diệu Thiền).

Ngoài ra, phẩm ba của kinh này nói Như Lai “dục chửng quần manh, huệ dĩ chân thật chi lợi” (muốn cứu vớt quần manh, ban cho họ cái lợi chân thật). Trong phẩm thứ tám, tỳ kheo Pháp Tạng, “trụ Chân Thật Tuệ, dũng mãnh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí trang nghiêm diệu độ”.

Ba thứ chân thật: Chân Thật Tế, Chân Thật Lợi, Chân Thật Tuệ chính là cương lĩnh của kinh này; trong phẩm kế tiếp sẽ giảng tường tận.

Siêu quá thế gian chư sở hữu pháp(Vượt xa các pháp vốn có của thế gian).

Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Nghĩa là vượt khỏi hết thảy các pháp phần đoạn, biến dịch của thế gian”.

Sách Hợp Tán giảng: “Vượt khỏi hai thứ chết: phần đoạn và biến dịch, an trụ trí Nhị Không xuất thế. Đó chính là thành tựu Trí Đức và Đoạn Đức”.

Biến dịch sinh tử” còn gọi là “vô vi sinh tử”, “bất tư nghị biến dịch sinh tử” v.v… tức là sinh tử của bậc A-la-hán, Bồ Tát, là chánh báo của bậc thánh nhân Tam Thừa được hưởng thụ tại cõi Tịnh Độ ngoài ba cõi.

Phần đoạn sinh tử” là sinh tử của phàm phu. “Phần đoạn” là thọ mạng dài ngắn, hình mạo tốt xấu do nghiệp lực cảm thành. “Trí Đức” là Trí Tuệ Bát Nhã trong tự tánh hiện tiền, là những trí được chứng đắc bởi đức Phật gồm: Đại Viên Cảnh Trí, Bình Đẳng   Tánh Trí, Diệu Quan Sát Trí và Thành Sở Tác Trí. “Đoạn Đức” là những phẩm đức được thành tựu do đoạn dứt phiền não, vô minh như: Thập Lực, Thập Bất Cộng, Tứ Vô Sở Úy, Tứ Vô Ngại Biện Tài v.v…

Sách Hội Sớ giảng: “Tam giới hư dối đều chẳng thường trụ, gọi chung là ‘thế gian’. Chúng sinh, cõi nước muôn vàn sai khác thì gọi là ‘chư sở hữu pháp’. Bồ Tát do đại trí tuệ thấu đạt tánh không vô tướng một cách sâu xa nên bảo là “siêu quá” (vượt khỏi)”.

Sách Bình Giải giảng: “Các pháp sở hữu của thế gian là hữu vi, bị phá hoại thì gọi là ‘thế gian’. Y báo, chánh báo, thiện, ác, nhân, quả v.v… hết thảy các pháp hữu vi gọi là ‘sở hữu pháp’. Bồ Tát biết được hết thảy tam giới là hư vọng, nhưng chẳng bỏ hạnh thế gian nên gọi là ‘siêu quá’ (vượt khỏi)”.

Các thuyết trên đều đúng, nhưng thuyết của sách Bình Giải phù hợp với kinh này nhất.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không, “siêu quá thế gian chư sở hữu pháp” là lý đương nhiên! Câu kinh văn này thực tiễn ngay trong kinh này chính là chư Phật Như Lai “khai hóa hiển thị Chân Thật Chi Tế”. Cho nên, đại đức xưa thời Tùy, Đường đã nghiên cứu, tìm hiểu thấy rằng: Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh nói pháp bốn mươi chín năm, kết luận đến sau cùng, kinh này là đệ nhất kinh mà đức Phật suốt đời đã nói, đích thật là siêu việt tất cả pháp thế và xuất thế gian, chúng ta phải đặc biệt trân trọng.

“Tâm thường đế trụ độ thế chi đạo” (Tâm thường trụ chắc chắn nơi đạo độ thế). Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Chữ “đế” là chân thật không phải giả, “trụ” là an trụ, “độ thế” chính là “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ” trong “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”. “Tâm thường đế trụ độ thế chi đạo” là phải thường giữ cái tâm an trụ ở đạo độ thế, cũng chính là bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà, mỗi nguyện đều vì giúp chúng sinh vãng sinh bất thoái thành Phật. “Độ” là dùng tâm chân thành, quan tâm, thương yêu cứu giúp tất cả chúng sinh; người thế gian có loại tâm này rất ít, chỉ chư Phật, Bồ Tát mới đích thật có được tâm này. Nơi nào có khổ nạn, các ngài liền thị hiện, phàm phu mắt thịt không thể nhận biết.

– Chư Phật, Bồ Tát giúp, sao họ vẫn bị tai ương?!

– Nghiệp lực hiện tiền! Phật, Bồ Tát có thể giúp bạn nhưng không thể tiêu trừ nghiệp lực của bạn. Trên kinh Phật nói: “Tâm, Phật, cập chúng sinh thị tam vô sai biệt”, ba sức mạnh này là bình đẳng: Sức mạnh của tâm, sức mạnh của Phật và sức mạnh của nghiệp lực chúng sinh tạo tác đều ngang bằng. Kinh Địa Tạng nói: “Nghiệp lực của chúng sinh năng địch Tu Di, năng sinh đại hải” đã hình dung nghiệp lực của chúng sinh tạo tác, thật không thể nghĩ bàn!

Nghiệp đã tạo tác thì nhất định phải nhận lấy quả báo. Nhưng khi bạn nhận chịu quả báo, chư Phật Bồ Tát đâu thể làm ngơ, nhất định ở bên cạnh giúp đỡ, chăm sóc bạn. Nên nhớ, nếu tâm bạn cùng tâm Phật Bồ Tát tương ưng thì rất có khả năng tránh khỏi kiếp nạn. Chỗ này, phía trước đã nói qua: Tâm bạn phát ra là làn sóng tư tưởng cùng sóng tâm của Phật, hai tần suất giống nhau liền được sự gia trì của các ngài. Bạn không hiểu, cho đó là mê tín, nhưng khi hiểu được thì đó là tần suất của sóng tư tưởng tương ưng, đích thật là có thể giúp được.

Hiện tại, hiện tượng sóng âm này, khoa học gia cũng đã thừa nhận, thậm chí họ còn nói: “Thế gian căn bản không có tồn tại, là vô tướng, tất cả hiện tượng vật chất chỉ là hiện tượng sóng động”. Lời nói này rất có đạo lý! Tôi nghe qua liền thấu hiểu, công nhận không sai chút nào! Đích thật vật chất là hiện tượng của sóng động, là sóng động sinh ra huyễn giác, rất phù hợp với Kinh Bát Nhã nói: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện” hay “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Hiện tượng của sóng động tác động trên tất cả vật chất, thực vật, khoáng vật v.v… Hiện tại khoa học gia phân tích nó thành phân tử, nguyên tử, điện tử v.v… phân tích đến hạt cơ bản. Tỉ mỉ quan sát nó đều đang chuyển động, không phải đứng yên. Hễ “động” thì sinh ra “sóng”. Nhà Phật không gọi là “sóng” mà gọi là “quang”. Nội địa Trung Quốc, người học khí công gọi đó là “khí”. Sóng, quang hay khí đều là nói một sự việc. Phật pháp nói “y báo tùy theo chánh báo chuyển” chính là căn cứ vào đạo lý này.

Tóm lại, chúng ta có thể thay đổi tần suất của hiện tượng vật chất. Nếu tư tưởng không chính xác, liền phá hoại hiện tượng tự nhiên khiến cân bằng sinh thái địa cầu bị phá hoại, gây ra khí hậu khác thường, nhịp độ nước biển dâng cao, băng của Nam, Bắc cực tan chảy! Tất cả đều do sóng tư tưởng của con người quấy nhiễu gây nên. Sóng tư tưởng này chính là tham, sân, si, mạn phát tiết ra nghiêm trọng! “Tham” là nước, “Sân” là lửa, “Si” là gió, bất bình trong tâm chính là động đất, tất cả đều có nguyên nhân; nhưng đạo lý thâm sâu này khoa học gia vẫn chưa phát hiện! Đây là nhân tố thứ nhất, họ không hề nhìn thấy, chỉ xem thấy nhân tố thứ hai, thứ ba!

– Vậy muốn giúp tất cả chúng sinh phải bắt đầu làm từ đâu?

– Phải từ giáo dục! Người xưa hiểu được, nhưng người hiện tại không hiểu! Người xưa chú trọng giáo dục, quan trọng nhất là dạy bạn có một tư tưởng kiện toàn, một tư tưởng hợp lý. Cái “lý” này chính là “Chân Thật Chi Tế” mà chỗ này nói, phải tương ưng với chân tướng của vũ trụ nhân sinh, đó là chính xác! Trái với chân tướng, đó là sai lầm! Cho nên: Phải, trái, nhân, ngã, tham, sân, si, mạn không có trong “Chân Thật Chi Tế”. Nếu tư tưởng chính xác, kiện toàn thì sinh thái tự nhiên sẽ được bình thường, đại đạo lý này trong kinh điển Đại Thừa, Phật nói rất tỉ mỉ.

Phật pháp tuyệt vời đến như vậy, người thế gian lại rất xem thường, cho đó là mê tín nên gạt bỏ đi, không biết được Phật pháp chân thật có thể giải quyết được nguy cơ, tai nạn của tất cả chúng sinh khiến họ lìa khổ được vui.

– Người hiện tại mê tín khoa học, hậu quả của mê tín khoa học sẽ đi về đâu?

– Tôi thật cũng không biết! Mê tín Phật Học, tương lai có thể sinh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, việc này chúng ta phải nhận biết.

Tâm thường đế trụ độ thế chi đạo”. Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Đế là yên ổn, vững vàng. Ý nói: Thường an trụ nơi đạo độ thế vô vi chân thật”.

Sách Bình Giải viết: “Xuất hữu vi, chứng vô vi, nhưng không chấp vào vô vi, nên bảo là ‘đế trụ’. Bồ Tát này thường trụ nơi vô trụ xứ Niết Bàn nên bảo là tâm thường trụ.

Lại nữa, Sách Hội Sớ viết: “Bi, Trí in vào nhau để làm chỗ nương náu thần trí nên gọi là đế trụ”.