Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

II. PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC
(TT)

Định trung thường cúng vô lượng vô biên nhất thiết chư Phật” (Trong Định thường cúng vô lượng vô biên tất cả chư Phật). Chữ “Định trung” (trong Định) này, có ý nghĩa rất sâu rất rộng, chúng ta dứt khoát không nên hiểu sai. Người bình thường xem kinh văn này nhất định cho rằng: Người thế giới Tây Phương Cực Lạc từ sáng đến tối, cứ ở đó xoay mặt vào vách ngồi thiền, đây là “trong Định” và có lẽ vô lượng vô biên chư Phật ở trong Định hiện cảnh giới cũng giống như chúng ta nằm mộng! Hiểu như vậy dù không thể nói là đã hiểu sai mà ý nghĩa bạn hiểu rất cạn! Vì sao? Người ở thế giới Cực Lạc thiền định rất sâu, họ không dính tướng; đi, đứng, nằm, ngồi đều ở trong Định, không giới hạn phải ngồi thiền. Phải hiểu ý này: Không phải họ đang đi mà ngủ gật! Người đang đi mà ngủ gật, người đó không phải “nhập định”!

Đại Sư Huệ Năng nói: “Ngoài không dính tướng, trong không động tâm gọi là thiền định”. “Nhập định” phải thật sự đạt đến sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần không khởi tâm, không phân biệt, không chấp trước mới gọi là “nhập định”. Đây chính là trong Đại Thừa thường nói: “Na già thường tại Định, vô hữu bất Định thời”. “Na già” là tiếng Phạn là tỉ dụ cho long và tượng (rồng và voi). Rồng chúng ta chưa thấy, voi thì thấy rồi. Chúng ta đến vườn bách thú xem voi, thấy dáng vẽ thần sắc của voi giống như trong Định, lúc nào cũng khoan thai, vững chải. Nó đứng cũng đẹp, đi cũng đẹp.

Dùng thí dụ này ý nói: Bạn đã thật sự làm được, không còn bị cảnh giới bên ngoài lay chuyển, bất kể là gặp thuận hay nghịch cảnh, đều có thể như như bất động, đây là “nhập Định”. Tâm trong Định là tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng nên có thể phổ cúng (cúng khắp); đặc biệt nhất là “bất thất Định ý” (Chẳng mất Định ý). Cái “bất thất Định ý” này cho thấy Bồ Tát ở thế giới Cực Lạc họ nhập thiền định rất sâu, nhập định của họ là trong trạng thái động, quyết không phải trong trạng thái tĩnh, ngồi xoay mặt vào vách mà có thể thành tựu!

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới, chư Bồ Tát chúng, văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỉ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn, ứng thời bất hoạch, nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng, Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc- đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỉ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn. Với các Phật pháp, nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

GIẢNG:

Chương này có ba nguyện: Từ “Ngã tác Phật thời” đến “hoạch đà-ra-ni” là nguyện thứ bốn mươi sáu “hoạch đà-ra-ni”. Từ “thanh tịnh hoan hỉ” đến “tam nhẫn” là nguyện thứ bốn mươi bảy “văn danh đắc nhẫn” (nghe danh đắc nhẫn). Từ “ư chư Phật pháp” đến “Chánh Giác” là nguyện thứ bốn mươi tám. “Hiện chứng bất thoái” (chứng được Bất Thoái ngay trong hiện đời).

Tha phương thế giới, chư Bồ Tát Chúng” (Những hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác): Chữ “Chư Bồ Tát Chúng” khiến chúng ta nghĩ tới pháp môn tu không nhất định chỉ riêng là pháp môn Tịnh Độ mà tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều bao gồm. Không chỉ bao gồm tám vạn bốn ngàn pháp môn mà còn bao gồm tất cả các tôn giáo khác. Vì sao? Vì tất cả các tôn giáo khác đều là hóa thân của Bồ Tát. Điều này hiển thị bổn nguyện của đức Phật A Di Đà vô cùng rộng lớn. Khi tôi thăm viếng Trung Quốc, có người hỏi tôi:

– Đọc Kinh Kim Cang có thể vãng sanh không?

– Tôi nói: Có thể! Trong “Tam Bối Vãng Sanh”, phẩm thứ hai mươi bốn của kinh này, đoạn sau cùng chính là người tu các pháp Đại thừa khác cũng có thể được vãng sinh.

– Đối với người tu học các tôn giáo khác, nghe nói thế giới Cực Lạc tốt, họ cũng muốn vãng sinh, có được không?

– Được! Chỉ cần họ đem công đức tu học hồi hướng thế giới Cực Lạc, cầu sinh Tịnh Độ nhất định được sinh. Nếu không được vãng sinh thì tâm đại từ bi của A Di Đà Phật liền có kém khuyết! Đạo lý này chúng ta phải hiểu.

Văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp” (Nghe danh hiệu tôi, liền chứng ly sanh pháp).

– “Chứng ly sanh pháp”, “ly sanh” là gì?

–   “Sanh” là chỉ cho sanh tử; “ly sanh” tức là liễu sanh tử, ra khỏi ba cõi; “pháp” là phương pháp. Phương pháp tuy nhiều, lý chỉ là một: Nhất định phải đoạn “Kiến Tư phiền não”. “Kiến Tư phiền não” không đoạn, chắc chắn không ra khỏi sáu cõi luân hồi! Việc này nói dễ nhưng làm rất khó! Hiện tại, có mấy ai đoạn được “Kiến tư phiền não”?!

Người xưa nói rất hay: “Nếu lìa pháp môn Tịnh Độ, trong thời này không người nào có thể được độ”. Lời nói này tuyệt đối không quá đáng. – Nguyên nhân ở chỗ nào? – Không có năng lực đoạn “Kiến tư phiền não”! Chúng ta may mắn gặp được pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn này không đòi hỏi phải đoạn “Kiến tư phiền não”, nhưng phải phục được “Kiến tư phiền não”. “Phục” là khống chế được, dễ hơn nhiều so với “đoạn”, người thông thường chúng ta có thể làm được, chỉ e bạn không chịu làm!

Trong kinh “Thập Thiện nghiệp đạo” Phật dạy chúng ta ngày đêm phải thường niệm, tư duy, quán chiếu thiện pháp, đây là phương pháp khống chế phiền não. Đối với người, vật, sự vật không nên nghĩ đến chỗ bất thiện, càng không nên đem cái bất thiện của người khác để vào trong tâm. Phải thường xuyên nghĩ đến chỗ tốt của người, vật, sự vật, lâu dần nuôi thành cái tâm thuần thiện của chính mình, phiền não tự nhiên bị khống chế. Khống chế được phiền não sẽ nắm chắc được phần vãng sinh, niệm Phật công phu liền có lực, được “công phu thành khối”.

Chứng ly sanh pháp”, đây là Phật lực gia trì giúp họ đoạn “Kiến tư phiền não”, đoạn “Trần sa phiền não”. Đoạn “Kiến tư phiền não” thì siêu việt sáu cõi luân hồi. Đoạn “Trần sa phiền não” liền siêu việt mười pháp giới, phá một phẩm vô minh chứng pháp giới Nhất Chân. Đây là thuộc về “Ly sanh pháp” cũng là “tự thọ dụng”. Kế đến là “tha thọ dụng”, giúp Bồ Tát khai trí tuệ, giúp họ thành tựu phương tiện khéo léo độ chúng sinh, đây chính là “hoạch đà-ra-ni” (đắc đà- ra-ni). “Đà-ra-ni” là tiếng Phạn, dịch thành ý Trung văn là “Tổng trì”, phía trước đã nói qua: “Tổng tất cả pháp, trì tất cả nghĩa”.

Chúng ta học Phật, phải nắm lấy tổng cương lĩnh của Phật pháp. “Đà-ra-ni” cũng có nghĩa là “Tổng cương lĩnh”. Nắm được “Tổng cương lĩnh” thì sự việc sẽ dễ dàng hơn nhiều. Có bốn loại đà- ra-ni: Pháp đà-ra-ni, nghĩa đà-ra-ni, chú đà-ra-ni và nhẫn đà-ra-ni.

1.  Pháp Đà-Ra-Ni

Pháp đà-ra-ni là nghe và giữ giáo pháp của Phật chẳng quên.

Đối với “Pháp đà-ra-ni” này, chúng ta làm thế nào để học tập? Phương pháp học tập không khó, đó chính là đọc tụng! Tôi thường khuyên các đồng tu sơ học phải từ chỗ đọc kinh mà vào cửa. Trước tiên đem Kinh Vô Lượng Thọ đọc qua ba ngàn biến, đây chính là “Pháp đà- ra-ni”. Đọc thuần thục rồi bạn sẽ không quên. Khi thuộc lòng kinh văn thì lợi ích sẽ rất nhiều.

Bởi chúng ta là phàm phu không khống chế được vọng niệm của chính mình, dùng phương pháp đọc kinh giúp chúng ta không khởi vọng tưởng. Mỗi ngày có thể đọc được mấy bộ kinh là được mấy giờ tu trì. Phương pháp này chính là đem vọng tưởng của mình chuyển đổi lại. Sau một, hai năm sẽ phát hiện vọng tưởng của mình ít đi, phiền não nhẹ, trí tuệ tăng trưởng, đây là “Pháp đà-ra-ni” phải nên tu học.

2. Nghĩa Đà-Ra-Ni

Nghĩa đà-ra-ni là tổng trì nghĩa lý Phật pháp chẳng quên. Cái này phải nghe giảng.

Cho nên, nghe giảng cũng là một biện pháp tốt. Thế nhưng nghe kinh phải có thời gian rảnh rỗi, không thể vừa làm việc vừa nghe kinh. Khi nghe kinh hay đọc kinh, mọi việc đều phải buông xuống, đây là phương pháp học tập đối với “Nghĩa đà-ra-ni”. Nghe kinh, quan trọng nhất là phải nắm lấy cương lĩnh. Mỗi lần nghe có thể lắm lấy được một, hai câu thì bạn rất có thọ dụng. Khi nghe kinh, tốt nhất không nên ghi bút ký, bởi ghi bút ký thì bạn không chuyên tâm, không nắm được cương lĩnh. Đến lúc nào thì ghi chép? Sau khi quay về, mang băng ghi âm ra nghe lại đôi ba lần rồi mới ghi chép. Phương pháp này tốt!

3. Chú Đà-Ra-Ni

Chú”, thông thường gọi là mật chú.

Nên biết “mật” ở đây không phải là bí mật mà là “thâm mật”. Phật, Bồ Tát làm việc quang minh chánh đại, không việc gì chẳng thể để cho người thấy, chẳng qua vì nghĩa lý quá sâu, người sơ học chúng ta không thể nào lý giải nên gọi là “mật”. Chú ngữ có rất nhiều, đó không phải là ngôn ngữ của nhân gian, cũng không phải là  Phạn ngữ, người Ấn Độ nghe cũng không hiểu. Đó là ngôn ngữ của quỉ thần sáu cõi.

Phật, Bồ Tát giảng kinh nói pháp, thính chúng rất nhiều, quỉ thần cũng rất nhiều. Những quỉ thần này đều có thần thông, có thể nghe hiểu được Phật pháp một phần. Trước kia, Thế Tôn sau khi thuyết pháp xong, luôn luôn dùng ngôn ngữ của quỉ thần nói mấy câu. Đây là biểu thị sự rất thân thiết. Mấy câu mật chú mà Phật nói ra đều thuộc về cương lĩnh, đều rất quan trọng, có thể nói đó là tinh hoa trong những gì Phật đã thuyết.

Chú đà-ra-ni” lại có năm tên. Theo Bí Tạng Ký, năm tên ấy là: Đà-ra-ni, minh, chú, mật ngữ, chân ngôn. Đà-ra-ni là khi Phật phóng quang, trong quang minh vang ra thần chú nên gọi là “đà-ra- ni” hay “minh”. Vì vậy, “đà-ra-ni” và “minh” có cùng một nghĩa. Người trì đà-ra-ni có thể phát khởi thần thông, trừ được tai hoạn. Đà- ra-ni gần tương tự với các chú thuật của Trung Hoa, nên “đà-ra-ni” cũng gọi là “chú”. Vì phàm phu và Nhị thừa chẳng thể biết nổi nên gọi là “mật ngữ”. “Chân ngôn” là lời nói của Đức Như Lai chân thật chẳng dối nên gọi là chân ngôn.

4. Nhẫn Đà-Ra-Ni

An trụ trong Thật Tướng của các pháp thì gọi là “Nhẫn”. Giữ được lòng “Nhẫn” nên gọi là “Nhẫn đà-ra-ni”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Ý nghĩa của chữ “nhẫn” ngày nay chúng ta gọi là thừa nhận, là đồng ý, là tâm đắc. Thấu đáo tường tận những lời Phật dạy, chúng ta có thể tiếp nhận một cách tâm đắc, chăm chỉ nỗ lực học tập theo Phật gọi là “Nhẫn đà-ra-ni”.

Tóm lại, đủ bốn loại “đà-ra-ni” trên thì việc giáo hóa chúng sinh sẽ rất dễ dàng, tự nhiên liền có phương tiện khéo léo.

Thanh tịnh hoan hỉ, đắc bình đẳng trụ”: Chữ “thanh tịnh” có nghĩa là vốn sẵn không nhiễm trước, “hoan hỉ” là trong lòng vui sướng, tịch diệt là vui. Nếu hiểu nông cạn “bình đẳng” là thoát khỏi tư tưởng sai biệt: cao, thấp, cạn, sâu, lớn, nhỏ, thân, sơ, trí, ngu, mê, ngộ thì gọi là “bình đẳng”. Hiểu ở mức cao hơn, bình đẳng chính là chân như trọn khắp, vạn pháp như một, cả ba thứ; tâm, Phật, chúng sinh không sai biệt.

Vãng Sinh Luận Chú giảng: “Bình đẳng là thể tướng của các pháp”.

Đắc bình đẳng trụ”, theo Hoàng Niệm lão: Mười   phương

Đại Sĩ do nghe danh hiệu nên trụ trong pháp bình đẳng, nghĩa là trụ trong Thật Tướng của các pháp. Bản Hán dịch còn gọi A Di Đà Phật là Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác . Một câu Phật hiệu đây chính là Thật Tướng, là toàn thể của pháp giới, chính là thể tánh bình đẳng của các pháp. Chỉ cần niệm niệm tiếp nối, niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm nên bảo là “đắc bình đẳng trụ”. Tâm hạnh như thế là “Bồ Tát hạnh”, lần lượt dạy dỗ cho nhau cùng quay về Cực Lạc, ban bố cho mọi chúng sinh cái lợi chân thật nên bảo là “tu Bồ Tát hạnh”. Tu hành như vậy tự nhiên trọn vẹn hết thảy cội rễ của công đức Phật quả nên bảo là “Cụ túc đức bổn” (đầy đủ cội đức).

Sách Hội Sớ giảng chữ “đức bổn” như sau: “Lục Độ của Bồ Tát là gốc của hết thảy công đức nên gọi là cội đức. Chọn lựa, giữ lấy quả hiệu (danh hiệu của Quả Giác, tức là danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật) lưu xuất lục độ vạn hạnh là nguồn gốc cho mọi đức, nên gọi là đức bổn”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không, “tu Bồ Tát hạnh” chính là giáo hóa chúng sinh, phạm vi này rất rộng, đức Thích Ca Mâu Ni Phật qui nạp thành sáu cương lĩnh: Bố Thí. Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ.

1. Bố Thí: Dùng tài lực, vật lực, trí tuệ, lao lực của chính mình, vì tất cả chúng sinh phục vụ. Phục vụ này là nghĩa vụ vô điều kiện, cũng là yếu tố quan trọng nhất của “Bồ Tát hạnh”.

2. Trì Giới: Chính là thủ pháp. Phục vụ xã hội, cứu giúp chúng sinh nhất định phải tuân thủ pháp luật, phong tục tập quán của địa phương đó.

3. Nhẫn nhục: Là phải có lòng nhẫn nại, có thể quán cơ, hiểu được thời tiết nhân duyên, hiểu rõ khu vực này, chúng sinh này, tình hình đời sống của họ ra sao để có thể phương tiện tùy duyên mà giúp họ.

Xã hội chúng ta ngày nay, vấn đề này rất là nghiêm trọng. Tôi thường nói với các đồng tu: Gia đình mỹ mãn, xã hội phồn vinh, quốc gia an định, thế giới hòa bình, đều xây dựng trên nền tảng giáo dục. Có bốn loại giáo dục:

– Một là giáo dục gia đình, việc này nhà Nho nói được rất viên mãn.

-Hai là giáo dục học đường: Ngày trước giáo dục học đường cũng đặt trên nền tảng học thuyết Khổng Mạnh.

-Ba là giáo dục xã hội: Vào ngày xưa Trung Quốc dùng nghệ thuật thi ca là phương pháp giáo dục xã hội. Khổng Phu Tử chu du liệt quốc, đem dân ca các nơi hội tập lại, chỉnh lý làm mới, biên tập thành “Kinh Thi”. Hiện tại nghệ thuật này càng nhiều hơn so với thời trước như: Văn tự, báo chí, tạp chí, điện ảnh, hí kịch, ca vũ v.vNhững thứ này đều là giáo dục xã hội.

– Bốn là giáo dục tôn giáo: Giáo dục này là đỉnh cao trong giáo dục. Thế nhưng, ngày nay giáo dục tôn giáo hầu như chỉ lưu lại hình thức, biến thành mê tín!

Bốn loại giáo dục trên hiện nay đều không còn, xã hội làm sao không loạn?! Lòng người không có chỗ nương về, giá trị của nhân sinh trở thành vấn đề rất nghiêm trọng! Bốn loại giáo dục này bị hủy mất, muốn trùng tân xây dựng lại, thật sự không dễ dàng! Cho nên ở nước ngoài rất nhiều nhà tôn giáo nói: Thế giới ngày tàn! Đây không phải nói hủy diệt cái thế giới này mà thực tế bốn loại giáo dục này không còn chính là ngày tàn của thế giới! Xã hội động loạn! Lòng người bất an! Suốt ngày bàng hoàng! Hiện tượng này chính là ngày tàn! Suy đi nghĩ lại chỉ có cầu các tôn giáo! Vì sao? Vì tín đồ của các tôn giáo thực tế mà nói tương đối lương thiện, tương đối dễ dàng chấp nhận học thuyết nhân quả; có thể tin tưởng nhân quả báo ứng, con người này liền được cứu. Nếu ngay đến đạo lý của nhân quả báo ứng vẫn không thể tiếp nhận, con người này hết cứu!

Chúng ta, những năm gần đây rất chăm chỉ, nỗ lực liên hiệp các tôn giáo khác nhau trên toàn thế giới, không gì khác hơn là luôn hy vọng mỗi tôn giáo, không chỉ ở trên nghi thức mà quan trọng hơn chính là giáo dục. Phải đem đạo lý trong kinh điển của họ giảng thật tận tường cho tín đồ hiểu được đạo lý. Mọi kinh điển đều dạy con người trở thành người tốt, luôn làm việc tốt. Phật dạy chúng ta ra sao thì các tôn giáo khác cũng dạy như vậy. Chúng ta nhất định phải liên hợp lại. Tôn giáo tuy khác, phương pháp có khác, dạy bảo những người căn tánh khác nhau, nhưng trong Phật pháp thường nói: “Qui nguyên vô nhị lộ, phương tiện hữu đa môn”. Các tôn giáo khác nhau đó là phương tiện có nhiều.

Chúng ta qua lại với họ, trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, đưa đến một kết luận, như Phật thường nói: “Từ bi vi bổn, phương tiện vi môn”. Chúng ta chỉ dùng câu giáo huấn này cùng các tôn giáo trên toàn thế giới liên kết thành một thể. Bất kỳ giáo chủ của tôn giáo nào cũng đều nói: “Thần ái thế nhân”, nhà Phật gọi là từ bi. Từ bi chính là yêu thương. Đem cái căn bản hoàn toàn giống nhau này dung hợp cùng những phương thức giáo dục không như nhau, đó chính là phương tiện, là cánh cửa bước vào thế giới an lạc. Giáo học, mục đích sau cùng, chúng ta nêu ra ba câu: Xã hội an định, thế giới bình đẳng, nhân dân hạnh phúc; mỗi tôn giáo đều hoan hỉ thừa nhận.

Bước kế tiếp chúng ta triễn khai kinh điển, cùng nhau thảo luận thì dễ dàng rồi! Chúng ta đã có phương hướng, có nền tảng, tự nhiên đều có thể dung hợp. Ngày nay, không chỉ là qua lại trên cảm tình, mà trên giáo lý, giáo nghĩa đều có thể tương thông, việc này đối với thế giới hòa bình, xã hội an định đều có sự giúp đỡ rất lớn. Đây là đại sự nghiệp, không phải sự nghiệp thông thường, phải có lòng nhẫn nại, trải qua thời gian dài. Thế nhưng, ở Singapore, chỉ mới hai năm, chúng ta đã có thể đạt được thành quả tốt đẹp như hiện nay, việc này ngoài dự kiến của tôi. Tôi chỉ có thể nói: Đây là Phật, Bồ Tát bảo hộ, bao gồm chúng thần tôn giáo đều bảo hộ, nên sự phát triễn của chúng ta mới nhanh như vậy.

Năm trước, tôi tham gia ở Tuyết Lê, Thiên Chúa giáo Úc Châu mở hội nghị “Tôn giáo nhân sự tòa đàm hội” một ngày. Chúng tôi cùng nhau tụ hội bốn giờ đồng hồ. Việc này khiến chính phủ Úc Châu cảm thấy kinh ngạc! Bởi trên thế giới, đây là lần đầu tiên, trước giờ chưa từng có loại hoạt động này. Tổng cộng có năm tôn giáo tham gia. Sau khi chúng tôi cùng nhau giao đàm, chủ giáo của họ đưa ra kết luận rất tốt, rất khiêm tốn, chúng tôi đều rất bội phục. Họ nói: ngày trước, một ngàn năm qua, họ đã làm sai rất nhiều sự việc, đặc biệt là xem thường các tôn giáo khác, hiện tại thông qua buổi tọa đàm, họ biết được trong mỗi tôn giáo đều có rất nhiều thứ tốt, đều đáng được chúng ta học tập lẫn nhau. Tôi tin tưởng báo cáo này của họ nhất định đưa đến đức giáo hoàng. Chúng ta xem thấy trên báo chí: Tôn giáo sám hối với người trên toàn thế giới, cầu Thượng Đế tha thứ tội lỗi của tín đồ Thiên Chúa, đặc biệt là đối đãi với các  tôn giáo khác. Đây là tinh thần rất cừ khôi! Biết lỗi có thể sửa lỗi thì còn gì tốt hơn, không thẹn là tôn giáo lớn trên thế giới.

Năm nay, họ lại mở hội nghị. Tôi lại nhận được thông báo ngày bảy tháng bảy khai mạc. Đại khái mở hội ba ngày: ngày bảy, ngày tám, ngày chín. Việc này cũng là ngoài dự liệu của chính phủ Úc Châu. Trước đây, chính phủ Úc cho rằng sự việc này chỉ có thể diễn biến một lần, không hề nghĩ đến năm nay họ lại khai hội, hơn nữa mở đến ba ngày. Tôi tin tưởng năm nay tôn giáo tham dự sẽ càng nhiều. Hiện tại, rất nhiều nơi ở các quốc gia khu vực khác mời tôi giảng kinh, tôi đều không đi. Thế nhưng, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết chủng tộc, tôi nhất định sẽ tham gia. Tôi đến để giúp họ đốc thành, muốn đem những kinh nghiệm của Singapore chia sẻ với họ. Chúng ta cũng sẽ mời thỉnh họ tới tham gia hoạt động tôn giáo của Singapore.

Vào cuối năm nay, buổi dạ tiệc ấm áp kỳ nguyện hòa bình, tôi dự tính mời các nhà tôn giáo trên toàn thế giới đến tham gia. Cho nên đại hội năm nay càng sẽ hưng vượng hơn so với năm rồi. Năm rồi chúng ta có hơn tám ngàn người tham dự. Năm nay có thể vượt qua mười lăm ngàn người. Hiện tại chúng ta phải nên bắt đầu chuẩn bị. Đây là xúc tiến hòa bình an định của toàn thế giới. Chúng ta ngày nay làm cái công tác này, quyết không phải là có tính khu vực, chắc chắn không có phân biệt, không có chấp trước, một mực bình đẳng đối đãi. Việc này phải có lòng nhẫn nại, lòng nhẫn nại được chư Phật, Bồ Tát gia trì; lòng nhẫn nại được rất nhiều nhân sĩ thiện tâm trong xã hội tán trợ.

4. Tinh tấn: “Tấn” là tấn bộ, “Tinh” là tinh thuần không tạp. Chúng ta, một mục tiêu, một phương hướng, quyết không xen tạp tự tư tự lợi, không xen tạp danh vọng lợi dưỡng, đối với cá nhân mà nói, không có được mất, tất cả đều phụng hiến. Mười phương đồng tu thiện tâm cúng dường, chúng ta nhất định phải chân thật làm việc tốt cho họ, chúng ta quyết không cô phụ mọi người. Đây là qui củ tôi học Phật và tuân thủ mấy mươi năm nay.

5. Thiền định: Dùng lời hiện đại mà nói, quyết không bị ngoại cảnh mê hoặc làm dao động. Chúng ta biết đây là việc tốt. Thế nhưng việc tốt lắm dày vò! Đố kỵ, chướng ngại chắc chắn không thể tránh!

6. Trí tuệ Bát Nhã: Trí tuệ Bát nhã giúp ta có khả năng, phương tiện khéo léo vượt qua mọi chướng ngại. Tôi năm xưa học giảng kinh với thầy Lý Bỉnh Nam. Thầy nói với chúng tôi: Nếu bạn giảng không hay thì chẳng có vấn đề; nếu bạn giảng hay sẽ không có đường để đi! Đây là thầy Lý về trước đã cảnh báo chúng tôi; ngay đời này quả nhiên đã gặp rồi! Không có đường để đi! Rất may mắn được sự hộ trì của Quán Trưởng Hàn. Tôi bị bức, không còn cách nào! Đã ở trong nhà bà suốt mười bảy năm!

Tao ngộ của tôi gần giống như Lục Tổ Huệ Năng, thiền tông. Lục Tổ Huệ Năng núp trong nhóm người thợ săn mười lăm năm. Phần tôi ở trong nhà một cư sĩ suốt mười bảy năm! Mới biết thật không dễ dàng! Không một đạo tràng, một tự viện nào dung nạp! Muốn đến nghỉ nhờ một ngày, họ cũng không đồng ý! Thế nhưng tôi vẫn chân thật được chư Phật, Bồ Tát bảo hộ, lại còn có người giúp tôi trước sau duy trì cái giảng đài không bị gián đoạn, điểm này rất khó được! Trên giảng đài suốt bốn mươi năm không bị gián đoạn, đây là nhờ sự hộ trì của Quán Trưởng Hàn.

Gần đây, chúng ta dự định ở Hồng Kông xây một phòng thu hình hoàn toàn giống như đài truyền hình. Chúng ta cũng mời chuyên gia đến thao tác những máy móc này, còn phải mời một đạo diễn chuyên viên về phim ảnh, truyền hình đến phục vụ. Tôi để mỗi đồng tu chúng ta đều giảng một bộ chuyên tập, đem cái chuyên tập này lưu thông trên toàn thế giới, cái ải quan này liền bị đột phá rồi!

Chúng ta không cần có nơi chốn đạo tràng để giảng kinh mà máy truyền hình của bất cứ nhà nào cũng đều là đạo tràng của chúng ta. Đây là tôi vì đồng tu mà lo nghĩ: Phải dùng khoa học kỹ thuật cao, dùng VCD để đột phá, hy vọng giáo học này có thể lưu thông trên toàn thế giới. Đây là nhiều năm qua tỉ mỉ quan sát, chỉ có con đường này là thông thoáng, không trở ngại. Hiện tại, tôi cũng đặc biệt lưu ý: Băng giảng của chúng ta có thể lên truyền hình, vậy thì thuận tiện rồi! Tôi tin tưởng Tam Bảo gia trì, nguyện vọng này sẽ viên mãn.

Hiện tại Hoa Kỳ có bảy đài truyền hình để phát sóng băng ghi hình của chúng ta, cả thảy Bắc Mỹ đều tiếp nhận được, đại khái mỗi ngày là một giờ đồng hồ. Các nơi khác, dường như ở Hawai nghe nói một tuần lễ truyền hình phát sóng hai lần; Áo môn một tuần lễ bốn lần. Gần đây, chúng ta tiếp đàm với đài truyền hình Á Châu của Hồng Kông. Ngoài ra, nghe nói có truyền hình vệ tinh Phụng Hoàng, chúng ta đều đang tiếp đàm.

Cho nên, chúng ta không cần phải làm đạo tràng, không cần phải xây chùa miếu, chúng ta hướng không trung phát triễn. Những thứ này đều gọi là “tu Bồ Tát hạnh”, đem giáo huấn của Phật Đà thực tiễn ngay trong cuộc sống. “Cụ túc đức bổn” chính là thực tiễn. Chúng ta phải chân thật làm được, nếu chỉ nói suông thì không thể có được sự thọ dụng.

Sau khi Tịnh Tông Học Hội thành lập, rất nhiều đồng tu đến hỏi tôi:- Phải tu hành thế nào? Tôi thường nói với mọi người: Trước tiên phải đem định nghĩa “tu hành” này làm cho rõ ràng. “Hành” là hành vi của chúng ta, trong đó bao gồm hành vi của tư tưởng, hành vi của ngôn ngữ và hành vi của thân thể động tác. Đem cái sai lầm của hành vi tu sửa lại gọi là tu hành. Việc này nhất định phải   hiểu.

Đại đức xưa dạy chúng ta tu từ căn bản, tu từ ngay nơi khởi tâm động niệm đó gọi là tu từ căn bản. Ý niệm vừa khởi, lập tức rõ ràng tường tận: Nếu là ý niệm thiện có thể tiếp tục tăng trưởng; nếu ý niệm bất thiện hãy mau đình chỉ, đây là tu từ căn bản.

– Tiêu chuẩn của thiện ác là gì?

– Với xã hội có lợi ích, với chúng sinh có lợi ích đây là thiện.

Nếu đối với chính mình có lợi ích, với xã hội chúng sinh không có lợi ích đây là ác, là đại ác! Với xã hội, với đại chúng có lợi ích, với chính mình cũng có lợi ích, đây là việc thiện có thể làm, nhưng thiện này không phải là thiện đệ nhất đẳng. Thiện đệ nhất đẳng là với chính mình không có lợi ích, với tất cả chúng sinh, với xã hội có đại lợi ích.

Trong “đức bổn” ý nghĩa quan trọng nhất là “Niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ” đây là “đức bổn” ngay trong “đức bổn”. Vì sao? chỉ có đến Tây Phương Cực Lạc, mọi vấn đề mới được giải quyết triệt để, nhanh chóng, rất không thể nghĩ bàn! Đạo lý này quá sâu! Nếu không có thời gian dài thâm nhập nền tảng kinh tạng, rất khó lý giải! Không những bạn không dễ dàng lý giải mà còn rất nhiều lão Pháp sư, lão cư sĩ học Phật đều không tiếp nhận! Lại nữa, trên kinh Phật nói: Mười phương pháp giới, rất nhiều đại Thanh Văn, đại Bồ Tát cũng không thể tiếp nhận!

– Do nguyên nhân gì?

– Không triệt để tường tận!

Cho nên, pháp môn này, trên kinh thường tán thán: “Chỉ Phật với Phật mới có thể cứu cánh”. Đây là lời thật! không phải hư giả. Chúng ta gặp được rồi, có thể tin tưởng, đây chẳng phải là việc thông thường, mà do đời quá khứ thiện căn, phước đức, nhân duyên của chúng ta sâu dày mới có thể tin sâu không nghi.

“Ứng thời bất hoạch nhất, nhị, tam Nhẫn” (Nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, ba thứ nhẫn): Đây là càng nói càng không thể nghĩ bàn!

Kinh Nhân Vương, nói có năm loại Nhẫn: Phục nhẫn, Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, Vô Sanh Pháp Nhẫn và Tịch Diệt Nhẫn.

Sách Nhân Vương Tự Ký lại giảng: “Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa chứng đắc vô lậu tín thì gọi là Tín Nhẫn. Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục Địa hướng đến vô sanh nên gọi là Thuận Nhẫn.Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa, chẳng sinh các niệm nên gọi là Vô Sanh Nhẫn. Thập Địa, Diệu Giác đắc quả Bồ Đề nên gọi là Tịch Diệt Nhẫn.”

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa, ba vị trí này gọi là Tín Nhẫn, cũng chính là đồng ý chấp nhận, khẳng định thừa nhận. Tín tâm họ kiên định, chắc chắn sẽ không thoái chuyển. Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục Địa, ba vị trí này gọi là Thuận Nhẫn, họ càng tiến thêm một bước, càng tùy thuận theo giáo huấn của Phật Đà, có lý nào không thành tựu.

Ngày nay học Phật, khó khăn nhất của chúng ta vẫn là tùy thuận phiền não, tập khí của mình, tuyệt nhiên không thể nào đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của mình buông xả để hoàn toàn thuận theo giáo huấn của Phật. Nếu chân thật tùy thuận giáo huấn của Phật, y giáo phụng hành, chúng ta làm Phật, làm Bồ Tát chỉ trong thời gian rất ngắn, trong vòng ba hoặc năm năm chắc chắn thành công. Thực tế mà nói, Singapore chúng ta có người làm được. Tôi vừa nêu, các bạn đều biết: Cư sĩ Hứa Triết làm được! Cả đời không khởi tức giận, cả đời không hề thấy chỗ xấu của người! Chỗ bà thấy được đều là cái tốt của người, cái thiện của người. Cái bất thiện của người bà không để ở trong lòng. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên hỏi bà:

– Xem thấy những người ác, việc ác, bà có cái nhìn như thế nào? Bà nêu một thí dụ:

–  Như người lạ mặt đi trên đường!

Thí dụ này tốt! Mỗi ngày ra phố xem thấy rất nhiều người qua lại, bạn có nhớ một người nào không?

– Một người cũng không nhớ! Không để trong lòng!

Bà đã học được cái bản lĩnh này. Cho nên, bà là người thuần thiện, không hề có chút ác niệm nào. Một trăm lẻ một tuổi đến đây qui y, không muộn! Nêu gương điển hình cho đại chúng. Năm xưa, bà là nữ tu của Thiên chúa giáo. Cuối đời bà đọc sách của rất nhiều tôn giáo. Giáo hữu của họ đã từng nói với bà:

– Sao bà lại xem sách của tôn giáo khác? Bà trả lời rất hay:

– Tôi xem tất cả tôn giáo trên thế giới đều là một mãng quang minh!

Bà đột phá rồi! Đột phá được giới hạn của tôn giáo, “đắc bình đẳng trụ”. Lý Mộc Nguyên hỏi bà:

– Trong mắt bà: Tôn giáo là gì? Bà trả lời:

– Ái! Ái chính là tôn giáo!

Lời nói này thật chính xác không sai chút nào! Thế gian, bao gồm tất cả tôn giáo, khẳng định đều là chữ Ái. Mở mang rộng lớn ái tâm, yêu thương tất cả chúng sinh, yêu thương chân thành, yêu thương thanh tịnh, yêu thương bình đẳng, đây gọi là tôn giáo.

Theo Hoàng Niệm lão: “Trong các nhà chú giải kinh thời cổ, có vị cho rằng ba thứ Nhẫn được nói trong Kinh Vô Lượng Thọ là Phục Nhẫn, Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn. Thậm chí có vị cho rằng ba mức thượng, trung, hạ của loại Nhẫn đầu tiên (Phục Nhẫn) chính là ba thứ Nhẫn được nói trong kinh này. Hiểu như vậy nghĩa là chẳng thừa nhận việc Bồ Tát nơi phương khác nghe danh hiệu Phật liền lập tức chứng đắc một thứ Nhẫn, hai thứ Nhẫn cho đến Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nếu dựa theo kinh văn, quả thật trong ba thứ Nhẫn ấy ắt phải có “Vô Sanh Pháp Nhẫn”, là điều chẳng thể nghi ngờ chi nữa”.

Nguyện thứ ba mươi bốn trong bản Ngụy dịch ghi như sau: “Thiết ngã đắc Phật, thập phương vô lượng bất khả tư nghị chư Phật thế giới chúng sinh chi loại, văn ngã danh tự, bất đắc Bồ Tát Vô Sanh Pháp Nhẫn, chư thâm tổng trì giả, bất thủ Chánh Giác”. (Nếu tôi thành Phật, các loài chúng sinh trong mười phương vô lượng chẳng thể nghĩ bàn các thế giới Phật nghe danh hiệu tôi mà chẳng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát, các tổng trì sâu xa, thì chẳng lấy Chánh Giác).

Bản Tống dịch cũng ghi “Văn ngã danh giả, ứng thời tức đắc Sơ Nhẫn, Nhị Nhẫn, nãi chí Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nghe danh hiệu tôi thì ngay lập tức đắc Sơ Nhẫn, Nhị Nhẫn cho đến ‘Vô Sanh Pháp Nhẫn’ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

Cũng theo Hoàng Niệm lão: Rõ ràng Pháp Nhẫn thứ ba được nói trong lời nguyện này phải là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn gọi tắt là Vô Sanh Nhẫn. Chân trí an trụ trong Thật Tướng Lý thể vô sanh,vô diệt nhưng chẳng động thì gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Trí Độ Luận, quyển năm giảng: “Vô Sanh Pháp Nhẫn: Tin nhận, thông đạt Thật Tướng vô sanh vô diệt của các pháp một cách vô ngại bất thoái thì là Vô Sanh Nhẫn”. Trong quyển bảy mươi ba của Trí Độ Luận, ngài Long Thọ lại viết: “Vô Sanh Pháp Nhẫn là ngay cả những thứ nhỏ nhiệm còn bất khả đắc, huống là những thứ lớn lao. Đấy là vô sanh. Đắc pháp vô sanh này thì chẳng làm, chẳng khởi các nghiệp hạnh. Đấy là Vô Sanh Pháp Nhẫn”.

Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển mười hai cũng nói: “Lý lặng lẽ chẳng khởi gọi là Vô Sanh. Tuệ an trụ trong lý này thì gọi là Vô Sanh Nhẫn”.

Bản Tống dịch của Kinh Vô Lượng Thọ chép rằng:” Văn ngã danh hiệu, chứng Vô Sanh Nhẫn, thành tựu nhất thiết bình đẳng thiện căn, trụ vô công dụng, ly gia hạnh cố, bất cửu linh đắc A Nậu Bồ Đề” (Nghe danh hiệu tôi, chứng Vô Sanh Nhẫn, thành tựu hết thảy thiện căn bình đẳng, trụ vô công dụng. Do lìa gia hạnh nên chẳng bao lâu sẽ đắc Vô Thượng Bồ Đề).

Ngài Vọng Tây chú giải câu này như sau:

“(Kinh) nói là đã trụ nơi vô công dụng thì đủ biết bậc Bồ Tát ấy đã chứng Bát Địa”. Như vậy Pháp Nhẫn thứ ba trong kinh đây chính là Vô Sanh Pháp Nhẫn như Kinh Nhân Vương đã nói. Theo ngài Vọng Tây, Bồ Tát ấy đã chứng địa vị Bát Địa.

Ngài Vọng Tây còn nói: “Hỏi: Vì sao do thế lực của việc nghe danh hiệu lại chứng được Vô Sanh? Đáp: Là do Phật nguyện lực vậy, như Thập Trụ Luận bảo: ‘Quá khứ vô số kiếp, có biển công đức danh hiệu Phật. Mỗi vị Phật trong thập phương hiện tại thành Chánh Giác đều là từ lời phát nguyện ‘nghe danh hiệu được thành Phật’ ấy (mà được thành Phật)”.

Theo Hoàng Niệm lão: Những luận chứng vừa dẫn trên đã trình bày tha lực một cách khéo léo: Người nghe danh hiệu Phật được Phật nguyện gia bị nên chứng được Vô Sanh Nhẫn, quyết định sẽ thành Phật. Nhưng “nghe” không có nghĩa là chỉ nghe suông, mà còn phải phát khởi cái hạnh như Niết Bàn Sớ, quyển hai mươi bảo: “Nếu nghe đến hai chữ Thường Trụ thì đời đời chẳng đọa. Có nhiều thứ nghe, nếu có thể suy nghĩ sâu xa, thực hành đúng như lời dạy thì đời đời chẳng bị đọa”. Như vậy, một chữ “nghe” còn hàm nghĩa “tin nhận” chẳng phải là nghe lọt qua tai rồi thôi.

“Nhất, Nhị, Tam Nhẫn” (Một, hai hay ba thứ Nhẫn) được nêu trong nguyện này, chính là ba thứ Nhẫn nói rất rõ trong phẩm thứ mười lăm “Bồ Đề Đạo Tràng”. Sách Quán Vô Lượng Thọ Kinh (Diệu Tông) Sao, quyển năm giảng như sau:

“1. Âm Hưởng Nhẫn là do âm thanh, tiếng vang mà ngộ giải được chân lý: Ví như chúng ta nghe kinh mà được khai ngộ.

2. Nhu Thuận Nhẫn là tuệ tâm nhu nhuyễn, thuận theo chân lý: Có thể thường tùy Phật học, có thể hằng thuận chúng sinh.

3. Vô Sanh Pháp Nhẫn là chứng được Thật Tánh của vô sanh nhưng lìa khỏi các tướng, đây là chỗ cao tột nhất trong việc ngộ đạo”.

Nguyện thứ bốn mươi tám là “Hiện chứng bất thoái” (Ngay trong hiện tại chứng được bất thoái). Lời nguyện như sau: “Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác” (Với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác). Theo Hoàng Niệm lão:

Bất Thoái Chuyển nghĩa là những công đức thiện căn mình tu tập ngày càng thăng tiến chẳng hề lui sụt, mất đi. Bất Thoái Chuyển gọi tắt là Bất Thoái, gọi theo tiếng Phạn là A Bệ Bạt Trí. Hạnh nguyện Bồ Tát tuy khó phát nhưng dễ bị thoái thất. Kinh Nhân Vương nói bậc Bồ Tát thuộc Tín vị trong Biệt giáo được gọi là Khinh Mao Bồ Tát vì giống như vật bị gió thổi bay.

Kinh Niết Bàn bản Nam chép: “Vô lượng chúng sinh phát A Nậu Bồ Đề tâm, kiến thiểu vi duyên, ư A Nậu Bồ Đề, tức tiện động chuyển, như thủy trung nguyệt, thủy động tức động” (Vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề nhưng gặp chút duyên trái nghịch liền thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề như ánh trăng trong nước, nước vừa xao động, ánh trăng liền động). Kinh còn ví von:

Ngư tử, Am-la hoa, Bồ Tát sơ phát tâm, tam sự nhân trung đa, cập kỳ kết quả thiểu”. (Cá con, hoa Am-la (hoa xoài), Bồ Tát sơ phát tâm; ba thứ ấy nhân thì nhiều nhưng đến khi kết quả lại ít).

Kinh Thập Trụ Bồ Tát Đoạn Kết nói:

Thời Xá Lợi Phất cáo lai hội Bồ Tát: -Ngã nẵng tích, hoặc tùng Nhất Trụ tấn chí Ngũ Trụ, hoàn phục thoái đọa tại Sơ Trụ, phục tùng Sơ Trụ chí Ngũ Lục Trụ, như thị kinh lục thập kiếp trung, cánh bất năng đáo Bất Thoái Chuyển” (Khi ấy ngài Xá Lợi Phất bảo các Bồ Tát đến dự hội:-Tôi khi xưa từ Nhất Trụ đạt tới Ngũ Trụ rồi lại thoái chuyển xuống Sơ Trụ, rồi lại từ Sơ Trụ đạt đến Ngũ Trụ, Lục Trụ, trải qua sáu mươi kiếp như thế trọn chẳng đạt đến bậc Bất Thoái Chuyển).

Kinh Bảo Vũ cũng nói: “Hữu thế giới danh Sa Bà, kỳ quốc hữu Phật danh Thích Ca Mâu Ni, nhược chư hữu tình văn bỉ danh, ư A Nậu Bồ Đề đắc Bất Thoái Chuyển. Do bỉ Như Lai bổn nguyện lực cố” (Có thế giới tên là Sa Bà, cõi ấy có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Các hữu tình nếu nghe danh ngài thì chẳng thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề; đó là do sức bổn nguyện của đức Như Lai ấy vậy).

Xưa kia, ngài Trừng Hiến đã từng ca ngợi lời nguyện ấy như sau: “Trong năm trăm đại nguyện của đấng Thích Tôn, nguyện này thù thắng nhất”. Rõ ràng, cả hai bậc đạo sư hai cõi cùng phát ra nguyện tối thắng này, thật là “cùng một đường dẫn đến cửa Niết Bàn” vậy.

Hoàng Niệm lão kết luận: Do đây có thể thấy, “Vô lượng Bồ Tát hễ chưa đạt đến địa vị Bất Thoái, dẫu cực kỳ dũng mãnh như cứu đầu cháy, nhưng bởi chướng duyên bời bời dồn dập nên dần dà cũng bị thoái chuyển, đến nổi người học đạo nhiều như lông bò, kẻ đắc đạo hiếm tựa vãy lân. Khi còn tu nhân, A Di Đà Phật thương xót họ nhọc khổ nên phát vô thượng nguyện. Do oai đức của Phật nên người được nghe danh hiệu liền chứng đắc ba thứ Nhẫn, chứng được Bất Thoái Chuyển, chỉ tiến chẳng lùi, mau chứng được Bồ Đề, đây thật là nỗi vui mừng lớn.”

Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận lại nói: “ Nếu ai muốn mau chóng đạt đến địa vị Bồ Tát Bất Thoái Chuyển thì nên dùng tâm cung kính chấp trì danh hiệu”.

Kinh Tiểu Bổn cũng nói: “Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng giai đắc Bất Thoái Chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nếu có người đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sinh về cõi Phật A Di Đà thì những người ấy đều được bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

Sách Hội Sớ nói: “Tam Nhẫn, Bất Thoái đều nằm trong danh hiệu. Khi xưng danh, do danh và nghĩa chẳng rời nhau nên liền tự đạt được những đức như thế”. Cũng theo Hoàng Niệm lão:

“Rõ ràng, nếu nghe được danh hiệu, chỉ cần tín, nguyện, trì danh thì ắt có thể ngay trong hiện đời chứng được Bất Thoái. Diệu đức của A Di Đà Phật Nhất Thừa nguyện hải thật khó nghĩ suy nổi, sáu chữ hồng danh là phương tiện rốt ráo. Bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng nhiếp độ chúng sinh, nguyện nào cũng hiển thị lẽ chân thật. Phân ra thì đến bốn mươi tám nguyện, hợp lại chỉ là một pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú: Chân thật trí tuệ vô vi Pháp Thân”.