TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ
Đời Đại Tống, Sa-môn Thích Nguyên Chiếu ở Dư hàng soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN HẠ

(PHẦN 4)

THIÊN GIẢI THÍCH THĂM BỊNH

Bốn chữ trong đầu đề là hai môn sau. Chăm sóc, đưa đón là có thể nuôi bịnh đến hết, tức việc phải làm.

Trong ý chế, khoa đầu trước nói về bịnh, mắc nhiều phiền luỵ, tên chung của ác khổ. Bốn đại v.v… là nói riêng về bịnh não, đất, nước, gió, lửa, trong ngoài bao gồm chung gọi là Đại. Lục phủ là ruột già, ruột non, bao tử, bọng đái, ba tiêu, mật (tử đảnh đầu đến tim là thượng tiêu, từ tim đến eo là trung tiêu, từ eo đến chân là hạ tiêu, ba món nầy cộng lại là một phủ).

Chữ nhược trở xuống là kế nói chăm sóc. Chữ nhiên trở xuống là thứ ba nói về phàm tình. Nặc là gần. Chữ cố trở xuống là nói bậc Thánh dẫn đường, xét bộ Tây Vực Ký thì phía Đông bắc tinh xá Kỳ-hoàn có ngôi tháp, là chỗ Như lai tắm Tỳ kheo bịnh. Như lai lúc còn tại thế, có Tỳ kheo bịnh chịu khổ ở riêng, Phật hỏi “Sao lại khổ, sao thầy ở một mình?” Đáp “Con tánh tình biếng nhác không chịu săn sóc người bịnh, nay mắc bịnh không người chăm sóc” Phật thương xót bảo: “Nầy người thiện nam! Nay ta sẽ săn sóc thầy”.

Trong phần dẫn chứng, Luật do người bịnh không có người chăm sóc, Phật liền quở và chế giới. Ban đầu dẫn duyên, chữ tiện trở xuống là lập chế. Chữ Phật trở xuống là kết khuyên. Chữ nãi trở xuống là chỉ cho đồng, còn mất tuy khác, nhưng nêu lên nghĩa một, cho nên ý chế nầy bao gồm hai môn. Trong hỏi đáp gạn văn luật ở trước muốn bày công hạnh. Trong phần đáp, ban đầu chánh đáp có hai: đầu tiên là tâm hạnh đồng Phật. Chữ hựu trở xuống là kế thuận theo pháp chế. Chữ Tăng-kỳ trở xuống là dẫn bày, đầu tiên dẫn duyên khởi, tức nói thờ Phật không bằng nuôi bịnh. Chữ hữu trở xuống là kế dẫn khuyên khen để nói lên công đức sâu xa.

Trong phần chọn người, khoa đầu luật Tứ Phần đầu tiên chế bổn chúng có ba: một là thân thuộc tự nuôi. Hai là Tăng cho, Ba là tăng sai. Đúng như pháp trị tức là kết tội. Y theo không có Tỳ kheo nên sai Sa-di, tịnh nhân nuôi. Chữ nhược vô trở xuống là kế khai chúng nữ. Hai luật Thập Tụng và Tăng-kỳ đại khái đồng với trước. Khoa kế, đầu tiên nói bổn chúng có hai: đầu tiên có xe rước về. Không chỡ phân biệt nghĩa là hôn mê. Trâu cái, ngựa cỏ vốn không đựơc cưỡi, bịnh nặng thì khai. Nhược hữu trở xuống là kế nói không xe đến rước. Không nhiễu tháp, v.v… vì sợ chậm trễ và cùng rước nghĩa là gọi đàn việt đến rước, đồng với Tỳ kheo ở trước. Nhược lộ trở xuống là kế nói Ni chúng, đồng khác rất dễ thấy. Xà-duy, Hán dịch là phần thiêu. Kẻ tục hiền chê đưa xa, không để cho thấy. Chữ dư trở xuống văn nói về chúng dưới, văn lược không nêu ra cho nên khiến y theo đó.

Trong phần ba, cấu ban đầu chỉ trước Thánh chế, câu kế khuyên nướng, hai câu sau chỉ rộng tức là văn luật Tăng-kỳ. Trong cung cấp, khoa đầu Ngũ Phần chỉ khai tự nấu, Ngũ Bách Vẫn cũng vậy. Bảy ngày một lần thọ, càng khai quá ngọ mất thọ, ác xúc không thọ. Tiên tịnh nghĩa là sai tịnh nhân làm hoả tịnh, sau chỉ lương báu. Luật ấy chép: “ Tỳ kheo khất thực hoặc bịnh không thể xin ăn, phải tự nhún mình nghĩ rằng:

“Ta không có bạn bè riêng, một thân xuất gia, pháp là bạn ta”… đồng tập thiền kinh, nay tạng chép không nêu ra.

Trong phần hai, Tăng-kỳ trước nói chín hoạch cho biết chăm sóc bịnh, bảy món trước đều là ăn, thứ tám biếng nhác vì bất động điều nhiếp, chín không có trí tuệ nghĩa là chấp ngu mất trị. Chứ hựu trở xuống là kế nói cung cấp, y cứ văn thứ ba: ban đầu phải là vật mình. Hai, là mình không thì là vật của Tăng. Ba là tăng không thì xin đồ ăn ngon cho người nuôi bịnh, là tưởng thưởng sự khó nhọc kia, vì khiến không lui sụt. Hựu bất trở xuống là thứ ba cho tránh khỏi. Luật Tứ Phần nói năm đức, văn dẫn thứ năm mà lược bốn món trên: một là biết ăn được nên cho. Hai, là không nhờm gớm đồ đại tiểu tiện. Ba, là vì thương xót, không vì cơm áo, bốn là có thể lo liệu thuốc thang. Luật Thiên Kiến vì bịnh khai lương thực cho người thế tục không phạm tội làm dơ nhà người, sau chỉ Tăng-kỳ lược như trên đã dẫn, người cần tự tìm.

Trong phần ba, ban đầu là hai luật Thập Tụng và Ngũ Phần, xét rõ hỏi về vật cần dùng kịp thời cấp cho, sau trong luật Thập Tụng, khai uống phạm lỗi thuốc dùng quyết sai. Trong Phật Tăng, Phật không túc xúc: nghi là thừa chữ Phật.

Trong phần bốn Thiện sinh đầu tiên răn dạy trước sau. Chữ nhược trở xuống là dạy cầu vật, Ngũ Bách Vấn ban đầu chế nuôi bịnh liền dùng vật của người bịnh. Chữ Tỳ kheo trở xuống là kế chế người bịnh bỏ y bát, một vì trọn đời không lìa, hai là để thưởng người nuôi bịnh.

Trong phần năm, Già Luận bất tịnh đồng với Thập Tung ở trước, nghĩa là nấu thịt và dùng muối. Ở đây dẫn bỏ bộ chung khác ở trước.

Trong phần sáu, Tứ Phần ban đầu đặt đồ tiện, kế và thứ ba là khai. Trong nhà tức trong phòng. Chữ bất trở xuống là kế đặt đồ nhỏ, đã chế giở đất phải có đồ đựng. Thứ ba, là trong sắp đặt, khoa đầu luật Tăngkỳ phòng tốt là của Đại đức. Trong luật Thập Tụng, phóng tính là người thường. Nhưng không được… trở xuống là phòng không cho người nuôi bịnh. Văn kế, Trung quốc vốn truyền, Đàn Kinh cái gọi là truyền riêng. Nhật quang chìm đắm, Đàn Kinh nói rằng “Phương Tây là viện Vô Thường, do khi chết ở vị trời khâm phục, nay chùa cũng có, chỉ phương góc không nhất định vì không biết cách. Chữ dĩ trở xuống là nêu lý do nhà riêng, nay gọi là diên thọ (sống lâu) đâu chẳng trái nhau. Chuyên tâm niệm pháp là do chẳng phải chỗ cũ. Không tâm luyến lưu chỉ nghĩ vô thường, quyết suy nghĩ pháp cao siêu. Trong nhà kia, v.v… trở xuống là kế nói bày tượng. Lập tượng Di-đà là có chỗ qui tâm, nhưng tịnh độ mười phương mà chỉ riêng về Phương Tây là buộc niệm một cảnh, tưởng niệm dễ thành; phương Tây có nhiều Phật mà chỉ quy về Di-đà là vì ngài thệ nguyện sâu rộng, kết duyên thành thục. Cho nên xưa nay đạo Nho hay đạo Phật thảy đều lưu tâm, huống gì cõi trược kẻ phàm phu phiền não cấu nặng, tâm như khỉ chưa buộc, ý muốn như ngựa khó điều phục, bỏ đây cầu kia không bao giờ có đường ra, xin tìm Kinh Đại Tiểu Di-đà, Kinh Thập Lục Quán, Luận Vãng Sinh, Luận Thập Nghi, v.v… các văn, nghiên cứu rỏ ràng lời Thánh, sinh sẽ lòng tin sâu. Tượng mặt hướng về Tây, người bịnh ở sau, nghĩa là khi sắp chết, trước kia thường chiêm ngưỡng tượng khiến kia buộc niệm. Cõi Nhẫn, tiếng Phạm là Ta-bà, Hán dịch là Kham Nhẫn. Kinh Đại Bi nói rằng: “ Chúng sinh cõi nầy chịu đựng ba độc và các phiền não”. Nhân gian hôi dơ, Cảm thông Truyện có vị trời nói rằng “Trong cõi người hơi hôi dơ xông lên hư không bốn mươi muôn dặm” Chữ thiên thanh tịnh thảy nhàm chán. Chỉ vì nhận lời Phật phó chúc khiến hộ trì pháp Phật, còn cho người cùng ở thì chư thiên chẳng dám không đến. Thường ở chỗ Phật, sợ tâm không buộc niệm vì việc đời.

Trong phần bốn, khoa đầu, trong văn Thập Tụng chỉ là chế chung các câu sau, đều nêu ra Tổ sư, thâm pháp chỉ là Phật giáo, chúng được 8 gọi là Thâm, thị đạo gọi là pháp xuất thế, phi đạo là pháp thế gian. Trong Luyện-nhã, có nói rộng, thoại nghĩa là thăm hỏi an ủi, dùng làm đầu mối khuyến dụ. Xả toà là chia nửa tòa cho Ca-diếp ngồi. Xả y là cởi y đang đắp đổi y phấn tảo kia. Trong tụng kinh, duyên khởi chìm oanh vũ là xuất xứ từ kinh Hiền Ngu, kinh ấy chép: “ Nhà Tu-đạt có hai con chim Oanh Vũ có thể hiểu tiếng người, lúc A-nan đến nhà Tu-đạt trao pháp Tứ Đế, nó nghe rồi vui mừng tụng tập bay lên cây, kế lại thứ lớp bay lên bay xuống bảy lần, chiều tối ngủ trên cây bị chồn ăn thịt, chết liền sinh lên cõi trời Tứ Thiên Vương. A Nan nghe chim chết hỏi Phật chỗ nó sinh về, Phật bảo A-nan “Nhờ duyên ông trao pháp, sau khi chết chim sinh lên cõi trời Tứ Thiên Vương, sống lâu năm trăm năm, lần hai sinh lên trời Đao-lợi sống ngàn năm, lần thứ ba sinh trời Diệmma sống lâu hai ngàn năm, lần thứ tư sinh lên trời Đâu-suất sống bốn ngàn năm, lần thứ năm sinh lên trời Kiêu Lạc sống tám ngàn năm, lần thứ sáu sinh lên trời Hoá ứng Thinh sống một muôn sáu ngàn năm, lần thứ bảy lại sinh lên cõi trời thứ năm, thứ lớp lại đến cõi trời Tứ Thiên Vương, mạng chung rốt sau sinh Diêm-phù-đề ở trong loài người xuất gia học đạo, duyên theo Tứ Đế ở trong loài người xuất gia học đạo, duyên Tứ Đế trước tâm tự khai ngộ thành Bích-chi-phật, cho nên nói rằng “Sau đắc bốn đạo”. Đại phẩm là Kinh Bát-nhã, xuất xứ từ ra ở quyển thứ ba mươi. Kinh kia nói rằng Thích-Đề Hoàn-nhân nghĩ rằng: “Nếu người nghe duyên Bát-nhã qua tai một lần, người nầy đời trước ở chỗ Phật làm các công đức, cùng tri là thức theo nhau, huống chi thọ trì đọc tụng.”

Trong chữ Thường trụ, Nê-hoàn quyển sáu chép: “Nầy người thiện nam, thiện nữ phải trì hai chữ Như lai thường trụ, nhiều kiếp tu tập, các chùng sinh nầy không lâu sẽ thành đạo Đẳng Chánh Giác. Hai kinh đều nói thắng báo, cho nên nói rằng không đọa vào đường ác.

Trong các Luật sư, Tỳ-ni chủ đối với trụ trì cho nên khen ngợi sự hưng thạnh, v.v… Tự giữ và nhiếp hoá người tức là hai lợi. Chư Phật khen, các kinh luận khen công đức trì giới như nêu tông dẫn đủ. Trong các Pháp sư, mê đảo như mù, vọng tưởng như bịnh. Trong các Thiền Sư, tiếng Phạm là Thiền-na, Hán dịch là tư duy tu. Người biết thiền chỉ là tu tâm, cho nên chỉ cho nói nhiều. Việc tham thiền ngày nay cũng có nhiều việc mà nói.

Việc trì lời câu quên vốn đã lâu.

Trong việc chúng, đầu tiên dẫn năm vị Thánh để so sánh. Đạp-Bà tức Tứ Phần nói La-hán Đạp-bà. Bỏ La-hán là nhàm Vô học. Cầu vững chắc là tu đại hạnh. Luật Thiện Kiến chép “người nầy là Vương Tử xuất gia cho nên nói răng “Vương chủng”. Ca-diếp duyên là truyện Tát-bàđa chép: “Ca-diếp ở Kỳ Sơn tự xây năm ngôi chùa chung làm một giới, tự làm vách bằng bùn.

Kỳ-dạ nói đủ là Kỳ-dạ đạ, kinh Tạp Bảo Tạng chép “Nam Thiêntrúc có hai Tỳ-kheo nghe Dạ-Đa có oai đức lớn, đến trụ xứ kia thấy một Tỳ-kheo hình dung tiều tuỵ đốt lửa trước bếp, bèn hỏi: “ Biết Da Đa chăng?”

Đáp: Ở hang thứ ba. “Liền đến hang đó, chỉ thấy Tỳ kheo đốt lửa gặp khi nãy, lễ rồi nói rằng: “Đã có oai đức, sao lại tự nhọc nhằn?”

Đáp: “Tôi nghĩ khổ sinh tử lúc xưa, nếu đầu, tay tôi có thể dùng đốt còn không tiếc, huống gì là nhọc thân?”

Thân Tử tức ngài Xá-lợi-phất, Kinh Bách Duyên chép: “Lúc Phật còn ở đời, có Tỳ-kheo Lê-xa-thi xuất gia chứng A-la-hán, khất thực không được, bèn vào tháp quét dọn khất thực liền được đầy đủ. Bạch chúng tăng rằng: Từ nay tháp chùa xin cho tôi quét dọn”. Một hôm, ngủ không thức dậy, sáng ra Xá-lợi-phất thấy tháp bụi bằm liền quét dọn, Lê-Xa-Ni thức giấc sinh tâm buồn bực nói với Xá-lợi-phất rằng: “Thầy quét đất tôi, nay tôi đói khổ”, do đây bảy ngày khất thực không đựơc bèn ăn cát uống nước mà nhập Niết-bàn. Tỳ kheo hỏi Phật, Phật nói: “Vì quá khứ giận mẹ bố thí, trói mẹ trong phòng, người mẹ xin ăn, bèn đáp rằng: “đâu bằng ăn cát uống nước”, bảy ngày sau người mẹ qua đời. Người con kia chết đi đọa vào địa ngục, đền tội xong làm người, cho nên thọ báo nầy do xưa cúng Phật nên nay được đắc đạo” (duyên Mục-liên như thiên sau có chép đủ).

Chữ nhiên trở xuống là nói lên phước tăng lớn, sau khen hạnh tu. Chữ kinh trở xuống là khuyên nhớ trì, tức kinh Tinh Danh. Tịnh mạng nghĩa là không cầu tà. Trong phần bày chung, khoa đầu trước dẫn truyền lịnh xướng đọc, y theo đây lúc sinh tiền tu tất cả công đức đều nên ghi chép. Hễ nuôi bịnh thường ở gần bên, do bỏ đường quả báo sinh vào đường nào là tùy khi chết tâm nghĩ thiện ác, trở xuống là dẫn Trí Luận làm chứng, vẫn quyết chỗ nghi.

Trong phần đáp, câu đầu là chánh đáp, hai câu sau là chuyển giải thích. Làm ác sinh đường lành, là y theo Luận Thập Nghi của Thiên Thai, ba nghĩa chung là: một ước tâm, do khi tạo tội từ tâm hư vọng điển đảo sinh, là hư. Nay nhờ trí thức khuyên bảo dẫn dắt sửa tâm, là thật.

Hai là khi gây ra tội do si ám luống dối làm duyên là nguỵ, nay gặp tri thức được nghe danh Phật, phát tâm bồ đề là chân.

Ba, quyết định lúc trước gây ra tội tâm có xen hở, nay khi qua đời tâm mạnh mẽ, như ngôi nhà tôi nhiều năm, đốt một ngọn đèn lên sẽ phá tối, đống củi chất ngàn năm, một ngọn lửa nhỏ sẽ đốt cháy hết. (Nghĩa sau tức đồng với Sao ngày nay)

Khoa kế, đầu tiên là chánh nói, chữ ngũ trở xuống là dẫn bày. Đầu tiên dẫn duyên bồn đồng, sau chỉ duyên san lẫn y, như trước tức trong hai y cho nên sau kết cáo.

Trong phần khuyên dạy, khoa đầu trước nói lượng cơ. Bịnh mạnh yếu là xem khoẻ hay mệt. Tâm lợi độn là thông minh hay ám độn. Nghiệp thô tế, thô như lo tạo phước, tế như thiền tụng v.v… Tâm lấy bỏ, là chỗ ưa khác. Chữ như trở xuống là Phương Tây, Đâu-suất v.v… Đây là thứ tư quán sót nghĩa đều tột cùng, tuỳ nghi phương tiện gặp việc tự dứt. Chữ hoặc trở xuống là kế nói thuyết pháp, ban đầu dạy duyên theo Phật, hoặc dạy xưng tên, hoặc khiến quán tướng, hoặc khen công đức khiến sinh tâm vui mừng. Chữ hoặc thân trở xuống là kế bày tâm quán, tức tánh không tướng không, ba pháp quán Duy thức. Đến diệm xứ là dụ cho tướng không, nghĩa là như khát nước con thỏ bèn đốn với bóng nắng xa thấy giống như nước, chạy đến thì vốn là không. Chữ các trở xuống là sau bày tuỳ duyên, không cần như trên.

Trong phần hai, ban đầu dẫn luật chế hỏi. Nhận không tốt tức là tiếc điều tốt. Đến đưa người nghĩa là vọng làm gương mặt, ở đây nêu ra người bịnh ý sẻn tiếc xấu xa, cho nên phải hỏi. Chữ ưng trở xuống là y theo nghĩa tuyên bố. Ban đầu khuyến cáo chấp trước. Phật chế ho chứa là giáo nghiêm. Duyên xuất thế là nói hạnh mạnh. Thường chấp sinh là bày quả báo cao quý. Tỳ-kheo Diện Vương trong Kinh Hiền Ngu nói rằng: “Từng dùng lụa cúng dường Bích-chi-phật, năm trăm đời lụa, sinh ra có lụa trắng quấn thân, thân lớn thì lụa lớn theo, mặt có Chữ Vương, sợ bị Vua làm tổn hại bèn xuất gia, thiên lai đắc giới, lụa trên thân biến thành pháp y, sau khi Niết-bàn dùng y đây trà-tỳ (như Luận Phân Biệt Tông Đức chép nói “Đầu có mão trời nên gọi là Diện Vương”).

Chữ nếu trở xuống là khổ khuyên tham san mắt nhìn không cứu, nghĩa là hiện thấy y vật không thể giúp hoạn nạn. Kinh chép: đây là nêu ra Luận Trang Nghiêm, luận ấy nói rằng: “Xưa có vị vua tên là Nan-đà tham chứa vàng báu, bèn đem con gái để ở lầu cao, nếu có ai cầu hôn thì bảo nạp của báu, bèn nhóm hết của báu trong nước. Bấy giờ, có một người nghèo, cầu hôn không được, do đó mà thành bịnh, người biết nên bảo con rằng: “Cha con sau khi chết trong miệng có một đồng tiền vàng, con hãy đào mồ lên lấy vàng dâng vua”. Vua lấy làm lạ hỏi: “chỗ nào lại có báu?” người kia kể lại đầy đủ, vua do đây ngộ rằng sau khi chết một đồng tiền vàng còn không giữ được, sao phải khổ sở muốn nó, bèn đem bố thí hết. Trên là khuyên bỏ san tham. Chữ diệt trở xuống là kế khuyên nương theo pháp. Nhan diện nghĩa là lấy tình mặt, do vật sót lương thực.

Như thị trở xuống là kết bày, sợ tâm khinh động cho nên không dám trái, sợ nhớ việc đời cho nên không thể thuận, chữ dĩ trở xuống là nêu ra lý do phải khuyên can. Khi chết niệm lành sinh đường lành, thì lên. Niệm ác thì đoạ đường ác, cho nên chìm, bay lên hay chìm xuống chỉ trong sát-na, đây là thời kỳ rất quan trọng Chữ kỳ là thời. Trong phần ba, ban đầu bày kinh tượng, dẫn Kinh Hoa Nghiêm làm chứng, văn kinh hai kệ truyền chép lầm lộn, ở đây nêu ra phẩm Bồ-tát Hiền Thủ, ban đầu kệ nói rằng: “Lại phát ra ánh quang gọi là thấy Phật, ánh sáng kia giác ngộ người chết, niệm Phật tam-muội chắc chắn thấy Phật, sau khi chết sinh ở trước Phật”. Bài kệ kế sót câu đầu, kia nói rằng: “Thấy người kia qua đời khuyên niệm Phật” Xét ba câu trong sao, như bản dịch mới nói rằng: “Lại phát ra ánh sáng gọi là thấy Phật, ánh sáng nầy giác ngộ người sắp chết, khiến tuỳ nhớ nghĩ được thấy Như Lại, khi chết được sinh về cõi tịnh kia” (kệ nầy khen quả Phật một hào quang công đức).

Thấy có người chết khuyên niệm Phật và bày tôn tượng cho người ấy chiêm ngưỡng cung kính, đối với Phật rất quy ngưỡng cho nên được thành ánh sáng này (kệ nầy khen Phật ở trong nhân tu hạnh ánh sáng này).

Trong phần bốn, ban đầu thỉnh người khuyên. Luật Thiện Kiến nói nuôi bịnh tự khuyên, luận Tỳ-ni Mẫu nói xen nhau, trái kế phạm, nương trước châm chước chỉ trên. Khoa kế, chữ nhược trở xuống là nói sắp chết đánh khánh, khiến nghe sinh thiện. Ngài Thiên Thai Trí Giả lúc sắp qua đời bảo vị Duy-na rằng: “Người sắp chết nghe đựơc tiếng khánh tăng thêm chánh niệm, đánh hồi lớn dài dứt làm thời, vì sao lại đợi thây lạnh mới đánh khánh ư?” (ngày nay chết rồi mới đánh cho nên biết không có lợi ích).

Thứ hai, là đưa người chết. Trong phần bày ý, ban đầu bày nghi đạo tục khác nhau, hậu táng nghĩa là hao phí nhiều tiền tài. Chữ nhược trở xuống là kế nói xa xỉ và tiết kiệm. Trong phần nêu ra sắp chết, khoa đầu trước nói chỗ đặt thây, quan tài lụa phương Bắc vẫn còn, trong đầy phần nhiều dùng quan tài gỗ, hoặc thêm thùng lụa. Kế nói chỗ ngồi thầy trò. Điếu uy điều tức thuận đến, nghĩa là đến chỗ an táng mà hỏi 0 thăm, an ủi. Bố cỏ, trong đây có dùng toà cỏ, hoặc dùng giường cây.

Khoa kế, đầu tiên dẫn văn, trong bày luật chế do ni chúng tánh nữ mềm yếu phần nhiều ưa khóc lóc, Tăng thì ngược lại, cho nên tội chia nặng nhẹ. Chữ nhược trở xuống là kế y theo nghĩa nói khai, ban đầu dẫn Niết-bàn làm dụ, tức Di giáo chép: “Nếu chỗ làm chưa xong (chưa chứng thánh) thấy Phật diệt độ phải có thương cảm”, y cứ ngồi vị thì nội phàm trở lên nên nói là chưa lìa dục. Chữ nhược sắp xuông là kế nói không khóc, trái lỗi. Người khí đứt cao không vọng buồn vui, cho nên nói rằng không cuộc hạn tình đời. Mặc tình là không kéo dài buồn khổ, tức trái với thật hiếu, cho nên nói là đạo tục đồng hổ thẹn.

Trong phần ba, ban đầu nhỏ mà điếu lơn, lại có hai: một là gần chỗ đến ấy, tức cho thong thả phúng điếu và an ủi. Hai là xa đến vội vàng chưa rảnh để an ủi, hỏi thăm. Kế nói lớn mà điếu nhỏ, nương nghi gốc, nghĩa là không làm lễ. Tuỳ thời ngồi đứng, nghĩa là mặc ý kia.

Trong phần bốn, Ngũ Phần che gốc, y theo nên bày lộ, Ngũ Bách Vấn ban đầu đậy thây, cần phải bạch tăng là vì vật của Tăng. Quần và Kỳ-chi (áo quần nhỏ) phải chuyển dùng (đời nói rằng phải đắp năm điều là sai vì chế vật sai thưởng người nuôi bịnh). Chữ không được trở xuống kế nói liệm và dựa, do đều thuộc tăng quá năm thành trộm, văn nói chỗ nêu ra thứ lớp có ba, một là nêu thân thuộc, tức sư Tăng v.v… Hai, là lãnh chúng Tăng. Xá-lợi, Hán dịch là di thân là thây chết. Ba là bán vật người chết, đây là vật của tăng. Vô cớ mới sai khiến bồi thường nghĩa là người nuôi bịnh xin riêng vật kia. Cho vốn tương đương, vào Tăng làm pháp và tăng trả lại xuống là thứ ba bày nghi thức chôn. Dư là vật khiêng quan tài.

Trong phép chôn, khoa đầu tiên trước nêu bốn pháp, thuỷ táng thì làm đồ ăn cho cá rùa, lâm táng thì giúp cho cầm thú. Chữ luật trở xuống là kế dẫn chứng, trong văn các bộ chỉ không có thuỷ táng. Xà duy tức hoả táng. Ở luật Thập Tụng có Tỳ kheo bịnh nghĩ rằng “ Sau khi ta chết, tăng sẽ chia tiền ta”, bèn để tiền vào canh mà nuốt. Sau khi chết đem bỏ vào rừng, chim mổ bụng nên lòi tiền ra. Chữ nhiên trở xuống là nghĩa quyết, tàn là tổn hại, không nên tự làm. Khoa kế, ban đầu hoa hương rải thân. Còn sống thì chế, vì chết nên cho. luật Tăng-kỳ cũng vậy, nghĩa là đồng trước đựơc rải hương hoa.

Trong phần ba, ban đầu nói xây tháp. Năm chúng đều được tức trước Tăng tượng thứ lớp lễ tháp. (Hán gọi chung là mộ phần). Trong thêm một, Phật nói: “ Có bốn hạng người nên xây tháp là Luân Vương, La-hán, Bích-chi-phật và Như lai” Lại sau chia rằng: “Luân Vương

không có tầng, La-hán bốn tầng, Bích-chi-phật năm tầng, Như lai mười ba tầng” Như kinh Thập Nhị Nhân Duyên nói có tám loại tháp đều có lộ bàn (tức bốn nóc mái), Phật có tám tầng, Bồ-tát bảy tầng, Bích-chiphật sáu tầng, Sở quả hai tầng, Luân Vương một tầng, Phàm tăng không được đưa thềm ra đặt cấp (nay có chỗ đưa thềm ra là do không biết giáo pháp, lạm đồng với bậc thượng Thánh).

Chữ Ngũ trở xuống là kế nói lập tượng. Nói thông ngày mồng một. Chữ cao trở xuống là sau rõ chỗ xây tháp, truyện cho trong chùa. Luật chế chỗ vắng làm tướng vòng tròn, vì tướng vòng tròn cao vọt ra để làm biểu tướng.

Trong phần bốn thêm một, nói đủ rằng: Phật bảo A-nan, Nanđà-la: “các thầy khiêng thân Đại ái đạo (tức Di Mẫu) ta sẽ đích thân tự cúng dường” bấy giờ, Đế-thích, Tỳ-la-môn Thiên Vương bạch Phật rằng: “Chớ tự nhọc nhằn, chúng con sẽ tự phải cúng dường”. Phật nói “thôi đi! Vì nếu làm như thế thì ân nuôi dưỡng bú mớm ẵm bồng không được báo đáp, quá khứ, vị lại Chư Phật đều làm như vậy” Phật liền cùng A-nan v.v… mỗi người khiêng một góc bay lên hư không đến chỗ mộ phần. Chữ chuyển trở xuống lệ quyết, pháp sinh tuy khác mà nuôi dưỡng lại đồng, so sánh ân đức, bậc pháp thân còn trọng, ôm thây chết mà đưa còn chưa đủ báo đáp, cho nên nói là đâu thể hết.

Trong phần năm, đầu tiên dẫn Luận không được đưa chôn người tại gia, phải do cha mẹ y theo lý nên được, trừ quán vô thường là không do người mờ, chẳng vì thế tình mà muốn giúp đạo hạnh, là khai hạn không thể ỷ lạm để bào chữa lỗi mình. Nâng đỡ thây mẹ, xúc chạm phạm cảnh, chung với người nữ chết, báo ân là việc cần thiết cho nên riêng khai chôn, tức chữ tẩn liệm cõi nầy. Khứ hộ nghĩa là áo che thây. Chữ Thánh trở xuống là khuyên nương nhưng duy trọn lễ phải tránh sự chê bai nghi kỵ, cho nên dạy lượng cơ.

****

THIÊN GIẢI THÍCH CHƯ TẠP

Chư tạp là phân biệt các thiên khác thuần một. Yếu hạnh là bày chỗ cần, khi dùng tức mười môn sau đều là chánh nghiệp, đều do vốn thọ thể khắp khiến tuy hạnh nhiều đường, cẩn thận vâng làm, lưu truyền nên chú ý.

Trong phần bày ý, đầu tiên là bày pháp thể. Câu đầu bày cảnh rộng, không nêu tình và phi tình. Lâm nhiên nghĩa là nhiều như cỏ cây, câu kế nói rõ chế khắp Tỳ-ni, sự pháp nương cảnh mà chế, tuỳ một cảnh lại có nhiều sự, tất cả cảnh sự không ngoài thiện ác, đối đây thiện ác đựơc chia ra hai trí, thì không có một việc nào mà chẳng là điều vâng giữ. Thứ ba là nói trái phạm, hết nghĩa là khinh lờn không làm, là nói chung hai phạm.

Thứ tư là nói quả báo đời sau, lời thầm trách bao gồm hai báo. Hai câu trên nói trì, hai câu dưới nói phạm. Chữ cố trở xuống là nói tuỳ hạnh, hai câu trên nói tuỳ sự lập pháp, mỗi việc nghĩa là cảnh sự. Món dặn dò tức luật chế. Hai câu dưới nói do giải khởi hạnh, giải do giáo sinh, cho nên phải tuyên biện. Đây là không bày một bộ ý chánh giáo.

Khoa kế, đầu tiên lại điểm thiên trước, các môn trên gồm hai mươi sáu thiên. Vì trong các thiên khoa nghĩa tương do, sự loai đều suốt, rõ chẳng phải lẫn lộn, cho nên nói là do đường nhiếp nhau. Chữ biệt trở xuống là kế xét bày thiên sau. Loại khác là Sa-di và Ni đối với đại tăng là các bộ riêng, đối với bổn tông là riêng, gồm thâu cũng bày không lẫn lộn. La nghĩa là bao la. Chữ dĩ trở xuống là chánh nói bổn thiên, hai câu trên nói sự tạp. Phiền loại nghĩa là không điều lưu. Đoạn là nghĩa có riêng dứt. Tục là sự hoặc liền nhau, đều không thành khoa đoạn nên gọi là Tạp vụ. Phân luân dụ cho rối loạn. Hai câu kế nói văn vụn vặt, đây riêng tức chỉ ngay thiên nầy, đối với trên dưới nên nói là riêng.

Trong phần ba, ban đầu nói cốt yếu. Chữ Tất trở xuống là khuyên tu. Chữ tắc trở xuống là bày lợi ích, khiếp nhược là sợ sệt. Ngược lại biết không học thì động dụng trái oai nghi, vào chúng hay du phương sẽ không nghi sợ, gởi lời với người học xin lưu ý. Nêu bày mười môn, thì một, bốn, năm, phần nhiều từ hoá giáo, chẳng phải không gồm chế, còn bao nhiêu đều là chế giáo, thời cũng gồm hoá giáo.

Môn đầu, trong lễ kính, sáng, trưa, chiều là ba thời của ngày, đầu, giữa, sau là ba thời của đêm. Ba sự như văn kế bày. Theo các kinh luận cần hạnh năm hối, lại thêm hồi hướng phát nguyện. Như Tổ sư sáu thời lễ văn chép đủ nghi thức, người học nên nương theo.

Khoa kế, luận Tát-bà-đa nói tua hoa chỉ được rải đất, không được rải trên mình Phật, Tăng và trên đồ ăn uống, vì việc chẳng nên làm. Ngũ Bách Vấn làm các Phật sự tuy cho sửa đổi mà không đổi bản chất như giới trộm đã dẫn. Luận Tát-bà-đa nói Phật lạp nghĩa là thức ăn ngày tự tứ, v.v… là lấy các vật cúng dường, tuy tăng tay cầm cũng không thành ác xúc.

Trong phần ba, Thập Tụng nói biết sự pháp. Đầu tiên dạy riêng năng nhọc nhằn. Chữ thường trở xuống là kế khuyên phát nguyện, dạy bày các chúng đồng đây giữ tâm, cho nên nói rằng cũng vậy. Luật Thiện Kiến nói giữ chùa, luận Trí Độ dạy sai, kế thỉnh sai nương lạp phải từ trên khởi. Sai dịch thì phải lấy dưới thấp cho nên từ dưới lên.

Trong phần bốn Tát-già Câu-xá chế không được hoại. Thượng phẩm trị là đồng với tội nghịch. Luận Trí Độ, luật Tăng-kỳ khai loại xấu đổi tốt.

Trong phần năm, cúng người là pháp ấy, do người hiểu pháp vì pháp nương người.

Trong phần sáu, luận dạy chọn một người có khả năng hiểu biết coi sóc việc chúng, đầu tiên là Đại tăng thứ hai là Sa-di, thứ ba là tịnh nhân, tìm văn có thể thấy. Thấy chỗ loại trái với lãnh.

Trong phần bảy, khoa đầu tiên, luật Tăng-kỳ nói thưởng cho. Nói có công ấy là vì lo lắng sửa sang một chín nghĩa là một lần chọn chín giữ sống. Một nấu nghĩa là một lần nấu. Luật Ngũ Phần có ba đoạn, đầu tiên nói tri sự thường ăn, đưa lưỡi liếm mắc tội Đột-cát-la. Kế nói vật tăng tạm mượn cho kẻ tục dùng, vì nương nhau ở. Ba là nói năm thứ vật của tăng không chia, bán, vì là của thường trụ, cho nên luật Tăngkỳ đồng như trên. Ban đầu chế hằng định, kế khai chuyển đổi. Luật Tứ Phần nói tội Thâu-lan-già, tạm phá Tăng dùng quyết tâm tổn mình như trên phạm tội nặng.

Khoa kế, luật Tăng-kỳ thâu nêu giúp trị, đồng thời chế chung làm, không cho lời bày, trái mắc tội nhỏ, đi chậm nghĩa là bước chậm rãi.

Trong phần ba, Luận Tỳ-ni Mẫu ban đầu nói thưởng cho, lường công nhiều ít, chữ nhược trở xuống là kế dạy thí ăn, tâm không hi vọng, chẳng tuỳ người bịnh, là bịnh ăn vào rất kỵ, mắc tội là y theo giới sát ở trước, lý nên kết tội Thâu-lan-già, hoặc trái giáo tội Đột-cát-la, trở về trứơc các văn đều như tùy tướng ở giới trộm có nói đủ.

Môn thứ hai, khoa đầu năm pháp, từ tâm bình đẳng lìa lỗi phân biệt. Hai là nhún mình tự ty, lìa lỗi cống cao. Trong chú giải, bốn câu hành là phản chiếu lại mình như thế nào. Hai câu trên là Phạm Võng nói rằng: “Việc xấu đem về mình, việc tốt nhường cho người”, hai câu dưới nêu ra kinh Tịnh Danh, văn kia chép tiếp rằng “Thường dùng nhất tâm cầu các công đức. Ba, là ngồi đứng có thứ lớp lìa lỗi loạn chúng. Chữ ứng trong chú thích khứ hô là hợp. Cúi ngước, cử động hợp oai nghi cho nên nói rằng đắc thời. Bốn, không nói bậy bạ, lìa lỗi hí luận. Trong chú giải, câu đầu nói trên thuyết pháp, câu kế bày trên không nói bậy. Năm, dạy bày im lặng lìa lỗi não chúng. Khoa kế Thiện Kiến nói hạ tọa từ tạ, chữ trang khứ hộ, tức dùng ngà voi để trang sức. Luận Trí Độ nói thêm toà bày cung kính. Toà sư tử là chỗ nói pháp, Luận Trí Độ nói Phật là sư tử trong loài người, chỗ Phật ngồi hoặc giường, hoặc đất là toà sư tử. Tăng-kỳ trang nghiêm pháp toà, quét hoa ngồi ấy là bỏ sự xỉ tốt đẹp.

Trong phần ba, ban đầu là oai nghi vào nhà, mặt bên cửa là tuỳ ngạch trái phải mà giở chân. Chữ hữu trở xuống là kế bày cách đánh, nghĩ giã liền giã đánh đe gần bằng. Trọng hưởng nghĩa là rung động, chữ thinh trở xuống là đếm không xong, cho nên cần tay trái (xưa nói rằng biểu chứng không một sai lầm. Lại thấy đánh dùng tay trái, đến đánh làm thế xoay chuyển càng đáng cười). Chữ nhiên trở xuống là thứ ba nói thưa bạch, đồng được cũng nói là đồng cũng, tức thời đại tiểu thực xướng ăn bình đẳng. Chữ bất trở xuống là chế nghi pháp, chuẩn biết đánh chùy chỉ là thưa bạch thỉnh chúng, không giống đánh chuông khánh là sự dụng.

Môn thứ ba, môn nầy sự tạp, theo nghĩa chia làm mười sáu đoạn. Trong phần đầu, Ngũ Bách Vấn thảy đều cười cợt đánh nhục, không vì cầu pháp cho nên không cần đáp. Kế liệu như nêu tông giải thích đủ.

Trong phần ba, Luật Ngũ Phần sai thứ lớp, nghĩa là triết sự sai tăng và pháp thực nhóm họp, chảng phải chỉ hai món nầy cho nên nói là “đẳng”. Luật Tứ Phần nói học tụng nghĩa là tụng sách vở thế tục, ngoại đạo. thế luận nghĩa là tính toán nói bàn. Tạp pháp tức kiển-độ Tạp. Luật Thập Tụng, văn tụng là nay thi ca. có thể kinh sợ là pháp sắp diệt. Do sách bói toán học thuật ở đời văn tụng đều là thế pháp, chẳng phải nghiệp xuất gia, vì nhân duyên thời đại chấp nhận. Thích tử ngày nay danh thật đều mất, có thể viết sách thì xưng là thảo thánh, tụng sách thế tục thì tự gọi là văn chương, chọn đất thì gọi là non nước, bói thuật thì kêu là Tam mạng, khởi ý bỏ việc nhà Phật, thuận theo danh của thế tục, vốn mưu nhàm thế, siêu thăng dịch tập theo nghiệp sinh tử, cho nên Luận Trí Độ chép: “Học tập ngoại điển như dùng dao cắt bùn, bùn không thành mà dao tự tổn. Lại như nhìn ánh sáng mặt trời làm cho mắt người chói. Nhưng thường xưa cao Tăng cũng nhiều dị học, hoặc tinh thảo lục, hoặc kéo văn chương, hoặc giỏi y thuật, hoặc rành âm dương, đều gọi là tinh bổn nghiệp, hợp với các tông, thảy đều chí ở hộ trì giúp Phật hoá lưu thông, cho nên kinh Thiện Giới chép: “nếu luận nghĩa phá tà kiến, hoặc hai phần kinh một phần sách ngoại đạo thì không phạm”, Tứ Phần khai thông đều là ý nầy.

Ngày nay hoặc dính danh thích lợi, y thế học tài, đầu tròn áo vuông mà tâm nhiễm thế tục phù du, trọn đời luống qua, thật đáng thương thay!

Luận Tỳ-ni Mẫu một câu một kệ chỉ chung ba tang giáo tuyên, tuy là Thánh giáo khiến quán thời dùng nhà, không thể chuyên cố chấp, cho nên nói rằng nên làm liền làm v.v… Tỳ-kheo đời sau tức Tổ Sư truyền pháp sau khi Phật nhập diệt, hễ có ngôn giáo cũng cần tuỳ nghi cho nên nói là cũng vậy.

Trong phần bốn, luật Ngũ Phần nói khai chế không người, nghĩa là không người cạo tóc. Nạn duyên nghĩa là gặp đời khó khăn. Luận gia là luận Tát-bà-đa kia rõ thứ lớp tức y cứ nhiều người đồng thời cạo, cho nên Luận Tỳ-ni Mẫu lựa chỗ cạo. Lông khác các chỗ là thân, nách, v.v…, luật chế Thâu-lan-già. Chữ nếu trở xuống là bày ý trừ râu tóc. Luận Di Giáo chép, ở chỗ thượng thượng trước tiên chiết phục. Tứ Phần chế có thể cạo. Chữ nếu trở xuống là kế chế chỗ cạo. Ban đầu chế giới hạn, chữ đầu nên biết chữ phát (hoặc nói rằng người Bắc cho rằng tóc dài là đầu dài). Hai tháng cùng Ngũ Phần ở trên dài ngắn khác nhau. Hai ngón tay tức hai tấc. Chữ bất trở xuống là kế chế dao khí, Thập Tụng nói sắp đặt. Niết-bàn trở xuống là nói lỗi không cạo, kinh kia thứ tư nói rằng đầu, râu, tóc, móng, nay ở đây viết ngược. Tướng phá giới là trái Phật chế.

Trong kinh Tăng nhất, trong năm lỗi trước chánh lấy hai lỗi đầu, còn bao nhiều đều nhân dẫn. Cấu giới tức bất tịnh, giới xưa điểm ngược. Không biết thời nghi nghĩa là chạm việc xao động, không hợp tâm người. Nhiều chỗ luận nghĩa là phát lời không chừng độ, không thể thiếu lời. Năm lỗi sau do đây mà sinh, như văn rất dễ hiểu. Ngày nay người không biết giáo, hoặc bốn mùa cạo đầu khoe mình là cao hạnh, hoặc tay tiết móc dài cho là ít có, là ly kỳ, đâu biết trong thành phá giới, ngoài huỷ nhục Phật pháp, người có hiểu biết sớm phải sửa đổi.

Trong phần năm, ưa đến nhà thế tục có mười lỗi, năm lỗi trước là dung phạm năm giới. Đầu tiên không dặn dò mà vào thôn. Hai, nhà ăn gượng ngồi. Còn ba món khác rõ ràng. Trong năm lỗi kế, ba lỗi tức là không thân nghiệp gần gũi tập thói đời, bốn tức lỗi tâm nghiệp đắm nhiễm, năm là nghiệp căn bổn, tức lỗi phạm giới. Đến chết tức dâm, phạm Ba-la-di. Kế chết tức xúc chạm, v.v… tội tăng tàn. Kế rõ năm hạng chẳng nên gần gũi, đều là đối với mình không có lợi ích. Hơn người tức đức học vượt hơn mình.

Trong phần sáu, gia san là chiếm cứ đàn việt. San tham trụ xứ nghĩa là chùa thất không cho khách đến. Xưng tán san nghĩa là không khen điều lanh của người.

Trong phần bảy, năm sự ít có đáng quý, nên gọi là báu, một và hai là thẳng cảnh, ba món khác là hạnh nghiệp. Gặp Phật, nghe pháp, phát hiểu biết, khởi hạnh, hạnh thành có chứng nghiệm, tin ưa lập vậy.

Trong phần tám, ban đầu nói mười việc. Hai chữ lạc trước trở xuống là mười việc, làm lụng, nói năng, nhiều cầu là trạo tán, ngũ nghỉ là hôn mê bít lấp, bốn món nầy hơn sáu trần cọng thành mười. Chữ ngã trở xuống là kế nói cho nhận cung cấp, các đồ đã thiếu phần nhiều khởi phan duyên, pháp thiền không thành.

Trong phần chín, ban đầu chế tập phương thuật. La-hán chán việc, luật Thập Tụng chép: “Mục-liên vào xóm khất thực, Vệ cư sĩ có thai hỏi sinh con trai hay gái?” Mục-liên đáp là “trai”, sau đó sinh con gái bèn chê bai. Hỏi Phật Phật nói: “Vốn là con trai ở trong thai chuyển thành gái, cho nên Mục-liên thấy trước không thấy sau, chứ chẳng phải nói dối”. Chữ luật trở xuống là kế dạy chú thệ, nghĩa là có việc oan khuất phải phát thệ để tự trong sạch, ý là cầu Phật làm chứng, cho nên nói rằng “Nam-mô Phật”, v.v…

Trong phần mười, sợ sệt tức là các chỗ tối tăm hiểm nạn, nghĩ đến Tam Bảo quyết mong che chở liền được an ổn.

Thứ mười một, luật luận chế ra đều vì tránh sự chê bai nghi kỵ của thế gian, xa lìa ngăn ngừa nhiễm dục trần.

Thứ mười hai, trước nói về nhăn nhành dương, đầu tiên nêu ra lỗi không nhăn. Ấm là đàm ấm, dẫn dụ như tiến. Luật Ngũ Phần dạy rửa bỏ, luật Tứ Phần nói bỏ ở chỗ vắng. Hai việc Đại tiểu do đó mà dẫn luôn. Nói rõ kinh hành, ban đầu nói lợi ích: một là quen thuộc, hai là chuyên nhất. Ba là khí huyết đều hoà. Bốn và năm rất dễ biết. Luật Thập Tụng bày hành tướng. Hao nghĩa địa nghĩa là làm đường thẳng, không cho cong vẹo, hoặc dùng gạch đá. Ký Quy Truyện chép: Đất Ngũ Thiên, đường thế tục Phần nhiều làm kinh hành, đến thẳng đi thẳng chỉ tuân một đường (Nghĩa là dùng gạch đá chồng lên làm đường thẳng, hẹp mà dài, người qua lại có cùng đường thẳng cho nên đặt tên).

Lại nói rằng: “nên chỗ kinh hành của Phật rộng hai khuỷu tay, dài mười bốn, mười lăm khuỷu (rộng ba thước sáu, dài hai trượng sáu) trên dùng đá làm hoa sen nở, cao hai tấc, rộng một thước, có mười bốn, mười lăm tiêu biểu cho dấu vết Chân thánh.

Trong Tam Thiên nói làm chỗ tuỳ chỗ nên không thể cuộc hạn. Trong phần mười ba, Tăng-kỳ nói đèn chỗ chúng. Ban đầu dạy bên đèn, chữ nãi trở xuống là kế bày tắt đèn. Cũng vậy là đồng cáo tăng ở trên. Ký Ni sao làm dài để giúp vật. Văn sau chỉ rộng, kia nói rằng: “Khi đốt đèn phải bước soi xá-lợi và hình tượng trước đèn, lễ bái rồi phải ra tắt, cho đến nhiều đầu, ở trong nhà xí phải đốt đèn suốt đêm, nếu dầu ít, người đi xong phải tắt.

Kế nói đèn cúng Phật, ngày nay gọi là đèn sáng lâu. Nếu Phật có sáng tối thì ban đêm đốt ban ngày tắt, vì không sáng tối thì ban đêm đốt ban ngày tắt, vì không kể ngày đêm. Vốn không nói nghĩ nghĩa là thí chủ tâm trông mong quyết có giới hạn, nên tắt không có lỗi.

Kế dẫn kinh làm chứng, kia thứ mười một nói rằng: Phật ở Xá-vệ có người nữ tên Nan-đà xin ăn tự sống, thấy các vua quan cúng dường Phật Tăng, tự tâm suy nghĩ “Ta do tội đời trước nên sinh chỗ nghèo hèn, tuy gặp ruộng phước mà không có hạt giống”, liền đi xin để mong có chút cúng dường, chỉ được một tiền mang đến nhà bán dầu, nói hết điều mong ước, chủ ban dầu thương xót cho dầu gấp bội. Được rồi vui mừng đủ làm một ngọn đèn dâng lên Thế tôn, tự lập nguyện “nay con nghèo cùng dùng chút đèn đây cúng dường Phật, do công đức nầy khiến con đời sau đựơc trí tuệ, soi chiếu dứt trừ tất cả tội cấu dơ bẩn của chúng sinh. Phát thệ rồi lễ Phật mà đi. Đến cuối đêm các ngọn đèn đều tắt, chỉ có ngọn đèn của Nan-đà còn sáng. Bấy giờ, đến sáng ngãi Mục-liên theo thứ lớp muốn tắt đèn, liền dùng tay quạt, lại dùng áo quạt đèn vẫn cứ sáng. Phật bảo Mục-liên: “Ngọn đèn này hàng Thinh Văn các thầy chẳng thể khuynh động, dù cho lấy nước bốn biển tưới, hay dùng gió Tỳ-lam thổi đèn cũng không thể tắt, vì đây là đèn của người phát đại tâm cúng dường”.

Phật nói lời này xong, Nan-đà Nữ lại đến, đầu mặt làm lễ, Phật liền thọ ký “Vào đời sau hai A-tăng-kỳ kiếp nữa, cô sẽ được thành Phật hiệu là Đăng Quang, mười hiệu đầy đủ”.

Phần thứ mười bốn, luật Ngũ Phần xin chó, xin chim, giảm phần xin, ba chữ xin đều là khứ thinh, phần ngoài nghĩa là phần nhiều nhận mà bố thí. Luật Tứ Phần nói, người tức người xin v.v… phi nhân tức quỷ thần, cầm thú, súc sinh. Luận Tỳ-ni Mẫu, trong loài người là loại riêng, không lỗi nghĩa là chẳng làm dơ nhà người.

Phần thứ mười lăm, hoại sắc tức là mặt không thần sắc. Tống phạm giới duyên tức đất trống nổi lửa. Đào hoại… giới nhân đó mà thành phạm.

Phần thứ mười sáu, ban đầu và thứ hai là tự tha tâm tịnh, ba là chấp lao phục dịch, bốn là thất bại tự cao, năm là hai quả báo hiện tại, tương lai.

Môn thứ tư, các tạp sự trước đều là tùy người làm riêng, tên riêng người tự làm. Môn nầy nói tụng trì kinh giới, bất luận lợi căn, độn căn, mới vào đạo hay đã lâu v.v… khác nhau, hễ đã dựa vào cửa đạo thì nghĩa phải nương đó vâng giữ, cho nên nói rằng “Chung làm đồng pháp”.

Trong chánh nói, khoa đâu trứơc bày cốt yếu của tụng trì. Chữ nhi trở xuống là nói căn tánh khác nhau. Thần dụng tức tâm trí. Xen mạnh yếu nghĩa là nghe nhiều hiểu ít, hoặc nghe ít hiểu nhiều. Chữ hữu trở xuống tức là người ban đầu. Chữ cố trở xuống tức là người kế.

Khoa kế chia làm bốn: ban đầu dạy tụng cương yếu. Người xưa là chưa rõ người nào. Thắng-man là kinh Thắng-man Phu Nhân Phương Đẳng Đại thừa, đối với Phật đã nói Đại thừa lý giáo xuất sinh vô tận, thâu nhiếp không sót cho nên nói là căn bổn. Kinh Như lai Tạng nói: “Phật ở Kỳ Sơn vì Bồ-tát Kim Cương Tuệ mà nói, lại nêu hai kinh còn bao nhiêu mặc nhiên không tồn tại cho nên nói rằng thú đắc. Trên tức bày riêng lý do, chước gồm bày đạo đức định tuệ, hạnh tức là giới, tất cả Phật pháp không ngoài ba môn học. Do chúng sinh mê tâm làm hoặc, động tự thành nghiệp, do nghiệp chiêu cảm báo, sinh tử không cùng, muốn thoát quả khổ cốt yếu phải trừ nhân khổ, cho nên trước dùng giới trị nghiệp kia, kế dùng định tuệ lóng trong hoặc kia. Nghiệp chia thiện ác, hai hạnh hai pháp chỉ tác mà đối phó. Người bịnh nhờ thuốc mà lành, cơ do giáo mà tu, sau nghiệp hết hoặc trừ, tình mất tánh hiển, giáo môn tuy rộng đâu vượt qua đây, gồm nhiếp nghĩa cương yếu ở đây.

Chữ các trở xuống là kế dạy rộng xem các văn, đầu tiên xem Thánh giáo, rộng thấy xa là giúp trí giải kia. Giúp đở v.v… ấy là giúp hạnh nghiệp. Khuôn là chánh, phụ là giúp. Kế giở sách đời cốt yếu xem sự phân biệt siêu xuất của Tấn, Hy. Phương là so sánh. Chữ dĩ trở xuống là thứ ba, bày tụng tập các nghiệp. Chữ nếu trở xuống là thứ tư phân biệt lợi căn không cuộc hạn. Sinh trí xuất xứ từ Luận Ngữ (Khổng Tử nói: Sinh ra mà biết là thượng, học mà biết là thứ, khốn mà biết là thứ nữa, khốn mà không học dân đây là hạ) nhưng sách thế gian kia thì nói rằng sinh biết Phật giáo nói đều do thói quen đời trước. Kiếp rốt sau chướng nặng ít thấy người nầy, chỉ có thể y cứ theo trước tuỳ sức tu học, soi xét suy lường không cho tự mê muội.

Trong phần ba, trong Tam Thiên nói ba việc là nghiệp xuất gia nghĩa gồm trì giới, không nêu ba môn học và hai lợi tự tha. Xuống sinh tử ấy là luống không có chỗ được, hoặc chịu khổ là kia Ca-sa lìa thân, bụng vỡ đồ ăn lòi ra, không như vậy thì đoạ địa ngục, v.v…

Luật Thập Tụng, sợ hãi lại nêu ba món, chánh là dùng món thứ hai, tức năm món sợ sệt như nêu tông dẫn đủ.

Khoa kế, luật Thiện Kiến chế kia bỏ quên, thầy vẫn còn tức Hoàthượng đắc giới có thể theo học, cho nên nếu thấy chế phải theo y chỉ. Năm thọ riêng là trì Phạm xử đoán nhỏ nhiệm, theo văn cho nên phải thường học không thể tạm bỏ. Bậc tổ chánh sư của ta còn nghe quảng luật thường chưa thể tự khoe. Quá giống như khắp. Kinh Phật tạng nói kia gồm giúp, không có pháp ngã nhân là điều mà kinh luận nói. Ngã nhân tức phiền não, vô tức không tuệ. Luật Thiện Kiến bày cách học kia.

Trong phần ba nghĩa là hiện chung bày khác, nói hạnh nghiệp mình sợ thành đại vọng. Phật chế không vì luật luận, chánh văn có duyên, thời chấp nhận Luận Tát-bà-đa, luận kia hỏi La-hán Đạp-bà là tri sự của tăng vì sao thường phát ra ánh sáng, tự hiển công đức? Sao dẫn văn đáp có hai ý: ban đầu là bất thiện vì chẳng phải chỗ khai của giáo pháp, như Đề-bà hiện thần thông mê hoặc A-xá-thế. Hai là khai duyên tức việc của Đại-bà. Vì Phật pháp là hiển tôn thắng kia để khiến lưu thông. Vì chúng sinh mà dứt hiềm nghi kia khiến cho kính mến.

Trong thứ năm, khoa đầu trước nói riêng tu. Biết giới hạn ấy là phước trí riêng cuộc hẹn. Biết chung cuộc là sự dung tướng gồm, chữ phi trở xuống là nêu bày khoa sau.

Trong phần chánh tông, khoa đầu trước bày việc gốc của tăng, dưới bày gồm giúp. Chữ nhược trở xuống là nói được mất. Trong thứ hai, kế là bày Tam Bảo, đạo tục đối nhau, tướng riêng rất dễ thấy. Ba Phật là ba thân Phật pháp thân, báo thân, ứng thân, (có chỗ nói là ba đời Phật). Văn, tư, tu là ba tuệ, thứ lớp tướng do Tăng bảo, lại y cứ trụ xứ, cho chia cũng có thế tục, cho cạo tóc nhuộm y làm Tăng. Đạo dùng đế lý hoà hợp là Tăng. Bồ-đề, v.v… làm cung điện, nhà Đại thừa làm chỗ ở, muôn hạnh làm năng ở.

Trong dẫn chứng, khoa đầu nói người xưa không biết là ai, nghi là Tổ sư tự soạn. Khoa kế, Luận Trí Độ lìa nhân duyên, lại chỉ trời, người như chú giải đã hiển bày. Người xuất gia tu nghiệp xuất ly thì lấy Niếtbàn làm vui. Kế dẫn luật Tăng-kỳ chứng trên có thể biết, là biết xuất gia vốn vì hoằng pháp. Chữ tức trở xuống là thứ ba dẫn thọ giới thuyết tướng để bày song tu.

Trong phần sáu, khoa đầu luật Tứ Phần nói bị cướp, ban đầu lấy y mình, kế mượn y người, ba lấy ngọa cụ của Tăng, đều gọi là tạm đắp, cho qua lại tìm. Luật Thiện Kiến ban đầu dạy đem đi. Chữ nếu trở xuống là nói theo mất. Được cắt cỏ là khai hoại sự sống. Được mặc áo người tại gia, ngoại đạo là khai tội phi pháp. Khoa kế, Luận Tỳ-ni Mẫu mượn vật phát thanh phương tiện cho đi. Thập Tụng ban đầu nói giặc đến đồng trước sợ mà đi. Chữ nếu trở xuống là kế nói mất y khai đắp vật của tăng. Luật Tăng-kỳ ban đầu dạy đối hỏi bày phòng nhà v.v… đều cho là không thể đi. Chữ nếu trở xuống là kế nói đạo hạnh.

Thứ bảy, khoa đầu lại có ba: đầu tiên là phép vào nhà xí. Chữ ưng trở xuống là thứ hai pháp rửa sạch. Chữ bất đắc trở xuống là thứ ba chế các việc khác.

Trong phần đầu có sáu pháp:

1/ Khiến liền bỏ, sợ sinh bịnh.

2/ Phải nắm cỏ, nay gọi là xí trù (thẻ đi nhà xí).

3/ Nhường người trước.

4/ Kính người quỉ.

5/ Dạy để y

6/ Chánh lên nhà xí.

Nói đắp y là y cứ giống như hạ y, kia y cứ chỗ trống không cho cởi để, ở đây phần nhiều ở chỗ kín nên cho cởi, còn bao nhiêu như thường, chỉ dạy về oai nghi.

Trong phần rửa dơ, để lại chút nước là nghĩ người khác dùng. Mỗi lần rửa là tuỳ dùng một vật, lấy sạch là kỳ hạn theo Luật Tỳ-nại-da lấy bảy lần đất rửa gọi là sạch. Khoa kế, luật Ngũ Phần nói có ba việc, ban đầu đặt đồ tiện, hai là đựng đầy nước sạch, ba là chế lõa hình.

Trong Tam Thiên, ban đầu chế phải rửa. Chữ ưng trở xuống là kế chế thoát y.

Trong phần tám, khoa đầu hai luật giải phóng vật người đều vì tâm từ, chứ không vì trộm tổn. Đồn là con heo nhỏ. Khoa kế có bốn: Ban đầu khai nói dối, đâu được lại ý ông bày không. Chứ hựu trở xuống là kế khai che giấu. Chứ nếu trở xuống là thứ ba, khai trộm tổn, hoại giềng mối đến ngục chẳng phải oai nghi. Chứ cát trư trở xuống là thứ tư khai các lời.

Trong phần chín, văn đầu tiên nghĩa là xúc nhiễu, tức là muốn nhiễu động quỷ thần. Khoa kế hạm áp. Pháp chú rắn, dùng pháp chú đó khiến không hại người, Luật Ngũ Phần chép “Ta thương các Long Vương, trời và nhân gian, dùng tâm từ của ta diệt được các hoại độc, ta dùng trí tuệ hoá dụng tâm giết vị độc nầy, vị không có vị độc phá diệt vào đất. Bỏ tiếng vang ở cửa sổ, nghĩa là chỗ cách mắt thấu rỏ. Lồng thưa tức là dùng tre đan lưới. Linh Tử Chỉ Quy chép: “Trong cửa sổ đan gỗ làm nên”.

Trong bắt rận, văn luật chỉ có cách bắt, y theo rắn, chuột phải giữ

gìn mạng sống của nó. Người đời ngu giáo, thường dùng lửa đốt, nhúng nước sôi, lấy móng tay ngắt cho chết, bởi không có lòng từ thương xót, buông lung làm việc giết hại, tâm đồng La-sát, hạnh giống như kẻ giết mổ, mạng con vật tuy nhỏ mà khổ chết chẳng khác, xin đọc lời dạy của Thánh rất nên dè dặt.

Trong phần mười, khoa đầu chia làm hai: đầu tiên là chế, kế khai năm chúng. Bà con được cho thuốc bởi không vì lợi, không vì lợi là vì bà con nghèo thiếu.

Ngũ Bách Vấn đầu tiên chế lấy vật, chỉ khai gượng cho, nay thuốc vốn là cầu tài lợi, đã chẳng phải đạo nghiệp, chính là trái với Thánh giáo, chứa chưa thấy có người nào ôm lòng từ cứu vật (chúng sinh), nhưng các cao Tăng ngày xưa thì cũng có vị gồm cứu giúp. Tăng truyện nói đời Tấn có ngài Pháp Khai, khéo thông phương phái hoặc thưa hỏi Pháp sư, bậc cao minh phân biệt vì sao nghề thuốc trải qua lo nghĩ? Đáp rằng: “Biết sáu độ để trừ bịnh bốn ma, điều phục hầu để trị bịnh phong hàn, tự lợi lợi tha không làm được hay sao?” Đây biết tâm vì lợi người, không đã chẳng thể cẩu thả vì tài lợi ở đời nên y theo luật cấm đoán. Chữ nếu bịnh trở xuống là kế đoan ta thuật. Thoát thủng tức ngày nay cách bắt phung nước để lấy độc phù.

Khoa kế, luật Tứ Phần đầu tiên dạy học chữ, chữ hoạn thổ trở xuống là kế dạy dùng thuốc, đầu hơi ấm cho nên có thể dừng nhổ. Bịnh nhiệt, Trí Luận chép: “Khi lạnh xen dùng trầm nước, khi nóng xen dùng chiên đàn để thoa thân”, thuốc hủ lạn chưa bỏ không cần thọ, nghĩa là từng gia thọ, trong không bụi đất bay, cho nên luật Ngũ Phần dùng cây xanh thơm trị độc trướng, tiêu khí ác (hơi độc). Tụng chú không nhai nuốt v.v… giống như duyên tà thuật nên cho phép. Tăng-kỳ tiểu mạch phải sao cho cháy đen, nghiền nát mới múc nước hoà. Thập Tụng nói, bất tịnh nghĩa là ban đêm xúc chạm v.v… chỉ khai cho người bịnh. Luật Tứ Phần ngoài dùng trị bịnh hay mạnh đều được.

****

THIÊN GIẢI THÍCH SA-DI

Sa-di như chú giải hai lần giải thích là chia chữ giải nghĩa, đều là hai lợi tự tha và hai hạnh chỉ tác, nhưng ban đầu đều y cứ bổn chí xuất gia, sau y cứ khởi đầu ngược tình thế tục, vì thế tục làm việc ác không có lòng từ.

Ký Quy Truyện chép: Thọ mười giới rồi gọi là Thất-la-mạt-ni-la, Hán dịch là Cầu Tịnh. Cầu là chí vô lậu, Tịch là lý Vô sinh, y theo biết Sa-di tiếng Phạm lầm lựơc. Hạnh riêng, chữ hạnh chung hai âm bình khứ, nếu bình thinh nghĩa là ba thiên nầy ở trước do đường bên ngoài nhiếp nhau, nếu khứ thinh tức ba thiên nầy khác với bổn bộ đại Tăng ở trước. Riêng hành hạnh riêng, hai lần giải thích đều chung.

Trong bày ý, hai câu trên của câu đầu là ngôi vị, trong đây phải chia hình, đồng và pháp đồng. Nếu chỉ cạo tóc gọi là Sa-di hình đồng, nếu thọ mười giới gọi là Sa-di Pháp đồng. Hai câu kế nói bổn chí, câu trên nói là ban đầu, câu dưới bày rốt sau. Huyền Tịch không gọi là Phật giáo, chỗ xa thẳng thì chỉ cho quả Phật. Lại hai câu kế nữa là bày luật đáng nương, hai câu sau bác bỏ thế tục không dạy bảo.

Khoa kế, ban đầu bày cốt yếu của hai pháp. Đạo do lòng tin mà lập cho nên là nguồn đạo, đức từ tin sinh cho nên là mẹ của các công đức. Trị nghiệp do năng lực của trí, phá hoặc do sự chiếu soi của trí cho nên là nhân giải thoát. Chẳng có lòng tin thì đạo đức không do đâu mà phát, chẳng có trí thì nghiệp hoặc không có gì để dứt trừ. Người xuất gia vì đạo câu giải thoát cho nên nói rằng: “Trước phải có hai món nầy”. Chữ như trở xuống là bày lỗi không nói, ban đầu nói hình và tâm lẫn lộn với thế tục. Chữ sở trở xuống là kế hiển, lý do của ngu pháp. cáo thủ là bạc đầu, xoay mặt vào tường không thấy. (Luận Ngữ nói: “Người mà không vì khấp nam gọi nam thì người ấy giống như đứng xoay mặt vô tường” Hai chữ nam thống gọi ở thi). Không tin thì trí không phát, không trí thì không mến đạo, ăn no mặc ấm nhàn nhã trọn đời, cho nên nói rằng “Chỉ việc nuôi thân, v.v…”.

Trong ý xuất gia nêu bảy khoa: ba khoa trước nói công, ba khoa kế nói hạnh, một khoa sau quyết nghi. Trong tuỳ giải thích, khoa đầu hai bài kệ Hoa Nghiêm xuất gia tu đạo, kệ đầu mở bày cho biết, bài kệ kế dẫn dắt khiến xuất gia. Nếu Như lai không xuất gia, thì sẽ nối tiếp ngôi Kim Luân Vương, cho nên nói là bỏ nước, tịch tịnh là lý Niết-bàn. Chứ dĩ trở xuống là kết bày Bồ-tát, tức Bổn Sư Thích-ca, ở đây nói xuất gia. Từ nhân bày hiệu v.v… trở xuống là chỉ cho hai kinh, nói đủ là kinh Na-già-la-việt Vấn Bồ-tát Hạnh, kinh ấy nói: Phật bảo Na-già “Bồ-tát xuất gia thường nghĩ tinh tấn, trí tuệ không đắm trước, như cứu lửa cháy đầu”, còn bao nhiêu rộng như kinh Niết-bàn nói: “Tại gia ép ngặt như lao ngục, tất cả phiền não do đó mà sinh. Xuất gia rảnh rang giống như hư không, tất cả pháp lành do đó mà thêm lớn”. Đại Tiểu thừa giáo phần nhiều nói pháp xuất gia, đây không phiền não dẫn cho nên nói “đẳng”.

Tịnh Trụ Tử nói xuất gia có mười tám pháp khó thực hành mà thực hành được.

Cha mẹ là hiếu luyến, khó bỏ mà có thể giã từ cha mẹ.

Vợ con là ân nhiễm khó đoạt mà cắt được ái.

Địa vị thế lực là cái mà vật tình tranh giành mà bỏ được vinh hoa.

Đói khổ là điều người khó nhẫn, mà tiết chế được sự ăn uống.

Vị ngon là điều người ưa thích mà chịu nuốt đồ ăn dở.

Kiều cần là điều người nhàm chán mệt mỏi mà có thể tinh tấn siêng năng khổ nhọc.

Bảy báu là sự xẻn tiếc của con người mà bỏ lìa được.

Tiền lụa là vật mà người chứa để mà bỏ được.

Tôi tớ là người giúp đỡ hầu hạ mình mà tự làm chứ không sai.

Năm sắc là ái mà người rất ưa nhìn mà xả bỏ không thèm đoái hoài.

Tám âm mọi người tranh nghe mà dứt bỏ không muốn nghe.

Đồ trang sức láng mịn là vật mọi người ưa đắm mà có thể thân khô không ngại.

An thân dưỡng thể là điều mà người cùng đồng mà có thể quên thân bỏ mạng.

Ngủ nghỉ là điều không thể khỏi mà ngày đêm không hề ngủ.

Bạn bè là chuyện hằng nhóm mà lại ở chỗ vắng tự xem xét mình.

Người tại gia ăn ngon không biết dứt gần miệng thấy như đồ độc.

Người tại gia ngày đêm không cam chịu, mà minh kỳ hạn thời gian.

Người tại gia bụng trống thì nhà đẹp sánh đôi mà mình ở nơi gò mả xa lìa đắm trước.

(Đây là Văn Tuyên Vương Tiêu đời Tề, bởi chọn cốt yếu cho nên chép ra).

Môn kế, trong phần năng khuyên, kinh Hoa Thủ nói được quả báo. Ban đầu gồm bày quả báo cao quý, chuyển tâm là quả báo đời sau, hiện tăng tức hiện báo lành đến. Đạo thành Sơ quả nhờ Phật đích thân độ, lời váng một phen gọi râu tóc tự rụng, ca-sa đắp thân, hoa sen hoá thân không thọ bào thai. Chữ cố nhất trở xuống là trình bày riêng bốn pháp.

  1. Giải thoát
  2. Tinh tấn
  3. Nhẫn nhục
  4. Làm lợi ích

Mỗi pháp đều tự làm và giáo hoá người. Trong đây dùng pháp thứ nhất, còn ba pháp kia nhân nhau mà dẫn.

Trong kinh Công đức, ban đầu là chánh nói, thứ hai là dụ hiển, thứ hai lại có hai: vì đạo gia công đức vô lậu, cúng Phật dựng pháp đều là phước hữu lậu, cho nên không bì kịp. Một ngày một đêm là nêu ít dụ nhiều. Trong kinh ấy A-nan hỏi Phật: “Nếu có một người khuyên người xuất gia hoặc mình xuất gia được bao nhiêu phước? Nếu ngăn cản người khác xuất gia thì chịu tội báo gì?”

Phật bảo A-nan: Nếu trong trăm năm ông hỏi ta, ta trừ lúc ăn uống, dùng trí tuệ vô tận đủ cả trăm năm vì ông nói công đức của người nầy còn không thể hết. Nếu có người ngăn cản nhân duyên người khác xuất gia thì người này ở trong ba đường ác thường chịu đui mù. Nếu làm người khi thọ thai trong bụng mẹ liền bị mù, cả trăm năm ông thường hỏi nghĩa này, cả trăm năm ta dùng trí vô tận nói tội báo này cũng không thể hết.”

Khoa kế, Trí Luận nói có hai duyên. Ban đầu duyên ni, kia nói rằng “Như hoa Ưu-bát-la (tức hoa sen) Kinh Tỳ-kheo-ni Bổn Sinh chép “Lúc Phật còn ở đời vị Ni nầy chứng quả A-la-hán giáo hoá các phụ nữ xuất gia, các phụ nữ ấy nói “chúng con giữ giới khó, sợ phá giới địa ngục” Vị Ni nói: “ Đoạ thì đoạ lâu cũng có ngày ra, ta nhớ khi xưa từng làm nữ nghệ sĩ, do mặc ca-sa diễn kịch mà đến thời Phật Ca-diếp được xuất gia, lại do phá giới cho nên đọa địa ngục, nay gặp đức Thích-ca lại được xuất gia giải thoát”

Kế dẫn duyên Bà-la-môn, kia chép rằng: Phật ngự tại Kỳ Viên, người kia vì say đến chỗ Phật xin Phật độ. Phật sai A-nan độ, người kia lúc hết say liền bỏ về nhà, Tỳ-kheo hỏi Phật, Phật đáp “Như bài kệ xuất gia trong sao:

“Chim công tuy có sắc thân đẹp
Không bằng Bồ câu bay được xa
Cư sĩ tuy có sức sang giàu
Không bằng xuất gia công đức hơn”

Sau dẫn kinh luật dùng gốc lành trong chốc lát ngăn ác báo nhiều đời, đời kiếp nhiều ít tuỳ duyên ứng cơ không nhất định.

Trong phần ba, xuất gia đã có công đức, chướng thì tổn lớn. Trong kinh lưu ngại như bà con không cho, ức chế như vua quan cấm đoán. Ác nhóm như biển là nói lên nghiệp nặng. Bịnh hủi là hiện báo. Vào địa ngục là hai báo sinh, hậu, còn bao nhiêu như trên đã dẫn.

Trong phần bốn, khoa đầu kinh Bảo Tích nói hai sự ràng buộc dụ như không tự tại, hai ung dụ cho ba món nầy, đều dụ tự tâm, người trí nên tự soi xét dè đặt chớ khinh thường. Vì là người. Kiến là chống kiến, nghĩa gồm nơi danh, đây là lợi căn. Lợi dưỡng tức tài vật lại gồm cả sắc dục, đây là độn căn. Nghiệp sớ chép: Độn căn tham tài sắc, lợi căn đắm danh và kiến chấp. Bốn lợi gồm thâu không đâu chẳng cùng tận. Niết-bàn là đói rét, vì người xuất gia y thực để được, thấy có người trí giới xua đuổi giết hại vì tự mình không có giới đức sợ hình tượng không bằng mất đi lợi dưỡng sinh tâm ganh ghét.

Khoa kế, tội tướng rất nhiều, theo tâm gồm nhiếp, lại bày năm món, cho nên nói là “đồng”. Mến thân cầu lợi thuộc về tham, ganh ghét thuộc sân san, tức là si lại tức đủ ba độc, là gốc nghiệp ác (không cần phối đây với ba dụ ở trước). Sau chỉ riêng Sao, chưa rõ văn nào, nay thấy ở nghiệp Sớ thế gian, ban đầu đến giới hạnh là trì giới, giới thủ kiến, kiến là chấp kiến do chuyên trì giới gọi là giới thủ, lại do giới là thượng thắng nên gọi là kiến thủ, đây là năm lợi là thượng thắng, nên gọi là kiến thủ, đây tức năm lợi sử trong hai sử, cho nên nói rằng phiền não cõi dục, hạ nghiệp tức là nhân đạo, dầu được sinh lên cõi trời chỉ ở sáu tầng trời cõi Dục.

Chữ nếu trở xuống là nói tu định, tức là Tứ thiền, từ không định, học rộng giảng tụng tức tu tập tuệ chuẩn có thể biết. Tu đạo tự hạnh khó phân, tự chẳng hiểu người do đâu mà biết được.

Khoa kế, Trí Luận chỗ bày đối trên có thể thấy gọi chung là pháp thế gian tức trời người lành. Nhưng thế gian hay xuất thế gian y cứ tâm khác nhau, đến bày sự hạnh cũng không có khác, thành bàn vui ở đời là ít lợi, Thánh đạo xuất thế là lợi lớn, tâm riêng sự đồng, nghĩa cũng như trên.

Trong phần sáu, khoa đầu nói về khó làm. Chữ kim trở xuống là nói phải làm. Chứ kinh trở xuống là gồm nêu vô thỉ chưa từng, nói thánh hạnh khó thành. Đắm mê tập quán (thói quen) ở đời là nói lý do khó thành. Trong kinh chỉ chung ba tạng. Trong nêu bày, ba quán đều nói là quán sự, sực tức là cảnh, tâm nương cảnh khởi, tuỳ cảnh lập quán, nghĩa là sắc, tâm, ấm, nhập, giới, hữu tình, vô tình, thiện, ác, vô ký v.v… nếu luận trí giải phải thông suốt các pháp, nếu trong khi quán, tầm là chủ yếu. Tùy chỗ tâm khởi, khởi tức là sự, hoặc thiện hoặc ác, ba lý chiếu nên biết. Điên đảo chỉ có vọng chấp, vốn không thật có, tùy tâm động dụng tất cả đều không. Tức tướng biết huyễn gọi là tướng không, suốt tướng là tâm, gọi là Duy thức, giống như việc mộng. Hoặc suy mộng tưởng tư đâu sinh diệt, hoặc biết giấc mộng ngay tướng là không thật, hoặc biết duy tâm chỗ biến hiện không có việc mộng riêng khác. Dụ trên la quán, lược biết cạn sâu nhưng hạnh vị có ba:

Quán cảnh một chỗ gọi là sư

Thấy lý hai, hai món tánh tướng ở trước tuy khác nhưng đều dùng Không làm lý.

Một món sau dùng Tâm làm lý.

Hai món trước là quyên, một món sau là thật, nhưng xuất gia hơn thế tục, học chung ba thừa, nay nương Nghiệp Sớ y cứ khai hội ý chuyên chỉ Phật thừa làm gốc xuất gia.

Trong tánh không, câu đầu nói về ngôi vị, câu kế nói về hành quán, hai câu sau là thấy lý, do ngã, nhân, thiện ác tánh vốn tự không, duyên hội thì sinh, duyên tam liền diệt, chỗ sinh diệt diệt gọi là lý không, tức là chỗ cùng cực của Nhị thừa. Kế trong tiểu Bồ-tát, cả ba vị, hành, lý đồng cách phân ở trên. Thứ ba trong đại Bồ-tát, câu đầu nêu vị, câu kế nói lý quán pháp duy tâm tức sự hiển lý, câu dưới nói hạnh do tất cả các pháp vốn chỉ một thức, ngoại một thức không còn có pháp khác. Từ vô thỉ vọng động chấp ngang trái tâm cảnh bèn có kia có đây, đều từ ý là vọng khởi chấp trước, do chấp trước cho nên vọng tạo danh ngôn. Kẻ trí muốn sở quán duy thức quyết dùng ý ngôn làm cảnh sở quán, do ý ngôn nầy đều là một thức quyết dùng ý ngôn làm cảnh sở quán, do ý ngôn nầy đều là một thức, ở đây không lìa nghĩ bàn, rõ ràng chẳng thể nghĩ bàn, tức đối với sai biệt rõ suốt không sai biệt.

Chữ cố trở xuống là dẫn chứng. Nguyện lạc tức Thập Tín, cứu cánh tức Diệu Giác, lược khoảng giữa Tam Hiền, Thập Thánh, Đẳng Giác nên nói là “cho đến”, như thiên sám có dẫn đủ. Trong danh quán câu tuyệt, duy thức lìa đoạn thường tức là Trung đạo. Duyên ý ngôn làm cảnh như trên đã nói.

Trong phần ba, câu đầu nói cốt yếu ba quán ở trên. Hai thừa đại tiểu giáo, lý, hạnh, quả tất cả đầy đủ, pháp môn tuy nhiều nhưng không ngoài đây, nên nói là “có pháp khác không riêng”. Trên dưới chỉ lược, hai câu trên chỉ cho chánh hạnh. Nói hai món trên, là ba quán trên, hai quán trước là Tiểu thừa, một quán sau là Đại thừa, tức Đại thừa, Tiểu thừa khác nhau, cho nên nói là “biệt hạnh”. Như các điều nói ấy, hoặc chỉ ngay Sao, tức là thiên sám, hoặc chỉ văn khác tức như Nghiệp Sớ. Chứ nhược nếu trở xuống là kế chỉ các hạnh, phương tiện tức tu, quĩ độ trừ nghi nghĩa là phá chấp, biện ma bỏ chướng nghĩa là phá ba chướng. Chữ yếu trở xuống hai câu là bao gồm ba việc trên. Môn biệt hạnh tức là đạo, Thiền sư chỉnh nói hành pháp của phàm, Thánh. Ba khoa trên gồm nói về nhân mười cõi nên đều gọi là Hạnh, hễ tội tức là hạnh ba đường, phước phàm tức hạnh Tu-la, trời, người. Thánh đạo tức hạnh Ba thừa quả Phật, trải tâm bày hạnh khiến biết nhân quả, bỏ tội tu phước, sửa phàm thành Thánh, nhàm Tiểu mến Đại, đến nhất Phật thừa làm gốc học của xuất gia, tức giới Bổn nói rằng: “ Nếu có người vì mình muốn cầu Phật đạo” chính là ở đây.

Trong phần bảy, tướng quyết định đồng khác, đồng là phương tiện tấn tu, chỉ là ba môn học vì không có đường khác. Khác chính là tâm chí rộng hẹp, cho nên chia hai thừa dụng cho riêng khác. Trong phần nêu chung, hai câu trên tiếp trước, chữ kim trở xuống là chánh chỉ bày.

Trong giới Tiểu thừa, duyên thân miệng nghĩa là thế chấp. Phạm tâm là suy gốc nghiệp, ở đây nói theo Tông không của Tứ Phần. Chữ chấp trở xuống hai câu là nói trì mất, hoặc chỉ mến trời người thì dính mắc phước phàm. Hoặc chấp trí đạo thì đọa vào lợi sử. Chữ vi trở xuống hai câu là nói phạm báo.

Khoa kế, trước nói định học, lại có hai: hai câu đầu nói chỗ tu tức tánh không ở trước. Danh sắc tức là cảnh sở quán, một uẩn là sắc, bốn uẩn là tâm, tâm đạo mờ mịt, chỉ có tên chung, cho nên gọi chung là danh. Duyên tu là năng quán, tâm sinh diệt tức lý sở kiến, cho hai pháp sắc tâm niệm niệm sinh diệt, vì sinh diệt cho nên vô thường, vô thường cho nên không tánh, không tánh nên vắng lặng, vắng lặng là lý chân như Niết-bàn diệt đế.

Kệ Niết-bàn chép: “Các hạnh vô thường, là pháp sinh diệt, sinh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui”.

Thanh văn, Duyên Giác thừa, pháp tuy khác mà thấy lý thì đồng, cho nên nói rằng “Nhị thừa đồng quán” v.v… Tứ đế của Thinh Văn và mười hai nhân duyên của Duyên giác, chỉ là sự khác nhau của giáo môn khai hơp, dùng lý dung giáo cho nên nói là không khác nhau. Khổ tập và mười hai duyên sinh diệt đều là nhân quả thế gian. Đạo diệt cùng mười hai duyên diệt đều là nhân quả xuất thế.

Chữ cố trở xuống là dẫn chứng Phật tánh, luận là luận Đại thừa, có bốn quyển, kia nói chỗ chứng của Tiểu thừa chẳng phải thật thấy Phật tánh. Luống dối tức danh sắc, vô thường tức sinh diệt, chân như tức lý không, tức kinh Pháp Hoa chép: “Người nầy lúc nào được giải thoát?

Chỉ lìa luống dối gọi là giải thoát, thật ra chưa được giải thoát tất cả.

Kế trong tuệ học định, là lắng lặng, tụê thủ chiếu dụng động dừng khác nhau, cho nên nói rằng “Nghĩa riêng” đồng một tâm thể cho nên nói là thể đồng. Nước trong là vật hiện, gương sạch thì tượng sinh, định tuệ môt hay khác, dụ đó có thể hiểu. Ba phẩm trong Đại thừa tức ba tụ:

  1. Nhiếp luật nghi
  2. Nhiếp thiện pháp
  3. Nhiếp chúng sinh

1. Dứt ác, 2. Tu thiện, 3. Độ sinh. Theo Luận Trí Độ, Nhị thừa chỉ có một tụ dứt ác, tuy có tác trì lại quy về lìa lỗi, không tu phương tiện giáo hoá chúng sinh, không nhiếp thiện để tự điều phục tự độ cho nên không nhiếp chúng sinh. Đây do văn nầy chỉ nêu luật nghi so sánh đồng khác.

Nói không khác là y theo Viên tông của Nghiệp Sớ, nghĩa là đồng ba tụ, kia nói rằng giới chia ba phẩm, y cứ nghĩa thâu chuyên không khác các luật (do chẳng rõ chế nên nói là y cứ nghĩa). Như một giới sát gồm đủ ba ngôi: Dứt các duyên giết, tức nhiếp luật nghi, thường hành tuệ mạng tức nhiếp thiện pháp, hộ sinh mạng trước tức lợi ích hữu tình. Một giới nầy đã thế, các giới khác cũng vậy (Sớ văn tánh giới đều nêu thuyết nầy). Nếu luận già giới như giới rượu báu… là lìa lỗi uống và chứa là nhiếp luật nghi, thường hành đối trị tức nhiếp pháp lành, dứt sự chê bai của thế gian tức nhiếp chúng sinh. Nếu lấy giới bổn của Đại Tiểu thừa để chia thì Tiểu thừa giáo là bốn tội Ba-la-di, Đại thừa là mười giới trọng. Bốn Ba-la-di, Đại thừa đồng, còn sáu giới kia đều khác, cho đến chứa của báu, hơ thân, v.v… tướng khác rất nhiều. lại nói rằng: “Ý hai và ba nói đồng nhiều khác ít. Hệ tâm giới là ngăn xem lướt. Chứ như trở xuống là không khởi tham sân… Như Phạm Võng chế không san tham, không sân. Lại kinh Niết-bàn chép “Cách vách nghe tiếng vòng xuyến, phân biệt nam nữ, tâm nhiễm tịnh” là loại giới.

Trong phần rộng bày, trong Trí Luận vấn, trụ thật tướng là tâm hợp diệu lý, hư không chẳng chỗ có nên không chấp một pháp, đã không chỗ chấp thì không thiện ác, đã không thiện ác thì không trí giới hay phá giới, đã không trì phá thì không có giới, đã không có giới thì nên mặc ý tạo tác, không cần giữ giới tà kiến nhiều đời, cho nên hỏi để giải quyết.

Trong phần đáp dùng phước so sánh tội, không làm phước là không chấp phước tướng cho nên nói rằng không làm. Mỗi món nhân duyên nghĩa là phương tiện hoá đạo, tuỳ chỗ động dụng đều lìa lỗi.

Trong phần giải thích nghi, văn đầu tiên Luận Địa Trì, Kinh Phật Tạng, đoạn thường hai kiến lấy bỏ khác nhau, cho nên cần thông hiểu thì nói Bồ-tát tùy cơ lập giáo nói trái đến hợp, bao gồm tà kiến không ngoài có không. Chấp có gọi là Thường, chấp không gọi là Đoạn, thân kiến ngã tưởng đều là thường kiến. Ác thủ không nghĩa là bác bỏ nhân quả đoạn kiến.

Trong phần đáp, ban đầu giải thích địa trì, giao giống như năng.

Kế giải thích Phật tạng, một câu cuối cùng là kết chung hai văn.

Khoa kế do Bồ-tát tu từ nên nghiệp sát để đầu, sân chế tội Ba-ladi nặng. Hoa Nghiêm chép: “Một niệm tâm sân khởi, trăm muôn của chướng mở”. Lại nói rằng: “Một niệm khởi sân đoạ ngục Vô Gián” thì biết Bồ-tát riêng chế tâm sân mà không chế tham, cho nên bày lời hỏi nầy. Chữ trí trở xuống là dẫn giải thích, nêu phàm so sánh Thánh. Cõi sắc, trời, Tứ thiền, năm cái, mười ác đều dứt tham. Thánh đạo xa dục ác, vì thế thanh tịnh. Vốn không được vì vô thỉ chưa hề trải qua.

Trong Nhiếp Luận, không phân biệt người trí, do trụ Duy thức không có trần bên ngoài, do các trần bên ngoài đều là Duy thức cho nên nói rằng: “Trần không hiển hiện” Luận kia chép: Không phân biệt trí, tự tánh nên biết lìa năm món tướng:

Lìa chẳng phải tư duy.

Lìa chẳng phải giác quán địa

Lìa định Diệt thọ tưởng vắng lặng (vì không trụ Nhị thừa chấp Không)

Lìa tự tánh sắc. (vì không trụ phàm phu chấp có)

Đối với nghĩa chân thật lìa phân biệt khác (vì không trụ Trung đạo của Bồ-tát).

Thắng trí là không phân biệt, phương tiện nghĩa là dẫn dắt giáo hoá chúng sinh. Trước có lợi ích tức lợi tha, tự không đắm nhiễm tức tự lợi, quyết đủ hai lợi mối liền làm, cho nên nói rằng dầu có, v.v…. Chữ y cứ trở xuống là xếp ngôi vị, Sơ địa trở lên, cho nên biết Thập thánh mới cho làm. Địa tiền, Tam Hiền còn chế không cho, huống gì các phàm phu đâu thể lạm quyền.

Niết-bàn ban đầu nói tướng trì, dứt sự chê bai ở đời thì gọi là gía giới, giá tánh đồng trì nên nói là không khác. Chứ nhân trở xuống là kế để dụ rõ. Độ biển người dụ cho Bồ tát, La-sát dụ cho ba độc, phao nổi dụ cho giới cụ túc. Chứ hựu trở xuống là xếp ngôi vị. Đầu tiên nương kinh phán phải đến Bát địa. Bất động, Nhiếp Luận chép: “Do tất cả tướng tác ý công dụng không thể động” thì biết bậc Thánh lại phải có địa sâu. Do sự rất khó, sợ có sự ỷ lạm cho nên nhà dịch kinh lại gấp đối với Luận.

Chữ hoặc trở xuống hiểu văn luận. Tịnh tâm là Sơ địa. Vô Trước nói rằng: “Do thấy pháp tâm tịnh, lìa các cấu nhiễm.”

Kế, trong định tuệ do tiểu Bồ-tát thiệp với Đại Tiểu, Tiểu y cứ trí quán, đại y cứ nơi chí cầu tiểu đại tuy khác mà đều là Bồ tát thừa, cho nên lại một phen thâu chung trong đại. Ban đầu bày quán riêng như trên đã nói. Chữ độn trở xuống là kế so sánh cạn sâu. Độn là Tiểu Bồ-tát đối với đại là độn, so với Tạp Tiểu thừa thì lợi không phân biệt sắc, khác với Nhị thừa ở trước chia chẻ sắc, cho nên lợi tức là đại Bồ-tát. Không phân biệt, không vượt quả tiểu Bồ-tát, do quán duy thức, trụ ở Trung đạo, rõ tất cả pháp đều là tâm thức, thức chẳng phải sắc không, chẳng phải chẳng sắc không, còn chẳng phân biệt thức huống chi phân biệt không, nếu biết Duy thức thì trụ thật tướng vô phân biệt.

Trong kết khuyết, khoa đầu, hai câu trên kết trước. Chứ đãn trở xuống là khuyên học. Ban đâu khuyên lựa chọn, đường như phải mà chẳng phải, cho nên nói rằng giúp nhau. Bọn tà nhiều cho nên nói là như rừng. Chữ lý trở xuống là kế khuyên nhiếp tu, học chung tức giải. Chánh quả tức hạnh, không do tụng lời ấy là ngăn tuệ giác. Chữ như trở xuống là chỉ rộng. Thập Địa tức Kinh Thập Địa và luận Thập Địa. Chứ hựu trở xuống là dẫn bày tiệm học, học rộng trí tuệ nghĩa gồm tư tu, phải đủ ba tuệ. Câu kế ngăn cuồng chọn. Câu sau nêu dụ kiến hiểu, như ra biển sâu dần. Trí Luận chép: “Biển lớn chí độ chỉ có Phật mới tột đáy kia, người sơ tâm cầu học không thể vội cầu. Bởi tạo không xa, do lý chẳng ngoài sự, được không lìa nơi gang tấc, mất nào chỉ ngàn núi cách xa, lo mà tin phục khiến tự được, rồi mới lấy đó, trái phải gặp nguồn kia, buông tâm những điều mong muốn không vượt qua khuôn phép, nếu học như thế mới gọi là học, còn bao nhiêu nhớ hỏi đáng nói.

Trong lại bày, đầu tiên phân biệt ba đạo, tức phàm phu và hai Thánh Đại tiểu. Phàm phu nhờ năng lực thiện không gồm loài người cho nên gọi như vậy. Nhị thừa thảy đều là giác hoá dẫn dắt mà chẳng phải chánh ý cho nên nói rằng gồm tha. Đại thừa phát tâm cầu đạo chánh vì độ sinh. Nhưng phàm phu vì tự mình thì đắm chìm năm dục. Nhị thừa vì tự mình thì thoát khổ sinh tử. Nhị thừa vì người thì nói pháp hiện thần thông. Đại thừa vì người thì cứu khổ ban vui, phát ý là tu nhân riêng, thành quả tức chỗ chứng khác. Chữ nếu trở xuống là bày quán hạnh đồng khác, sự tức cảnh sở quán ở trước đều quán sự cho nên nói là sự đồng. Tâm là trí năng quán, tánh tướng Duy thức cạn sâu khác nhau cho nên nói là tâm trái.

Chữ thả trở xuống là hiển lược vì tông phi. Nhưng hai thừa Đại Tiểu, giáo môn khó nói, lại dùng bốn nghĩa để nói. Một là giáo riêng quyền thật khác, hai là lý riêng tánh tướng duy thức thiên viên khác. Ba là hạnh riêng vì đế duyên độ. Bốn là quả riêng ba tánh đạo. Lại nữa, nên biết Tiểu thừa chỉ nói một Phật Thích-ca, đại giáo thì bán về ba đời mười phương. Lại Tiểu tông là cảnh giới tông cuộc hạn y cứ Đại thiên. Đại giáo thì chung gồm pháp giới, còn bao nhiều như bày riêng, sợ rườm rà.

Thứ hai, tuỳ giải đủ duyên, trong phần phân biệt người, khoa đầu luật Tăng-kỳ thì trước nói già trẻ chưa độ nên chọn. Bảy tuổi trở lên, bảy mươi trở xuống, có trí chịu khổ thì là giáo hạn. Nói trong người già kia quá bảy mươi mà có khả năng chịu đựng thì còn cho xuất gia, nghĩa là làm Sa-di. Chứ nếu trở xuống là chế mình độ nên nhiếp, quá già tức tám chín mươi, quá nhỏ thì chưa đến bảy tuổi. Kinh Ương Quật, lão mẫu là mẹ của Ương-quật-ma-la. Ương-quật nhận lời người ác xúi dục, giết cả ngàn người, dùng lóng tay làm tràng, đến khi thiếu một người nữa là đủ số ngàn thì Ương-quật cầm gươm muốn giết mẹ, Phật giáo hoá cho nên dùng kệ ngăn. Hai câu trên khuyên dừng, hai câu dưới dạy tu. Tô nghĩa là tự xét. Dứt nghĩa là dứt dục. Duyên Tinh Phạn mà có ra bổn luật, trước nêu lên sau dẫn văn, quán tức là trí, các hạnh vô thường là cảnh.

Khoa kế, Trí Luận đầu tiên nói chế giáo lựa ý. Hai căn là thân hiệp hai hình. Vô căn nghĩa là không có đường nam hay nữ. Chứ thất trở xuống là giải thích trên không được đạo căn. Bốn câu bốn việc mất tướng nam nữ báo chướng, tâm không định là nghiệp chướng, kiết sử là phiền não chướng, bốn trí tuệ cạn là ba chướng đã nặng, cho nên nhiều ngu si. Kế nói hóa giáo thâu chung, tức trong Phạm Võng hai hình, huỳnh môn, dâm nam, dâm nữ, tám bộ quỷ thần, súc sinh v.v… chỉ hiểu lời Pháp sư đều được thọ giới, y cứ ức chế giáo. Huỳnh môn, hai hình chẳng phải súc sinh, đều xếp vào trọng nạn, hóa giáo đều khai, cho nên nói rằng: “Không đâu chẳng dung”.

Chữ dẫn trở xuống là hiển bày, trong luật chế lý do chọn lựa, đại giáo tuy cho thọ giới, nhưng Luật giới không cho xuất gia. Rừng dầy cây cong dụ cho khó nhổ, trù là dày đặc.

Trong phần ba, luật Thiện Kiến, đốt chùa là nạn duyên cho nên khai. Luận ấy chép: “có người muốn xuất gia, Tỳ-kheo biết cha mẹ không cho, nên không dám độ, kia liền nói: “ Nếu tăng không độ tôi sẽ đốt chùa” Phật nói: “cho độ”. Ngũ Bách Vấn nói về chế phạm, đầu tiên dẫn bày, chữ thử trở xuống là quyết thông. Ban đầu y cứ nghĩa quyết phạm, chữ như trở xuống là dẫn văn mở bày. Luận tức Thiện Kiến, đầu tiên nói độ người cha mẹ, pháp vua cho. Chứ hựu trở xuống là nói độ người giắc bắt, lúc đầu nghĩa là chưa bán cho người, không tổn tiền người kia, vì trải qua chủ tốn tiền cho nên không cho độ. Thủ cho họ là kiến hoàn lương, y theo lý được độ, ba tạng không đoán cho nên nói là không có văn.

Trong phần hai, trước nói việc khổ cho biết khó để sau khỏi hối hận, cho nên văn nêu năm việc: một là trụ, trụ tức là ngồi. Hai, Sớ nói rằng: một khi ngồi kiết già thì trọn thời mới đứng dậy. Ba là ngủ, tức kinh nói “Giữa đêm tụng kinh để tự tiêu tức”. Bốn là tiết độ ăn uống. Năm là siêng học.

Luật Tứ phần thì có mười món, nghĩa là chịu nổi gió, mưa, lạnh, nóng, đói, khát, độc trùng, lời ác, ăn một bữa, trí giới.

Trong phần ba, Tức phần đầu tiên cấm chứa nhiều, kế nói cách pháp xin. Thứ ba là chỉ đức của thầy. Pháp độ người tức kiền-độ thọ giới, như quyển thượng đã dẫn. Luật Tăng-kỳ đầu tiên nói được chứa chế hạn. Chữ nếu trở xuống là kế nói khuyên khiến người độ, lìa lỗi nhiều quyền thuộc, vẫn tự dạy bảo, như dùng pháp cứu giúp chung vì không kia đây. Chứ hữu trở xuống là chia phẩm vị. Khu ô, Luật do trẻ nhỏ xuất gia, A-nan không dám độ, Phật nói “ Nếu có thể đuổi quạ trên đồ ăn thì cho độ”. Ứng pháp là chánh hợp vị Sa-di, do năm năm nương thầy điều luyện thuần thục, có khả năng tiến lên thọ giới cụ túc. Danh tự vốn là vị tăng mà duyên chưa đến.

Trong phần bốn, phạm khí tức kết giới trọng Ba-la-di, thì biết xuất gia bỏ tâm cần quyết, phụ tạng dứt nộ đều không được lấy, cho nên nói rằng “cũng đồng”.

Thứ hai là tác pháp, trong phần đầu thưa chúng. Trước nói chỗ đặt, thấy mà không nghe vì sợ nghe yết-ma. Thứ tác trở xuống là nói tác bạch, trước nêu ra ý thưa bèn dẫn bổn duyên để nói cần làm, nay phần nhiều không làm pháp diệt. Vì phải đáp không lỗi ấy, là sợ người hỏi nhau, chúng tăng không biết đáp có sai, cho nên công sự gọi là công xảo, Luận do người kia đến xin xuất gia, Tỳ-kheo cho độ chúng tăng không biết. Sau cha mẹ đến tìm hỏi, tăng đều nói không thấy, sau tìm được ở trong chùa, bèn chê bai rằng: “Độ con tôi mà nói là không thấy”. Phật nói tác pháp trước bày đầu mối, thưa chúng trình bày thẳng tình ý, không cần nói nhiều lời hoa mỹ bóng bẩy. Kếu nêu ra yết-ma là “mỗ giáp kia là người thế tục, theo hoà-thượng mỗ giáp” nếu theo tuỳ cơ yết-ma, câu thứ hai nên nhắc lại duyên rằng: “Mỗ giáp kia muốn cầu Tỳ-kheo mỗ giáp cạo tóc”, câu thứ tư nói : Cho mỗ giáp cạo tóc, lời nói rõ ràng, nên y theo văn kia. Chứ Luận trở xuống là nói lời thưa, không nhọc bỉnh pháp.

Trong phần thỉnh sư, đâu tiên thỉnh Hoà-thượng dạy rằng ấy là phải là người ở bên chỉ bày, ngày nay gọi là người dẫn thỉnh nên trước nói rằng: Sở dĩ thỉnh Hoà-thượng là do xuất gia cội gốc là chỗ quay về, nếu không có người nầy thì nương vào đâu học, thiếu sự dạy dỗ, ông phải chí thành thờ phụng khắc chí bày lời, sợ ông không thể làm được, nay ta dạy ông”, rồi sau đó thỉnh. Phải thỉnh ba lần, là bày sự ân cần trịnh trọng. Cho nên nay có ba lần xướng xin thương xót, tức phải ba biến là truyền lầm.

Chữ kỳ trở xuống là kế thỉnh xà-lê, lời thỉnh đồng, chỉ đổi tên. Xàlê nhiều bậc cho nên chú giải phân biệt. Trong lời tác pháp nghĩa phải nêu riêng. Trong nghi thức nêu rằng “Các bộ đều nói, bổn luận sự nghi phần nhiều không đủ. “Chữ Như trở xuống là nêu mỗi việc.

Trong giải thích tiết văn có mười hai đoạn, thứ lớp hành sự không lẫn lộn nhau. Trong phần đầu ở chỗ trống khiến cho chúng thấy. Nước thơm rưới là khiến sạch sẽ. Chu vi bảy thước là khiến gần nhau. Bốn gõc treo phướn lọng trang nghiêm khiến phát sinh điều thiện, ngày nay phần nhiều ở chánh điện, chỉ nên làm việc trang nghiêm đúng lúc. Nhưng phần nhiều có Phật sau lưng lập toà mà ngồi, không biết là khinh mạn Phật, dè dặt chớ bắt chước.

Khoa kế, ban đầu nói từ thân (từ cha mẹ), ngày nay lại thêm lời từ tạ vua, vì khi vào đạo ở vị tôn quý không còn lạy cha mẹ và vua, cho nên miệng nói kệ là nên khiến người quỳ bên dạy. Văn kệ nửa trên nói tổn tại gia, nửa dưới nói lợi ích xuất gia, bỏ ân cắt ái tình. Vào vô vi là đến cảnh Thánh, cho nên biết trong đạo Nho nói thuận sắc, thừa ý, lập thân, nêu tên đều là tình đời chưa là thật báu. Luật Thiện Kiến say đắm, nay sợ thời gian lâu trệ chúng, chuẩn bị sai tắm (có chỗ cho rưới nước thơm lên đảnh vì trừ hơi người tại gia, chưa rõ văn).

Trong phần ba, đầu tiên khiến nhiếp nhau. Chữ ưng trở xuống là kế vì nói pháp. Tóc lông v.v… là khiến quán bất tịnh hư huyễn không thật thì sẽ nhàm hoạn sinh tử. Chứ hữu trở xuống là nói lý do mới, từng quán nghĩa là thói quen đời trước, ung liên dụ cho căn cơ. Ngày khác so sánh pháp, nhưng nói pháp thì phải lường cơ, tuỳ thời dùng hay bỏ, không hẳn chỉ y cứ gốc nầy. Hoà-thượng nói, nay phần nhiều là Xà-lê.

Trong phần bốn khiến hướng ngồi, y cứ mà biết cần phải quỳ gối. Nước thơm rưới đảnh khiến thân thể sạch sẽ, có khả năng thọ nhận pháp lành, cho nên trong kệ câu trên khen chí cương quyết. Câu kế khen tâm trí khai ngộ. Thứ ba khen bỏ vọng về chân. Câu cuối chỉ ba món trên, gồm khen khó có thể.

Trong phần năm, dạy lễ Phật là đầu tiên vào đạo khiến biết quy về kính mến. Trong bài kệ, hai chữ trên nói về tâm năng quy. Nửa câu kế khen cảnh sở quy. Đại Thế tôn là thầy trời, người. Độ ba cõi vì lòng đại bi. Hai câu dưới lập thệ, tự tha gồm lợi là hạnh đại sĩ, vui vô vi là đạo Niết-bàn. Trong phần sáu, văn sai ở bên dạy, nay hoặc hợp chúng đồng xướng cũng đựơc. Văn kệ sinh thiện, hai chữ trên nói oai nghi bên ngoài, ba chữ kế nói chí bên trong, giữ gìn không biến đổi gọi là giữ. Câu thứ hai nói trí dụng. Hai câu ba và bốn nói việc làm, vì hoằng đạo độ người xuất gia là việc chính. Chú giải nêu ra, kệ nầy cũng xuất xứ từ kinh Phước Điền.

Trong phần bảy, Kinh Chu-la âm nghĩa nói rằng: Hán dịch là Tiểu, Phạm Tăng nói là tiểu kế (kinh kia tự dẫn). Lưu năm ba là đến đầu số kia lưu lại một, cũng được y cứ biết cạo tóc vốn là Hoà-thượng, sợ kia phiền lâu cho nên Xà-lê dứt trừ những thứ còn lại, chỉ để lại ít cho Hoàthượng chính thân cạo. Ngày nay trước tự cạo chừa chùm tóc nhỏ, chẳng phải ý bổn giáo. Lại nói rằng “Bốn bên phải để tám chín chùm tóc nhỏ, tiêu biểu cho tám địa phiền não sau, một chùm trên hết tiêu biểu một địa phiền não ở Hữu đảnh, vì ở trên khó dứt, khiến thầy cạo truyền lầm đã lâu. Người có hiểu biết nên sửa đổi. Khi chánh thức cạo hợp chúng tụng lời chúc xuất gia trước.

Trong phần tám, ba trao cho lời dạy đến riêng. Ba hoàn là tiêu biểu lời khiêm nhường. Lời kệ vốn do Hoà-thượng nói, nay cũng ở người trên dạy. Hai câu trên là khen y giải thoát, nhuộm hoại sắc, cắt rọc vì không đắm nhiễm thế gian. Ruộng phước Vô tướng là phước vô lậu xuất thế vì lìa tướng hữu vi (có chỗ nói rằng vô tướng tức mạn y là sai). Hai câu dưới là khích lệ. Câu trên tự làm như nương. Câu dưới hành lợi tha.

Trong phần chín, khiến lễ Phật là vẽ vui mừng hiện ra ở thân. Lại nói kệ là bày ra rồi. Nửa trên lời kệ là hay vui, câu trên là tự vui mừng, câu dưới là người mừng. Nửa kệ dưới là chỗ mừng, câu trên mừng duyên hội, câu dưới mừng được pháp. Phước lành đều là nhân đời trước, thời tức duyên ngày nay.

Trong phần mười, đầu tiên thiết lễ là tạ ơn chứng minh. Ở dưới toà ấy, là khiến tham dự chúng khiến vui mừng. Nhận đích thân lễ bái là hình mạo vừa khác thì tôn ty liền khác. Chữ xuất trở xuống là bày ý kham nhận, y cứ vào văn ngồi rồi mới lạy giống như khiến ngồi nhận, lý cũng không tổn. Nay hoặc đứng cũng là nghi thức ấy.

Phần thứ mười một, trước phải thủ dương sinh. Mười hai là cạo tóc rồi thọ quy giới, theo luận thì năm giới vốn là giới của người tại gia thọ, nay tuy xuất gia hình đồng thể là thế tục, cho nên được cho thọ, nếu không thọ thì mất thứ lớp, cho nên ở đây nói văn, ở đời có người không hiểu liền muốn bỏ, lại cho rằng luận Tỳ-ni Mẫu là bộ khác. Vả lại, trước nói “Nên dùng các bộ nói rõ cách lập nghi thức xuất gia, sao lại không dùng văn nầy? Há chẳng phải chỗ tệ của tình ư?

Hỏi: Cạo tóc đắp y đâu gọi là Ưu-bà-tắc được?

Đáp: Hình đồng xuất gia thể là Ưu-bà-tắc. Như trong đủ số vốn thọ không được, tuy là cạo tóc vẫn gọi là người tại gia, nay gọi Ưu-bàtắc có gì không được?

Sớ chép: “Dùng pháp chia tục mới dứt kia đây (nghĩa là thọ mười giới rồi mới xuất gia) đâu cho thân hình, áo quần làm ngại ư? Nên có hai hạng: một là hình đồng xuất gia, thể còn là thế tục không ngai giới thế tục. Hai là pháp đồng, là thọ mười giới, đã là xuất gia thì không thể thọ giới tại gia.

Hỏi: Nếu bơ không thọ thì có giới hay không?

Đáp: Nếu không thọ mười giới, mà thọ thẳng cụ túc cũng được ba giới đốn được, cho nên biết năm giới không do đâu mà bỏ.

Hỏi: Nếu vậy, đốn được nay bỏ không thọ có lỗi gì?

Đáp: Vì mất thứ lớp, sớ dẫn Luận Bà-sa nói: “Nhuộm y học tập Phật pháp quyết phải thứ lớp” được vị Phật pháp ưa thích vững chắc khó có thể lui sụt, không phá oai nghi, một thời thọ là trái với trước nên mất thứ lớp, lại phá oai nghi, v.v…

Lại theo Ni sao “Không thọ năm giới mà thọ thẳng mười giới thì đắc giới, nhưng mắc tội, còn lại bao nhiêu như Nghiệp sớ thọ pháp có nói rộng.

Thứ ba là trong thọ pháp tác bạch, chỉ đồng ở trước tức trong cạo tóc hai pháp đều Xa-lê thưa. Mỗ giáp kia là người thọ. Theo mỗ giáp tức Hoà-thượng. Trong phần hai, do người xuất gia quyết nương Hoà- thượng, không đồng năm giới chỉ có một người. Trong phần ba do năm giới làm duyên cho mười giới, mười giới là duyên giới cụ túc, cho nên quyết trước năm sau mười.

Trí luận chép: “Do năm giới sinh mười giới, do mười giới sinh giới cụ túc”. Thiện giới kinh nói: “Trước năm, kế mười, thứ ba cụ túc, thứ tư giới Bồ-tát, thí như làm lầu bốn tầng, không từ tầng đầu đến tầng hai là không có lý, cho đến không do tầng ba đến tầng tư là không có lý v.v…” Như đây nói rõ, đâu được hoài nghi.

Trong phần bốn, ban đầu nói chánh nghi, kế là bác bỏ chẳng phải pháp luật, văn chỉ chế năm pháp: Bày vai bỏ giày, quì gối, chắp tay, lễ dưới chân. Vốn không có nghi thức nắm y, lại chẳng phải ý tôn kính, cho nên đặc biệt điểm đó để dứt lạm dụng về sau.

Trong phần năm, đầu tiên bày chỗ, đã làm đơn bạch, nghĩa là đối tăng. Chứ lý trở xuống là bày vấn duyên. Lập thắng duyên là nói pháp khai đạo mở bày tâm cảnh đến hỏi già v.v… xưa nói rằng: “Trong năm tội nghịch chỉ bất luận tăng phá mà đều là bạn giúp. Như người nữ không thể phá Ni thọ hỏi” đủ làm chủ chứng minh. Nay phải hỏi đủ mười ba trọng nạn, trong gia trừ số tuổi, y, bát, chỉ hỏi mười ba. Sau chỉ cho đồng tăng, tức thiên thọ giới.

Ba quy y trong hai thể, chữ ngôn trở xuống là phát được nghiệp thể, cho nên chỉ chánh thêm là giới thể. Theo Nghiệp sớ chia làm năm: Một là bày tên mình, hai là quy ba cảnh, ba là nay tội trở xuống là chỉ nói lại tuỳ xuất gia (y cứ biết ông trước hình, tuy vào đạo mà thể chưa xuất gia. Sớ chép: dùng pháp chia tục, sức bặt kia đây). Bốn, mỗ giáp làm Hoà-thượng là thân nương có gốc pháp tựa truyền tâm. Năm là Như lai v.v… là sợ lạm các vị tôn kính khác cho nên chỉ riêng (nghĩa là Tam bảo có cả chánh tà, nói trước chỗ quy là chân chánh).

Trong ba tướng, trọn đời thọ là nói thời kỳ. Không sát sinh là bày giới tướng. Giới Sa-di nầy, là chỉ pháp theo người. Hỏi đáp rất dễ hiểu, còn bao nhiêu đều y cứ theo mà biết. Từ sát đến tửu là năm, sáu tràng hoa, bảy là ca múa, tám là giường cao, chín là ăn phi thời, mười là cầm vật báu.

Tràng hoa, phong tục ở Tây Trúc phần nhiều kết các loại hoa thành tràng đội trên đầu, đeo trên cổ, hoặc thoa dầu thơm vào mình, Nghiệp sớ chép: Xướng nghĩa là phường tuồng, dùng người làm việc ca múa” Kỹ chung cả nam nữ, tức người tấu nhạc.

Khoa kế là nói công đức, biết mình là bậc tôn thắng không nên tự khinh. Núi dụ cho không thể qua, biển dụ cho không thể cùng, hư không dụ cho không có bờ mé. Vì công đức vô lậu giải thoát nầy vượt qua tất cả pháp hữu vi, sau khiến tuỳ thời là phải dẫn trước khuyên chướng tổn ích. Khéo léo mở bày lấy ngộ làm đầu, không chỉ tụng lời cho nên chú, v.v…

Trong phần ba, trước giải thích giường cao. Tám ngón là y cứ tay Phật, tức thước sáu. (Kinh) Tăng nhất chép: “Vàng, bạc, ngà, sừng, giường của Phật, của thầy, của cha, của mẹ đủ là tám món”. Tuỳ tướng tức trong chín mươi.

Kế giải thích sinh tượng. Sinh sắc là mầu vàng (kim), thiên sinh là vàng (huỳnh), tơ sắc là bạc, có thể nhuộm, thoa. Tự là tượng (giống) hội tên ở trên. Sinh tượng là dịch Hồ làm Hán, chưa rõ tiếng Hồ. Vàng bạc toàn là tiếng Hán là nói trùng lặp, cho nên nói rằng hai chướng. Hồ, Hán hợp lại nói là Hoa, Phạm. Nói theo xưa thì xưa gọi Phạm là Hồ, vì pháp đầu tiên đến đất Hán.

Trong phần bốn, trước y cứ hai văn, đầu tiên y cứ trí đại tiểu, nói đủ là kiền-độ đại tiểu trì giới, tức văn sau tạp kiền-độ, nói Đại Tăng, Sa-di trì giới đồng tướng. Kia nói gia tánh vâng giữ đều đồng với tăng. Kế y cứ hai luật tức là văn ba chúng đều tội Đội-cát-la. Chữ cố trở xuống là kế y cứ quyết định. Tăng thọ đã khắp trần sa, nói tướng chỉ bày bốn trọng cho nên có thể nêu lẫn nhau.

Trong phần năm, có hai giải thích: Một là lý không, hai là lược không. Trong năm đức, Kinh Phước Điền chép: Phật bảo Đế-thích “Tăng có năm tịnh đức gọi là ruộng phước” (do đủ năm đức nầy có công năng sinh phước cho thế gian) Nay Nghiệp sớ giải thích: Đức thứ nhất, đã nhàm chán trần tục, Thánh đạo xuất thế thường đeo mang. Đức thứ hai, thay hình đổi tánh, chí dứt sự xa hoa, hình và y phục tương ưng. Đức thứ ba, kính giữ ba môn học đến chết không thôi (kinh ấy và yết-ma đều nêu thứ tư, nay Sao truyền chép lộn) Đức thứ tư, cắt ái theo đạo, bỏ cả thân sơ. Thích âm thích, không màng thân sơ. Đức thứ năm, là vâng hành cực giáo, gồm giúp người khác, là hạnh Đại Sĩ. Năm đức nầy là đại yếu xuất gia, năm chúng đều phụng thờ không chỉ tiểu chúng, trọn đời thực hành không chỉ lúc mới thọ.

Sớ chép: “đức đây trước sau chung cả năm chúng đều nhận vật nuôi người, làm khuôn mẫu trời, người, cho nên khiến tụng trì không khinh thọ thể và hình phục.

Trong sáu niệm, đầu tiên chỉ đồng. Không đồng thế tục ấy là phân biệt lạm. Hoà giáo khiến niệm Tam bảo và giới, thiên, thí gọi là sáu niệm. Thế không Sa-di là Đại tăng, đến dưới nói riêng. Năm nay nhược can tức là năm sinh, mỗ niên đẳng tức năm thọ giới xuất gia. Chữ dĩ trở xuống là bày ý, đại tăng chỉ ghi thời phần đức giới không nhớ năm sinh. Sa-di sinh pháp hai năm do chia trên dưới nên phải ghi nhớ.

Trong mười số, thứ nhất chỉ nêu ngoại kế, Nghiệp sớ tục chép “Phật pháp không như vậy, thân nhờ cơm giúp, cơm để giúp thân, lấy đạo giúp thân, cho nên thân nhờ duyên cơm tu đạo hạnh, luận về chí đạo. Cốt yếu tu lìa đắm trước là gốc, không biết người đạo bèn dùng đoạn thực làm đạo cho nên phải cần phá.

Trong phần hai, Sớ chép rằng: Phật pháp không như vậy, nội báo, ngoại báo đều có bổn nhân, các chúng sinh đều có nhân danh sắc (danh tức tâm) tâm không thể thấy, chỉ có thể nói bàn, bắt đầu từ chi thức, cho nên chuyển thành danh, nhớ nhiễm trí thức tức nhiễm danh sắc, gã thai tạng kia xoay vần thêm lớn, đủ tháng liền sinh ra được tự nhiên.

Trong phần ba, trước nêu rằng: nghĩ khổ vui, xưa dịch là ngữ chất, tức là ba thọ. Thống là khổ thọ, dương là vui, thọ tưởng là xả thọ, văn thoát ngoài chấp. Sớ chép: “Phật pháp không như vậy”. Sinh thương ghét, thật do ấm làm gốc, nào can gì đến thiên. Đầu tiên niệm duyên sắc danh thức, hiểu suốt thiền tịnh là tưởng, lãnh nạp trai thuận là thọ. Do ba tưởng (khổ, lạc, xả) liền sinh ba thọ, do ba thọ nên liền có ba hạnh, vì thế luân hồi chìm đắm không giải thoát.

Trong phần bốn, Sớ chép: chúng sinh biết khổ không có đế, bậc Thánh biết khổ có đế. Phàm Thánh đều do nhân quả đâu nói là không.

Trong phần năm, Sớ chép: Phật pháp rộng phá ngã ở chỗ nào, là ở trong sắc hay là trong thức, tính trong thân nầy chỉ có năm ấm, tuỳ ấm chấp ngã, thì có năm món ly hợp như vậy (và lại năm ấm có một ngã riêng thì là ly, nếu chỉ một ngã thì ở sắc, thời bốn ấm khác nên không tức là hợp). thứ lớp cầu tìm ngã không từ đâu, liền ngộ vọng chấp được lý vô ngã, chia thành vô lậu giống như bậc Thánh.

Trong phần sáu, quýnh là cánh cửa, Sớ làm sáu cửa, Phật pháp không như vậy. Thức tuỳ căn khởi, nếu là một thức thì đâu thể trong nhãn căn mà nghe tiếng?

Trong phần bảy, khước tức là ngược. Quán trước là ngược, quán sau là thuận. Sớ chép: do được năm thần thông. Trong quán thuận nghịch, ngoài tám muôn kiếp mờ mịt không giao phó chấp là minh đế. Chuyển cuộc chỉ, là nêu dụ biển. Nghĩa là dùng cuộn chỉ từ núi cao buông xuống, cuộn chỉ hết thì dừng để dụ không tu. Sơ phá rằng: Phật pháp không như vậy, muốn cần phương tiện thêm tu bèn phê bình, như bảy giác chi, phân biệt chánh lý mới đến nơi được, làm sao có không tu?

Trong phần tám, ba học của ngoại đạo đều là tà, chim gà v.v… do thấy cầm, súc nay bác đã hết nghiệp xa, sẽ khởi sinh lên các tầng trời cõi sắc kia. Không suy nghĩ viên nhân nghĩa là tức báo nầy, liền bắt chước loài súc sinh kia ăn cỏ bất tịnh. Đồng tám thiền, nghĩa là tu thiền thế gian nghĩa là Niết-bàn, tà tuệ tức chỗ thấy của kia. Tà kiến như lên núi cao. Nằm cho gai…. Phật pháp không như vậy. Bốn y là duyên Thánh đạo, tám chánh là nhân Thánh đạo đều giúp tâm thành. Quán dụng so sánh sâu thấy tưởng điên đảo, liền được ra.

Trong phần chín, ban đầu bày ngoại chấp, cõi dục hợp thành một. Bốn thiền, Bốn không là chín cư. Vô Tưởng là định giới. Phi tưởng là định Vô sắc. Tâm chìm đắm ấy, Sớ chép: “Thô tâm bất giác, nghĩa là hiểu đại lý, đại thưc vọng. Chữ thử trở xuống là điểm phá chín cư ba cõi, đã là chỗ ở của chúng sinh tức chẳng phải Niết-bàn.

Trong phần mười, ban đầu nêu ra ngoại chấp. Sớ chép: kia tu tăng thêm tu định duyên sắc trụ tâm, dùng sắc diệt cõi Dục, dùng không diệt cõi Sắc. Chứ kim trở xuống là chánh phá. Hai câu trên điểm phi. Mười chỗ tưc là định tướng nghĩa là đất, nước, gió, lửa, xanh, vàng, đỏ, trắng, không, thức. Môn đầu tiên là vào đạo, nên gọi là mười nhập, cũng gọi là mười biến xứ. Như quán sắc xanh, ban đầu dùng chút phần sắc xanh quán đó khiến khắp tất cả chỗ đều xanh, cho đến không thức cũng như vậy, cho nên nói rằng tự tâm vận dụng. Chữ thật trở xuống là nói chánh pháp, kế dẫn Trí luận bày lý do không được xa lìa.

Trong phần kết, câu đầu chỉ trước, hai câu kế bày ý hỏi. Thiện kiến trở xuống là dẫn chứng. Pháp nào tức nương bộ nào thọ giới, lại hỏi ai là Hoà-thượng, Xà-lê, cho nên nói là “đẳng”.

Thứ tư, trong phần phân biệt chung, khoa đầu là yết-ma, không ở số là do làm các pháp thuyết chọn trừ cho nên nói buông. Không được riêng là trong bổn chúng mà nói. Y cứ giới đồng tăng ấy là văn chỉ tự nhiên, y cứ hai cõi. Tác pháp một giới nương giới hạn của tăng, do chúng riêng hai pháp, quyết nương gá giới. Chữ minh trở xuống là dẫn chứng. Kia có mười bảy biệt trụ như kiết giới đã dẫn chữ Ni đẳng trở xuống là chúng đều có biệt trụ nên nói là cho đến. Biệt giới nghĩa là có trụ xứ riêng, chẳng phải tác pháp kiết. Thí riêng nghĩa là thí chủ nêu ý thí những người nào, không chung thứ khác.

Khoa kế, ban đầu nêu phi xưa. Chữ kim trở xuống là nói chánh nghĩa, nhưng pháp có nhiều khác nhau. Tự tức tăng pháp Sa-di tự tứ lớn nhỏ đối nhau. Phi thời vào xóm thông báo chúng sau. Ni bạch vào chùa tăng thì đối tỳ-kheo. Trong Ngũ Bách Vấn khai chung bổn chúng, hoặc là không pháp tâm niệm, xưa có chỗ y cứ nên cho giữ.

Trong bày riêng pháp khác, khoa đầu trước bày thọ trì. Chữ đương khứ thinh, đều nói đáng vì chẳng phải chánh y, chữ duy trở xuống là nêu pháp thọ. Thọ giới là mười giới, không phạm lấy hạnh thanh tịnh.

Khoa kế, đầu tiên là pháp thọ bát và toạ cụ, ba chúng đều đồng. Kế nói trăm lẻ một. Chứ nhược trở xuống là thứ ba nói thuyết tịnh, đạo tục hai chủ, y báu hai tịnh, không khác với Tăng.

Trong phần ba, đầu tiên nói xả đoạ. Chứ nhược trở xuống là kế nói các thiên trên dưới. Có che giấu phải trị, nghĩa là thực hành biệt trụ. Nhược ba trở xuống là thứ ba nói phạm tội nặng, phép sám đều đồng, chỉ có tội là khác, phạm tội nặng quyết diệt tẫn không khai sám hối.

Trong phần bốn, ban đầu chánh bày. Chứ thập trở xuống là dẫn chứng, luật Tứ phần, giới du hành tức giới Ni. Kế nói chúng pháp thuyết giới, trong ban đầu, văn chia làm bốn:

Nói chúng đủ. Chứ minh trở xuống là thứ hai nói đến nhóm, dặn trao tức thuyết dục. Chữ chí trở xuống là thứ ba, nói xuất chúng, lại có ba: một rời toà, hai lễ chúng, ba nhận dạy khác thường. Chữ dự nên viết là dự này, nghĩa là chen vào. Thời tức tụng lược giáo rồi lại nhóm nghe tựa sau.

Trong biệt hạnh, đầu tiên nói nhóm chúng chú giải khiến xem xét sợ có người không nhóm, cho nên kế nói hành sự. Nói rằng pháp đồng tăng tức xướng bạch, hành thuỷ, v.v… đưa chọn vào tăng là do giới kinh cũng nói rằng: “Sa-di Oai nghi Giới bổn một quyển”. Chữ vị là viết lầm nên là chữ tụng. Chữ chí trở xuống là thứ tư nói nhập Tăng. Chữ thử trở xuống là chỉ trước khiến tìm xem, tự thấy lý do được nghe hai lời tựa trước sau, do đó chỗ thuật của bộ chủ chẳng phải chánh giới bổn.

Hỏi: Luật chế Tỳ-kheo không được nói tên năm thiên cho Sa-di nghe, mà tựa trước nói rằng bốn khí v.v… vì sao được nghe?

Đáp: Nêu chung tên chung không nói tướng riêng, chuẩn bị cho chúng sinh kia kính mến cho nên được nghe.

Trong Tự tứ, chung riêng đồng ở trên, y cứ như thuyết giới. Trước đã sai nêu ra đến Tăng tự tứ rồi nên phải đánh chuông nhóm lại. Hai chung là phạm tướng đồng với tăng cho nên phạm chung. Trên được trị dưới cho nên nêu chung.

Trong pháp riêng tất cả đồng tăng cho nên không nêu ra.

Thứ năm, trong phần lược chỉ, tuy là vị dưới nhưng đều phát trần sa, không khác với tăng nên đều chỉ ra.

Trong phần dẫn rộng, khoa đầu biết hổ thẹn, nghĩa là không làm các lỗi. Thiện trụ nghĩa là trụ chỗ lành.

Trong pháp làm thầy, ban đầu gồm răn dạy. Chữ đương trở xuống là kế bày riêng, văn bày thiện ác không nêu ra ba nghiệp. Không nhất định, loạn ngôn, do loạn ngôn nên không nhất định. Tịnh hay bất tịnh, hoặc y cứ vì tăng làm tịnh, hoặc y cứ tự biết trì phạm.

Trong thứ hai, luận Tát-bà-đa chỉ rõ đào đất khai chế, luật Ngũ Phần bày chung tất cả pháp chế, Tứ Phần lược bày tướng phạm, còn bao nhiều có thể y cứ mà biết, cho nên nói rằng lệ.

Trong phần ba, đầu tiên nói lời thầy. Nếu trị trở xuống là kế bày tướng trị. Chữ nếu không trở xuống là thứ ba chế phụng cấp. Chữ bất ưng trở xuống là thứ tư nói đồng lợi. Luật Tứ phần cấp phòng có lượng đáng chăng?

Trong bác bỏ sai lầm, xưa cho là chúng sau phạm đồng năm giới, tám giới, không quan hệ thiện tụ cho nên có chung đây. Thừa tức là nhiều, chữ thửa trở xuống là bác bỏ lời người, nêu ra phàm tình, chánh giáo nêu ra ý Thánh, cho nên phải y theo giáo không thể y theo người.

****

THIÊN GIẢI THÍCH NI CHÚNG

Trong đề, hai chữ trên thâu chung ba ngôi. Biệt hạnh như trước giải thích. Trong chú giải, dịch tên gồm nói rằng: “A-ma-ni”, Hán dịch là mẫu Nữ, tức tên Phật gọi DI mẫu, nên nói là Trọng Ni.

Trong bày ý, khoa đầu ba câu trên nêu rộng nữ lưu, tình chấp trước hành tướng càng tăng. Chữ đồng trở xuống là bày đồng khác. Ban đầu chỉ đồng tức các thiên trên. Chữ kim trở xuống là chánh bày thiên nầy, tức giở ra là giáo có chỗ y cứ. Bất phù man là hạnh không mê muội.

Khoa kế, ban đầu gạn để y cứ loại, tuy nhiên y cứ ngôi vị thì loạn, kế là giải thích. Nói không tiện là nam nữ phối nhau hợp cơ nghi.

Đại ni trong thọ giới, văn đầu nói mười hai tuổi hạ là địa vị thầy, tăng thì mười tuổi. Nghiệp Sớ chép: “Sở dĩ thêm hai năm là nói chí kia kém yếu, nhiều năm là đức”. Lại người nữ phần nhiều ưa nuôi chúng, do bổn tập. Mỗi năm đều độ người không thể dạy dỗ nên có nhiều trái phạm, chế xin pháp khiến chúng xét lường, không xin cho thọ cụ túc phạm tội đoạ, thọ người y chỉ, độ hai chúng khác đều chế xin pháp, không xin tội đột-cát-la. Tỳ-kheo chung tội Đột-cát-la là chế xin đồng với Ni chỉ trừ Thức-xoa trái phạm đồng nhất mà không sai khác. Chữ kỳ trở xuống là chỉ pháp xin, văn thấy ở Tuỳ Cơ Yết-ma và Ni Sao. Chữ nhược trở xuống là bày chế hạn.

Trong phần nêu thọ giới, phi pháp lạm tướng như sau, chánh thọ bác bỏ xưa. Trong bổn pháp, đầu tiên bày duyên trước. Tám pháp là:

  1. Thỉnh Sư
  2. Sắp đặt vị trí
  3. Sai vị sư có oai nghi
  4. Lìa chúng hỏi nạn
  5. Đơn bạch gọi vào
  6. Đối chúng xin giới
  7. Giới sư bạch hoà.
  8. Đối chúng hỏi nạn.

Trong văn chỉ bày hai lớp một, bốn. Văn luật có lời thỉnh rằng “Xin A-di làm Hoà-thượng cho con” v.v… cho nên ở đây giải thích.

Trong mười ba nạn, nếu y cứ Ni nữ gọi là Phật không tin, vốn không phá tăng nhưng có trợ giúp cũng phải hỏi. Mười sáu là ngăn cha mẹ cho, sau lại hỏi phu chủ (chồng) trước hỏi có chồng hay chưa, nếu nói chưa có thì không cần hỏi nữa. Chữ nãi trở xuống là nói chánh thọ. Chữ dư trở xuống là chỉ cho lược Tuỳ Cơ Yết-ma rất đầy đủ, người cần phải tìm mà đối chiếu.

Trong chánh thọ, duyên đầu cho là trong chánh giáo có nói chế quyết đến trong tăng. Giới Bổn Ni chép: “Nếu Tỳ-kheo-ni trao cho người giới cụ túc rồi (tức bổn pháp) qua đêm mới đến trong tăng cho thọ giới cụ túc thì phạm Ba-dật-đề. Nghiệp Sớ hỏi rằng : “qua đêm có mất bổn pháp không?

Đáp: không mất pháp, vì bỏ, không do cách ngày, nếu ngay ngày đó không đi, thì sáng hôm sau phải xả cho nên phải thọ lại mới được.

Trong bác bỏ phi có hai: ban đầu bác bỏ Tăng đến chùa Ni. Thầy trò truyền minh phán xét, tín minh thị phi có thể thấy. Kế bác bỏ bên ngoài chùa kiết giới. Luận không quyết định vì không nói thành chăng? Do nghĩa chung đó, Tăng phải mắc tội, Ni lẽ ra đắc giới. Trong phần giải thích nạn, đầu tiên hỏi: “Do chế tác bản pháp rồi mới đến trong Tăng, sở trái giáo nầy cho nên hỏi để giải quyết?

Trong lời đáp, Tiểu luận đã cho xen kiết, nghĩa chung các pháp cho nên nói rằng: “Lý là được”

Kế hỏi: Do thọ bổn pháp ba vị không thâu, cho nên song nêu danh thể, hỏi để giải quyết đó.

Trong đáp, đầu tiên đáp thể. Nói duyên giới là chánh thọ phương tiện.

Hỏi: Đã gia pháp yết ma, lý quyết phát thể, đã không phát thể, dụng thọ làm sao? Lại năm giới làm duyên cho mười giới, mưới giới làm duyên cho giới cụ túc. Năm giới, mười giới, có tự thể riêng, bổn pháp không có thể, ý ấy thế nào?

Chữ nhi trở xuống là kế đáp danh. Do chưa pháp giới thể là ở địa vị dưới, do thêm bổn pháp đồng với vị trên, do ba chúng không xếp vào đâu.

Thứ hai, trong bác bỏ phi, đầu tiên là dẫn xưa. Chữ nếu trở xuống là bác bỏ nay, đầu tiên dẫn ngay tông. Luật vốn đã là kiền-độ Ni, cho đến văn nói rằng là, tức văn trong tướng. Kế dẫn bộ khác. Luật Tăng-kỳ nói tám thứ thọ giới cụ túc. Tăng thọ gọi là mười chúng, Ni thọ gọi là hai mươi chúng, danh số đã nói có thể nghiệm xưa trái.

Khoa kế, luật Ngũ Phần nói số người, sự, nghi đều nên y theo hạnh. Tiểu Viễn là nếu ở ngoài trời cũng phải tìm trong đó.

Thứ ba, trong bác bỏ phi, đầu tiên là nêu xưa. Chữ Nhiễu trở xuống là chánh thức bác bỏ, ban đầu dùng lý phá thẳng. Một pháp nghĩa là ni thọ, bạch tứ bổn chế đồng bỉnh mà một chúng thì không thành. Kiết giới vốn vì nhiếp người, bỉnh pháp Ni đã đồng bỉnh, không giới thì nhóm người không chuẩn, phải khởi không chỗ nương, cho nên nói là “giới phi”… Chữ nhựơc trở xuống là kế y cứ pháp trái chất.

Khoa kế, tự nhiên nhóm họp, tăng tác pháp giới, Ni vọng cho là tự nhiên. Xướng tướng kiết là một phen nương tăng giới. Trong Ngũ Bách Vấn không đắc tướng lại do dùng pháp. Bổn pháp để ngoài y cứ chẳng phải riêng chúng, chỉ gọi là đồng vị trên, vì ngại lạm nghi, dầu ở trong giới không ngại tăng pháp.

Trong phần ba, đầu tiên nêu bày do tuỳ bày thọ, biết rõ cần kết. Chứ thử trở xuống là dẫn xưa, ban đầu nêu cõi đâu làm lâu. Chữ nhiên trở xuống là dẫn Phạm Tăng ấn khả, đoạt giống như bác bỏ.

Trong phần bốn, đầu tiên nói chỗ ngồi của tăng ni, đều biết trong giới hoặc đến đại giới, hoặc ở giới tràng. Dọn trải hai toà, nghĩa là đồng một hạnh. Tăng trên Ni dưới, hoặc y cứ bày riêng, hoặc ngồi tập hợp cả hai đều được. Ở giữa chỗ trống nghĩa là không liền nhau, khiến tôn ty không lẫn lộn, hoặc tránh sự chê bai. Duỗi tay đến, là y cứ chỗ trống mà nói. Chứ các trở xuống là kế nói sắp đặt chỗ cho ni, sự nghi phần lớn đồng với tăng.

Trong phần năm, đầu tiên nói thỉnh sư, Ni nầy thọ phép Ni làm Hoà-thượng, trong ni giới thọ và đến trong tăng chỉ cần yết-ma, cho nên thỉnh giới sư riêng. Chữ dĩ trở xuống là kế chỉ các pháp.

Thứ hai, trong thiên sám, đồng khai học hối. Hai thiên chia làm ba: Đầu tiên nêu khác, tăng đủ ba pháp, Ni trừ phú tàng, cho nên nói hoàn toàn không. Tăng chỉ sáu đêm, Ni phải nửa tháng, cho nên nói rằng sửa tăng chế hạn, xuất tội không riêng cho nên không kể. Chữ dĩ trở xuống là nói lý do hai chúng Nữ yếu mềm nghĩa là không ý chí, tình cảm nhiều cho là dễ phạm. Ban đầu thọ cũng ở trong hai bộ tăng, nên nói rằng thọ tuỳ đều vậy.

Hỏi: Các tội Ba-la-di, Thâu-lan-già sao chỉ có một chúng?

Đáp: Cho nên dĩ có thể biết.

Chữ Đãn trở xuống là bày ý lược, biết phạm mà không sám hối, đây là người ngu không bẩm giáo. Dầu sám hối cũng khó nhóm, đây là người trí mà không gặp duyên. Thâu-lan trở xuống đều đối bổn chúng cho nên nói là tự kết. Kết nghĩa là gia pháp, tên khác mà pháp đồng không nêu lại nữa.

Thứ ba, trong dẫn duyên, luật Thiện Kiến nói đều đến tức là mới chế. Kế sau hai lần khai đều vì dứt sự chê bai của thế gian, do pháp gồm giúp. Cho nên luật Tứ Phần chép: “Nan-đà dạy ni đến chiều tối, Ni ở lại trong thành Kỳ-hoàn ngủ đêm bị thế tục chê bai (tại Ấn-độ, Tăng ở lan-nhã. Ni ở trong thành, do đến chùa Tăng chiều tối về lại thành, cửa thành đã đóng, do đó ngủ lại trong hào) cho nên biết ban đầu khai ni đến chùa tăng nhưng không bằng luận thứ lớp hiển bày, cho nên nói rằng không văn ý đồng.

Trong phần hai, ban đầu văn chỉ pháp sai, thấy ở Ni Sao. Chữ Tứ Phần trở xuống là kế nói đến chùa thỉnh pháp, ni không đi một mình, phải đi với bạn, chỉ cần miệng sai, chẳng phải chánh người. Người bị dặn tức trong Tỳ-kheo nhận dặn dò. Chứ đương trở xuống là chọn chỗ dặn có ba; Chủ chứ không phải khách, không bịnh phải khoẻ mạnh, có trí không ngu si. Chữ minh trở xuống là dạy biết nhận hỏi.

Khoa kế, đầu tiên nói dự thảo. Chữ bỉ trở xuống là kế chánh nhận dặn dò. Một người làm bạn, là rất ngăn phòng. Lời đáp có ba: đầu tiên là hứa khả. Chứ nhiên trở xuống là xét chỗ muốn kia. Chữ hựu trở xuống là dặn khiến đến hỏi. Tiến bất tức có không.

Trong phần ba, tự vô sự, sự tức là lỗi. Tăng vào chùa Ni, Ni phải lường tăng, cho nên nói rằng cũng vậy.

Trong phần bốn, Tăng hỏi đáp rồi đến câu “có ai sai Tỳ-kheo-ni đến thỉnh giáo giới không?” Người nhận dặn dò đứng dậy đến trước Thượng tọa bạch rằng “Đại đức tăng xin lắng nghe, Ni chúng chùa kia nửa tháng lễ chân Tăng một lần cầu thỉnh giáo giới cho ni.

Trong phần năm, ban đầu bày nghi chỉ như trước, tức ở ngoài phòng ngồi trên giường cầu bạn v.v… kế dạy dỗ, sau Ni đảnh lễ nhận.

Trong phần sáu, văn đầu tiên trước nhóm ni chúng Chứ sư trở xuống là kế truyền giáo giới. Chữ như trở xuống là Ni chúng nhận giáo giới. Lễ xướng là làm lễ xướng ba quy y v.v… Sau chỉ chỗ nêu ra. Luật Tứ Phần thiếu văn.

Trong phần hỏi, do muốn ứng với yết-ma đã không bỉnh kiết thì không được dữ dục, cho nên hỏi giải quyết. Trong phần đáp, ban đầu nói chế nhóm, đông việc Tăng, chữ cố chuẩn trở xuống là dẫn chứng, pháp giáo thọ chế gồm đại chúng, cho nên nói rằng nghi thông. Chữ nãi trở xuống là chỉ bày sự thấy ở môn kế.

Trong Tạp tướng, Tứ Phần khai lược, trước nói tăng duyên có bốn, tuỳ một liền khai. Biệt chúng nghĩa là khó nhóm. Không hoà nghĩa là cãi cọ. Sau nói Ni duyên, đồng tăng cũng chấp nhận. Luật Tăng-kỳ dữ tục tức người đến cầu giáo giới. Thập Tụng trải giường, văn trước y theo đây.

Trong phần bốn, đức rộng nghĩa là người giáo thọ phải có đủ mười đức như thiên Tự tứ đã dẫn. Bổn Sớ nói nên là thấy từ đầu. Luật Sớ thì nói “Trong tăng làm giáo thọ, trong Ni sai khiến Ni”, đều là chỗ làm, chỉ đủ năm mới thành pháp rộng. Hai mươi tuổi hạ là một trong mười đức.

Thứ tư, khoa đầu ba món an cư tác pháp v.v… đều đồng. Khoa kế, trong chế phạm, Bát kỉnh chế ra nương tăng an cư, không nương phạm đọa, văn xuất xứ từ thiên Ba-dật-đề. Văn kế không chịu thỉnh tăng, không thọ hạ thỉnh cùng bày chế gấp.

Trong phần ba, luật Thiện Kiến ban đầu bày giới hạn, nửa do tuần là hai mươi dặm. Chữ nhất trở xuống là nói nương nhau. Thỉnh pháp nghĩa là đầu hạ rồi đến thăm hỏi cầu dạy bảo. Nói chứng là tự tứ. Chữ nhược trở xuống là nói duyên khai. Ban đầu nói Tỳ-kheo có duyên không đến. Chữ nếu sơ trở xuống là kể rõ Tỳ-kheo kiết rồi lần đi, khai chế rất dễ thấy. Luật Tăng-kỳ nói một Tỳ-kheo là không cần phải đông, ba do tuần không kết nghĩa là kiết thành một giới. Giới của Ni vốn chế hai dặm, có nạn đồng tăng, luật ấy chép: “Nếu Tỳ-kheo trong lúc an cư hoặc chết, hoặc bỏ đạo, hoặc đi các nơi” Ni không được đi. Ba do-tuần có tăng-già-lam nên kiết giới chung, nửa tháng nên đến hỏi Bố-tát khiến đến đi không chướng, không phá an cư.

Trong phần năm, hành sự có ba, ban đầu nói sai người. Chữ vãng trở xuống là nói bày thỉnh, Ni tự thẳng đến trong tăng thỉnh, cách ngày đến hỏi. Chú văn dạy dỗ của trung, hạ, thượng toà trong tăng, chỉ cho thiên trước không phiền dẫn nữa. Chữ bỉ trở xuống là khiến ni truyền giáo. Khoá kế, ban đầu nói ngày khác, đây chế nương nhau, theo tăng thỉnh nói khiến trở về tự tứ, lý phải cách ngày, hẳn là chỗ gần đồng ngày không ngại. Chữ nhược trở xuống là kế nói khai lược cũng đồng thuyết giới. Luật Thập Tụng nói chọn khiến Ni dẹp trừ qua lại, trừ rồi nghĩa là nhanh nhẹn, tài năng giúp chọn trị chậm, biết pháp lựa người ngu muội.

Trong phần ba, thọ nói an cư tự tứ đều chế nương tăng, cho nên hỏi chung, gồm bày y giáo. Trong phần đáp, kinh nói nữ tánh, vả lại bày năm tướng. Hoặc sắc là đắm trước nhan sắc, ích thọ là muốn sống lâu. Chứa đệ tử tức ưa nhiều quyến thuộc. Không học hỏi là biếng nhác. Biết chút việc nghĩa là thấy biết cạn. Phú tánh đã vậy tự không chi tiết, nghĩa quyết theo thầy, ý dạy rất dễ thấy. Ở đây y cứ đại ước, chưa hẳn đều như vậy.

Trong phần sau, môn nầy lẽ ra nên giải thích rộng giới của Ni. Chỉ là cùng Tăng đồng giải thích tướng đủ phần, còn bao nhiều vi tế đầy đủ Ni Sao.

Trong tám giới trọng, văn đầu tiên là bốn giới trước tức dâm, trộm, giết, vọng, duyên phàm tướng phạm tất cả đồng với tăng nên không nêu lại. Trong phần khác giới Ni ít nghe, sợ người không hiểu nên nêu đủ gốc duyên, đối chiếu văn tướng. Năm là giới xúc chạm (Phật ngự tại nước Xá-vệ, có một Trưởng giả cùng ni Thâu-la-nan-đà buộc ý với nhau, Trưởng giả thiết lập trai tăng, các Ni đều đến, chỉ Thâu-la-nan-đà không đến. Trưởng giả đến chùa, rờ rẫm ni nầy. Có Sa-di-ni nhỏ giữ phòng thấy bạch đại Ni, đại Ni bạch Phật, cho nên chế) Nếu Tỳ-kheoni tâm nhiễm ô cùng người nam có tâm nhiễm ô, từ nách trở xuống, từ đầu gối trở lên (lựa các cảnh khinh phạm khinh) thân tướng chạm hoặc nắm xoa (Xoa thân trước sau) hoặc kéo lôi. (kéo đến trước) hoặc xô đẩy (đẩy ra sau) hoặc rờ trên (từ dưới lên trên) hoặc rờ dưới (từ trên xuống dưới) hoặc nâng (ôm lên) hoặc để xuống (ôm xuống) hoặc nắm (nắm trước sau và vú) hoặc đè (đồng trước trở lên mười tướng) Tỳ-kheo-ni nầy phạm Ba-la-di không được ở chung.

Trong phần bày duyên, thứ tư, y cứ thân nam nữ chia cảnh ra khinh trọng, đều xen bốn câu, đều khinh mắc tội thâu-lan-già, cho nên nói rằng phạm tội khinh, ba nói kia đều tội nặng, nghiệp lý nên khác.

Trong phần năm kết phạm, vì cả hai đều không có áo. Một người có một người không, đều tội thâu-lan-già, đều có áo cùng tội Đột-cátla, nhiễm tình lần nhẹ giáo cũng theo đó giảm nhẹ dần.

Trong phạm, khoa đầu tăng ni bốn món khác và tăng chung, Ni cuộc hạn. Một, chết sống khác Tăng chung bốn cảnh là biết, không biết, mới chết hoại một ít. Dẫn luật làm chứng, tức trước giới bổn đã nêu tâm dơ, nói cần cảnh sống. Hai là lớn nhỏ khác. Ba là thân phần khác. Bốn là tâm cảnh khác. Sau dẫn luật Tăng-kỳ, Thiện Kiến riêng chứng thứ ba, tuỳ chỗ mắc tội, ở đây y cứ Ni phạm. Chia cảnh trọng khinh, hoặc luận Tỳ-kheo một bề thành trọng.

Trong không phạm, ban đầu chỉ bổn tông, luật chép rằng “Nếu có lấy cho và giải cứu v.v… xúc chạm, tất cả không có tâm dục thì không phạm” kế dẫn bộ khác, ban đầu là tưởng sai. Chữ nếu trở xuống là nạn gấp. Tất cả không đắm trước nói ý khai ở trên. Thảy đều Đột-cát-la chế nghi trái. Thứ sáu, thứ tám, sự thành giới trọng (Phật ngự tại nước Xá-vệ, Trưởng giả cùng Ni Thâu-la-nan-đà buộc tâm, cho Trưởng giả nắm tay, Ni bạch Phật, nhân đó chế) Nếu Tỳ-kheo-ni tâm nhiễm ô, biết người nam tâm nhiễm ô, chịu cho nắm tay (một tay đến cổ tay) nắm áo (hai thân trên y) vào chỗ vắng (thứ ba) cùng đứng (thứ tư) cùngn nói (thứ năm) cùng đi (sáu, bốn món trước đều lấy lìa bạn và chỗ thấy nghe) thân dựa nhau (bảy, thân được tướng và chỗ) cùng hẹn hò (tám, đựơc cùng đến chỗ dâm) Tỳ-kheo-ni nầy phạm Ba-la-di không được ở chung. Duyên riêng thứ tư, giới nầy phải đầy đủ tám việc mới phạm, sám hối thì không thành phạm.

Trong giải thích tám việc, văn đầu tiên đối giới bổn trước rất dễ hiểu. Lựa chọn có ba: một là nam nghĩa là người đồng khác, một ;à thời tám năm là nói thời xa gần. Không thứ lớp là phạm chung trước sau.

Trong không phạm, đầu tiên là khai chỗ vắng. Chữ hạ trở xuống là lựa giới sau, tức giới tám mưới sáu trong đơn đề. Luật nhân nhóm Tỳ-kheo-ni sáu vị cùng người nam vào nhà tối cho nên chế: “Nếu Tỳkheo-ni cùng người nam đồng vào nhà tối phạm Ba-dật-đề”. Kia từ lỗi chê bai chứ không y cứ tâm nhiễm ô.

Bảy, là giới che giấu tội nặng cho người (Phật ngự tại nước Xávệ, con của Ni Thâu-la-nan-đà tên là Đề-xá-thâu-la. Nan-đà biết con phạm Ba-la-di, sợ bị tiếng xấu bèn im lặng không nói. Sau, Đề-xá thôi tu mới nói, Tỳ kheo bạch Phật, do đó chế, Đề âm trì) Nếu Tỳ-kheoni biết Tỳ-kheo-ni khác (quyết nói kia phạm) phạm Ba-la-di không tự phát lộ, không nói với mọi người (một, hai, hay ba người) không thưa đại chúng (bốn người hoặc hơn) vào lúc khác Tỳ-kheo-ni kia hoặc chết, hoặc trong chúng cử tội (bị Tăng tẫn cử) hoặc thôi tu, hoặc theo chúng ngoại đạo, sau mới nói rằng “Tôi trước biết có tội như vậy” (trong tám tội Ba-la-di phạm bất cứ giới nào) Tỳ-kheo-ni nầy phạm Ba-la-di không được ở chung.

Trong duyên phạm, che giấu tội nặng mới phạm, còn các tội khác phạm Thâu-lan-già, che giấu tội cho Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề, che giấu tội chúng sinh Đột-cát-la.

Trong phạm, khoa đầu trước dẫn văn chỉ bày. Trong sám tội tức quyển trung, thiên sám, nói mười món duyên đều không thành che giấu. Luật Thập Tụng nói bị cử là pháp ngăn. Cuồng loạn tức tâm phi. Luật Tăng-kỳ thi có nạn duyên khai không thành che giấu. Xả tâm tương ưng nghĩa là xả bỏ, tâm không nói. Chữ chuẩn trở xuống là kế do nghĩa mà nói. Đầu tiên bày hợp khai, vô ký nghĩa là ngũ mê, quên sót, v.v… Sau nói thành phạm cần không có tâm thiện.

Khoa kế, lựa người sở đối có bốn món khác nhau. Chẳng phải thanh tịnh, ban đầu nói có phạm mà không sám hối. Người trước biết mà không chịu là kế nói che giấu không nói. Thứ hai đều có lỗi vì kia đây đều thành che giấu. Trước phạm sám hối có chí thành làm dụ, là biết tên người. Ba là phân biệt như thật không vọng, đây là chung năng sở. Nhước bỉ trở xuống là nói một thuyết. Nhựơc bỉ trở xuống là nói chẳng che giấu. Luật Thập Tụng không được Tỳ-kheo. Bốn là lựa chúng khác. Tăng Ni ngôi vị khác nhau, không được đối thú, chỉ cho không biết thưa hỏi tướng pham.

Trong phần ba, cho đến bữa ăn sau biết, đầu hôm nói, đầu hôm biết, nửa đêm nói v.v… đều như giải thích tướng mà hiểu.

Trong không phạm có bốn: Ban đầu là vô tâm, ba món sau đều chẳng phải ý.

Tám là thuận theo Tỳ kheo bị cử. Giới Tỳ-kheo đại lược đồng trong Tăng cho nên ở đây không nêu ra. Tăng phạm ngay ba dật đề, Ni phải ba lần can ngăn không bỏ mới kết tội nặng Ba-la-di. Tám tội nặng ở trên, bốn món trứơc là căn bản, bốn món sau nhánh nhóc của nữ tình. Thiên trọng cho nên phải đặc biệt chế, tức phần hạn giới khác nhau.

Mười bảy giới thiên tăng tàn, môi giới, chê bai và can ngăn phần lớn là đồng, lược bày hai điều còn bao nhiêu không nêu ra. Giới thứ tư nói người. (Phật ngự tại nước Xá-vệ, ở lan-nhã có cư sĩ làm tinh xá cho Tỳ-kheo-ni, sau Tỳ-kheo-ni bỏ đi, con cư sĩ liền cày đất chỗ tinh xá, các ni đến quan kiện, khiến quan phạt người kia, do đây Phật chế) Nếu Tỳkheo-ni đến quan thưa kiện cư sĩ hoặc con cư sĩ, hoặc tôi tớ, hoặc người làm vườn (trên đều nói người) hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc một niệm, hoặc khoảng búng ngón tay, hoặc trong giây lát, Tỳ-kheo-ni nầy phạm Sơ pháp ưng xả Tăng-già-bà-thi-sa (mới làm liền kết tội khácvới giới ba lần can ngăn xong mới phạm).

Trong duyên, hai duyên đầu đều cuộc hạn người thế tục, kẻ đạo thì chẳng phạm nặng.

Trong tướng phạm, luật Tứ Phần ban đầu bày chỗ đến quan và đến người đoán sự, nghĩa là trưởng làng, trưởng ấp, kế lược nói tướng, luật Thiện Kiến đầu tiên nói xen nhau, phương tiện đạt đến kết quả thành phạm, phần chứng chỉ lấy lời kia không luận là được lý. Cư sĩ nói Ni thì không phạm rất dễ hiểu. Chữ nếu Ni trở xuống là thứ hai nói đoạt vật. Phạm tội là tuỳ thành trộm tổn. Nên thường là vật của thế tục. Luật Ngũ phần cho cầu viện, Thập Tụng đầu tiên chế quở mắng, kế chọn chỗ đến. Người khác nghĩa là chẳng phải quan và người xử đoán việc.

Thứ bảy, giới bốn việc đi một mình. (Phật ngự tại nước Xá-vệ, có vị Ni vén áo lội nước bị giặc chọc ghẹo, người đời chê bai cho nên Phật chế. Lại có vị ni có nhiều đệ tử bỏ chúng đi vào thôn. Ở trong thôn ngủ lại đêm, người đời chê bai là muốn trai. Lại lục quần Ni và Ni chúng đi ở chỗ hoang vắng ở Câu-tát-la mà thường lại đi sau, có người hỏi đáp là “muốn trai”. Phật quở trách rồi do đó chế giới. Bốn giới hợp chế hễ trái một thành phạm). Nếu Tỳ-kheo-ni một mình lội qua nước, vào xóm một mình ngủ lại (hễ hông chấm đất) riêng đi sau (lìa bạn, lìa chỗ thấy nghe) phạm Sơ pháp ưng xả Tăng-già-bà-thi-sa.

Trong một mình lội qua sông, ban đầu duyên lại có hai: Ban đầu định hướng phạm. Giới đi đường là vì Ni chế. Biên phương là chỗ có nghi ngờ, có sợ hãi mà ở nhân gian dạo đi, đều phạm tội ba-dật-đề. Kia nói hành tướng, chung trong ngoài giới có thể quyết nay phạm. Kế nói khai duyên: có câu đi qua, không lội nước, đi thuyền qua cũng như vậy, như kế đã nói.

Thứ hai, duyên đầu tiên bày tướng phạm, phương tiện xuống nước lên bờ đến quả, văn y cứ hai Ni để nói nặng nhẹ. Chứ luật trở xuống là kế dạy chánh nghĩa. Thứ ba, thứ tư rất dễ biết.

Trong riêng vào thôn, văn đầu luật Tứ Phần nói về giới hạn của thôn, chỗ hoang vắng. Chú giải bày tội Đột-cát-la, phường tức là thôn, nghĩa là nhà người trong thôn. Luật Tăng-kỳ nói giới hạn lìa bạn. Thứ ba không duyên cũng gọi là nạn mạng sống, nạn phạm hạnh.

Khoa kế, y cứ vốn thành phạm, phải y cứ cửa thôn xưa giải vượt giới, chính là y cứ trong thôn đi ngang thành tội tăng tàn, không chỉ thái quá lại cũng mê văn. Sau dẫn luật chứng minh y cứ của thôn, đủ biết giải thích sai, ra khỏi thôn cũng phạm, liền biết ra vào đều gọi là vượt giới.

Trong phần ngủ đêm một mình, duyên đầu tiên câu trước nói phần giới hạn phạm, câu kế chỉ bày chỗ phạm, bất luận tăng tục vì chung tất cả. Hai chỗ trở xuống là nói trì. Chữ nhược trở xuống là chỉ bày khai. Chữ cố trở xuống là chứng phạm. Luật Tăng-kỳ nói tướng kiểm pháp. luật Ngũ Phần chỉ bày tướng phạm.

Trong phần đi một mình, đồng ba duyên trên, ban đầu đến chỗ đi tức duyên thứ nhất, căn bản là lúc giở chân. Chữ hựu trở xuống là duyên thứ hai. Tứ Phần trở xuống là duyên thứ ba.

Không phạm có bốn tiết: đầu tiên trong phần đi qua một mình là nói cùng bạn thì chẳng phải duyên phạm. Đi thuyền v.v… là không dính nước. Bạn chết v.v… là chẳng phải bổn ý, luật Ngũ Phần nước cạn không gặp sự chọc ghẹo.

Kế trong phần vào xóm, chỉ như trước tức thứ ba là không duyên.

Thứ ba, trong phần ngủ một mình, đầu tiên y cứ giữ giới nói không phạm. Chữ nếu trở xuống là mình có nạn.

Trong phần đi một mình, bạn duyên, nạn mình đều đồng như trên, khai luật Tăng-kỳ, Ngũ Phần và y cứ duyên khai, có thể hiểu tình cờ gặp gỡ không hẹn nhau. Đơn Đề một trăm hai mươi đồng với tăng, như trước giải thích tường, khác là chỉ nêu ra một hiện hành thường phạm, còn bao nhiêu tìm trong Ni Sao tự sẽ rõ.

– Giới thứ 10: Tự tay xe sợi.

(Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm tỳ-kheo ni sáu vị tự tay xe sợi, cư sĩ chê cười “giống như vợ ta không khác”, Tỳ-kheo-ni bạch lên Phật, Phật do đó chế giới).

Nếu Tỳ-kheo-ni tự tay xe sợi phạm tội Ba-dật-đề. Phách nghĩa là chỉ ra, dẫn là lôi kéo, là cuốn lại, chức (dệt) thì rất dễ hiểu. Bốn việc hễ làm một việc đều phạm tội đọa.

Sợ cho là sám hối rồi được đắp, nên chế không cho, hễ đắp phạm Đột-cát-la.

Ni giới ngày nay lấy sự dệt vải thêu thùa làm sự nghiệp, bỏ thân vào đạo vốn mưu cầu việc gì, xuất gia như vậy chi bằng ở thế tục cho rồi. Tránh chết chìm lại nhảy vào lửa chính là người nầy.

Trong phần kết, trên dưới tức trước sau của giới bổn. Trong môn thứ bảy, ban đầu dạy nhiếp chúng hơn hai mươi giới là:

  1. – Độ phụ nữ có thai.
  2. – Độ phụ nữ con còn bú.
  3. – Độ người chưa đủ tuổi.
  4. – Không cho hai năm học giới.
  5. – Không cho sáu pháp.
  6. – Cho học pháp đủ.
  7. – Độ phụ nữ tằng giá nhỏ tuổi, chưa đủ mười hai năm cho thọ cụ túc giới.
  8. – Phụ nữ trẻ tuổi học giới xong, không bạch chúng cho thọ cụ tức giới (trên đều chế cho Hòa-thượng).
  9. – Biết mà cứ độ (đây là chế cho người làm pháp sư).
  10. – Không dạy học giới.
  11. – Không hai năm theo Hòa-thượng (ở đây là chế cho đệ tử).
  12. – Tăng không cho mà trao giới cụ túc.
  13. – Chùa đủ mười hai tuổi hạ mà làm Hòa-thượng.
  14. – Đủ mười hai tuổi hạ, tăng không cho mà trao cho người giới cụ túc.
  15. –Tăng không cho, bèn phỉ báng tăng có ái, v.v…
  16. – Cha, mẹ chồng, không cho phép mà truyền giới cụ túc.
  17. – Biết là người nữ phi pháp mà độ xuất gia.
  18. – Khiến bỏ học pháp cho thọ giới cụ túc.
  19. – Theo Thức-xoa xin y nói sẽ cho thọ giới cụ túc.
  20. – Không đủ một năm trao giới cụ túc.
  21. – Thọ bổn pháp rồi cách đêm mới đến trong tăng.
  22. – Không bịnh mà không cầu Giáo thọ.(Tất cả hai mươi hai giới trên đều phạm đơn đề) Phàm nhiếp đệ tử không ngoài hai điều:

1 – Sự nhiếp, tức y thực. 2 – Nghĩa nhiếp, tức dạy pháp y thực có thể thiếu, pháp thì không thể thiếu. Ngũ Phần, nói sáu năm tự nhiếp Hòa-thượng thân giáo. Tỳ-kheo năm hạ chia khác nhau. Nếu dạy người nhiếp là giao cho người khác.

Tăng-kỳ nói, kế nói thọ giới cụ túc phải cầu hơn phân nửa đồng ý. Y cứ bổn Tăng Ni đều phải mười vị, y cứ nơi biên địa mới khai cho, chỉ có năm người, quá bán là tội đến mười người.

Trong chú giải do phạm tăng tàn trở xuống đều đủ môn sự sinh thiện, cho nên chỉ chọn phạm trọng, sợ kia cầu giúp pháp sự khó thành, nhưng chỉ chọn người bỉnh pháp, còn người khác chỉ không phạm tội trọng là được, không cần đầy đủ tốt đẹp, nên nói là khả khả. Đây y cứ không người, có thì phải chọn. Chữ Tứ Phần trở xuống là thứ ba chế nương thầy. Bổn luật không hạn cuộc số năm cho nên dẫn luật Ngũ Phần quyết đó còn bao nhiêu như sau lược chỉ.

Trong yếu hạnh, khoa đầu luật Thiện Kiến nói về bổn duyên, Như lai thành đạo mười bốn năm, Di mẫu cầu xuất gia, Phật không cho, vì để chánh pháp được tồn tại ngàn năm, nếu độ người nữ thì giảm một nửa, vì thế không cho. A-nan ba lần xin, Phật dạy truyền tám pháp kính trong cho Di mẫu, nếu thực hành được thì cho người nữ xuất gia. Kia chép: “Đầu đội thọ trì” liền đắc giới. Chữ kim trở xuống là khi chê bai tức răn dạy khuyên gắng gổ.

Khoa kế, trong phần chánh nêu bày, đầu tiên chế lễ kính. Thứ hai, thứ ba cấm phạm thượng, còn lại là thứ năm nói phải nương dạy. Theo luật Ngũ Phần, Đại Ái Đạo nghe nói Bát Kính lại nhờ A-nan bạch lại với Thế tôn xin một điều là cho Tỳ-kheo-ni tùy lớn nhỏ mà lễ Tỳ-kheo mới thọ giới. Phật nói “Nếu cho nương theo thứ lớp tuổi hạ thì không có lý” do đó nói người nữ có năm điều chướng, v.v… Tôn trọng, v.v… là nói nghĩa kính. Không nên trái vì trái thì có phạm, trình bày chế giáo. Một, hai, bốn, sáu, bảy, tám đều tội đọa. Ba, năm thì tội Đột-cát-la.

Khoa kế các văn đều chỉ bày dị tướng. Luật Ngũ Phần nói tự tứ là ba vị Ni, một vị chánh, hai vị bạn. Trung A-hàm tám pháp trước sau đều đồng, chỉ có điều thứ năm nói là: “Không được hỏi Tỳ-kheo nghĩa kinh, luật, luận. Nếu cho thì được hỏi”. Tôn Sư là tên khác của kính. Luật Tăng-kỳ ban đầu dạy lễ kính. Không được trở xuống là kế cấm chê bai hủy phá. Luật Thập Tụng, Ngũ Phần chứng minh sự trái kính ở trên.

Trong tạp hạnh, văn đầu tiên Tăng-kỳ nói vì là bà con nên cho nói. Nếu cho quở trách thì trái kính pháp. Hai luật Tứ Phần và Ngũ Phần dạy Ni vào chùa, tức nhiếp kính ban đầu. Như trên nói tức là trong nói giới ở trước. Kế nói Thức-xoa.

Trong phần nêu văn chú giải, câu đầu dịch danh, câu kế chỉ bày thể đồng ngôi ở dưới. Chữ tiên trở xuống là nói thêm lý do thọ.

Trong giải thích, khoa đầu Tứ Phần chỉ bày chung hai ngôi, kế dẫn luận, luật nói riêng khai nhỏ, luật Thập Tụng nói ý chế pháp. Tâm cầu pháp, luyện thân nhờ thời gian, biết thân thanh tịnh thì sẽ dứt sự chê bai nghi kỵ. Tâm vững chắc mới có khả năng nhận đạo. Thích hợp căn cơ để lập giáo là ý ở đây.

Trong phần hai, y theo yết-ma trước đủ oai nghi dạy xin, kế lìa Tăng tác pháp, ba gọi vào nói tướng, rộng như văn kia không cần dẫn lại.

Trong phần ba, khoa đầu ba pháp, sau hai pháp, tức vốn là chỗ làm, pháp thứ hai là sáu pháp, nay chỗ trao là y cứ thể tướng kia. Sadi đủ phát, chỉ là lại dặn dò ý giữ hai lần luyện. Chữ văn trở xuống là chỉ bày tướng. Vì trong Luật trước là Tứ Phần tùy nói bốn pháp, như nói rằng: “Không được phạm hạnh bất tịnh, làm pháp dâm dục, nếu Thức-xoa-ma-na-ni hành pháp dâm dục, thì chẳng phải là Thức-xoama-na, chẳng phải là con gái giòng họ Thích (đây là căn bản, sau tức nay trao). Nếu cùng người nam có tâm nhiễm ô thân xúc chạm nhau là thiếu giới, nên thọ giới lại. Trong đây trọn đời không được phạm, có giữ được không?”. Còn ba pháp kia đều như vậy. Ăn phi thời và uống rượu, đương thể là pháp không có bổn riêng.

Kế, văn đầu tiên bày ba, phạm khác nhau. Chữ nếu đủ trở xuống là riêng điểm học pháp.

Trong phần ba, văn đầu tiên trước dẫn văn tất cả chế học nói là đồng. Trừ trao đồ ăn là chỉ bày sự khác kia, hai câu nầy chung là một việc, nghĩa là tự lấy và trao cho người, không đồng với đại giới theo người nhận rồi lần lựa trao. Chữ nếu trở xuống là giải thích nghi, các sư xưa đem làm hai việc, nghĩa là khai tự lấy như Sớ dẫn. Ban đầu nói tự ăn chế nhận. Chữ vô trở xuống là y cứ người có không để nói mở đóng.

Khoa kế có mười tám pháp, đầu tiên là chỗ ngồi, ba món kế là đối ni đồng khác. Hai, là được tịnh, bất tịnh là ngủ riêng, v.v… dưới không nhơ trên, Ni tịnh thì trên được thông dưới, vì kia bất tịnh. Ba, là đồng ngủ. Bốn, là trao đồ ăn. Năm, sáu đều chế đại Ni nói chỗ nghe kia. Bảy và tám là chúng pháp, bao nhiêu đều tự làm. Sau từ chín đến mười hai là phối riêng với bốn giới trọng sau. Phạm là cho hai năm học lại.

Hỏi: Sao không nói bốn pháp ba-la-di trước?

Đáp: Ở căn bản chế đây nói học hành hai pháp.

Hỏi: Phạm bốn Ba-la-di sau có chướng giới hay chăng?

Đáp: Phạm thì học lại mà không diệt tẫn, cho nên biết chẳng chướng.

Nghiệp Sớ chép: Bốn phép trước là hạn giới, bốn phép sau là cành nhánh. Bao nhiêu như kia là mười bốn không ăn phi thời, mười lăm không ăn lắt nhắt, mười sáu không cầm tiền, mười bảy không uống rượu, mười tám không đeo tràng hoa.

Trong phần ba, Tứ Phần chế sáu pháp. Duyên hành mà viết chữ hình là lầm. Luật Thập Tụng chế hai năm, duyên khởi lỗi nghĩa là sinh con vời lấy sự chê bai.

Thứ ba trong Sa-di-ni ban đầu chỉ cho pháp đồng. Chữ nếu trở xuống là nói về hạnh riêng. Nói chung ba chúng không riêng Sa-di, vì ba chúng ni không được đi riêng, phải chọn bạn. Ban đầu chế chọn bạn, chữ nhược trở xuống là kế cho đi kèm. Chữ dư trở xuống là thứ ba chế

chẳng phải loại, tức hai chúng tăng ni và nam nữ thế tục, v.v… Thiên Giải Thích-các Bộ.

Đề nêu các bộ là chỉ chung ngoại tông. Nếu y cứ trong thiên cũng dẫn luật Tứ Phần, chính là đối hiển vốn khác nhau. Biệt hạnh hai giải thích cũng đồng giải thích ở trước.

Khoa đầu trong phần bày ý, xưa nói rằng, là lời tương truyền của bậc tiên hiền. Nghèo nghĩa là thấy nghe cạn ít, lời thật có chấp cho nên nói rằng: “thành nghiệm”, dẫn đây muốn nói người học không thể chuyên giữ một tông, quyết phải bao gồm các bộ ngoài.

Khoa kế, sự nghĩa là hành sự, như sáu tướng tự nhiên, tướng đủ số chúng, v.v… các loại. Pháp nghĩa là yết-ma, như trì y, thêm thuốc, kết chung tịnh địa, diệt tẫn, bạch tứ, v.v… kia đây dùng chung cho nên nói là mỗi mỗi.

Trong phần ba, bỏ gấp theo hưỡn. Như lấy trì y của luật Tăng-kỳ, dùng không y bát đắc giới của luận Tát-bà-đa v.v… xả có cầu không như thọ nhật dùng cầu cho của luật Tăng-kỳ, lấy mười bốn đêm của Thập Tụng, v.v… thì là bỏ có của luật Tứ Phần và vô của bổn bộ. Tổn cũng dạy bỏ, như bỏ phạm trọng đều là Ba-la-di của bổn tông mà dùng tái phạm Đột-cát-la của Thập Tụng. Lại như bỏ năm tiền phán tội trộm của luật Tứ Phần mà dùng luật Thập Tụng, luật Bát Thập. Lại như bỏ tâm nghị là tội nhẹ của Tứ Phần mà lấy nghi phạm tội nặng của Ngũ Phần. Kia đây xem nhau thì có phải quấy. Ba câu trên nêu riêng ba lỗi không ngoài gấp hưỡn, có không, nặng nhẹ. Mặc kẻ ngu ôm lấy bỏ là gồm ba chung món trên.

Chữ thử trở xuống là bày lỗi thất học. Mặc ý động hãm hình danh, nên nói rằng tự để hại, v.v… Mắc tội có thể hổ thẹn cho nên nói là mang hổ thẹn. Chữ đương trở xuống là chỉ bày pháp. Chỉ tựa Sao là môn thứ ba ý y cứ giáo xếp chỗ.

Trong phần bốn, toàn chùa dự pháp, tức mới vào đạo. Tùy vào bất cứ một bộ não tức là mới thọ. Thuận văn, v.v… là khiến nương theo tông, cho nên nói thiền đây là không chỉ đối hiển khác nhau của bổn tông mà còn giúp tông kia nạp thể đó.

Trong phần năm, hai câu trên rộng chỉ chung các luật lại gồm các luận, điều lưu dài dòng thì rất dễ biết, còn nạn nói ngược kia không thể cùng tột. Hai câu dưới nói cốt yếu, tức bảy môn sau.

Trong phần nêu bày, thứ tư nói thọ nhật, tịnh địa. Thọ nhật thì Tứ Phần ba phẩm là hẹp, Thập Tụng ba mươi chín đêm, Tăng-kỳ việc xong là rộng. Hoặc có thể hai tông chỉ gồm hai pháp là hẹp, bổn tông ba ngôi là rộng. Tịnh địa thì Tứ Phần bỏ giáo là rộng, tông khác chế dứt là hẹp.

Trong phần giải thích, văn đầu tiên, luật Tăng-kỳ trước nói thọ giới. Hòa-thượng ở ngoài là do kia yết-ma chỗ nhắc lại đồng với chỗ làm. Kế nói về sám xả, đầu tiên nêu bày. Chữ dĩ trở xuống là giải thích lý do. Tự không đủ là vì tăng suy lường. Trả tiền tài được đủ là có chỗ làm riêng. Đồng tự tứ, luật Tứ Phần ở biên địa thọ giới hai lần bạch, tự tứ một lần bạch, là pháp năm người. Luật Tăng-kỳ lại thêm các Ni-tátkỳ, chấp luận dùng người chỉ bạch gọi là pháp tự tứ, là vốn năm người, pháp đối hòa xả đọa là tướng từ năm người, do giới sư sám chủ là tăng đã lượng, tức chỗ vì người không phải Tăng dùng cho nên bao nhiêu như Nghiệp Sớ (xưa giải thích đồng tự tứ, loại nầy sai người năm đức thời không nhập vào số Tăng là sai).

Tứ Phần trở xuống là bác bỏ xưa, đầu tiên nêu ra chấp kia. Bốn tăng không nói, nghĩa là không nói trừ. Trong luật bốn người chỉ trừ ba pháp: thọ giới, tự tứ, xuất tội. Chữ nếu trở xuống là thông hội thông giáo tức luật Tăng-kỳ. Trong thọ duyên khoa đầu năm tiết, bốn tiết trước nói không thầy chẳng phải thầy, một tiết nói người thọ phi pháp, hứa chung là đắc giới. Đây đều y cứ một thời kỳ tiếp độ dạy dỗ, cũng chẳng phải thường dạy. Tứ Phần đều không khai là do ban đầu thọ một pháp, muôn hạnh căn bản, phải nhờ nhiều duyên mới thành tựu được, mỗi phần y cứ một đường cho nên chia làm hai chấp.

Khoa kế, luật Thập Tụng nam mặc nữ phục tức trong thọ duyên thiếu tướng xuất gia, nữ tưởng trái trên tức không được. Luật Ngũ Phần phân biệt huỳnh môn mạnh khỏe, có người được, có người không được. Ngũ Bách Vấn đầu tiên nói thầy phi pháp, thì y cứ đệ tử biết hay không biết. Sau nói đệ tử trái nhau thì y cứ thầy hỏi hay không hỏi. Già Luận tặc trụ vốn phạm giới tức biên tội, hai loại nầy thuộc về người có mười ba nạn. Vốn không hòa tức là người tại gia, đều y cứ đệ tử biết hay không biết để nói được chăng.

Trong phần ba, luật Thập Tụng trước nói dữ dục. Bốn chỗ tác pháp xen nhau lấy dục. Nếu vốn là Tứ Phần thì là phá Tăng. Chữ nếu trở xuống là kế nói đủ số, nghĩa là một Tỳ-kheo có nhiều tăng dùng, như rừng cây đồng nêu tướng để chỉ bày, Già Luận đồng như trên. Tám người là bốn người thọ giới, ba người nói giới, một người thân gồm hai chỗ. Mười hai người nghĩa là hai chỗ thọ giới đều có bốn người một chỗ nói giới có ba người và một người dùng đủ ba chỗ. Mười lăm người nghĩa là hai chỗ thọ giới mỗi chỗ có bốn người, hai chỗ nói giới mỗi chỗ có ba người, một người có bốn chỗ. Mười tám người: Hai chỗ thọ giới mỗi chỗ bốn người, ba chỗ nói giới mỗi chỗ ba người, dùng một người đủ năm chỗ. Vả lại, nêu năm chỗ càng nhiều nên được.

Thứ tư, ban đầu dẫn văn phạm tội nặng tức biên tội. Ni ở biên giới và nạn y cứ lỗi nặng nhẹ cho nên được chăng cả hai khác nhau.

Môn thứ hai, trong yết-ma, văn đầu tiên rộng, lược, khai, hợp đủ như quyển thượng, Nghiệp Sớ thêm tiểu chúng sám hối Thâu-lan-già, vì trung thượng có chín phẩm xen nhau thêm bớt đều xếp vào phi pháp. luật Tăng-kỳ, Thập Tụng, chế giảm chấp nhận tăng. Đơn bạch chung cho cả hai, bạch nhị chỉ một, tột đến bạch tứ không có chỗ chung. Luật Tăng-kỳ thêm chặng giữa có bốn món, cầu xin như pháp thọ nhật theo tăng xin. Trong Liễu luận hỏi ở chỗ hai người hỏi, xướng bạch một phần yết-ma, một phần chung làm một pháp, xướng sự hỏi nghe đều đầy đủ như sau sẽ dẫn. Thêm bạch yết-ma như nay đánh kiền-chùy bạch chúng các loại, thẳng vậy thưa biết cho nên bất luận cho hay không? Và ba pháp khác thì có năm.

Lại nói trở xuống là gồm phân biệt. Nghiệp Sớ đã dẫn, lại gồm đơn bạch thì có ba pháp chung ba người làm không đồng với nay, cho nên Sớ nói chung rằng y theo đây. Đơn bạch đã có hỏi cho, thế nào chẳng phải Tăng mà được bỉnh ngự. Đại đức tăng xin lắng nghe, là nói thuộc chỗ nào? Nay chung kia chỉ ba người hòa bạch, ban đầu thì sửa lời (sửa Đại đức tăng thành các Đại đức) còn bao nhiêu y cứ văn mà dùng, Luận chung ba người há không phải như vậy ư? (Văn đó đơn bạch chặng giữa có trình bày).

Trong chỗ che chở, luật Tứ Phần pháp không Tăng thêm, lại y cứ nêu luận sai người thọ sám, lệ cũng không cho phép. Cử là trái nghịch xúc não sợ thành phá tăng riêng chúng. Can ngăn là thuận ý cho nên chung nhiều người. Luật Thập Tụng nói thọ giới cụ túc, nghĩa nên đồng với ở đây. Trong dữ dục, luật Tăng-kỳ, Ngũ Phần không chấp nhận gởi nhiều dục, luật Tứ Phần y cứ duyên không thể ép quá. Luật Thập Tụng nhiều chỗ lần lựa dữ dục rất phù hợp với bổn tông. Tăng ngồi tức người bỉnh pháp chuyển mất dục, luật Tứ Phần, luận Tỳ-ni Mẫu khai mở cho.

Môn thứ ba, trong bổn tông do thể chẳng phải sắc cho nên được nặng thêm. Giới từ biệt phát cho nên có phạm nặng, văn chép rằng: “Tức văn kết bốn Ba-la-di của Giới bổn”. Giới Ni xúc chạm tức văn giới bổn, trong bộ kia do thể là sắc, phẩm thượng, trung, hạ một phen phát hằng định, không cho lại tăng cho nên không thọ lại, đã thọ không còn phạm cũng không cho thọ lại, tuy từ biệt phát mà căn bản đã hoại, không còn được tăng dùng. Ba điều nêu khác, sau dẫn bày các món đồng, không trọng cho nên sau phạm Đột-cát-la, đồng gọi là có trọng cho nên lại có ba lớp. Học hối, phạm tăng tàn có thể chứng minh không phải tội nặng, chỉ cuộc hạn bốn pháp Ba-la-di.

Môn thứ tư, luật Tứ Phần có ba phẩm: Bảy ngày, nửa tháng, một tháng lần tăng như trên chỉ cho thiên an cư. Luật Tăng-kỳ trước chỉ bảy ngày, kế rõ việc xong. Ban đầu bày tên, chữ tất trở xuống là phân biệt duyên cho nên sau dẫn pháp. Ở Thiên-trúc mùa hạ phần nhiều là mưa cho nên nói rằng “Vũ an cư”, tức gọi đầu hạ là vũ thời. Luật Thập Tụng bảy ngày đồng với luật Tứ Phần, y cứ bảy là đồng, gồm đêm thì khác luật Tứ Phần ngày hết thì pháp tạ, tông kia đêm hết mới mất, mất pháp tuy có dài ngắn, hộ hạ đồng ở minh tướng. Ba mươi chín đêm các pháp là đồng, số ngày thì khác. Duyên nhắc lại nói rằng việc nầy tức là chỉ chỗ trụ xứ gốc, cũng đồng luật Tứ Phần lại đến trong đây.

Trong Tịnh địa, luật Thập Tụng ban đầu nói khai kết. Trong nội, nội là vào. Kế nói dời ra. Lê xương là các quý tộc cư sĩ, hoặc là ngoại đạo. Xương xa nói chuyển đan là đồ đựng thức ăn. Sau nói cấm đoán. Luật Tăng-kỳ cũng vậy, luật Tứ Phần và Ngũ Phần thì tùy cơ mà khai hay kết. Chữ nhân trở xuống là bác bỏ phi, xưa cho là đều chế dứt tất cả, đều làm thanh tịnh vật khác, như Sớ phá đó.

Thứ năm, Tứ Phần chỉ trên tức hai tâm nghi, tưởng trong năm câu. Có thể học không khai, có thể học đều chia khinh giáng. Luật Ngũ Phần không nghi, dẫn rằng nghi nữ, hai thô xúc, chạm đồng đối sai phạm tăng tàn. Giết trùng hoại cỏ đối sau phạm Ba-dật-đề. Sau dẫn luật Tứ Phần so sánh nhau. Phá Tăng, dâm, uống rượu đều không khai nghi và tưởng. Chữ đối xuống đến chữ nghi là thọ giới biết thầy phạm giới, tuy thọ không đắc Chữ đối xuống đến chữ tri (hoặc y cứ thầy nghi người thọ tuổi không đủ). Luật Tăng-kỳ phương tiện có không mỗi thứ dẫn văn, y cứ vào văn sẽ hiểu. Trong phần kết không nêu vụn vặt, đến lời kia vài cớ năm ba khác nhau.

Trong phần sáu, bổn tông, bộ khác xả sám khác nhau, nhưng nêu khác kia mà chỉ đồng kia. Tông nầy hai báu xả cho người thế tục, lụa tắm lần hư, xin bát vào bếp, chứa thuốc ba dụng, các y ngọa cụ đều trả lại chủ cũ, luật Thập Tụng hằng xả nghĩa là đem bỏ, phần nhiều giao cho tịnh nhân khiến xả, do phạm lỗi tiền tài không cho tự xả.

Trong văn dường như nhiều tịnh nhân nói hai chữ, luật Ngũ Phần ban đầu vào Tăng bỏ là tức thuộc vật của tăng, không bỏ do tăng, năm thứ có đủ: một, là lụa tắm. Hai, là lông đen. Ba, là lông trắng. Bốn, là dưới sáu năm. Năm, là không có tọa cụ cụ lụa điệp. Ba là vào tục tăng, trước xả cho tăng, tăng cho tục.

Bao nhiêu đồng là thứ tư xin bát vào bếp. Năm là các y trả lại chủ đồng với Tứ Phần. Luật Tăng-kỳ bảo tạng gọi là vô tận tài. Dứt lợi làm y, không được phần là sợ kia được phần, nói là chiết phục, v.v….

Trong phần hai, năm ngọa cụ tức năm thứ đủ ở trên. Đầu tiên gồm bày kia, sau lựa riêng. Thuần đen là lông đen, Kiêu-sa-da tức lụa tằm (có khi đem làm một phi). Hưởng là cửa nẻo, sáu năm không đủ. Được đắp là hai vật nhỏ mịn trên chỉ được dùng món thô nên không cho đắp, không dính thân vì sợ hoại vật của tăng. Lông trắng tốt là như trước đồng lông đen, v.v… Bao nhiêu đồng ấy là các y, xin bát, chứa thuốc v.v…, ba món đồng với bổn tông. Luật Thiện Kiến vàng bạc là hai báu. Năm pháp là không ái, nhuế, bố, si, biết đáng ném hay không đáng ném.

Luận Minh Liễu có bảy đoạn: Đoạn đầu bảy giới, chuyển y tức hai lìa. Y đợi một tháng tức nguyệt vọng. Chữ thọ trở xuống là đoạn kế một giới, bổn ni không ấy hoặc chết, bỏ đạo, đi xa, v.v… Chữ sử trở xuống là đoạn ba hai giới. Chữ tùng trở xuống là đoạn thứ tư ba giới, một hai cư sĩ tức khuyên thêm hai giới. Chữ quá trở xuống là đoạn thứ năm chín giới. Quá túc tức giới quá biết đủ. Ba, là ngược tức giới chớ nên kéo y, tất cả tọa cụ gồm chung năm đồ trải. Khiến thợ dệt, lại khuyên dật chung. Đoạt y là thứ sáu. Bảy ngày là thứ bảy. Hai dụng tức cho tăng tục trở về trứơc hai mươi bốn giới. Mua bán hai báu, xin bát, gánh lông dê, nhuộm lông dê, đều như tùy tướng.

Đa Luận nói mua bán, đầu tiên nói nhập Tăng. Chữ nhược trở xuống là kế nói không nhập Phật có hai ý, trước là dứt phỉ báng. Cùđàm, Hán dịch là “Địa tối thắng” nghĩa là bậc Tối thắng trong loài người, đây tức họ nhân địa của Như lai mà người vẫn gọi. Khi xưa Phật ở kiếp Sơ làm vị vua có vị thầy tu thiền là tiên Cù đàm, lúc tu đạo nhân lấy tên ấy làm họ.

Chữ hựu trở xuống là kế bày phước cao quý, bất luận đồng là nói biển tăng sâu rộng không đâu chẳng nhiếp. Không thọ pháp tức là không giới.

Trong phần bảy, tùy tướng sự nhiều lại nêu ra một điều đặc biệt khác đó. Ban đầu nói hành sám trái pháp khai hành. Chữ cánh trở xuống là kế khai không sám hối, mà liền được thanh tịnh. Ở đây có sáu hạng người: một và hai là sợ hoại lòng tin của chúng, vì là hộ pháp. Ba và bốn là thân tâm yếu hèn, vì dắt dẫn. Năm và sáu là hành pháp thiếu duyên, vì nạn mạng sống.

Tâm niệm sám hối liền lại thanh tịnh, sau không cần sám hối, nếu theo Tứ Phần thì tất cả không thành. Chữ luật trở xuống là dẫn chú bày dạy dễ ngăn ngừa nương lạm luống dối ở sau.

Thứ ba là so sánh, văn chia làm ba: Trước nói năm tháng, v.v… là nhớ thời gian. Lại nữa, đóng cửa là cỏ gai lan-nhã ở Chung Nam, đây là nhớ chỗ. Chữ đãn trở xuống là bày gốc thuật tác. Tổ Sư giáng sinh vào đời Tùy, hoằng hóa ở đời Đường, Cao Tổ Thần Nghiêu Hoàng Đế nhận cung thiền vị nhà Tùy nên đổi hiệu là Đường Quốc, đổi niên hiệu là Vũ Đức năm thứ chín vào tháng sáu là lúc tuyệt bút. Vậy trước Thái Sử, Truyền Dịch Đảng Trợ Đạo Tông đã vu báng họ Thích, tâu xin sa thải, Cao Tổ nương vào đó ở đây ôm ấp đạo, bậc thạc đức lẩn trốn ở hang núi, chỗ hoang vắng, Tổ Sư ẩn trong cỏ gai lan-nhã ở Chung Nam, ban đầu soạn bộ Sao nầy đến chín năm, Thái Tôn lại hưng khởi giáo pháp của ta tìm kiếm người có đức, Tổ Sư là con của Phụ Tướng, đạo đức danh tiếng đều đáng để chọn lựa, cho nên nói rằng “Nhĩ thời, v.v…” người đời khen đây là tiếng khen trong thế tục, không hề có thiếu tổn.

Nói đóng cửa là nói tránh nạn. Nương sở học là bày có chỗ nương. Chữ đãn trở xuống hai câu là thuật bổn chí. Thẳng bút viết là không diễn nghĩa chương. San trừ dị luận, lìa các vụn vặt. Chữ bất trở xuống hai câu là bày hiềm chê tổn hại. Thân rồng có hoa vân lằn vẽ nghĩa là lời loài rồng thô rít, văn khập khiểng quê mùa thô xấu. Chữ tưởng trở xuống hai câu là dặn dò xét nét, có biết nghĩa là trí cao. Thông sĩ nghĩa là thấy xa, văn thường nhớ chữ nghi là truyền lầm.

Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký phần bốn của quyển hạ.

Trọn bộ