KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm

 

HỘI THỨ HAI

IX. PHẨM HÀNH TƯỚNG

(Từ giữa quyển 409 đến cuối quyển 410)

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hành sắc là hành theo tướng đó, nếu hành thọ, tưởng, hành, thức tức là hành theo tướng đó. Nếu hành thường, vô thường của sắc là hành theo tướng đó, nếu hành thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức là hành theo tướng đó. Nếu hành lạc, khổ của sắc là hành theo tướng đó, nếu hành lạc, khổ của thọ, tưởng, hành, thức là hành theo tướng đó. Nếu hành ngã, vô ngã của sắc là hành theo tướng đó, nếu hành ngã, vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức là hành theo tướng đó. Nếu hành tịnh, bất tịnh của sắc là hành theo tướng đó, nếu hành tịnh, bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức là hành theo tướng đó. Nếu hành viễn ly, bất viễn ly của sắc là hành theo tướng đó, nếu hành viễn ly, bất viễn ly của thọ, tưởng, hành, thức là hành theo tướng đó. Nếu hành tịch tịnh, bất tịch tịnh của sắc tức là hành theo tướng đó, nếu hành tịch tịnh, bất tịch tịnh của thọ, tưởng, hành, thức là hành theo tướng đó. Nếu hành bốn niệm trụ là hành theo tướng đó, cho đến nếu hành mười tám pháp Phật bất cộng là hành theo tướng đó. Nếu suy nghĩ như vầy: Ta hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa vì có sở đắc nên là hành theo tướng đó. Hoặc suy nghĩ: Ta là Bồ-tát, vì có sở đắc nên là hành theo tướng đó. Hoặc suy nghĩ: Có khả năng tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như vậy, là Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì có sở đắc nên là hành theo tướng đó.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào phân biệt các pháp như vậy, tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có phương tiện thiện xảo, nên chẳng phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá-lợi Tử:

– Nếu Đại Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với sắc trụ tưởng thắng giải, thì đối với sắc phát sanh hành động; hoặc đối với thọ, tưởng, hành, thức trụ tưởng thắng giải, thì đối với thọ, tưởng, hành, thức phát sanh hành động. Do phát sanh hành động, nên không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, sầu, than, ưu, não và khổ đời sau. Nếu Đại Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với nhãn xứ cho đến ý xứ trụ tưởng thắng giải, thì đối với nhãn xứ cho đến ý xứ phát sanh hành động. Hoặc đối với sắc xứ cho đến pháp xứ trụ tưởng thắng giải, thì đối với sắc xứ cho đến pháp xứ phát sanh hành động. Do phát sanh hành động, nên không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, sầu, than, ưu, não và khổ đời sau. Nếu Đại Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra trụ tưởng thắng giải, thì đối với nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra phát sanh hành động, thậm chí hoặc đối với ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra trụ tưởng thắng giải, thì đối với ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra phát sanh hành động. Do phát sanh hành động, nên không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, sầu, than, ưu, não và khổ đời sau. Nếu Đại Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo trụ tưởng thắng giải, thì đối với bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo phát sanh hành động, cho đến đối với mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng trụ tưởng thắng giải, thì đối với mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng phát sanh hành động. Do phát sanh hành động, nên không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, sầu, than, ưu, não và khổ đời sau.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo thì địa vị Thanh văn, Độc giác còn không thể chứng được, huống là chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát làm như vậy, tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì nên biết đó là người không có phương tiện thiện xảo. Muốn thành tựu các việc mà không có phương tiện thiện xảo thì việc làm đều không thể thành tựu.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

– Làm sao biết được các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa có phương tiện thiện xảo?

Thiện Hiện đáp:

– Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà có phương tiện thiện xảo, thì không hành sắc, không hành theo tướng sắc; không hành thọ, tưởng, hành, thức, không hành theo tướng của thọ, tưởng, hành, thức. Không hành thường, vô thường của sắc, không hành theo tướng thường, vô thường của sắc; không hành thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức, không hành theo tướng thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức. Không hành lạc, khổ của sắc, không hành theo tướng lạc, khổ của sắc; không hành lạc, khổ của thọ, tưởng, hành, thức, không hành theo tướng lạc, khổ của thọ, tưởng, hành, thức. Không hành ngã, vô ngã của sắc, không hành theo tướng ngã, vô ngã của sắc; không hành ngã, vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức; không hành theo tướng ngã, vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức. Không hành tịnh, bất tịnh của sắc, không hành theo tướng tịnh, bất tịnh của sắc; không hành tịnh, bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức; không hành theo tướng tịnh, bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức. Không hành không, bất không của sắc, không hành theo tướng không, bất không của sắc; không hành không, bất không của thọ, tưởng, hành, thức; không hành theo tướng không, bất không của thọ, tưởng, hành, thức. Không hành hữu tướng, vô tướng của sắc, không hành theo tướng hữu tướng, vô tướng của sắc; không hành hữu tướng, vô tướng của thọ, tưởng, hành, thức; không hành theo tướng hữu tướng, vô tướng của thọ, tưởng, hành, thức. Không hành hữu nguyện, vô nguyện của sắc, không hành theo tướng hữu nguyện, vô nguyện của sắc; không hành hữu nguyện, vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức; không hành theo tướng hữu nguyện, vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức. Không hành tịch tịnh, bất tịch tịnh của sắc, không hành theo tướng tịch tịnh, bất tịch tịnh của sắc; không hành tịch tịnh, bất tịch tịnh của thọ, tưởng, hành, thức; không hành theo tướng tịch tịnh, bất tịch tịnh của thọ, tưởng, hành, thức. Không hành viễn ly, bất viễn ly của sắc, không hành theo tướng viễn ly, bất viễn ly của sắc; không hành viễn ly, bất viễn ly của thọ, tưởng, hành, thức; không hành theo tướng viễn ly, bất viễn ly của thọ, tưởng, hành, thức. Không hành bốn niệm trụ, không hành theo tướng bốn niệm trụ, cho đến không hành mười tám pháp Phật bất cộng; không hành theo tướng mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá-lợi Tử! Nên biết như vậy Đại Bồ-tát có phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì sắc này chẳng phải là không của sắc, không của sắc này chẳng phải là sắc. Sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Cho đến mười tám pháp Phật bất cộng này chẳng phải là không của mười tám pháp Phật bất cộng, không của mười tám pháp Phật bất cộng này chẳng phải là mười tám pháp Phật bất cộng. Mười tám pháp Phật bất cộng chẳng lìa không, không chẳng lìa mười tám pháp Phật bất cộng. Mười tám pháp Phật bất cộng tức là không, không tức là mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa có phương tiện thiện xảo, nên có thể chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa không chấp lấy hành, không chấp lấy không hành, không chấp lấy cũng hành, cũng không hành, không chấp lấy chẳng phải hành, chẳng phải không hành, đối với không chấp lấy cũng không chấp.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

– Do đâu mà Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều không chấp?

Thiện Hiện đáp:

– Do tự tánh Bát-nhã Ba-la-mật-đa bất khả đắc. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa lấy vô tánh làm tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc chấp hành, hoặc chấp không hành, hoặc chấp cũng hành, cũng không hành, hoặc chấp chẳng hành chẳng không hành, hoặc chấp không chấp. Như vậy, tất cả chẳng phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tất cả pháp đều dùng vô tánh làm tự tánh của nó, đều không có sự nắm giữ, không có sự chấp trước. Đó là Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không có sự chấp trước Tam-ma-địa. Tam-ma-địa này vi diệu, thù thắng, rộng lớn vô lượng, có thể tập hợp vô biên vô ngại tác dụng, không đồng với tất cả Thanh văn, Độc giác.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát có thể đối với Tam-ma-địa thù thắng như vậy, thường trụ không xả thì mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

– Các Đại Bồ-tát chỉ vì đối với một Tam-ma-địa này thường trụ không xả, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hay còn có các Tam-ma-địa nào khác?

Thiện Hiện đáp:

– Chẳng những đối với một Tam-ma-địa này thường trụ không xả, làm cho các Bồ-tát mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà còn có các Tam-ma-địa khác.

Xá-lợi Tử hỏi:

– Các Tam-ma-địa khác là gì?

Thiện Hiện đáp:

– Các Đại Bồ-tát có Tam-ma-địa Kiện hành, Tam-ma-địa Bửu ấn, Tam-ma-địa Sư tử du hý, Tam-ma-địa Diệu nguyệt, Tam-ma-địa Nguyệt tràng tướng, Tam-ma-địa Nhất thiết pháp hải, Tam-ma-địa Quán đỉnh, Tam-ma-địa Pháp giới quyết định, Tam-ma-địa Quyết định tràng tướng, Tam-ma-địa Kim cương dụ, Tam-ma-địa Nhập chư pháp ấn, Tam-ma-địa Tam-ma-địa vương, Tam-ma-địa Thiện an trụ, Tam-ma-địa Vương ấn, Tam-ma-địa Tinh tấn lực, Tam-ma-địa Đẳng dũng, Tam-ma-địa Nhập từ định, Tam-ma-địa Nhập tăng ngữ, Tam-ma-địa Quán phương, Tam-ma-địa Đà-la-ni ấn, Tam-ma-địa Vô vong thất, Tam-ma-địa Chư pháp đẳng thú hải ấn, Tam-ma-địa Biến phú hư không, Tam-ma-địa Kim cương luân, Tam-ma-địa Thắng tràng tướng, Tam-ma-địa Đế tràng tướng, Tam-ma-địa Thuận minh tạng, Tam-ma-địa Sư tử phấn tấn, Tam-ma-địa Thắng khai hiển, Tam-ma-địa Bảo tánh, Tam-ma-địa Biến chiếu, Tam-ma-địa Bất thuấn, Tam-ma-địa Trụ vô tướng, Tam-ma-địa Quyết định, Tam-ma-địa Vô cấu đăng, Tam-ma-địa Vô biên quang, Tam-ma-địa Phát quang, Tam-ma-địa Phát minh, Tam-ma-địa Tịnh tòa, Tam-ma-địa Vô cấu quang, Tam-ma-địa Phát ái lạc, Tam-ma-địa Điển đăng, Tam-ma-địa Vô tận, Tam-ma-địa Cụ oai quang, Tam-ma-địa Ly tận, Tam-ma-địa Hàng phục, Tam-ma-địa Trừ khiển, Tam-ma-địa Nhựt đăng, Tam-ma-địa Nguyệt đăng, Tam-ma-địa Tịnh quang, Tam-ma-địa Minh tánh, Tam-ma-địa Diệu tánh, Tam-ma-địa Trí tướng, Tam-ma-địa Trụ tâm, Tam-ma-địa Phổ minh, Tam-ma-địa Thiện trụ, Tam-ma-địa Bửu tích, Tam-ma-địa Diệu pháp ấn, Tam-ma-địa Chư pháp bình đẳng, Tam-ma-địa Xả trần ái, Tam-ma-địa Nhập pháp đảnh, Tam-ma-địa Phiêu tán, Tam-ma-địa Phân biệt pháp cú, Tam-ma-địa Tự bình đẳng tướng, Tam-ma-địa Ly văn tự tướng, Tam-ma-địa Đoạn sở duyên, Tam-ma-địa Vô biến dị, Tam-ma-địa Nhập danh định tướng, Tam-ma-địa Hành vô tướng, Tam-ma-địa Ly ế ám, Tam-ma-địa Cụ hành, Tam-ma-địa Bất động, Tam-ma-địa Độ cảnh, Tam-ma-địa Tập chư công đức, Tam-ma-địa Quyết định trụ, Tam-ma-địa Tịnh diệu hoa, Tam-ma-địa Cụ giác chi, Tam-ma-địa Vô biên biện, Tam-ma-địa Vô đẳng đẳng, Tam-ma-địa Siêu nhất thiết, Tam-ma-địa Phát diệu quán, Tam-ma-địa Tán nghi hoặc, Tam-ma-địa Vô sở trụ, Tam-ma-địa Xả nhất tướng, Tam-ma-địa Dẫn phát hành tướng, Tam-ma-địa Nhất hành tướng, Tam-ma-địa Ly chư tướng, Tam-ma-địa Vô dư y ly nhất thiết hữu, Tam-ma-địa Nhập nhất thiết thi thiết ngữ ngôn, Tam-ma-địa Giải thoát âm thanh văn tự, Tam-ma-địa Cự xí nhiên, Tam-ma-địa Tịnh nhãn, Tam-ma-địa Vô hình tướng, Tam-ma-địa Nhập nhất thiết tướng, Tam-ma-địa Bất hý nhất thiết khổ lạc, Tam-ma-địa Vô tận hành tướng, Tam-ma-địa Cụ Đà-la-ni, Tam-ma-địa Nhiếp phục nhất thiết chánh tà tánh, Tam-ma-địa Nhập nhất thiết ngôn từ tịch mặc, Tam-ma-địa Ly vi thuận, Tam-ma-địa Vô cấu minh, Tam-ma-địa Cụ kiên cố, Tam-ma-địa Mãn nguyệt tịnh quang, Tam-ma-địa Đại trang nghiêm, Tam-ma-địa Phát nhất thiết quang minh, Tam-ma-địa Định bình đẳng, Tam-ma-địa Vô trần hữu trần bình đẳng lý thú, Tam-ma-địa Vô tranh hữu tranh bình đẳng lý thú, Tam-ma-địa Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc, Tam-ma-địa Quyết định trụ chơn như, Tam-ma-địa Hoại thân ác hạnh, Tam-ma-địa Hoại ngữ ác hành, Tam-ma-địa Hoại ý ác hạnh, Tam-ma-địa Như hư không, Tam-ma-địa Vô nhiễm trước như hư không.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát đối với các Tam-ma-địa như vậy thường trụ không xả thì mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Còn có vô lượng, vô số môn Tam-ma-địa, môn Đà-la-ni khác, nếu Đại Bồ-tát có thể đối với điều đó thường khéo tu học thì cũng làm cho mau chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã mong cầu.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bảo cụ thọ Xá-lợi Tử:

– Đại Bồ-tát an trụ các Tam-ma-địa như vậy nên biết đã được chư Phật quá khứ thọ ký, cũng được mười phương chư Phật hiện tại thọ ký.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này tuy trụ các Tam-ma-địa như vậy nhưng không thấy các Tam-ma-địa này, cũng không chấp các Tam-ma-địa như vậy, cũng không nghĩ: Ta đã nhập các Tam-ma-địa, ta đang nhập các Tam-ma-địa này, ta sẽ nhập các Tam-ma-địa này. Chỉ mình Ta mới có thể nhập, người khác không thể nhập được. Với suy nghĩ như vậy nên không phát sanh phân biệt gì cả.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

– Có chắc là chỉ riêng có các Đại Bồ-tát an trụ các Tam-ma-địa như vậy, đã được chư Phật quá khứ, hiện tại thọ ký không?

Thiện Hiện đáp:

Này Xá-lợi Tử! Không phải! Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa không khác Tam-ma-địa, Tam-ma-địa không khác Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát không khác Bát-nhã Ba-la-mật-đa và Tam-ma-địa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và Tam-ma-địa không khác Đại Bồ-tát. Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là Tam-ma-địa, Tam-ma-địa tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa và Tam-ma-địa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và Tam-ma-địa tức là Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì tánh tất cả pháp đều bình đẳng.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

– Nếu Tam-ma-địa không khác Đại Bồ-tát, Đại Bồ-tát không khác Tam-ma-địa. Tam-ma-địa tức là Đại Bồ-tát, Đại Bồ-tát tức là Tam-ma-địa. Hoặc Tam-ma-địa, hoặc Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng như vậy thì các Đại Bồ-tát làm thế nào đối với tất cả pháp như thật hiểu biết nhập Tam-ma-địa?

Thiện Hiện đáp:

– Nếu Đại Bồ-tát khi nhập các định, không nghĩ: Ta nương vào tánh bình đẳng của tất cả pháp mà chứng nhập các đẳng trì như vậy thì do nhân duyên này các Đại Bồ-tát tuy nương vào tánh bình đẳng của tất cả pháp mà chứng nhập các đẳng trì như vậy, như vậy, nhưng đối với tánh bình đẳng của tất cả pháp và các đẳng trì không phát sanh nghĩ tưởng, hiểu biết. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tất cả pháp và các đẳng trì, hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu, sự phân biệt, nghĩ tưởng, hiểu biết không thể phát sanh.

Khi ấy, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

– Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Ta nói ông là người đứng đầu trụ định Vô tránh trong chúng Thanh văn. Do đó tương ưng với nghĩa Ta nói vì trong tánh bình đẳng không có sự chống trái nhau.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên học như vậy. Muốn học tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa nên học như vậy. Muốn học bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo nên học như vậy. Như vậy, cho đến muốn học mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng nên học như vậy.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

– Đại Bồ-tát nào học như vậy chính là học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho đến chính là học mười tám pháp Phật bất cộng phải không?

Phật dạy:

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào học như vậy chính là học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện, cho đến chính là học mười tám pháp Phật bất cộng, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

– Đại Bồ-tát nào khi học như vậy đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Cho đến đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học mười tám pháp Phật bất cộng phải không?

Phật dạy:

– Này Xá-lợi Tử: Đại Bồ-tát khi học như vậy đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho đến đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá-lợi Tử thưa:

– Vô sở đắc là nói những gì bất khả đắc phải không?

Phật dạy:

– Này Xá-lợi Tử! Ngã bất khả đắc cho đến người thấy bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Uẩn, xứ, giới bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Vô minh bất khả đắc cho đến lão tử bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bốn Thánh đế bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Dục, Sắc, Vô sắc giới bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bốn niệm trụ bất khả đắc cho đến tám chi thánh đạo bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Mười lực của Phật bất khả đắc cho đến mười tám pháp Phật bất cộng bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bố thí Ba-la-mật-đa bất khả đắc cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Dự lưu bất khả đắc cho đến A-la-hán bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Độc giác bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bồ-tát bất khả đắc, Như Lai bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:

– Bạch Thế Tôn! Nghĩa rốt ráo thanh tịnh là như thế nào?

Phật đáp:

– Này Xá-lợi Tử! Tất cả pháp không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không xuất hiện, không ẩn mất, vô đắc, vô vi. Như vậy, là nghĩa rốt ráo thanh tịnh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại thưa hỏi Phật:

– Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy là học pháp gì?

Phật dạy:

– Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy, thì đối với tất cả pháp đều không học điều gì. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì không thể trong tất cả pháp như vậy, mà có các hàng phàm phu ngu muội, chấp trước có thể học ở trong đó.

Xá-lợi Tử hỏi:

– Các pháp như vậy làm sao mà có?

Phật dạy:

– Các pháp Vô sở hữu như vậy mà có. Nếu đối với pháp vô sở hữu như vậy không thể hiểu rõ thì gọi là vô minh.

Xá-lợi Tử hỏi:

– Những pháp gì không sở hữu hoặc không hiểu biết được gọi là vô minh?

Phật dạy:

– Này Xá-lợi Tử! Sắc vô sở hữu, thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu, vì pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Như vậy, cho đến bốn niệm trụ vô sở hữu cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu. Vì pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Phàm phu ngu muội nếu đối với pháp vô sở hữu như vậy không thể hiểu rõ được thì gọi là vô minh. Do vô minh và thế lực ái, người ấy chấp trước phân biệt hai bên đoạn, thường. Do đó không biết, không thấy tánh các pháp vô sở hữu phân biệt các pháp. Do phân biệt nên liền chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến chấp trước mười tám pháp Phật bất cộng. Do chấp trước nên phân biệt tánh của các pháp vô sở hữu. Do đó đối với pháp không biết được, không thấy được.

Xá-lợi Tử hỏi:

– Đối với những pháp nào không biết, không thấy?

Phật dạy:

– Đối với sắc không biết, không thấy; đối với thọ, tưởng, hành, thức không biết, không thấy. Cho đến đối với mười tám pháp Phật bất cộng không biết, không thấy. Do đối với các pháp không biết, không thấy nên rơi vào hạng phàm phu ngu muội không thể ra khỏi.

Xá-lợi Tử hỏi:

– Người ấy không thể ra khỏi nơi nào?

Phật bảo:

– Người ấy không thể ra khỏi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Do không thể ra khỏi ba cõi nên đối với pháp Thanh văn không thể thành tựu, đối với pháp Độc giác không thể thành tựu, đối với pháp Bồ-tát không thể thành tựu, đối với pháp chư Phật không thể thành tựu. Do đối với ba thừa không thể thành tựu, nên đối với các pháp không thể tin nhận.

Xá-lợi Tử hỏi:

– Đối với pháp nào người ấy không thể tin nhận?

Phật dạy:

– Đối với không của sắc người ấy không thể tin nhận. Đối với không của thọ, tưởng, hành, thức không thể tin nhận, cho đến đối với không của mười tám pháp Phật bất cộng không thể tin nhận. Do không tin nhận nên không thể trụ.

Xá-lợi Tử hỏi:

– Đối với pháp nào người ấy không thể trụ?

Phật dạy:

– Này Xá-lợi Tử! Đối với bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, người ấy không thể an trụ. Đối với địa vị Bất thối chuyển cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, người ấy không thể an trụ. Do đó nên gọi là phàm phu ngu muội, vì đối với các pháp chấp trước có tánh.

Xá-lợi Tử hỏi:

– Người kia đối với pháp nào chấp trước có tánh?

Phật dạy:

– Người kia đối với sắc chấp trước có tánh, đối với thọ, tưởng, hành, thức chấp trước có tánh. Đối với nhãn xứ chấp trước có tánh, cho đến đối với ý xứ chấp trước có tánh. Đối với sắc xứ chấp trước có tánh, cho đến đối với pháp xứ chấp trước có tánh. Đối với nhãn giới chấp trước có tánh, cho đến đối với ý thức giới chấp trước có tánh. Đối với tham, sân, si chấp trước có tánh. Đối với các kiến thú chấp trước có tánh. Đối với bốn niệm trụ chấp trước có tánh, cho đến đối với mười tám pháp Phật bất cộng chấp trước có tánh.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

– Bạch Thế Tôn! Vả lại có Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì không thể thành tựu trí nhất thiết trí phải không?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

– Có Đại Bồ-tát làm học như vậy, không học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì không thể thành tựu trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử thưa:

– Điều này nghĩa là như thế nào?

Phật dạy:

– Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào không có phương tiện thiện xảo, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa phân biệt chấp trước. Đối với tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, phân biệt chấp trước. Đối với bốn niệm trụ phân biệt chấp trước, cho đến đối với mười tám pháp Phật bất cộng phân biệt chấp trước. Do chấp trước những pháp này nên đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chấp trước. Do nhân duyên này, có Đại Bồ-tát học như vậy, không học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thể thành tựu trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử thưa:

– Đại Bồ-tát này khi học như vậy quyết định không học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì không thể thành tựu trí nhất thiết trí phải không?

Phật dạy:

– Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này không học như vậy quyết định không học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì không thể thành tựu trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử lại thưa:

– Bạch Thế Tôn! tại sao Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa là học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Khi học như vậy liền có thể thành tựu trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

– Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho đến không thấy trí nhất thiết tướng. Như vậy, Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa là học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Khi học như vậy liền có thể thành tựu trí nhất thiết trí. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá-lợi Tử thưa:

– Đại Bồ-tát này lấy vô sở đắc pháp nào làm phương tiện?

Phật dạy:

– Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khi tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc đối với bố thí Ba-la-mật-đa làm phương tiện, cho đến khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc của Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phương tiện, cho đến khi cầu Bồ-đề, lấy vô sở đắc của Bồ-đề làm phương tiện, cho đến khi cầu trí nhất thiết tướng, lấy vô sở đắc của trí nhất thiết tướng làm phương tiện.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa là học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Khi học như vậy liền có thể thành tựu trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử thưa:

– Đại Bồ-tát này khi tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đem vô sở đắc của những pháp nào làm phương tiện?

Phật dạy:

– Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khi tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa đem vô sở đắc của pháp không nội làm phương tiện, cho đến đem vô sở đắc của pháp không vô tánh tự tánh làm phương tiện. Do nhân duyên này có thể mau thành tựu trí nhất thiết trí.