KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm

 

HỘI THỨ HAI

VI. PHẨM THIỆN HIỆN

(Từ quyển 406 đến cuối quyển 408)

Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện:

– Ông hãy đem biện tài tùy theo chúng Đại Bồ-tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát, làm cho họ thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Khi ấy, các Đại Bồ-tát, Đại Thanh văn, chư thiên, nhơn v.v… đều nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện đem biện tài của mình tùy theo chúng Đại Bồ-tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát, làm cho họ thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đó có phải là nhờ oai lực của Phật không?

Tôn giả Thiện Hiện biết tâm niệm của các chúng Đại Bồ-tát, Đại Thanh văn, chư thiên, nhơn liền bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

– Các đệ tử Phật phàm nói ra điều gì tất cả đều nhờ oai lực của Phật. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Như Lai giảng nói pháp yếu cho chúng sanh, các pháp tánh thường không trái nhau. Các đệ tử Phật nương vào pháp ấy, siêng hay tu học, chứng thật tánh các pháp. Do đó, những pháp mà Ngài nói cùng với pháp tánh không trái nhau. Nên lời Phật nói như ngọn đèn truyền sáng mãi.

Này Xá-lợi Tử! nhờ oai lực của Phật gia hộ, ta sẽ tùy theo chúng Đại Bồ-tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát, làm cho họ thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng phải là biện tài của mình có thể làm được việc này. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu không phải là cảnh giới của các Thanh văn, Độc giác.

Bấy giờ, Tôn giả Thiện Hiện thưa:

– Bạch Thế Tôn! Như Phật nói, các Đại Bồ-tát trong đây, pháp nào gọi là Đại Bồ-tát? Bạch Thế Tôn! Con đều không thấy có một pháp nào có thể gọi là Đại Bồ-tát, cũng không thấy có một pháp có thể gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Hai tên như thế con đều không thấy thì làm sao con có thể tùy chúng Đại Bồ-tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát, làm cho họ thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật bảo Thiện Hiện:

– Đại Bồ-tát chỉ có tên, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chỉ có tên, hai tên như thế cũng chỉ có tên.

Này Thiện Hiện! Hai tên này không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Nên biết, như ngã ở thế gian chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là ngã. Như vậy, hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi dưỡng, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sanh, đồng tử, người làm, người nhận, người biết, người thấy cũng chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, nghĩa là hữu tình cho đến người thấy, tất cả Như vậy, chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế đều là không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như bên trong các sắc chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập mà gọi là sắc. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như nhãn xứ chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhãn xứ. Như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như sắc xứ chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là sắc xứ. Như vậy, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới. Như vậy, nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới cũng chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như trong thân có đầu, cổ, vai, bắp tay, cánh tay, bụng, lưng, ngực, hông, eo, xương sống, đùi, đầu gối, bắp chân, ống chân, da, thịt, xương, tủy chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt chỉ giả lập mà gọi là các vật đầu, cổ trong thân. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như các vật bên ngoài như: Cỏ cây, gốc, cành, lá, hoa, quả v.v… chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là các vật bên ngoài cỏ, cây, gốc v.v…. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả danh; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như chư Phật quá khứ, vị lai chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là chư Phật quá khứ, vị lai. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như cảnh trong mộng, tiếng vang, bóng sáng, việc huyễn, sóng nắng, trăng dưới nước, biến hóa chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là cảnh trong mộng cho đến biến hóa. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp, tên giả, pháp giả và phương tiện giả nên phải tu học. Vì sao? Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên quán danh sắc hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh sắc hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh sắc hoặc không, hoặc bất không; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh sắc hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh sắc hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh sắc hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh sắc hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh sắc hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh sắc hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc sanh, hoặc diệt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên quán danh nhãn xứ hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc không, hoặc bất không; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc sanh, hoặc diệt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên quán danh sắc xứ hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc không, hoặc bất không; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc sanh, hoặc diệt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa các Đại Bồ-tát không nên quán danh nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng tên của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng với danh của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc hữu tướng hoặc vô tướng; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng hoặc vô tướng.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng với danh của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng với danh của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh thân giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng với danh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh thân giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh thân giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh thân giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh thân giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh thân giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh thân giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh thân giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh thân giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh thân giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh thân giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh ý giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng với danh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh ý giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh ý giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh ý giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh ý giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh ý giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh ý giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh ý giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh ý giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh ý giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh ý giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc Đại Bồ-tát, hoặc danh Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc danh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đều không thấy ở trong giới hữu vi, cũng không thấy ở trong giới vô vi. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp không phân biệt, không khác với phân biệt.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa an trụ trong phân biệt nhất thiết pháp, không thấy Đại Bồ-tát, không thấy danh Đại Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy danh Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa hay tu bố thí Ba-la-mật-đa; cũng hay tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Hay trụ pháp không nội; cũng hay trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không chẳng đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không không thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Hay trụ chơn như; cũng hay trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Hay tu bốn niệm trụ; cũng hay tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Hay trụ Thánh đế khổ, cũng hay trụ Thánh đế tập, diệt, đạo. Hay tu bốn tịnh lự, cũng hay tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hay tu tám giải thoát, cũng hay tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Hay tu pháp môn giải thoát không, cũng hay tu vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện. Hay tu tất cả môn Đà-la-ni, cũng hay tu tất cả môn Tam-ma-địa. Hay tu năm loại mắt, cũng hay tu sáu phép thần thông. Hay tu mười lực của Phật, cũng hay tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Đại Bồ-tát này vào lúc đó không thấy Đại Bồ-tát, không thấy danh Đại Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy danh Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp khéo thông đạt thật tướng, và trong ấy khéo thông đạt pháp không tạp nhiễm, pháp thanh tịnh.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa hiểu biết tất cả pháp danh giả lập, pháp giả lập.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này đã hiểu biết như thật danh pháp giả rồi nên không chấp trước sắc, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; không chấp trước nhãn xứ, không chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không chấp trước sắc xứ, không chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không chấp trước nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến không chấp trước ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Không chấp trước giới hữu vi, không chấp trước giới vô vi.

Không chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa; không chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Không chấp trước các tướng tốt, không chấp trước thân Bồ-tát, không chấp trước nhục nhãn cho đến Phật nhãn.

Không chấp trước trí Ba-la-mật-đa và thần thông Ba-la-mật-đa.

Không chấp trước pháp không nội cho đến pháp không, không tánh tự tánh.

Không chấp trước sự thành thục hữu tình, không chấp trước việc nghiêm tịnh cõi Phật, không chấp trước phương tiện quyền xảo.

Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, năng trước, sở trước, trước xứ, trước thời đều bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không chấp trước; khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa tăng trưởng bố thí Ba-la-mật-đa; tăng trưởng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Hướng vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, hướng vào địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, viên mãn thần thông thù thắng của Bồ-tát.

Như vậy, Thần thông thù thắng của Bồ-tát đã được viên mãn, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, vì muốn giáo hóa các hữu tình, vì muốn làm nghiêm tịnh cõi Phật, được gặp Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, gặp rồi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, làm cho các thiện căn đều được sanh trưởng. Thiện căn đã được sanh trưởng, được nghe và thọ trì Chánh pháp chư Phật theo sở thích của mình. Đã thọ trì rồi cho đến Vô Thượng Bồ-đề không quên mất, đối với tất cả môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa đều được tự tại.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa hiểu biết như thật danh giả, pháp giả nên không chấp trước.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát? Sắc là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa sắc có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thọ, tưởng, hành, thức có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Nhãn xứ là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa nhãn xứ có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Sắc xứ là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa sắc xứ có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Nhãn giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa nhãn giới có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Nhĩ giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa nhĩ giới có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Tỷ giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa tỷ giới có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thiệt giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thiệt giới có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thân giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thân giới có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Ý giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa ý giới có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Địa giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa địa giới có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Vô minh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa vô minh có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa hành cho đến lão tử có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện:

– Ông xem xét nghĩa nào mà nói như vầy: Các pháp sắc v.v… không phải là Đại Bồ-tát, lìa các pháp sắc v.v… không phải là Đại Bồ-tát?

Khi ấy, Tôn giả Thiện Hiện thưa:

– Bạch Thế Tôn! Hoặc Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc vì tánh chẳng có, huống là có Đại Bồ-tát. Đây đã chẳng có, sao có thể nói các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát, lìa các pháp sắc v.v… có Đại Bồ-tát được!

Phật bảo Thiện Hiện!

– Hay thay! Hay thay. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Hoặc Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc các pháp sắc v.v… bất khả đắc nên các Đại Bồ-tát cũng bất khả đắc. Vì các Đại Bồ-tát bất khả đắc nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên học như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

– Sắc chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thọ, tưởng, hành, thức chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa sắc chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thọ, tưởng, hành, thức chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Nhãn xứ chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa nhãn xứ chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Sắc xứ chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa sắc xứ chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Nhãn giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng với các thọ chơn như do nhãn xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa nhãn giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng với các thọ chơn như do nhãn xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Nhĩ giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng với các thọ chơn như do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa nhĩ giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng với các thọ chơn như do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Tỷ giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng với các thọ chơn như do tỷ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa tỷ giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng với các thọ chơn như do tỷ xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thiệt giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng với các thọ chơn như do thiệt xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thiệt giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng với các thọ chơn như do thiệt xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thân giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng với các thọ chơn như do thân xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thân giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng với các thọ chơn như do thân xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Ý giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng với các thọ chơn như do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa ý giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng với các thọ chơn như do ý xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Địa giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Thủy, hỏa, phong, không, thức giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa địa giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Vô minh chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa vô minh chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

– Lìa hành cho đến lão tử chơn như có Đại Bồ-tát không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện:

– Ông quán nghĩa nào mà nói như vầy: Các pháp sắc v.v… chơn như không phải là Đại Bồ-tát, lìa các pháp sắc v.v… chơn như không có Đại Bồ-tát được?

Khi ấy, Tôn giả Thiện Hiện thưa:

– Bạch Thế Tôn! Các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có các pháp sắc v.v… chơn như. Chơn như này đã chẳng có, như vậy sao có thể nói các pháp sắc v.v… chơn như là Đại Bồ-tát, lìa các pháp sắc v.v… chơn như có Đại Bồ-tát được?

Phật bảo Thiện Hiện!

– Hay thay! Hay thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Vì các pháp sắc v.v… bất khả đắc, nên các pháp sắc v.v… chơn như cũng bất khả đắc. Vì các pháp sắc và chơn như bất khả đắc nên các Đại Bồ-tát cũng bất khả đắc. Vì các Đại Bồ-tát bất khả đắc nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên học như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm sắc là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc vô thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức vô thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về nhãn xứ là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ vô thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là thanh tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ bất tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ tịch tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ bất tịch tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất tịch tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ bất viễn ly là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất viễn ly là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ tạp nhiễm là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tạp nhiễm là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ thanh tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về sắc xứ là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ vô thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô thường là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về nhãn giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về nhĩ giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về tỷ giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về thiệt giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về thân giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới  là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về ý giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về địa giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về vô minh là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

– Bạch Thế Tôn! Không!

Lúc bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:

– Ông xem xét nghĩa nào mà nói như vầy: Khái niệm về các pháp sắc v.v…  không phải là Đại Bồ-tát? Lại xem xét nghĩa nào mà nói như vầy: Khái niệm về các pháp sắc v.v… hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc không, hoặc bất không, hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện, hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh, hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh, hoặc sanh, hoặc diệt cũng không phải là Đại Bồ-tát?

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

– Bạch Thế Tôn! Các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có khái niệm về các pháp sắc v.v… các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn! Thường của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô thường của các pháp sắc v.v… Thường, vô thường của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về thường, vô thường các pháp sắc v.v… Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về thường, vô thường của các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Lạc của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có khổ của các pháp sắc v.v… lạc, khổ của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về lạc, khổ của các pháp sắc v.v… Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về lạc, khổ của các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Ngã của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô ngã của các pháp sắc v.v… ngã, vô ngã của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về ngã, vô ngã của các pháp sắc v.v… Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về ngã, vô ngã của các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Tịnh của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có bất tịnh của các pháp sắc v.v… Tịnh, bất tịnh của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về tịnh, bất tịnh của các pháp sắc v.v… Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về tịnh, bất tịnh của các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Bất không của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có không của các pháp sắc v.v… Không, bất không của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về không, bất không của các pháp sắc v.v… Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về không, bất không của các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Hữu tướng của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô tướng của các pháp sắc v.v… Hữu tướng, vô tướng của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về hữu tướng, vô tướng của các pháp sắc v.v… Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về hữu tướng, vô tướng của các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Hữu nguyện của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô nguyện của các pháp sắc v.v… Hữu nguyện, vô nguyện của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về hữu nguyện, vô nguyện của các pháp sắc v.v… Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về hữu nguyện, vô nguyện của các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Tịch tịnh của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có bất tịch tịnh của các pháp sắc v.v… Tịch tịnh, bất tịch tịnh của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về tịch tịnh, bất tịch tịnh của các pháp sắc v.v… Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về tịch tịnh, bất tịch tịnh của các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Viễn ly của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có bất viễn ly của các pháp sắc v.v… Viễn ly, bất viễn ly của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về viễn ly, bất viễn ly của các pháp sắc v.v… Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về viễn ly, bất viễn ly của các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Tạp nhiễm của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có thanh tịnh của các pháp sắc v.v… Tạp nhiễm, thanh tịnh của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về tạp nhiễm, thanh tịnh của các pháp sắc v.v… Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về tạp nhiễm, thanh tịnh của các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Sanh của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có diệt của các pháp sắc v.v… Sanh, diệt của các pháp sắc v.v… rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về sanh, diệt của các pháp sắc v.v… Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về sanh, diệt của các pháp sắc v.v… là Đại Bồ-tát được.

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Các pháp sắc v.v… và thường, vô thường v.v… bất khả đắc nên khái niệm về các pháp sắc v.v… và khái niệm về thường, vô thường v.v… cũng bất khả đắc. Vì pháp và khái niệm về bất khả đắc, nên các Đại Bồ-tát cũng bất khả đắc. Vì các Đại Bồ-tát bất khả đắc, nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên học như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Trước ông đã nói: Con hoàn toàn không thấy có một pháp nào có thể gọi là Đại Bồ-tát. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Các pháp không thấy các pháp. Các pháp không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy các pháp. Pháp giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy sắc giới; sắc giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thọ, tưởng, hành, thức giới; thọ, tưởng, hành, thức giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy nhãn xứ; nhãn xứ không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy sắc xứ; sắc xứ không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy nhãn giới; nhãn giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy sắc giới; sắc giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy nhãn thức giới; nhãn thức giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy địa giới; địa giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy vô minh; vô minh không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; hành cho đến lão tử không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Giới hữu vi không thấy giới vô vi; giới vô vi không thấy giới hữu vi.

Này Thiện Hiện! Chẳng phải lìa hữu vi mà lập vô vi, chẳng phải lìa vô vi mà lập hữu vi.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp đều không thấy. Vì không thấy nên tâm không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi, đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, không thấy sắc, không thấy thọ, tưởng, hành, thức; không thấy nhãn xứ, không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không thấy sắc xứ, không thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không thấy nhãn giới, không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; không thấy sắc giới, không thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; không thấy nhãn thức giới, không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; không thấy địa giới, không thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới; không thấy vô minh, không thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; không thấy tham dục, không thấy sân giận, ngu si; không thấy ngã, không thấy hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi dưỡng, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sanh, đồng tử, người làm, người nhận, người biết, người thấy; không thấy Dục giới, không thấy Sắc, Vô sắc giới; không thấy Thanh văn và pháp Thanh văn, không thấy Độc giác và pháp Độc giác; không thấy Bồ-tát và pháp Bồ-tát; không thấy chư Phật và pháp chư Phật; không thấy Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đều không thấy. Vì không thấy, nên tâm không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi. Đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

– Bạch Thế Tôn! Lại do nhân duyên nào, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn?

Phật bảo:

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp tâm, tâm sở đều không được, không thấy. Do đó, đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, do nhân nào mà đối với tất cả pháp, tâm không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi?

Phật bảo:

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả ý và ý giới đều không được, không thấy. Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp, tâm không kinh khiếp, không e ngại,, không sợ hãi.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đều vô sở đắc, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả nơi và tất cả thời, không thấy đắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy đắc danh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy đắc Đại Bồ-tát, không thấy đắc danh Đại Bồ-tát, cũng không thấy đắc tâm Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Nên dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát như vậy, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều làm cho được thành tựu.