KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm

 

HỘI THỨ HAI

XXIX. PHẨM NHIẾP THỌ

(Từ  giữa quyển 427 đến đầu quyển 428)

Bấy giờ, Thiên Ðế Thích bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thật vô cùng kỳ diệu, hy hữu. Ðối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa đây, chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh chuyên tu học, suy nghĩ đúng lý, biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp, nhiếp thọ hiện pháp hiếm có như thế, công đức thù thắng, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, gần gũi phụng sự kính thờ chư Phật Thế Tôn, đem các căn lành mà mình ưa thích để cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; tức có khả năng làm cho các căn lành sanh trưởng, sớm được viên mãn. Ở chỗ chư Phật được nghe Chánh pháp, cho đến khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề, trong thời gian ấy từng chẳng quên mất. Chóng có khả năng nhiếp thọ tộc tánh viên mãn, cha mẹ viên mãn, sanh thân viên mãn, quyến thuộc viên mãn, tướng hảo viên mãn, quang minh viên mãn, thắng nhãn viên mãn, thắng nhĩ viên mãn, âm thanh viên mãn, đẳng trì viên mãn, tổng trì viên mãn.

Lại bằng sức phương tiện khéo léo, Đại Bồ-tát tự biến hóa thân mình như thân của Phật. Từ thế giới này tới thế giới kia, đến cõi không có Phật, khen nói pháp bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; khen nói nội không cho đến vô tánh tự tánh không; khen nói bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; khen nói bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Lại bằng sức phương tiện khéo léo, Đại Bồ-tát tuyên nói pháp yếu cho các hữu tình, tùy nghi an lập họ trong pháp Tam thừa, khiến cho giải thoát hẳn khổ sanh già bệnh chết, chứng cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn; hoặc lại cứu vớt những chúng sanh khổ trong các cõi ác, khiến cho họ sanh trong quốc độ trời người, hưởng các diệu lạc an vui.

Khi ấy, Thiên Ðế Thích lại bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế thật vô cùng kỳ diệu, hy hữu. Nếu hay khéo nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, tức là nhiếp thọ đầy đủ sáu Ba-la-mật-đa; nói rộng cho đến tức là nhiếp thọ đầy đủ mười tám pháp Phật bất cộng, cũng là nhiếp thọ đầy đủ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Ðộc giác Bồ-đề, tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Khi ấy, Phật bảo Thiên Ðế Thích rằng:

– Này Kiều-thi-ca! Ðúng vậy! Ðúng vậy! Ðúng như ông đã nói, nếu hay khéo nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, tức là nhiếp thọ đầy đủ sáu món Ba-la-mật-đa; nói rộng cho đến, tức là nhiếp thọ đầy đủ trí nhất thiết tướng.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân… nào hay khéo đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh chuyên tu học, suy nghĩ đúng lý, biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp thì thiện nam tử, thiện nữ nhân… ấy nhiếp thọ đủ loại hiện pháp, đời sau được công đức thù thắng. Này Kiều-thi-ca! Ông nên nghe kỹ, khéo léo tác ý, Như Lai sẽ phân biệt giải nói cho ông.

Thiên Ðế Thích thưa:

– Cuối xin Ðại Thánh giảng nói, chúng con đang muốn được nghe.

Phật bảo:

– Này Kiều-thi-ca! Nếu có các tộc loại ngoại đạo, hoặc các tự tại thiên ma và quyến thuộc của ma ở cõi Dục, hoặc các kẻ bạo ác tăng thượng mạn đối với các thiện nam tử, thiện nữ nhân… như thế, muốn khởi tâm tạo việc không lợi ích, khiến cho họ xa lìa, chống nghịch, hủy báng Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì những kẻ ác đó vừa khởi tâm liền bị tai họa, tự phải tiêu diệt, chẳng đạt được sở nguyện. Vì cớ sao?

Này Kiều-thi-ca! Vì Đại Bồ-tát này vô lượng kiếp đã tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu các hữu tình vì xan tham nên nhiều kiếp tranh đấu thì Đại Bồ-tát này đối với pháp nội ngoại tất cả đều xả, khéo dùng phương tiện dạy cho họ an trụ bố thí Ba-la-mật-đa. Nếu các hữu tình nhiều kiếp phá giới, thì Đại Bồ-tát này đối với pháp nội ngoại tất cả đều xả, khéo dùng phương tiện dạy cho họ an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa. Nếu các hữu tình nhiều kiếp giận dữ, thì Đại Bồ-tát này đối với pháp nội ngoại tất cả đều xả, khéo dùng phương tiện dạy cho họ an trụ an nhẫn Ba-la-mật-đa. Nếu các hữu tình nhiều kiếp biếng nhác, thì Đại Bồ-tát này đối với pháp nội ngoại tất cả đều xả, khéo dùng phương tiện dạy cho họ an trụ tinh tiến Ba-la-mật-đa. Nếu các hữu tình nhiều kiếp tán loạn, thì Đại Bồ-tát này đối với pháp nội ngoại tất cả đều xả, khéo dùng phương tiện dạy cho họ an trụ tĩnh lự Ba-la-mật-đa. Nếu các hữu tình nhiều kiếp ngu si, thì Đại Bồ-tát này đối với pháp nội ngoại tất cả đều xả, khéo dùng phương tiện dạy cho họ an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu các hữu tình trôi lăn trong sanh tử, nhiều kiếp luôn bị tham sân si…, tùy miên trói buộc, nhiễu loạn thân tâm, tạo tác đủ các việc chẳng lợi ích, thì Đại Bồ-tát này khéo dùng phương tiện dạy cho họ dứt sạch tham, sân, si… tùy miên trói buộc, khiến cho an trụ nơi bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc khiến cho an trụ nơi bốn niệm trụ, nói rộng cho đến tám chi thánh đạo; hoặc khiến cho an trụ nơi không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; hoặc khiến cho an trụ nơi quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán; hoặc khiến cho an trụ nơi Ðộc giác Bồ-đề; hoặc khiến cho an trụ nơi Bồ-tát Thập địa; hoặc khiến cho an trụ nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Này Kiều-thi-ca! Như vậy gọi là đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa đây, Đại Bồ-tát chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh chuyên tu học, suy nghĩ đúng lý, biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp, nhiếp thọ hiện pháp, công đức thù thắng.

Này Kiều-thi-ca! Ðại Bồ-tát này do nhân duyên đây, nên vào đời vị lai sẽ mau chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề, chuyển bánh xe diệu pháp, hóa độ vô lượng chúng; tùy theo bản nguyện, khéo dùng phương tiện an lập chúng nơi Tam thừa, khiến cho tu học rốt ráo thẳng đến chứng được vô dư Niết-bàn.

Này Kiều-thi-ca! Như vậy gọi là đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa đây, Đại Bồ-tát chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh chuyên tu học, suy nghĩ đúng lý, biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp, nhiếp thọ đương lai, công đức thù thắng.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân… đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa đây, chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh chuyên tu học, suy nghĩ đúng lý, biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp, thì tại nơi họ ở nếu có ác ma và quyến thuộc của ma, hoặc có các tộc loại ngoại đạo, hoặc các kẻ bạo ác tăng thượng mạn ganh ghét Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn gây chướng ngại, phá hoại tiêu mất, gạn hỏi móc méo, lăng nhục chống trái, dù cho có ý muốn này nhưng trọn chẳng thành được. Vì nơi ấy nhờ nghe qua tiếng Bát-nhã nên các ác lần tiêu diệt, công đức dần dần sanh trưởng, sau nương vào pháp Tam thừa mà dứt hết khổ, hoặc thoát khỏi cõi ác, sanh trong trời người.

Này Kiều-thi-ca! Thí như có loại diệu dược tên là mạc-kỳ, công lực của thuốc này năng tiêu phá các độc. Bất cứ nơi nào mà diệu dược này có mặt thì các loài trùng độc chẳng dám đến gần. Như có rắn độc lớn đói đi kiếm ăn, thấy sinh trùng muốn ăn. Sinh trùng ấy sợ chết nên chạy tới chỗ có diệu dược, rắn ngửi biết hơi thuốc bèn bò lui. Vì cớ sao?

Này Kiều-thi-ca! Vì diệu dược này đủ đại oai lực, có ích thân mạng, giải trừ các độc. Nên biết Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng đủ đại oai lực giống như vậy.

Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân… chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì các ác ma… ở chỗ Đại Bồ-tát đây muốn làm việc ác, song do sức oai thần của Bát-nhã Ba-la-mật-đa này nên khiến việc ác kia ở chỗ ấy tự phải tiêu diệt, không làm gì được. Vì cớ sao? Này Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa đây đủ đại oai lực, có thể đẩy lùi các ác, tăng trưởng thiện pháp.

Này Kiều-thi-ca! Vì sao Bát-nhã Ba-la-mật-đa đây năng đẩy lùi các ác, tăng trưởng các thiện?

Này Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã Ba-la mật-đa như thế, năng diệt tham dục, sân nhuế, ngu si vô minh, cho đến trọn nhóm đại khổ ngăn che, tùy miên, trần cấu trói buộc, hoặc ngã kiến, hữu tình kiến, Bổ-đặc-già-la kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, cho đến các loại đưa đến ác kiến, xan tham, phá giới, giận dữ, biếng nhác, tán loạn, ngu si, tưởng thường, tưởng lạc, tưởng ngã, tưởng tịnh và tất cả tham, sân, si, mạn, nghi, kiến, hành…

Này Kiều-thi-ca! Bát-nhã Ba-la-mật-đa như vậy có thể diệt chấp sắc cho đến chấp thức; có thể diệt chấp nhãn cho đến chấp ý; có thể diệt chấp sắc cho đến chấp pháp; có thể diệt chấp nhãn thức cho đến chấp ý thức; có thể diệt chấp nhãn xúc cho đến chấp ý xúc; có thể diệt chấp nhãn xúc sanh ra thọ cho đến chấp ý xúc sanh ra thọ; có thể diệt chấp bố thí Ba-la-mật-đa cho đến chấp Bát-nhã Ba-la-mật-đa; có thể diệt chấp nội không cho đến chấp vô tánh tự tánh không; có thể diệt chấp bốn niệm trụ, nói rộng cho đến chấp mười tám pháp Phật bất cộng; có thể diệt chấp trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; có thể diệt chấp Bồ-đề, Niết-bàn.

Này Kiều-thi-ca! Bát-nhã Ba-la-mật-đa như vậy, có thể diệt tất cả các ác pháp… như thế và có thể tăng trưởng các pháp đối trị kia. Cho nên, Bát-nhã Ba-la-mật-đa đủ đại oai lực, tôn quí nhất, thù thắng nhất.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân… đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa đây chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp thì các thiện nam tử, thiện nữ nhân… này thường được bốn Đại thiên vương, Thiên Ðế Thích, chủ cõi Kham Nhẫn, Ðại phạm thiên vương, Tịnh cư thiên , Thiên long, Dược-xoa, A-tố-lạc, cùng các thiện thần… trong Tam thiên đại thiên thế giới đều đến ủng hộ, không cho tất cả tai họa xâm phạm não hại; như pháp mong cầu đều được đầy đủ viên mãn. Ðông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc trên dưới, hằng hà sa số thế giới chư Phật, tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác cũng thường hộ niệm các thiện nam tử, thiện nữ nhân… này, khiến cho các ác lần diệt, thiện pháp càng tăng. Nghĩa là khiến cho tăng trưởng bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đem vô sở đắc làm phương tiện; cũng khiến cho tăng trưởng quán nội không cho đến quán vô tánh tự tánh không, đem vô sở đắc làm phương tiện; cũng khiến cho tăng trưởng bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đem vô sở đắc làm phương tiện; cũng khiến cho tăng trưởng tất cả môn Tam-ma-địa và tất cả môn Ðà-la-ni, đem vô sở đắc làm phương tiện; cũng khiến cho tăng trưởng trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đem vô sở đắc làm phương tiện.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân… này do nhân duyên đây, nên lời lẽ oai nghiêm, người nghe đều cung kính ghi nhận, luận nói cân xứng, lời không lầm loạn, khéo biết trả ơn, luôn thờ bạn lành; chẳng bị san tham, đố kị, giận hờn, phiền não, nịnh dối, kiêu mạn… làm che khuất.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân… này tự có khả năng lìa sự giết sanh mạng, cũng khuyên người lìa sự giết sanh mạng, tuỳ thuận xưng dương pháp lìa sự giết sanh mạng, vui mừng ngợi khen người lìa sự giết sanh mạng. Cho đến tự có khả năng lìa bỏ tà kiến, cũng khuyên người lìa bỏ tà kiến, tuỳ thuận xưng dương pháp lìa bỏ tà kiến, vui mừng ngợi khen người lìa bỏ tà kiến.

Tự có khả năng hành bố thí Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người hành bố thí Ba-la-mật-đa, tuỳ thuận xưng dương pháp hành bố thí Ba-la-mật-đa, vui mừng ngợi khen người hành bố thí Ba-la-mật-đa. Cho đến tự có khả năng hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tuỳ thuận xưng dương pháp hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vui mừng ngợi khen người hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Tự có khả năng hành nội không, cũng khuyên người khác hành nội không, tuỳ thuận xưng dương pháp hành nội không, vui mừng ngợi khen người hành nội không. Cho đến tự có khả năng hành vô tánh tự tánh không, cũng khuyên người khác hành vô tánh tự tánh không, tuỳ thuận xưng dương pháp hành vô tánh tự tánh không, vui mừng ngợi khen người hành vô tánh tự tánh không.

Tự có khả năng tu tất cả môn Tam-ma-địa, cũng khuyên người khác tu tất cả môn Tam-ma-địa, tuỳ thuận xưng dương pháp tu tất cả môn Tam-ma-địa, vui mừng ngợi khen người tu tất cả môn Tam-ma-địa. Tự có khả năng tu tất cả môn Ðà-la-ni, cũng khuyên người khác tu tất cả môn Ðà-la-ni, tuỳ thuận xưng dương pháp tu tất cả môn Ðà-la-ni, vui mừng ngợi khen người tu tất cả môn Ðà-la-ni.

Tự có khả năng tu bốn tĩnh lự, cũng khuyên người khác tu bốn tĩnh lự, tuỳ thuận xưng dương pháp tu bốn tĩnh lự, vui mừng ngợi khen người tu bốn tĩnh lự. Tự có khả năng tu bốn vô lượng, cũng khuyên người khác tu bốn vô lượng, tuỳ thuận xưng dương pháp tu bốn vô lượng, vui mừng ngợi khen người tu bốn vô lượng. Tự có khả năng tu bốn định vô sắc, cũng khuyên người khác tu bốn định vô sắc, tuỳ thuận xưng dương pháp tu bốn định vô sắc, vui mừng ngợi khen người tu bốn định vô sắc.

Tự có khả năng tu bốn niệm trụ, cũng khuyên người khác tu bốn niệm trụ, tuỳ thuận xưng dương pháp tu bốn niệm trụ, vui mừng ngợi khen người tu bốn niệm trụ. Cho đến tự có khả năng tu tám chi thánh đạo, tuỳ thuận xưng dương pháp tu tám chi thánh đạo, vui mừng ngợi khen người tu tám chi thánh đạo.

Tự có khả năng tu ba môn giải thoát, cũng khuyên người khác tu ba môn giải thoát, tuỳ thuận xưng dương pháp tu ba môn giải thoát, vui mừng ngợi khen người tu ba môn giải thoát.

Tự có khả năng tu tám giải thoát, cũng khuyên người tu tám giải thoát, tuỳ thuận xưng dương pháp tu tám giải thoát, vui mừng ngợi khen người tu tám giải thoát.

Tự có khả năng thuận nghịch nhập vào chín thứ lớp định, cũng khuyên người khác thuận nghịch nhập vào chín thứ lớp định, tuỳ thuận xưng dương pháp thuận nghịch nhập vào chín thứ lớp định, vui mừng ngợi khen người thuận nghịch nhập vào chín thứ lớp định.

Tự có khả năng tu mười lực Phật, cũng khuyên người khác tu mười lực Phật, tuỳ thuận xưng dương pháp tu mười lực Phật, vui mừng ngợi khen người tu mười lực Phật. Cho đến tự có khả năng tu mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người khác tu mười tám pháp Phật bất cộng, tuỳ thuận xưng dương pháp tu mười tám pháp Phật bất cộng, vui mừng ngợi khen người tu mười tám pháp Phật bất cộng.

Tự có khả năng tu pháp không quên mất, thường trụ tánh xả, cũng khuyên người khác tu pháp không quên mất, thường trụ tánh xả, tuỳ thuận xưng dương pháp tu pháp không quên mất, thường trụ tánh xả, vui mừng ngợi khen người tu pháp không quên mất, thường trụ tánh xả.

Tự có khả năng tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng khuyên người khác tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tuỳ thuận xưng dương pháp tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, vui mừng ngợi khen người tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân… này tu hành bố thí cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng đồng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân… này thường nghĩ rằng: Nếu ta chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa, thì sẽ phải sanh vào nhà bần tiện, thế lực còn không có, lấy gì để thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống nữa là được trí nhất thiết trí!

Nếu ta chẳng hộ trì tịnh giới Ba-la-mật-đa thì sẽ phải sanh vào các cõi ác, thân người hạ tiện còn chẳng có được, lấy gì để thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống nữa là được trí nhất thiết trí?

Nếu ta chẳng tu an nhẫn Ba-la-mật-đa thì các căn sẽ phải tàn khuyết, hình mạo xấu xí, chẳng được đầy đủ sắc thân viên mãn của Bồ-tát. Nếu được sắc thân viên mãn của Bồ-tát, tu hạnh Bồ-tát thì hữu tình thấy được rất sanh vui mừng, tín thọ lời ta nói, nhất định sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề. Còn nếu ta chẳng được sắc thân viên mãn đây, thì lấy gì để thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống nữa là được trí nhất thiết trí?

Nếu ta biếng nhác, không khởi tinh tấn Ba-la-mật-đa thì chẳng được đạo thù thắng của Bồ-tát, lấy gì để thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống nữa là được trí nhất thiết trí?

Nếu ta loạn tâm, chẳng nhập vào tĩnh lự Ba-la-mật-đa, thì chẳng khởi được định thù thắng của Bồ-tát, lấy gì để thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống nữa là được trí nhất thiết trí?

Nếu ta vô trí, chẳng học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì chẳng đạt được phương tiện khéo léo vượt bậc Nhị thừa, lấy gì để thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống nữa là được trí Nhất thiết trí?

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân… này thường khởi nghĩ rằng: Ta chẳng nên theo thế lực tham lam, nếu theo thế lực tham lam ấy thì bố thí Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực phá giới, nếu theo thế lực tham lam ấy thì tịnh giới Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực giận dữ, nếu theo thế lực giận dữ ấy thì an nhẫn Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực lười biếng, nếu theo thế lực lười biếng ấy thì tinh tấn Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực loạn tâm, nếu theo thế lực loạn tâm ấy thì tĩnh lự Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực ác tuệ, nếu theo thế lực ác tuệ ấy thì Bát-nhã Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn. Nếu ta tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng viên mãn thì quyết chẳng thể được trí nhất thiết trí.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân… nào tâm chẳng lìa trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa đây chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp thì nhất định sẽ được hiện pháp, công đức thù thắng như vậy trong đương lai.

Bấy giờ, trời Ðế Thích bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế rất là hiếm có, điều phục chúng Đại Bồ-tát, chẳng cho tâm cống cao, có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Phật hỏi trời Ðế Thích:

– Này Kiều-thi-ca! Bát-nhã Ba-la-mật-đa điều phục chúng Đại Bồ-tát, chẳng cho tâm cống cao, có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí như thế nào?

Trời Ðế Thích thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi hành bố thí Ba-la-mật-đa thế gian, nếu ở chỗ Phật mà hành bố thí, nghĩ như thế này: Ta cúng cho Phật, hoặc khi bố thí cho Bồ-tát, Ðộc giác, Thanh văn, những kẻ côi cút, bần cùng, già, bệnh, hành khất xin ăn, thì nghĩ: Ta thí cho Bồ-tát đến cả ăn xin, thì Đại Bồ-tát này, vì không có phương tiện thiện xảo, tuy hành bố thí nhưng với tâm cống cao, nên chẳng thể hồi hướng trí nhất thiết trí được.

Bạch đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thế gian, mà nghĩ thế này: Ta có khả năng tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc cho rằng: Ta có khả năng viên mãn tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì Đại Bồ-tát này, vì không có phương tiện thiện xảo, tuy hành tịnh giới cho đến Bát-nhã nhưng với tâm cống cao, nên chẳng thể hồi hướng trí nhất thiết trí được.

Bạch đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi tu hành bốn niệm trụ thế gian, mà nghĩ thế này: Ta có khả năng tu hành bốn niệm trụ; hoặc cho rằng: Ta có khả năng viên mãn bốn niệm trụ, thì Đại Bồ-tát này, vì không có phương tiện thiện xảo, tuy hành bốn niệm trụ nhưng với tâm cống cao, nên chẳng thể hồi hướng trí nhất thiết trí được.

Bạch đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, mà nghĩ thế này: Ta có khả năng tu hành bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; hoặc cho rằng: Ta có khả năng viên mãn bốn chánh đoạn cho đến chi tám thánh đạo, thì Đại Bồ-tát này, vì không có phương tiện thiện xảo, tuy hành bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nhưng với tâm cống cao, nên chẳng thể hồi hướng trí nhất thiết trí được.

Bạch đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, mà nghĩ thế này: Ta có khả năng tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; hoặc cho rằng: Ta có khả năng viên mãn không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, thì Đại Bồ-tát này, vì không có phương tiện thiện xảo, tuy hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn nhưng với tâm cống cao, nên  chẳng thể hồi hướng trí nhất thiết trí được.

Bạch đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi tu hành tất cả môn Tam-ma-địa, môn Ðà-la-ni, mà nghĩ thế này: Ta có khả năng tu hành tất cả môn Tam-ma-địa, môn Ðà-la-ni; hoặc cho rằng: Ta có khả năng viên mãn tất cả môn Tam-ma-địa, môn Ðà-la-ni, thì Đại Bồ-tát này, vì không có phương tiện thiện xảo, nên tuy hành tất cả môn Tam-ma-địa, môn Ðà-la-ni nhưng với tâm cống cao, nên chẳng thể hồi hướng trí  nhất thiết trí được.

Bạch đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi tu hành mười lực Phật, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, mà nghĩ thế này: Ta có khả năng tu hành mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc cho rằng: Ta có khả năng viên mãn mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, thì Đại Bồ-tát này, vì không có phương tiện thiện xảo, nên tuy hành mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng nhưng với tâm cống cao, nên chẳng thể hồi hướng trí nhất thiết trí được.

Bạch đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, mà nghĩ thế này: Ta có khả năng tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc cho rằng: Ta có khả năng viên mãn trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì Đại Bồ-tát này, vì không có phương tiện thiện xảo, nên tuy hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nhưng với tâm cống cao, nên chẳng thể hồi hướng trí nhất thiết trí được.

Bạch đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mà nghĩ thế này: Ta có khả năng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, ngoài ta ra không ai có khả năng này, thì Đại Bồ-tát này, vì không có phương tiện thiện xảo, tuy thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật nhưng với tâm cống cao, nên chẳng thể hồi hướng trí nhất thiết trí được.

Bạch đức Thế Tôn! Chúng Đại Bồ-tát như thế, nương tâm thế gian tu các thiện pháp, vì không có phương tiện thiện xảo, chấp ngã, ngã sở làm rối loạn tâm, nên tuy tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà chưa được, chẳng có khả năng như thật điều phục tâm cống cao, cũng chẳng có khả năng như thật hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khi hành bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế, vì khéo tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng thấy người thí, kẻ thọ thí, vật bố thí. Ðại Bồ-tát này nương tựa Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà hành bố thí, nên có khả năng như thật điều phục tâm cống cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa xuất thế, vì khéo tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng thủ đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã và tất cả pháp. Ðại Bồ-tát này nương tựa Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hành tịnh giới cho đến Bát-nhã, nên có khả năng như thật điều phục tâm cống cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khi hành bốn niệm trụ xuất thế, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng, vì khéo tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng thủ đắc bốn niệm trụ, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng và tất cả pháp. Ðại Bồ-tát này nương tựa Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hành bốn niệm trụ, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng, nên có khả năng như thật điều phục tâm cống cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khi thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, vì khéo tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng thủ đắc thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật và tất cả pháp. Ðại Bồ-tát này nương tựa Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, nên có khả năng như thật điều phục tâm cống cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên đây nên con nói: Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế rất là hiếm có, điều phục chúng Bồ-tát, chẳng cho tâm cống cao, có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.