Phụng Hoàng Cảnh Sách Tập
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 

TẬP II

Thỉnh Nguyện Ni 

Ngày 15-6 Giáp Tuất (21-7-1994)

Thỉnh nguyện kỳ này trong chúng ít lỗi lầm, đồng thời có những lỗi nhỏ cũng biết thành tâm sám hối, đó là tinh thần tự giác cao. Mong rằng trong chúng, mỗi người tự cố gắng, làm sao càng ngày càng tiến, không phải chỉ trong việc ngồi thiền mà tiến cả về oai nghi, đức hạnh và tâm hồn mỗi ngày mỗi trong sáng hơn. Nếu chỉ tiến một mặt, các mặt kia không tiến cũng chưa tốt. Đó là nhắc nhở chung kỳ thỉnh nguyện này.

Bây giờ Thầy nhắc nhở chúng vài điều.

Điều thứ nhất, thời gian tới đây cất xong ni đường thứ hai thì có chỗ cho Ni chúng ở ổn định. Tụi con vào đây tu là tự nguyện, không phải bị bắt buộc. Vào đây tu là niềm phấn khởi hoan hỉ của mỗi người, được vào nơi Thầy gọi là lý tưởng tối hậu của đời Thầy. Tụi con được dự vào, tức có một phần đóng góp sau cùng, điều đó rất tốt. Nếu tụi con không khéo, nhiều khi làm người ngoài hiểu lầm là bị ép vào khuôn khổ ngoài ý muốn của tụi con.

Khi có huynh đệ hoặc Thầy Tổ đến đây thăm, tụi con vui vẻ, bình tĩnh, đừng cười la to, mừng trong thanh thoát chớ đừng giòn giã quá, thấy đạo lực của mình còn yếu người ta cười. Nếu ai trông chờ để nghe những việc bên ngoài còn dở hơn nữa. Khi có người thân vào thăm, tụi con nên có tư cách nghiêm trang, tề chỉnh, vui tươi, đừng quyến luyến theo hoài làm người ta về không được, lại thấy tội nghiệp, sau đó thúc người này người kia đến thăm. Mỗi khi người ta tội nghiệp tụi con thì niềm hãnh diện khi được vào đây bị mất rồi phải không? Hóa ra tụi con bị khép vào trong khuôn ngoài ý muốn.

Đó là tâm lý tụi con phải nên dè dặt, hiểu cho rõ việc làm và cuộc sống của mình, đừng làm gì sai để người ta hiểu lầm. Gần đây có người thân H.A. tới thăm mà H.A. xin miễn tiếp, đó cũng là đáng khen. Còn như nghe người quen đến thăm liền phấn khởi chạy ra, đó là cái yếu.

Ở đây tụi con quyết chí tu, tâm hồn luôn thanh thản, nhẹ nhàng, giảm bớt mọi duyên trần, để sự tu của mình chóng tiến, đền ơn Thầy Tổ sau này. Vậy nên mỗi đứa ráng cẩn thận, làm sao để ai tới thăm cũng cảm thấy rằng tụi con đang tu với tâm niệm trong sáng, thanh tịnh, vui trong cuộc sống này, chớ không phải ép buộc sống trong hoàn cảnh này. Đó là điều Thầy muốn nhắc cho tụi con nhớ.

Thầy từng nói với tụi con, Thiền viện đang để ngỏ chớ không đóng. Chỉ một niệm không thích ở đây, xin đi Thầy cho liền. Nếu có ai cảm thấy không kham thì đến xin: “vì con hết duyên ở đây, cho con đi nơi khác”, Thầy gật đầu liền, không một lời ngăn trở, vì cửa để ngỏ mà! Như bên Tăng có thầy T.N. có công lớn ở đây, hôm rồi đắp y lên thưa: “Thưa Thầy, con thấy ở đây nhọc nhằn quá, khó tu, vậy Thầy cho con đi nơi khác.” Thầy bảo: “Ờ! trong bản Thanh qui tôi có nói: Nếu vị nào không muốn ở đây, xin phép ra đi tự do, không có điều kiện gì hết. Tôi hoan hỉ cho chú đi.” Đó là những người có công, Thầy còn không ngăn, không khuyên một lời, đừng nói là người không có công. Vì vậy ở đây Thầy nói để ngỏ, muốn đi thì được đi, còn ở phải an vui tu tập chớ không buồn phiền.

Tụi con hiểu kỹ đường hướng và chủ trương của Thầy – cả hai mặt. Về mặt đời sống, Thầy bảo đảm lo cho tụi con đầy đủ an ổn, không để bị thiếu thốn. Tụi con xét kỹ lại từ ăn, mặc… có gì thiếu thốn không? Như vậy phần đời sống không bận lo một chút gì. Kế đó là phần tu hành, thời giờ tu của tụi con tương đối dư không thiếu. Một tháng có hai kỳ học, nhắc tới nhắc lui để tụi con tu. Vậy, đứng về mặt vật chất và tinh thần, tụi con đều đầy đủ, còn gì mà buồn? Nếu có buồn là do những phiền não cỏn con vương vấn đâu đó làm cho buồn thôi.

Trong A-hàm có một bài kinh, đức Phật dạy: “Nếu một người ở với thiện tri thức, ăn mặc dư dả nhưng không được học đạo thì nên xá chào mà đi. Còn ở nơi nào tu học đủ, ăn mặc thiếu, phải nên cố gắng nhẫn nại xin ở để tu.” Như vậy, Phật dạy nơi nào có tu học đầy đủ là chỗ mình nương ở để tu. Còn nơi nào sung sướng mà không có tu học cũng không nên thừa nhận.

Ở đây, sự tu và học rất đầy đủ, còn việc ăn mặc không đến đỗi thiếu thốn, đó là duyên tốt để tụi con tiến tu. Buổi sáng tụi con phải lao động một buổi, hơi mệt, nhưng đó là cơ hội cho tụi con sống với thiên nhiên. Sống ngoài trời có nắng gió, cơ thể mình khỏe bền. Nếu cứ dồn trong nhà kín hoài một ngày nào tụi con sẽ thành bệnh. Thầy muốn tụi con có cả hai mặt, về tu thì ở yên trong Thiền đường, còn về hoạt động thì ở ngoài trời. Tụi con có thời giờ sanh hoạt bên ngoài, hít thở không khí, tiếp xúc với trời đất, vừa lao động cho máu huyết lưu thông, tốt cả hai mặt tu tiến và có sức khỏe.

Hiểu như vậy thì làm việc không phải khổ nhọc gì hết. Chúng ta sống sao cho điều hòa thân này. Nếu mình chiều nó ăn ngon ngủ kỹ, nó sẽ khỏe hay bệnh? Ăn nhiều, ngủ nhiều sẽ mập, mập quá là bệnh nhiều, phải không? Một ngày nào đó trăm thứ bệnh sẽ xảy ra. Dung dưỡng thân là làm cho nó bại hoại sớm, chớ không giúp nó sống dai. Tụi con nên hiểu rõ, đó là kinh nghiệm của người đi trước. Sống đúng với tinh thần Thiền viện, tụi con sẽ được an ổn khỏe mạnh vui tươi, tu hành thanh tịnh.

Ngày 27-10 Giáp Tuất (29-11-1994)

Hơn ba tháng nay Thầy đi vắng, ở nhà mấy đứa con tu hành tiến bộ tới đâu, tu có gì hay kể cho Thầy biết.

Bây giờ Thầy nói cho tụi con nghe tinh thần của người sống trong Thiền viện, sau đó Thầy sẽ kể chuyện ở nước ngoài đang có những nhu cầu gì đối với Phật pháp.

Trước hết nói về tinh thần Thiền viện, Thầy biết tu không phải năm bảy tháng, một hai năm mà tiến được nhiều. Mình tu cả đời nên Thầy không đặt thời hạn, chỉ trông mong tụi con mỗi ngày mỗi mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn, đó là tốt rồi.

Thầy đã từng nói với tụi con, người vào đây tu Thầy đặt hai trọng điểm. Trọng điểm thứ nhất phải sống đúng tinh thần lục hòa, vì Thầy nhìn trong giới Tăng sĩ bây giờ ít có nơi nào giữ được lục hòa, kể cả các Thiền viện dưới kia cũng khó giữ được. Thầy thấy lục hòa là trọng điểm mà tất cả Tăng Ni phải có. Thiếu lục hòa Tăng Ni sẽ sống rời rạc, sống trong tranh đấu. Lục hòa là nền tảng của Tăng. Chữ Tăng có nghĩa là hòa hợp chúng, muốn hòa hợp phải lấy lục hòa làm gốc, thiếu lục hòa là thiếu đức tánh Tăng sĩ Phật giáo.

Đó là chỗ then chốt mà lâu nay Thầy thấy các chùa mình không thực hiện được. Giả sử tụi con tu chưa sáng đạo nhưng sống đúng tinh thần lục hòa, thì ngày mai tụi con ở đâu tu hành, sống với huynh đệ cũng hòa hợp, làm Phật sự dù nhỏ cũng tốt. Hiện nay tụi con thấy có hai người hợp tác là có đụng độ với nhau, phải không? Sở dĩ đụng độ nhau là do không hòa. Vì vậy, đối với Thầy, phải thực hiện lục hòa cho được.

Thực hiện lục hòa phải vừa thô vừa tế. Về thô là những hình thức đồ đạc, ăn ở. Phần tế là tâm niệm, ý thức, phải luôn luôn xả ngã để sống hòa với chúng. Nếu tụi con làm được điều đó, mai kia Thầy tịch rồi, tụi con ra gánh vác Phật sự mới được, còn không có lục hòa không làm việc lớn được. Tại sao vậy? Vì một cá nhân không thể làm được việc, phải cần nhiều người, nếu không ai hòa với ai làm sao làm được. Dù cho có tài mấy mà cá nhân cũng chẳng được gì. Nên Thầy thấy muốn mai kia làm Phật sự được tốt đẹp, ngay bây giờ phải biết sống theo tinh thần lục hòa, trên huynh dưới đệ phải biết nhường nhịn, tha thứ và thông cảm với nhau.

Đồng thời về phần vật chất tụi con thọ dụng mọi thứ đúng theo tinh thần Thiền viện, đừng ai hơn kém ai. Sở dĩ sống không hòa nhau, trái ý chống chọi nhau có khi vì kẻ này nhận phần lợi nhiều, kẻ kia được ít, sanh chống đối nhau, đủ thứ chuyện từ nhỏ tới lớn. Cho nên sống hòa là thiết yếu. Chừng nào Thầy tịch rồi chưa biết sao, chớ bây giờ còn sống, Thầy bảo đảm tụi con không đói, không thiếu. Như vậy tụi con cứ yên lòng tu, đừng lo gì, đừng bận tâm nhờ người này, người kia giúp.

Ngày xưa Thầy đã thấy rõ nhiều trường hợp ở trong chùa, người nào có cha mẹ hoặc huynh đệ anh em khá giả được gởi tới giúp, còn người nào cha mẹ, anh em nghèo thì không được giúp; hoặc người có duyên được Phật tử thương giúp, người nào ít duyên không được giúp. Vì vậy trong chùa xảy ra cảnh kẻ hơn người thua, kẻ dư người thiếu đủ thứ chuyện. Nhiều khi cũng xảy ra chuyện ăn cắp, ăn trộm. Thật đáng buồn!

Do đó Thầy chủ trương tất cả tụi con sống bình đẳng, có gì chia đều nhau, không ai hơn ai kém. Mọi thứ như nhau thì đâu có gì nghĩ xấu cho nhau. Thầy muốn gây cho tụi con tinh thần hòa thuận, tất cả đều sống đồng nếp như nhau, đó là điều tốt. Tụi con nghĩ, mình tu cần gì khác nữa đâu, chỉ làm sao có cơm ăn áo mặc, đủ no đủ ấm, được an ổn để quyết tâm tu giải thoát sanh tử.

Ở đây Thầy tạo đủ điều kiện để tụi con tu tập, làm sao trong đời này tiến được, có phần giải thoát thật sự, không bị trói buộc. Thỉnh thoảng có một hai đứa dại khờ tự trói buộc mình rất là tội nghiệp. Thầy muốn tụi con thực hiện được lý tưởng giải thoát. Đã giải thoát được tình cảm ruột thịt từ cha mẹ, anh em, bây giờ vào đạo nếu còn bị trói buộc bởi tình cảm huynh đệ là không tốt. Gỡ bên này, cột bên kia cũng vậy thôi. Tụi con gan dạ đã cắt đứt được những trói buộc của gia đình, một khi vào đạo thì cắt hết duyên để trọn theo sở nguyện của mình, tiến tới giải thoát sanh tử. Đừng mở đầu này, cột đầu kia, quanh quẩn rốt cuộc không tu tới đâu. Ở đời không ra đời, tu đạo không ra đạo, uổng đi một kiếp sống, lại bận tâm Thầy phải lo.

Ở đây Thầy muốn dành cho tụi con phần đặc biệt chuyên tu, đứa nào cảm thấy không kham nổi thì rút lui nhường chỗ cho người khác. Bao nhiêu người xin không được, chẳng lẽ vô đây cứ mở với cột hoài, không tiến để uổng đi một đời, lại chiếm một chỗ của người khác. Thầy khuyên tụi con phải quyết tâm, dù cho có bệnh hay những thói quen làm mình trở ngại, một khi tụi con quyết tâm tu hành thoát ly sanh tử thì sẽ vượt qua. Chỉ vì thiếu quyết tâm nên thực hiện không được.

Tụi con ở đây không bị việc bên ngoài quấy rầy, chỉ còn một việc yên tu, sống theo nề nếp để thực hiện lý tưởng giải thoát sanh tử. Nếu đứa nào quyết tu như vậy ai rầy Thầy chịu cho, còn tụi con làm cái gì sai nhắc hoài không chịu bỏ, đó là tại thiếu quyết tâm. Biết rằng chúng sanh người nào cũng có tật xấu, thói này hoặc thói nọ, nặng hoặc nhẹ. Nếu không có tật xấu thì đâu cần tu. Vì có lỗi nên ráng tu, đã biết dở rồi phải quyết tâm khắc phục, vượt qua nó, đừng để thua. Như vậy tụi con tu mới được.

Ngoài ra trong chúng ai có thân bệnh, bệnh gì cứ khai rõ ràng sẽ có thuốc men uống, đừng làm thinh chịu bệnh hoạn. Có bệnh phải khai để mua thuốc uống, đến thầy thuốc trị. Còn ai bệnh kinh niên lâu năm ở đây không dám nhận, vì cứ đi trị bệnh hoài sẽ không có thời giờ tu. Không phải Thầy sợ và ghét người bệnh, chỉ vì Thầy muốn mọi người tới đây đều có thời gian tu. Nếu có một người bệnh chở đi bệnh viện thì phải cử hai người theo nuôi, cứ như vậy hoài làm sao chúng yên tu. Cho nên, những bệnh vừa phải, tụi con ráng vượt qua, còn bệnh kinh niên thì tụi con phải khéo ổn định đừng để kéo dài mãi không hay, đồng thời cũng đừng để vì bệnh mình mà huynh đệ không tu được. Thầy nhắc chung cho tất cả tụi con tự ý thức. Thật ra, khi có bệnh, nếu tụi con khéo tu sẽ vượt qua được hết, còn vụng tu qua không nổi. Đó là kinh nghiệm bản thân Thầy, không phải Thầy nói suông.

Tụi con thấy Thầy là người khỏe mạnh hay bệnh hoạn? Trước năm 1961 Thầy nằm bệnh viện Đồn Đất vì bệnh phổi, sau này thì bệnh tim. Bệnh phổi và tim, mà ngót một trăm ngày vừa qua ở xứ người, nay đi đây, mai đi kia, giờ giấc khác, ăn ở khác…, Thầy vẫn khỏe mạnh. Nếu Thầy không nỗ lực tu thì thành phế nhân rồi. Chính nhờ cố gắng Thầy vượt qua bệnh hoạn, trở thành người mạnh khỏe làm Phật sự.

Đó là phần của Thầy, tụi con ngày nay cũng vậy, dù cho có bệnh hoạn cũng phải hết sức tinh tấn, bệnh hoạn mới qua. Chúng ta sợ chết thì cái chết càng đến sớm. Không thèm sợ chết nó hoảng chạy xa. Nên phải gan dạ liều chết mà tu, ngày nào đó mình sẽ thắng nó, đó là điều Thầy đã kinh qua và thành công. Nếu tụi con không sợ bệnh, không sợ khó, không sợ đau chân, tụi con sẽ thành công. Còn như ngồi thiền đau chân quá muốn rút lui thì không bao giờ thành công được.

Ở đây Thầy tạo điều kiện cho tụi con tu, có cái gì quá đáng không? Như ở chùa Vạn Phật bên Mỹ, chỗ ngài Tuyên Hóa, một ngày ăn một bữa, ngủ thì ngủ ngồi, suốt đêm chỉ ngồi không nằm, khổ hạnh như vậy mà người ta vẫn tới tu. Còn ở đây đâu có khổ hạnh, ăn ngày hai bữa, buổi chiều uống bột, ngủ cũng được sáu tiếng đồng hồ một ngày, đêm năm tiếng, thêm một tiếng ngủ trưa. Ăn ngủ vừa chừng, còn lao động ba tiếng, chỉ có ngồi thiền ba thời, mỗi thời hai tiếng, cũng không nhiều lắm.

Thầy sắp xếp vừa phải, tụi con tu đều đều không lui sụt, chính mình được lợi ích, những người chung quanh nhìn thấy cũng quí kính, đến học hỏi. Gây được lòng tin nơi Phật tử, sau tụi con làm Phật sự dễ dàng, chớ Thầy để tụi con thong thả quá, sau không làm được gì hết. Ngày mai tụi con có uy tín với mọi người là nhờ ngày nay Thầy khép vào khuôn khổ.

Vì thấy có những lợi ích lớn lao như vậy nên Thầy phải lo kềm chế gìn giữ. Vậy tụi con phải ráng lên, chớ có lôi thôi. Chính nhờ cố gắng mà lý tưởng giải thoát mới đạt được, thả trôi không được lợi ích gì. Ở các nơi, tối tụng kinh, khuya trì chú, sáng ra đi đây đi kia mất thời giờ. Còn ở đây tụi con không bị mất thời giờ, ai khôn thì lợi dụng lúc công tác cũng tu. Như vậy Thầy cố gắng tạo cho tụi con đủ điều kiện để thực hiện lý tưởng tu hành, còn nỗ lực tu tập là phần tụi con. Thầy tạo khuôn mẫu kềm chế giúp tụi con, nhờ cái khuôn đó mà tụi con cố gắng lâu ngày sẽ thuần thục, mai kia dù ở đâu đều có nếp sống lục hòa đàng hoàng.

Điều đầu tiên tụi con ráng thực hiện cho được là lục hòa, kế đó là phải ráng tu, thâm nhập lý thiền, sáng tỏ ý đạo, như vậy, tụi con mới đủ tư cách gánh vác được việc lớn. Nếu thiếu một trong hai điều quan trọng đó cũng khó duy trì chánh pháp. Nên hôm nay Thầy nhắc tụi con ý thức trách nhiệm. Từ trong nước đến nước ngoài, người ta đều chú mục đến mình, phải ráng làm sao cho xứng đáng với lòng mong đợi của họ, đúng như tinh thần Thầy tuyên bố với quần chúng, đây là lý tưởng tối hậu của Thầy.

Vừa rồi Thầy đi nước ngoài, tới đâu người ta cũng hỏi: “Tại sao Thầy thành lập Thiền viện Trúc Lâm?” Thầy trả lời: “Thiền viện Trúc Lâm là lý tưởng tối hậu của Thầy. Trong những năm cuối đời còn lại, Thầy sẽ đem hết sức hướng dẫn Tăng Ni tu, khi Thầy nhắm mắt họ sẽ thay Thầy tiếp tục lo Phật sự sau này.” Như vậy Thầy có quảng cáo tụi con chưa? Tụi con là những người Thầy tin tưởng, mai kia sau khi Thầy tịch, sẽ là người thay thế để lo Phật sự. Ai cũng tin như vậy và quí mến lắm, cho nên gần Tết về sau, tụi con thấy họ về thăm liên miên.

Tất cả hi vọng Thầy đều đặt ở tụi con. Nếu tụi con tu hành không tiến là hi vọng của Thầy mất đi, không đúng như sự mong đợi. Nên tất cả phải nỗ lực, luôn luôn tỉnh sáng đừng để vô minh phiền não che mờ, mất đi thời gian quí báu của mình.

Không biết Thầy còn sống bao lâu, Thầy muốn trong thời gian này ai cũng tu hành đắc lực, để khi Thầy nhắm mắt rồi, tụi con có thể làm được việc này việc nọ. Những Thiền viện trước đây không thể thực hiện được đúng như ý Thầy muốn. Chỉ có nơi sau cùng này đủ điều kiện, Thầy có thể thực hiện đúng tinh thần lục hòa, thực hiện đúng những điều cần thiết cho tụi con tu học. Trong những năm chót, các điều cần dạy Thầy dạy hết cho tụi con. Trách nhiệm của Thầy bây giờ nặng hơn hồi xưa, vậy tinh thần tu hành của tụi con cũng phải mạnh mẽ, tiến hơn hồi xưa, không thể chần chờ.

Những năm trước ở Thường Chiếu, Linh Chiếu, Viên Chiếu khó khăn, Thầy cho Tăng Ni hát ca nghêu ngao trong đồng ruộng. Quá vất vả nên có chút vui cho quên đi nỗi cực. Bây giờ hoàn cảnh thuận lợi, tụi con không còn nhọc nhằn như ngày xưa, nhọc bây giờ chỉ là nhọc… ngồi thiền. Có đứa nào ngán ngồi thiền không? Tụi con ngồi chừng nào thấy thích mới được. Có vị cư sĩ tới thăm Thầy nói: “Con ngồi thiền như ăn thức ăn, thiếu ngồi thiền buồn.” Người ta cư sĩ còn ghiền ngồi thiền, nếu Tăng Ni tới giờ ngồi thiền mà ngán là trái rồi, nên tụi con phải tinh tấn tu. Cái gì cũng do tập mà quen, ngồi thiền có kết quả tụi con sẽ thấy có niềm vui trong sự tu.

Đúng ra tu thiền không phải chỉ ngồi, mà đi, đứng, nằm, ngồi đều tu. Hiện nay tụi con giờ lao động chưa được như lúc ngồi thiền, nên Thầy bắt ngồi nhiều, chớ nếu đi lao động cũng giống như ngồi thiền thì đâu cần ngồi nhiều. Tụi con cam kết với Thầy giờ lao động cũng giống như ngồi thiền được không? Không ai dám cam kết thì phải ráng ngồi thiền sáu tiếng mỗi ngày. Nhờ ngồi nên mới an ổn, dứt các duyên bên ngoài, còn đi làm thấy việc này nghe lời nọ, tâm duyên theo thì đạo lực sẽ yếu. Khi ngồi mọi điều cắt đứt hết, giúp cho mình tiến nhanh hơn nhiều.

Người nước ngoài bây giờ thích tu thiền. Kỳ này Thầy tới đâu họ cũng giới thiệu Thầy là Thiền sư Việt Nam, buộc lòng Thầy phải giảng Thiền Việt Nam, đồng thời Thầy giải thích cho họ hiểu Thiền là gì. Người ta nghe, hiểu Thiền là nguồn gốc của đạo Phật. Chư Tổ Việt Nam ngày xưa là những vị tu Thiền đạt đạo, nhưng về sau này nước nhà loạn lạc, các chùa Việt Nam phai mờ nguồn gốc Thiền tông. Cho nên từ nay về sau, không những mình tu cho mình mà còn có nề nếp vững chắc để từ từ khôi phục lại Thiền tông Việt Nam. Đó là trách nhiệm hết sức nặng nề, không phải nhỏ.

Nếu Thầy chủ trương khôi phục Thiền tông Việt Nam mà những người tu theo Thầy đều yếu đuối, thì chuyển nổi không? Đời Thầy không làm xong, trông cậy vào đời các con. Tụi con quyết tâm tu trăm người, giả sử Thầy giỏi một trăm phầm trăm, tụi con mỗi đứa chỉ cần bằng Thầy hai mươi phần trăm, một trăm đứa hợp lại cũng hơn Thầy. Thầy mong rằng sau này Thiền tông Việt Nam sẽ sống dậy mạnh mẽ, mà Thiền viện Trúc Lâm là gốc. Nó là gốc thì những cái rễ phải thật bền chắc, sâu xa. Thầy mong mỏi tất cả tụi con đều ý thức được việc đó, phải ráng tu.

Thầy công khai tuyên bố chuyển Phật giáo Việt Nam hay làm sống dậy Thiền tông đời Trần, đời Lý. Đó là trách nhiệm rất nặng. Đời Thầy chắc làm được một phần tư hay một phần tám thôi, còn dài về sau là phần tụi con. Nếu tụi con không gan dạ, cố gắng thì phần kế tiếp Thầy ra sao? Tất cả phải ý thức rõ trách nhiệm của mình. Thầy nói cho những người nước ngoài biết đường lối chủ trương của Thầy như vậy, ai nấy đều hoan nghênh và cho là hợp lý. Còn trong nước Thầy không dám nói nhiều, vì nói, các ngài cho là Thầy chống đối Tịnh độ, không tốt. Thầy chỉ nói sơ sơ trên giấy tờ và bài vở thôi, chưa công khai giảng nói như ở nước ngoài.

Như vậy để tụi con hiểu chủ trương đường lối của Thầy là làm sống dậy Thiền tông Việt Nam. Vậy đòi hỏi ở tụi con hai phần. Một là phải thâm nhập được lý thiền. Thứ hai, phải sống đúng tư cách của người xuất gia gương mẫu, người ta tin tưởng thì mới chuyển hóa họ được. Do đó Thầy bắt buộc hơi nhiều điều. Ở các Thiền viện, Thầy cũng bắt phải kềm chế lại cho Tăng Ni tu thật đúng đắn để mai kia người ta có thể tin tưởng nơi mình.

Thầy tuyên bố rồi, nếu tụi con làm lẹp xẹp không ra gì người ta sẽ cười cho.

Đây là trọng trách rất nặng chớ không phải thường. Trọng trách đó hầu như Trúc Lâm phải gánh vác, là đơn vị đi đầu. Tụi con phải thấy trách nhiệm của mình để chu toàn. Hiện giờ ráng tu thâm nhập được lý thiền, đồng thời phải đủ tư cách làm người mẫu mực. Nếu thiếu hai điều này tụi con không làm được gì. Muốn thành tựu tốt đẹp phải tinh tấn tu hành, có đức hạnh tốt. Làm được hai việc đó mới đúng nghĩa xuất gia.

Thầy ép tụi con mang trọng trách cũng không ngoài lý tưởng tụi con. Vậy những người có mặt ở đây đều phải có trách nhiệm. Ngày nay còn ở trong chúng đông đảo, sống chung nhau là cơ hội cho tụi con thấy được những sơ sót và lỗi lầm của mình để sửa và bỏ. Sau này các con lớn lên ra trụ trì nơi này nơi nọ, không ai dám chỉ lỗi cho, làm sao biết mà sửa. Nên đây là thời gian tốt để tụi con tự sửa lỗi mình.

Hôm qua có chú cư sĩ ngoài Bắc vô xin Thầy hai việc: Thứ nhất, xin người ra ngoài Trúc Lâm Yên Tử trụ trì, chùa đang sửa sang lại. Nếu có người họ sẽ đem xe vô đón, giấy tờ họ lo hết. Thầy từ chối vì mới lập Trúc Lâm một năm, đâu có người để cử. Thứ hai, bây giờ tại Quán Sứ có một lớp học tu thiền, người trong thành phố và người ở xa cũng lặn lội tới dự. Không có Tăng Ni, chỉ có đạo hữu Phụng hướng dẫn. Như vậy nhu cầu trong nước cũng đòi hỏi.

Trong và ngoài nước đều qui hướng về mình mà mình thiếu người. Nên những năm còn lại Thầy hết lòng dạy dỗ, tụi con phải ráng tu, có đức hạnh, sống đúng nội qui. Như vậy, mai kia mới có người gương mẫu để gánh vác Phật sự lớn lao này. Tụi con có trách nhiệm nặng phải tự mình rèn luyện, chuyển sửa những xấu dở, đừng nghĩ ở đây sao khó quá, cái gì cũng khuôn mẫu, không như những chỗ khác thong thả tự do, muốn ăn thì ăn muốn ngủ thì ngủ. Khép mình trong khuôn mẫu là điều tốt.

Qua Tết sẽ có một số vị trong tôn giáo bạn vào tập tu. Nếu tụi con ngồi thiền không ra gì còn người ta ngồi hai tiếng thì sao? Bây giờ nhiều người đang hướng về Thiền. Đường lối tu của mình tuy khó khăn nhưng người ta lại thích. Hướng tu của mình vừa tự lợi vừa lợi tha, đúng vào lúc người ta cần. Quí vị đó tới đây sống chung tu hành với mình, nếu họ thấy Thanh qui một đường chúng ta làm một ngả sẽ đánh giá tổ chức mình ngay. Cho nên, tất cả phải chân thành sống đúng Thanh qui, không nên lôi thôi. Tụi con sống theo đúng Thanh qui chẳng những có lợi cho sự tu mà còn tập cho mình có nề nếp, đạo đức lâu bền. Vậy nên tụi con phải cố gắng giữ gìn ngôn ngữ hành động nghiêm chỉnh, đàng hoàng.

Chúng ta tu cho mình, lại có trách nhiệm gầy dựng Thiền học Việt Nam cho xứ sở, tu để có khả năng hướng dẫn Phật tử trong nước và ngoài nước, tu để làm mẫu mực cho những người tới tập tu với mình. Thật là quá nhiều bổn phận! Vậy, tụi con ráng nhớ trách nhiệm của mình mà nỗ lực tiến tu.

Ngày 13-11 Giáp Tuất (15-12-1994)

Phần thỉnh nguyện đã xong, giờ đây Thầy nhắc nhở trong chúng. Tụi con có lỗi ra sám hối, được đại chúng chỉ dạy để sửa. Nếu thỉnh nguyện chân thành, biết lỗi sám hối chừa hẳn, hoặc được chỉ lỗi để sửa, tụi con sẽ tiến bộ, tu hành tinh tấn, bởi vì không ai không có lỗi, chỉ có chịu sửa hay không thôi. Nên trong nhà Phật đặt sám hối tức là ăn năn hối cải vào hàng quan trọng. Phật biết chúng sanh ai cũng có bệnh, biết sám hối chừa cải là quí, rồi từ đó về sau thành người tốt tu hành; còn nếu mình có bệnh mà không sửa chừa tất sẽ lui sụt. Đó là lời nhắc nhở chung về sám hối.

Kế đây Thầy nhắc tụi con biết tất cả những mong ước và hi vọng của Thầy gởi gắm nơi tụi con. Thầy đã nói rất nhiều lần rồi. Tụi con hiểu được cuộc đời là vô thường, đau khổ, nên quyết chí xuất gia vì mục đích giải thoát sanh tử, đó là sở nguyện chánh. Phần nhiều các nơi, kể cả những Thiền viện của mình cũng không đủ điều kiện thực hiện sở nguyện tụi con, vì có nhiều vấn đề phức tạp hoặc là lo lắng việc này việc nọ, sự sắp xếp không được ổn định.

Ngày nay Thầy thấy những thiếu sót đó nên lập Thiền viện Trúc Lâm để tụi con đủ điều kiện thực hiện lý tưởng giác ngộ giải thoát. Ở đây tụi con cứ làm tròn bổn phận như trong Thanh qui đã qui định sẵn. Tụi con đều có ý chí quyết liệt tu hành, nên sống một cách đạm bạc. Nếu mình sống dư dả thừa thãi, người thế gian sẽ phê bình. Vì vậy chúng ta sống lúc nào cũng cần kiệm, đạm bạc, nếu có dư giúp lại những chỗ thiếu, chớ không sống một cách thừa thãi dư dả quá, không tốt.

Tụi con sanh hoạt theo Thanh qui không được trái giờ giấc, giờ nghỉ thì nghỉ, giờ tu lo tu, giờ lao động đi lao động, tự chăn lấy tâm mình, mọi việc chu toàn phần mình. Đừng lo áo rách làm sao sắm, hay là ít hôm nữa đi đâu không có tiền, bệnh làm sao có thuốc… Thầy bảo đảm lo hết, không để tụi con đói rét, không để tụi con bệnh không có thuốc thang. Tất cả những gì tụi con cần đều có để đời sống được yên ổn, ngoài ra các việc lo lắng của người đời tụi con không phải bận tâm.

Ở đây tụi con chỉ có chuyện lo tu là trên hết, giờ giấc tu hành phải đủ, nề nếp giữ cho tốt. Thầy đã nhắc nhiều lần, ở đây không những tụi con tu với nhau mà còn phải làm gương cho những người khác tới tập tu, nên ráng giữ giá trị tư cách của mình. Có những người đạo khác tới tu với mình năm ba tuần, trách nhiệm tụi con không đơn giản nên phải có tư cách. Khi người ngoại quốc tới, tụi con có lễ độ, biết quí trọng người lớn, muốn tặng biếu ai, hoặc nói với ai điều gì nên xin phép trước. Đừng tỏ vẻ thiếu lịch sự, người ta cười mình.

Không nên đùa giỡn vui chơi như những nơi khác. Ngày xưa ở Viên Chiếu, sống trong rừng lao động cực nhọc, Thầy cho ca hát. Còn ở đây cấm tuyệt không cho hát vì hoàn cảnh đã khác. Thầy khó, không phải làm cho tụi con khổ, mà cốt giúp tụi con nhiếp tâm, dè dặt, sống có lịch sự có nề nếp chớ không phải kềm chế để thành cây khô vô ích đâu. Tụi con gắng tu mai kia làm gương mẫu cho người. Thầy trông cậy ở tụi con, nếu các con hiểu đạo mà tư cách hành động không hay, người ta sẽ khinh cười. Học, tu và có đức hạnh, cả ba cái đều đầy đủ không thiếu sót, tụi con mới thực hiện được điều Thầy mong đợi.

Ở đây cực và khó hơn chỗ khác, đừng vì sự cực và khó đó mà tưởng là khó tu, chính hai điều này giúp cho tụi con dễ tu hơn. Tụi con không bận tâm việc gì, không bị khách khứa làm nhiễu loạn, không có chuyện vui buồn đem tới, chỉ có một việc tu. Nếu tụi con dồn hết tâm lực tu năm bảy năm tất sẽ tiến được, còn để buông lung chạy theo bên ngoài làm sao tiến?

Thầy đã cảnh cáo tụi con nhiều lần rồi, tuổi thọ của Thầy không còn dài, không thể chờ tới mười năm, hai mươi năm nữa, chỉ năm bảy năm thôi. Thời giờ ít lắm rồi, ráng tu sao cho tiến bộ. Tụi con tự làm tròn bổn phận mình, đừng tưởng có Thầy ở gần tụi con tu từ từ cũng được. Vì thời gian quá ngắn ngủi nên tất cả ráng giữ gìn. Bao nhiêu người đang trông vào chúng ta, làm không ra trò gì là một lỗi lớn.

Các mặt tu, học và hạnh kiểm tụi con đều phải giữ đúng qui củ để trở thành con người mẫu mực. Ai đến với mình lúc ra về cũng có tâm quí mến, đừng để người ta cười. Thầy đã nói đây là lý tưởng tối hậu của Thầy, nếu Phật tử tới đây không thấy có gì xứng đáng hết thì điều Thầy trông đợi nơi tụi con không thành. Vậy tất cả tụi con, từ lớn tới nhỏ đều phải ý thức rằng mình có trách nhiệm rất nặng, lo kềm chế, gìn giữ cho sự tu ngày càng tiến. Làm sao ba đến bảy tháng có phát minh hay.

Thầy cấm không được làm thơ, vì làm thơ tâm dễ xao xuyến, trừ khi ngộ rồi mới được làm. Nhưng ngộ mà viết hoài không dừng cũng thành bệnh nữa, làm một hai bài để trình thôi. Làm thơ hoài là bệnh chớ không phải vì tu tâm sáng suốt có văn chương hay. Như Thầy biết các vị xưa, khi ngộ rồi thích quá cầm bút viết hoài không thôi, tưởng vậy là hay nhưng bị chư Tổ quở, phải bỏ đi ngủ một giấc dài mới hết. Làm thơ kệ nhiều trở thành chướng ngại cho sự tu hành, cần phải cẩn thận.

Từ hành động không thô tháo, tâm niệm không buông lung, lời nói cẩn mật, ý niệm không lơi lỏng, sự tu tụi con sẽ tiến. Nếu đứa nào cũng dồn tâm ý trong việc tu thì đôi ba năm tụi con tiến bộ, còn thả trôi rất khó tiến. Vì vậy lên đây tất cả khả năng, tinh thần, sinh lực tụi con đều dồn trong việc tu, không bận bịu cái gì khác. Thầy tạo hoàn cảnh thuận tiện, tụi con đủ điều kiện để làm việc đó. Đừng nên quan tâm điều gì ngoài bổn phận của mình.

Tụi con tu được thì mọi ơn đức đều trả được, nếu không tu, dù thương cha mẹ, kính mến Thầy Tổ đều không đền được chút ơn nào. Chỉ có tu là đền đáp đủ tất cả những gì người chung quanh mong muốn trông đợi mình; làm tròn bổn phận là không cô phụ lòng tốt của người lớn, thân bằng và của thí chủ.

Thầy có lời nhắc nhở, tất cả nên cố gắng.

Ngày 1-12 Ất Hợi (1-1-1995)

Thỉnh nguyện vừa rồi, ai có lỗi dù lớn dù nhỏ đều tỉnh giác ra trước chúng sám hối. Đó là tinh thần tự giác cao, đáng khen. Nhưng còn thiếu phần chỉ lỗi giùm, không ai chỉ ai hết. Nếu thật không có lỗi là tốt, còn có mà không chỉ là điều thiếu sót. Vậy mong rằng trong chúng nếu có lỗi lầm, Ban chức sự không thấy mà tụi con thấy, trong buổi thỉnh nguyện nên chỉ giúp cho nhau. Vì tất cả chúng ta người phàm, không ai tránh khỏi tội lỗi, nhưng có lỗi biết sám hối chừa bỏ là chuyển từ phàm thành Thánh. Có lỗi mà không dám nhắc nhở nhau là điều thiếu sót, làm cho sự tu hành khó tiến. Vậy trong chúng hãy nhắc nhở cho nhau nhiều hơn nữa.

Gần một năm nay, Tăng Ni tu hành ở các Thiền viện có chút ít tiến bộ, qua sự trình bày thấy có bước tiến đáng mừng. Thiền viện Trúc Lâm thành lập chưa đầy năm cũng đã có những bước tiến đáng kể. Đó là điều vui, có tu có tiến, chắc chắn như vậy. Quả thật những người nỗ lực chuyên tu có những bước tiến rõ ràng.

Vậy, trong chúng muốn có cơ hội tu hành tiến triển để bước lần trên con đường giải thoát hãy ráng nỗ lực hơn. Tu tiến rồi tụi con sẽ bước những bước dài và xa. Nếu tụi con chần chờ sẽ chậm trễ, trong khi huynh đệ đang có những bước tiến đáng mừng, Tăng cũng như Ni. Tại sao người ta tiến được mà mình không tiến, lỗi tại ai? Do vì không cố gắng. Vậy trong chúng mỗi người phải nỗ lực hơn. Trong đôi ba năm có sự tiến bộ, đó là niềm an ủi Thầy nhận được từ chư Tăng Ni trình lên.

Kế đây Thầy nhắc thêm, trong mục đầu của bản Thanh qui nói: Phải có thái độ dứt khoát, kiên quyết, dù khó khăn chướng ngại bên ngoài đến hay từ trong thân tâm ra, mình đều vượt qua. Đối với người tu, chướng ngại bên ngoài còn dễ gỡ hơn chướng của nội tâm hay chướng bản thân. Nội tâm là phiền não chướng. Thân là báo chướng. Thân dễ sanh bệnh hoạn, do bệnh hoạn chúng ta thối chí, trở nên yếu đuối, đó gọi là báo chướng. Tâm thì có vui, buồn, thương, ghét làm chướng ngại. Các chướng này phải ráng vượt qua. Khi hết những chướng bên ngoài và chướng bên trong, tụi con sẽ đầy đủ công năng và công đức để đi trên con đường giải thoát. Nếu bị chướng nội tâm hay bản thân sẽ dễ thối tâm và đường tu của mình cũng theo đó mà thối chuyển.

Vậy mỗi người đều phải tự kiểm điểm, nếu thấy có gì chướng phải cắt đứt, đừng để nó ngăn trở chúng ta. Trên đường tu ai cũng phải cố gắng, không ai thảnh thơi mà bỗng dưng ngộ đạo được. Người xưa tu đạo dồn hết thân tâm coi như người chết, do đó các ngài mới ngộ, chớ đâu có tu chơi chơi mà ngộ đạo.

Bởi vậy, tu phải tập cố gắng nỗ lực, gồm có hai phần: cố gắng chống những chướng duyên bên ngoài và nỗ lực loại bỏ chướng duyên bên trong; trong ngoài loại bỏ hết tự nhiên thân tâm thanh tịnh. Đó là người khéo tu, biết đường đi. Nếu lôi thôi chần chờ thì tới già, chết không có kết quả gì. Thầy mong tất cả ý thức rằng tu là đi trên con đường giải thoát, muốn đạt được mục đích cuối cùng tụi con phải cẩn thận dè dặt, luôn kiểm điểm lại mình, tỉnh táo sáng suốt trước mọi hoàn cảnh, đừng để nó làm trở ngại mình. Đó là người sáng suốt trên bước đường tu.

Ngày 14-12 Giáp Tuất (14-1-1995)

Thầy nhiều lần nhắc nhở, chúng ta chưa là Thánh nên ai cũng có lỗi lầm, nhưng lỗi lầm mà biết sửa thì từ từ trở thành hay, tốt. Biết lỗi sám hối là điều đáng khen, đáng mừng chớ không phải xấu dở. Vì vậy tụi con khi có lỗi, biết sám hối, chừa bỏ là tốt. Mong rằng tất cả trong chúng, mỗi người đều cố gắng tu hành và gìn giữ, lỗi lầm ngày càng giảm bớt, để thân tâm được an lạc.

Tất cả tụi con đều quyết chí tu cầu giải thoát, nhưng trong khi tu cũng có nhiều trở ngại hay lúc làm việc có những cái chướng. Nay Thầy nhắc nhở cho tụi con hiểu rõ ràng về sự tu hành. Trong đạo Phật, muốn được giải thoát phải nhìn tường tận lại mình, từ chuyên môn gọi là “phản quan tự kỷ”. Nhìn tường tận nơi mình, biết rõ cái gì là thật, cái gì là giả. Trước hết phải biết cái giả thì mới nhận chân được cái thật nơi mình. Tụi con kiểm điểm lại thấy tâm và thân mình cả hai cái đều không thật mà hiện nay chúng ta đang mắc kẹt hai cái đó.

Đạo Phật lấy vô ngã làm nền tảng giải thoát. Sở dĩ chúng ta chấp ngã là vì thấy thân này hoặc tâm suy nghĩ phân biệt là thật, là tâm mình. Cả thân tâm đều không thật mà chúng ta luôn luôn chấp thật. Đó là nền tảng si mê, là vô minh. Còn thấy tâm thật, thân thật thì sanh tử muôn đời không bao giờ dứt. Muốn dứt sanh tử phải dứt tạo nghiệp, còn thấy thân tâm thật là còn tạo nghiệp. Vì vậy Phật nói vô ngã, không thấy thân thật, cũng không thấy tâm thật. Vậy mà lâu nay chúng ta chấp cái hư giả cho là mình. Do chấp như vậy nên luôn tạo nghiệp, đi trong luân hồi.

Chúng ta quyết tâm tu giải thoát sanh tử, trước hết phải thấy rõ thân, tâm sanh diệt hư dối không thật. Đây là nền tảng sự tu. Thân tâm không thật nên không còn chỗ để chấp trước và ái nhiễm. Chúng sanh mất thân này liền chụp thân khác, đều do vì chấp thân, mất nó tưởng như mất mình. Hoặc chúng ta chấp tâm phân biệt suy tính cho là tâm mình, nên theo niệm dấy khởi tạo nghiệp, làm nhân luân hồi sanh tử. Thân và vọng tâm là gốc sanh tử, vì vậy phải luôn nhớ thân tâm này không thật. Học trong kinh Kim Cang Phật dạy hai cái đều hư dối giả tạm, vậy mà mình vẫn thấy thật như thường. Đó là học mà không thấm.

Hồi xưa, trong khi Thầy học và tu ở Chân Không, Phật dạy giả mà mình thấy không giả; đọc Bát-nhã: “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” làu làu mà thấy “có” chớ không phải “không”. Bệnh chúng ta là chỉ thuộc danh từ mà không thấm ý nghĩa. Ý nghĩa đó phải đem hết tâm tư quán chiếu mới thấy được. Cho nên sau này lúc chuyên tu, Thầy phát hiện ra được cái giả của thân, đối với thân này không còn lầm nữa. Còn tụi con nói giả là nói theo lời Phật, quán theo lời giảng của Thầy chớ không thật thấy.

Thầy phát minh ra sao tụi con nhớ không? Thường mình phân tích thân năm uẩn hay tứ đại này là giả, lối phân tích đó dùng lý trí chớ không thấy lẽ thật. Nhưng rồi một hôm Thầy nhận ra lẽ thật đó, mới thấy thân này là giả không chối cãi được. Thân do tứ đại hòa hợp thành nhưng phải mượn tứ đại bên ngoài để tồn tại. Mượn bằng cách nào? Lỗ mũi chúng ta hiện đang thở nghĩa là đang mượn không khí bên ngoài đem vô. Hít là mượn, thở ra là trả. Chúng ta sống đây chỉ là sự mượn trả đều đặn, nếu ngưng lại chết liền. Như vậy là thật hay giả?

Nếu thân thật thì không phải mượn, tự nó tồn tại. Còn cái này mượn rồi trả, mượn không trả là chết, trả không mượn cũng chết, trả mượn gọi là sống. Vay mượn tức không phải thật là mình. Một lát mượn tách nước rồi trả. Một lát mượn chén cơm cũng trả. Một ngày kiểm lại, toàn là tìm đủ điều kiện để mượn đất, nước, gió, lửa đem vô rồi trả ra. Mượn trả, mượn trả, chỉ có cái mau cái chậm thôi. Gió thì mượn trả liền, nước vài tiếng đồng hồ trả, đất ngày sau trả. Cứ như vậy, sự sống mình là cái gì? Sự sống chỉ là sự vay mượn đều đặn. Sống bằng vay mượn làm sao thật được! Nếu mượn trả đều đặn, suôn sẻ là sống mạnh khỏe, hạnh phúc, còn trục trặc thì chở đi bệnh viện!

Như vậy cuộc sống mình là gì? Thử định nghĩa lại “sống” là gì? Tụi con kiểm xem tất cả mọi người đang sống chỉ là mượn trả mà không ý thức được điều đó, lại hiểu lầm về các công dụng phụ. Như ăn là mượn đất mà không ngon thì nuốt trọng nên phải có chút gì đó cho ngon, nuốt vô đầy bao tử rồi trả. Nhờ có chút vị ngon để mượn trả hăng hái một chút. Khi ăn ngon phải nhớ mình ăn là mượn vô tạm rồi trả chớ không phải còn hoài.

Tụi con nhớ từ hồi nhỏ đến lớn, đến già cũng mượn trả, tới lúc trả không mượn là chết. Như vậy suốt cuộc đời giá trị ở chỗ nào? Vay mượn mà giá trị gì! Chỉ có mượn trả đều đều, ở đâu có đủ điều kiện mượn trả là chỗ văn minh. Mượn mà trả không được là khổ sở, hoặc trả không có mượn cũng khổ. Cả hai đều khổ. Nếu mình bám vào thân hư dối này thì cuộc sống không có nghĩa lý gì hết. Cái thân tạm bợ chấp là thật mình, đó là si mê đáo để! Cơm nước, không khí ở ngoài, hễ mượn đem vô liền nói của mình. Hiểu vậy rất là lầm!

Trong kinh thường nói, sống trong thế gian này do duyên hợp mà còn, duyên ly tán thì mất. Khi Thầy ngồi lại nghiệm thấy rõ sự sống trong vay trả, biết rõ ràng như vậy thấy cuộc sống mình bớt quan trọng đi, không còn nghĩ mình ăn, mình uống, mình làm này làm kia, chỉ là mượn và trả. Đồ mượn thì dở dở cũng được không cần tốt, đâu có gì quan trọng. Chỉ là chút cảm giác ở lưỡi, vậy mà đồ ngon thì thích, đồ dở không ưa. Chưa chắc đồ ngon bồi bổ tốt. Thí dụ thuốc uống không ngon nhưng giúp ích cơ thể, ăn chiên xào thấy ngon chưa chắc gì không gây bệnh.

Như vậy, hiểu rõ cuộc sống là vay mượn tạm, không có gì quan trọng. Đừng lệ thuộc vào lưỡi, vào mùi vị, là thắng được cảm giác, làm chủ lấy mình. Người đời thích ăn ngon nên phải làm lụng cực khổ. Các cảm giác đó chẳng có gì bền lâu, đều là mượn trả. Nhớ như vậy tụi con giảm bớt sự lệ thuộc vào cảm giác, không bị nó lôi đi.

Đó là Thầy chỉ cho tụi con thấy thân này không thật. Rõ ràng là như vậy. Nếu mình nhận chân được lẽ đó, nhìn lại thấy cuộc đời thật tức cười. Mấy chục năm mượn trả rồi lần hồi hoại luôn, đất lại về đất… Hiểu được lẽ đó rồi thấy cuộc sống không có gì quan trọng, vậy mà người ta suốt đời chạy theo cảm giác, ăn, mặc, ngủ… không thể có tinh thần siêu xuất, chỉ lăng xăng với những cái rất tầm thường tạm bợ của thân.

Thầy thấm thía câu chuyện Phá Táo Đọa.

Ở làng nọ, dân chúng thờ ông Táo trong đền rất linh, cầu xin cái gì cũng được, nên người ta làm gà vịt liên miên để cúng. Khi ngài Phá Táo Đọa đi qua đó, thấy dân chúng giết hại chúng sanh nhiều quá, Ngài hỏi, dân làng nói:

– Ông Táo ở đây linh lắm, cầu gì cũng được nên chúng tôi tin tưởng.

Ngài cầm cây gậy gõ lên bếp ba cái, bảo:

– Dốt! Bếp này chỉ do đất nung thành. Thánh từ đâu đến, linh từ đâu lại mà giết hại sinh vật như thế?

Sư lại gõ ba cái, ngay lúc đó bếp vỡ vụn rơi xuống. Dân chúng sợ hãi:

– Thế nào Hòa thượng cũng bị vật chết!

Nhưng rồi Ngài không sao cả. Đi một đoạn đường, Ngài thấy một người mặc áo xanh quì ở giữa đường trước mặt, bèn hỏi:

– Ông là ai?

Trả lời:

– Tôi là thần Táo. Nhờ ơn Hòa thượng nhắc nhở mà tôi được tỉnh, sanh lên cõi trời. Nay đến đây xin tạ ơn Hòa thượng.

Ngài nhắc nhở cái gì? Ông Táo nhờ đất nước gió lửa hợp thành. Khối đất đó linh thiêng là do thần thức của người nương dựa vào, gọi là quỉ thần hay thần Táo, rồi tác oai tác quái. Ngài chỉ nhắc do đất nước gió lửa hợp thành, vậy linh từ đâu mà đến. Vị thần giật mình hiểu rõ, chỉ là gá với đất nước gió lửa chớ không có gì thật nên bếp tự vỡ vụn. Biết rõ, buông nó là thoát kiếp thần Táo.

Tụi con nhớ mình đang gá cái gì đây? Cũng từ đất nước gió lửa mà thành, vậy mà tưởng là thật mình. Như tụi con thấy người ta giết heo xẻ bụng ra để trên thớt. Nếu nhìn bằng con mắt sáng suốt thì da thịt con heo đó là hôi tanh, nhưng tại thèm ăn nên thấy ngon, không thấy sự thật ghê gớm, máu tanh hôi hám. Đối với thịt súc vật, thịt của mình có khác không? Nhìn thấy tường tận da thịt của mình cũng như da thịt con heo, con bò vậy thôi. Đem tất cả bộ phận của con người để ra ngoài, tụi con ưa không? Khi nó tạm ổn trong thân lại lầm mê ưa thích nó!

Chúng ta đang gá tứ đại mà cho là mình rồi chấp chặt, mất thân này, chụp thân khác nên bị luân hồi sanh tử. Biết rõ tứ đại này không thật, không phải mình, là thức tỉnh, thoát khỏi trầm luân. Ông Táo khi thức tỉnh, rõ cục đất không phải mình liền sanh về cõi trời.

Biết thân không thật là một bước tiến, không còn đọa trong ba đường khổ, không đi trong lục đạo luân hồi, nhưng chưa phải là cứu kính. Phải thấy tâm này không thật nữa. Ngày nay nghĩ vầy, mai nghĩ khác, lăng xăng lộn xộn, chợt thế này, chợt thế kia. Nó là bóng, chạy theo sáu trần, duyên theo bóng sáu trần, không thật. Lâu nay chúng ta chấp nó là thật rồi hơn thua phải quấy đủ chuyện, lẩn quẩn trong đó hoài, thật là khổ sở.

Tuy vọng tâm là cái bóng không thật nhưng chúng ta chấp nó nên nó có khả năng tạo nghiệp. Ví dụ như mình khởi nghĩ đi cuốc một vồng khoai, đào đường mương, nghĩ vậy rồi đứng dậy đi lấy cuốc, lên vồng khoai, đào đường mương. Cái nghĩ không có hình dáng thật thể nhưng làm theo nó thì có luống khoai, đường mương thành hình, ai cũng thấy cụ thể. Bởi vậy, mọi việc chúng ta làm, thiện ác, tốt xấu đều gốc từ ý nghĩ mà ra.

Ý nghĩ là nhân, làm ác làm thiện là quả, quả đó là nghiệp nên nói nghiệp quả. Nghiệp lành, nghiệp dữ đều từ ý nghĩ mà ra. Khi tụi con còn ôm ấp những ý niệm tốt xấu, phải quấy, hơn thua thì có thể bình an được không? Khen chê, giận ghét đều do nghĩ tốt, nghĩ xấu mà ra. Có khen chê giận ghét thì tâm lăng xăng thật là bất an. Tâm bất an là điên đảo vọng tưởng, mà mình chấp thật.

Người đời chấp phải quấy hơn thua nên khổ nhiều, tạo nghiệp đi trong luân hồi, tụi con buông hết các thứ tâm đó tự nhiên được an ổn. Nếu một phút ngồi chơi không nghĩ gì hết, lúc đó có mình không? Những thứ tâm hư dối tạo nghiệp hư dối là chướng, là sanh tử luân hồi, không thật. Tu là sống với cái không hư dối, an ổn, thanh tịnh. Trong lúc ngồi chơi hay ngồi thiền, không nghĩ tốt xấu, phải quấy gì hết, trong lặng bình thản. Tụi con có một hai phút nào vậy không?

Như thế, khi không suy nghĩ mình vẫn hiện tiền. Cái suy nghĩ làm sao nói là mình được. Nếu lúc suy nghĩ là mình thì khi không suy nghĩ sẽ không có mình, nhưng thực tế, không suy nghĩ tụi con ngồi thảnh thơi tự tại. Suy nghĩ dấy lên thì có thương buồn giận ghét đổi mặt hoài hoài làm mình mệt. Khi chúng ta không nghĩ suy, tính toán gì, tai vẫn nghe mắt vẫn thấy như thường, đó là lúc mình tự tại an nhiên.

Như vậy, nơi mình cái thân tạm bợ giả dối, biết là giả dối, cái suy nghĩ duyên theo bóng dáng sáu trần cũng tạm bợ giả dối. Biết giả dối không theo là tụi con đã tỉnh. Lúc ấy mình vẫn nghe thấy, vẫn hiểu biết, đó là sống với cái thật. Cái thật hiện tiền hằng tri hằng giác đó có động không? Cái gì động là tướng sanh diệt, cái không động thì không sanh diệt. Giữa cuộc sống này, mượn trả là động, tâm duyên theo bóng dáng sáu trần, nắm bắt cái này, bỏ chụp cái kia lăng xăng là động. Còn cái hằng thấy hằng nghe, biết, không lấy, không bỏ, làm sao nói động được.

Như vậy ngay nơi chúng ta có cái không sanh tử mà mình cứ bám vào sanh tử rồi đeo đẳng khổ sở. Thân này là bại hoại sanh tử, suy nghĩ là sanh tử, hai cái đó chúng ta cứ đuổi theo bám chặt, còn cái không sanh tử lại bỏ lơ. Tụi con nếu biết rõ cái không sanh tử hiện tiền, sống với cái đó ắt không có chuyện gì cãi vã với huynh đệ, ngồi thản nhiên ngắm mây trời chơi. Nếu tụi con không mắc kẹt nơi thân tâm thì ngồi chơi hay quét nhà, quét sân một cách tự nhiên, không có gì phiền muộn để phải nói, phải nghĩ. Vậy tụi con cả ngày có phút nào là không tu? Còn hiện nay tụi con chạy theo cái này cái nọ, dù nói là tu nhưng thật tu rất ít.

Bây giờ biết rõ, không bị cái giả lôi kéo, không lệ thuộc nó thì cái thật hiện tiền, không cần phải nói sống với cái thật.

Như vậy, ngay nơi thân tâm này biết cái gì giả cái gì thật tự nhiên tụi con đã có đường đi, không uổng một đời vô nghĩa. Bao nhiêu người ở thế gian sống lo cung cấp nuôi dưỡng thân tứ đại này, rốt cuộc nó cũng bại hoại. Nuôi dưỡng cái bại hoại thì có ý nghĩa gì? Bây giờ, biết đó là bại hoại nhưng mình vẫn nương nó, tạo điều kiện để trở lại cái không bại hoại, đó là biết tu, là sáng suốt, cuộc sống có lối đi.

Tu phản quan có nghĩa xoay lại tìm ra chính mình chớ không phải bắt bóng. Người đời tự cho mình sống thực tế, lo giữ thân này cho tốt đẹp, nhưng thân này ít chục năm rồi hoại, kiếm thân khác lại cũng hoại, đó là bắt bóng. Chúng ta ngay nơi thân bại hoại khéo nhận ra cái không bại hoại, sống an nhiên tự tại, đó là con đường sáng suốt bất sanh bất diệt người tu đang hướng về.

Nếu tụi con nghĩ mai kia mình cất chùa to, thâu đồ đệ nhiều, làm được việc này việc nọ thì dường như rất tốt, nhưng cũng là đi trong sanh diệt. Tu là vượt ngoài hai cái sanh diệt của thân tâm, sống một cách tự tại trong cái bất sanh bất diệt. Từ đó, hướng dẫn cho người khác cùng đi con đường bất tử này. Đó là cứu kính tột cùng của người tu, còn hình thức chùa chiền bổn đạo… chỉ là phương tiện. Quan trọng là sống với cái chân thật. Tụi con hiểu rồi sống đúng không lầm lẫn, đường tu của mình mới có giá trị chân thật, nếu không chỉ đua nhau tạo những hình thức đẹp. Ví dụ như Thầy cất chùa cao lắm trăm năm cũng hoại, còn cái chân thật nơi mình không bao giờ hoại.

Vậy nên tụi con ráng tu ráng tỉnh, phải nhớ thân này đang sống bằng vay mượn, nhớ tâm suy nghĩ hơn thua là bóng không thật. Luôn luôn nhớ như vậy, lần lần thắng nó, gọi là tỉnh, còn quên là mê. Khi quên, nói “ăn món này ngon bổ lắm nè, ăn món kia thì mình sống dai…”, vậy là giống như người thế gian không hơn không kém. Như vậy mê và giác ở đâu? Ở gần một bên, nhớ đúng là tỉnh giác, nhớ sai là mê. Đâu phải giờ lạy Phật, tụng kinh, ngồi thiền mới tu. Trong khi làm bếp, quét sân tụi con hằng nhớ, đó là tu. Tu như vậy thường xuyên, còn những giờ kia giúp mình tỉnh giác mạnh hơn thôi.

Thật ra giờ nào cũng là giờ tu. Trong chúng nếu tất cả đều thực hành như vậy thì không có gì lộn xộn, không hề bị rầy, không ai phiền não với ai. Sở dĩ tụi con còn phiền não chút chút là vì mình nhớ hơn thua phải quấy. Thấy người làm quấy tức liền sanh phiền não, chớ không biết rõ niệm hơn thua phải quấy là giả dối không thật. Tâm thản nhiên tự tại thì tụi con thảnh thơi suốt ngày, trên đường tu không bị trở ngại.

Hôm nay Thầy nói rõ để tụi con gỡ những điều chấp trước. Lâu nay tuy hiểu mà chưa tường tận, hoặc hiểu rồi nhưng chưa sống được, bây giờ phải sống đúng như thật. Được vậy, đời tu tụi con sẽ có giá trị.

Ngày 27-12 Giáp Tuất (27-1-1995)

Ngày thỉnh nguyện cuối năm, mỗi người thấy được lỗi lầm của mình đều ra thành tâm sám hối, đó là điều rất tốt. Tất cả đều tự ý thức những khuyết điểm của mình, cố gắng sửa đổi tu hành thì điều khuyết dở đó từ từ sẽ thành hay và tốt. Một khi tụi con biết đó là lỗi, ráng gìn giữ đừng cho tái phạm. Là con người ai cũng có lỗi, khi biết mình quấy nên gắng sửa, đừng để một lỗi nhỏ cứ tái phạm hoài, vô tình mình hứa suông, không tiến được. Cho nên, thấy lỗi là tốt, nhưng sửa lỗi lại cần thiết hơn. Thấy lỗi không sửa thì lỗi đó không bao giờ hết. Vì vậy thấy lỗi tụi con ráng sửa, đừng coi thường lỗi nhỏ, cứ phạm hoài không tốt. Đó là điều Thầy nhắc chung cho tụi con.

Qua một năm tu hành, tụi con kiểm nghiệm lại bản thân chắc có những bước tiến, dù không nhanh nhưng vẫn có. Bởi vì trên phương diện tu hành, nếu được thúc liễm một nơi và tu hành đều đặn thì ít nhiều cũng có tiến không nghi ngờ. Nhưng tiến vượt bậc hay chậm chạp là tùy theo khả năng, phước duyên của mỗi người. Thầy tin rằng tụi con bền bỉ nỗ lực tinh tấn tu hành tất sẽ có kết quả, không hổ thẹn mình đã làm một tu sĩ Phật giáo mà không tròn bổn phận. Tụi con ở trong khuôn khổ hơi bó buộc một chút, nhưng chính đó là phương tiện giúp cho mình tránh duyên bớt cảnh, có đủ thời giờ để nỗ lực tu. Nếu không có hoàn cảnh tốt đó, tụi con va chạm, xúc sự nhiều sẽ có những điều phiền hà, điên đảo.

Do đó ở đây cố gắng tối đa để giúp tụi con có thời giờ thúc liễm thân tâm, nghiền ngẫm đạo lý, xoay nhìn lại mình. Đó là gốc của sự tu hành, cũng chính là nền tảng giải thoát. Thầy mong tụi con qua một năm mỗi đứa kiểm lại có chút ít tiến bộ, đây là niềm vui để năm tới tụi con hay hơn. Tu càng lâu càng thấm, càng thuần thục. Vậy Thầy mong rằng tất cả tụi con đều cố gắng để có những bước tiến tốt và vượt bậc hơn những năm đầu.

Bây giờ Thầy có ít lời nhắc nhở toàn chúng. Trước hết là nhắc nhở về hình thức. Ở đây ngồi thiền có khi chúng đông, hơi nồng, nếu không mở cửa sổ, ấm quá dễ bị ngủ gục, nên ban đêm chúng ta vẫn mở cửa sổ chừa cửa lưới, ban ngày cũng vậy, khi nào nắng mới treo màn. Tụi con nhớ các vị Tỳ-kheo ngày xưa ngồi dưới gốc cây tu đâu có sợ gió. Chính nhờ ở ngoài trống khoảng khoát nên ít buồn ngủ. Thường ngồi trong mùng dễ buồn ngủ lắm vì ấm chừng nào buồn ngủ chừng ấy, có gió mát lành lạnh, ngồi tỉnh táo hơn. Nhiều đứa dè dặt quá, sợ gió, đi đóng cửa lại làm cho trong chúng bị ngủ gục, trở ngại sự tu.

Tu là phải làm sao tạo cái duyên để mỗi ngày sức mạnh tinh thần càng tăng. Nếu tu ban đầu mạnh lần lần yếu đi, rồi trở thành người bạc nhược, không còn sức gượng vươn lên được, đó là uổng một đời tu. Tất cả chúng ta có phước lớn, có duyên lành nên mới ở trong đạo làm người xuất gia tu hạnh giải thoát. Nay được đến nội viện sống yên ổn tu, đó là điều kiện quá tốt để tụi con vươn lên. Trong hoàn cảnh này không vươn lên nổi thì làm sao đời tu tụi con đến nơi đến chốn?

Tụi con quyết tâm tu luôn luôn phải nhớ những điều thiết yếu này:

– Điều thứ nhất là ngày tháng qua, tuổi đời chồng chất, từ nhỏ trở thành người lớn rồi già, vô thường đuổi gấp từng giờ, cho nên mỗi khi nhớ chuyện gì bâng quơ, tụi con nên nghĩ vô thường nay mai không lường được, đâu rảnh nghĩ quanh quẩn. Nhớ vô thường, tụi con cố gắng vươn lên.

– Điều thứ hai là tụi con nhớ tới bản nguyện của mình. Mỗi người đi tu đều có ý chí và phát nguyện mạnh nên mới xuất gia. Đã có ý chí và bản nguyện thì luôn luôn phải nhớ tới nguyện của mình, tu hạnh giải thoát để độ cha mẹ, thân nhân và chúng sanh. Nguyện vọng đó vô cùng to lớn, không thể nào chần chờ, không thể nào để mất thời giờ vô ích được. Nhớ như vậy để cố gắng không quên, không lùi.

– Điều thứ ba, mình đi tu một ngày là sống nhờ một ngày. Tỳ-kheo có nghĩa là khất sĩ, hay nói cách khác là ăn mày của thí chủ để nuôi thân, ăn mày chánh pháp của Phật để nuôi giới thân tuệ mạng. Như vậy chúng ta luôn luôn là kẻ nợ của thí chủ, kẻ nợ của Phật pháp. Nợ của thí chủ là mỗi ngày chúng ta nhận thức ăn của họ giúp, nợ chánh pháp là từ Phật Tổ đến Thầy luôn luôn khuyến khích dạy dỗ tụi con tu hành. Như vậy tụi con có bổn phận đền ơn Phật, Thầy Tổ, đền ơn đàn-na thí chủ, không thể nào chần chờ. Phải thấy mình có trách nhiệm rất nặng, cố gắng vươn lên chớ không thể nào thả trôi.

Tụi con nhớ, người tu là người chèo thuyền vào biển khổ. Trách nhiệm của chúng ta là làm sao cho chúng sanh hết khổ. Muốn chúng sanh hết khổ thì tụi con phải ráng tu, tự mình giải hết các phiền não nghiệp chướng bản thân, rồi mới cứu khổ cho người. Nếu trong thời gian này được yên ổn tu, tự tâm tụi con không giải tỏa được những buồn phiền u uẩn chứa chất ở trong thì mai kia tụi con ra Viện, phải đương đầu với mọi việc phức tạp, làm sao tụi con yên ổn, làm sao có sức mạnh vươn lên được? Vì vậy trong thời gian yên ổn tu hành, mọi việc đều không bận tâm, tụi con nên nỗ lực tiến tu, đừng phí thời giờ vô ích. Đó là bổn phận tụi con phải làm, không lôi thôi được.

Thật tình nếu đi sâu trong đạo pháp, tụi con sẽ thấy Phật pháp cao siêu không thể lường biết được. Những gì thế gian cho là quí thật ra là tạm bợ, một thời gian sẽ bị bại hoại rồi mất. Chỉ có chánh pháp của Phật mới thật cao quí, siêu thoát, đưa chúng ta từ mê lầm tới giác ngộ, từ con người sanh tử tới giải thoát.

Tụi con có được phước duyên sống trong Phật pháp. Có phước duyên như vậy thì không được buông tâm chểnh mảng, để tâm chạy quẩn quanh mà phải dồn hết nghị lực, đem hết tâm vào sự tu hành. Phải làm sao trong đời này nếu không giác ngộ hoàn toàn, ít ra cũng phải giải thoát phần nào, như vậy mới tròn bản nguyện của mình, xứng đáng giá trị người tu. Nếu mình tu sơ sài, lơ là chỉ uổng một đời không đi đến đâu.

Tất cả tụi con từ lớn tới nhỏ phải luôn ý thức những điều Thầy nhắc. Một là nhớ vô thường đuổi gấp, không thể chần chờ được. Hai là nhớ chí nguyện của mình từ ban đầu, vì lý do gì đi tu, đã đi tu phải làm tròn bản nguyện. Ba là nhớ ơn Phật Tổ, ơn thí chủ, làm sao đền được ơn đó xứng đáng bổn phận người xuất gia, đừng nghĩ mình đi tu để được yên thân, ai khổ mặc ai. Điều thứ tư, thấy Phật pháp là cao quí, cứu mình hết mê lầm, hết sanh tử, được cái cao quí đó rồi, mình nhận, sống trọn vẹn rồi đem cái quí đó chỉ dạy cho mọi người.

Đó là bốn điều Thầy nhắc tất cả tụi con, phải ý thức và nhận rõ, đừng bỏ quên uổng mất thời giờ.

Ngày 13-2 Ất Hợi (13-3-1995)

Hôm nay Thầy nhắc cho tụi con các chứng bệnh và chỉ những thứ thuốc để người nào có bệnh thì dùng thuốc mà trị.

Bệnh thứ nhất Thầy gọi là bạn bè. Bệnh này kiểm tra lại Thầy thấy các nơi chỗ nào cũng có. Đặc biệt Thiền viện Trúc Lâm này Thầy chủ trương phải dứt bệnh đó. Tụi con thử nghĩ, nếu thân với người khác phái bị trói buộc một trăm phần trăm thì đối với bạn bè cùng phái mà thân, ít nhất cũng bị trói buộc bảy mươi phần trăm.

Tụi con phát nguyện tu hành, trong buổi lễ xuất gia và khi cạo tóc quí Thầy thường nhắc: Ở thế gian gia duyên bận bịu nên không tinh tấn tu hành được, xuất gia mọi duyên được sạch, tu hành mau giải thoát. Chúng ta tránh duyên trói buộc thế gian nên đi tu, khi vào chùa rồi vô tình hay cố ý lại tạo duyên trói buộc mới, như vậy là không làm đúng mục đích và sở nguyện của mình. Tụi con nên biết, khi bị trói buộc rồi phiền não cũng theo đó sanh, không bao giờ an ổn.

Thầy từng nói, thời gian Thầy ở đây với tụi con không dài lắm, cho nên ngày nào còn có mặt Thầy nên cố gắng tu, đừng để những trói buộc cản trở sự tu tập của mình. Đến chừng Thầy trăm tuổi, chỉ mong tụi con đủ khả năng đủ điều kiện để làm Phật sự, làm lợi ích cho người, nhất là truyền bá Thiền tông Việt Nam. Vì sở nguyện đó Thầy không muốn một ai ở trong đây còn những trói buộc phàm tình, nên Thầy dứt khoát chủ trương không có bạn bè thân thiết. Nếu có bạn bè trói buộc sẽ trở ngại đường tu. Giả sử ở đây mười, hai mươi năm cũng không có kết quả gì, uổng mất một chỗ dành cho người tạo duyên trói buộc vô ích, trong khi những người khác chờ chực xin vào tu không được.

Trói buộc đâu phải một mình mình, thêm một người thứ hai cũng bị trói buộc. Nếu không gỡ cho dứt, không sắp xếp thì sẽ thêm những cặp khác. Đó là bệnh thâm căn cố đế của con người. Bởi vậy tụi con phải biết cái khó của Thầy, dứt khoát không dung dưỡng những thứ phàm tình này. Đối với tụi con là người có chí xuất trần, phải gỡ không để bị trói buộc. Nếu bị trói buộc thì chúng ta chỉ có tu cái đầu chiếc áo còn tâm niệm không tu.

Do đó phải dứt khoát. Ai có những ý niệm trói buộc phải cởi, phải cắt. Nếu để đó tụi con sẽ phạm lỗi lớn là trái với sở nguyện xuất gia ban đầu. Lỗi lớn thứ hai là phiền Thầy tốn công tốn của mà không có kết quả trên đường tu. Đó là hai điều tụi con phải tránh.

Bây giờ muốn dứt được bệnh thâm căn cố đế đó phải làm sao? lấy thuốc gì để trị? Tụi con nhớ ngài Huyền Giác có nói câu: “Thường độc hành, thường độc bộ, đạt giả đồng du Niết-bàn lộ.” Mình tu hạnh giải thoát phải đi một mình, bước một mình. Những người như vậy là “đạt giả”, là thấu suốt, cùng tiến lên đường Niết-bàn. Không thể trên đường giải thoát mà hai ba người nắm tay nhau đi.

Tụi con muốn tu tiến phải dứt khoát không để bị trói buộc vì bạn bè, vì tâm luyến ái. Như vậy mới giải thoát sanh tử, làm lợi ích cho chính mình và cho mọi người. Muốn trị được bệnh đó thì vừa có niệm thương mến người này, trói buộc người kia, liền nhớ mục đích mình tu là giải thoát sanh tử, nếu có trói buộc là ngược với giải thoát. Lấy giải thoát trị bệnh trói buộc. Vì muốn giải thoát nên phải dứt mọi dung dưỡng trói buộc. Đó là thuốc trị bệnh trói buộc về bạn bè luyến ái.

Thứ hai là trên đời này ai cũng có bệnh tư hữu. Tư hữu là có của riêng, ai cũng muốn mình có của riêng. Người Phật tử cũng ưa như vậy, nên cúng gì cũng muốn cúng riêng. Bệnh này xảy ra rất nhiều, chùa nào cũng thế, có thầy có cô được cúng dường rất sung túc, còn có thầy, cô khác lại khô rang. Quen bệnh tư hữu tức là muốn có của riêng, ai cũng có Phật tử riêng, tài sản riêng.

Tụi con thử nghĩ, ở trong chúng bốn mươi, năm mươi người, người này có của nhiều hơn người kia, người kia thấy so bì, rồi tìm cách làm sao cho có như người ta. Bằng cách này cách nọ chiều chuộng Phật tử để họ giúp cho. Người này sắm đồng hồ, người kia cũng sắm, người này có máy cassette, người kia cũng muốn có; đua nhau sắm mà không làm ra tiền tự nhiên phải chiều chuộng Phật tử để họ mua cúng. Như vậy làm cho sự tu hành của mình trở thành yếu đuối và kẹt trong lợi dưỡng. Đó là điều không tốt.

Bây giờ ở Thiền viện Trúc Lâm Thầy chủ trương lục hòa. Trong lục hòa, cái cuối cùng là lợi hòa đồng quân, đó là phá tan tư hữu, cái gì cũng chia đồng nhau, không được hơn kém. Ví dụ ở đây mỗi người được ba đôi vớ, đứa nào có người cho thêm một đôi hoặc tự đan một đôi là vô tình phá vỡ tinh thần lục hòa. Có một người khác hơn thì mọi người sẽ đua theo, cứ như vậy mà so bì. Đó là bệnh tư hữu, đua nhau về hình thức vật chất. Khi hình thức vật chất nặng, tinh thần đạo đức theo đó mà giảm kém.

Bởi vậy, Thầy ra lệnh Quản chúng phải nghiêm nhặt đừng để phá lục hòa. Nếu lục hòa mất, sự tu hành sẽ suy giảm, yếu đuối., vì ai cũng nặng về vật chất, có của tư phải gìn giữ. Người không có thì đòi hỏi, nhiều khi đòi hỏi không được lại móng tâm trộm cắp, sanh ra những hư dở trong chúng. Vì vậy Thầy quyết tâm thực hiện cho được lục hòa.

Đây là bệnh lâu đời của nhiều người, bây giờ muốn sửa trị hết sức khó. Nên tụi con thấy ở đây dường như những cái hơi chi li, nhỏ nhặt cũng bị rầy bị nhắc, vì Thầy muốn thực hiện cho được lục hòa. Tụi con ở đây đói có cơm ăn, rách có áo mặc, tất cả mọi thứ không thiếu không dư. Dư mất công giữ, thiếu mất công tìm cực khổ; không thiếu không dư khỏe biết mấy! Chỉ có một việc yên ổn tu, đừng mong muốn gì khác thì tụi con thật nhẹ nhàng, không bận tâm, không lo lắng.

Tụi con nên dồn hết sức, hết tâm lực trong một việc tu, đừng nghĩ phải sắm cái này mua cái kia. Nếu áo rách đến Tri sự xin cái khác, vớ rách đem đến Tri sự xin đôi vớ khác, khỏe biết chừng nào, không có gì là xấu xa. Như thế tốt cho tụi con, cho tập thể mình. Không vậy, có ai đó tự ý xin gia đình hoặc xin bạn bè gởi tới, rồi có dư, sanh tâm nhìn ngó nhau, đây là điều không thể chấp nhận. Thế nên Thầy ra lệnh, ai cho cái gì đều trình Quản chúng nhập kho, người đó thiếu thì xuất trong kho cho, chớ không được nhận riêng tư. Nhận riêng tư thành thói quen cũng như các nơi khác, không hơn không kém.

Sở dĩ chư Tăng chư Ni ở các nơi không hòa hợp với nhau là tại sao? Vì thiếu lục hòa, người này đố kỵ người kia, người kia tranh giành người nọ, do đó tinh thần lục hòa bị mất đi. Khi tụi con sống ở ngoài chị này giàu, chị kia nghèo, nhưng vào đây rồi Thầy muốn ai cũng như nhau, không giàu, không nghèo, không dư, không thiếu, để tụi con an ổn tu hành. Mỗi mỗi đều nghĩ đến sự tu thôi, không bận bịu, không lo lắng gì cả. Thầy muốn tụi con dồn hết tâm lực vào sự tu, muốn tụi con sống trong tình huynh đệ bình đẳng.

Về mặt vật chất, chúng ta không bị trở ngại, sống chung không có ghét bỏ nhau vì tranh hơn tranh thua. Đó là điều Thầy muốn tất cả tụi con phải làm được. Dù một vật nhỏ mà không đồng nhau, có hơn có khác cũng không nên. Ai thiếu hoặc hư cái gì đem trình Tri sự xin cái khác. Nếu Tri sự không đáp ứng được, cho Thầy hay hoặc thưa trong những buổi thỉnh nguyện, chẳng hạn như: “con rách đôi vớ, xin nửa tháng Tri sự không cho”, Thầy sẽ rầy hoặc nhắc. Nếu tụi con không chịu xin, âm thầm gởi thư chỗ này chỗ nọ xin là không tốt, làm trái nội qui ở đây. Đó là điều Thầy nhắc tất cả tụi con phải nhớ.

Bệnh này cũng trầm trọng, thâm căn chớ không phải bệnh thường. Muốn trị bệnh này tụi con phải nhớ đây là bệnh tư hữu, muốn hết tư hữu là phải xả. Ngày xưa Phật tu trước hết làm hạnh Bồ-tát, xả thân, xả của cải… sau mới thành tựu đạo quả. Tụi con nếu còn có ý riêng tư, phải tập tánh hỉ xả, buông bỏ tất cả, không có gì quan trọng. Có cơm ăn, áo mặc, sống như vậy quá đủ, chỉ lo gìn giữ sự tu hành không để bị thối chuyển.

Bệnh thứ ba là thị phi. Nghĩa là ngoài giờ tụng kinh ngồi thiền ra, hai ba người ngồi lại nói người này phải, người kia quấy, chỉ trích linh tinh, đó là bệnh. Bệnh này rất nặng. Ngày xưa chư Cổ đức có nói: “điểm thiết hóa thành kim ngọc dị, khuyến nhân trừ khước thị phi nan”, chỉ khối sắt biến thành vàng ngọc dễ hơn khuyên người ta đừng nói thị phi. Như vậy, thị phi là bệnh hết sức khó chữa, nhất là bên phái nữ tụi con.

Khi chúng ta nói lỗi người này, chỉ trích người kia, chê người nọ, tâm mình an không? Hay là nó đang chạy lui về quá khứ, chạy góc này, góc kia? Bởi thế, người hay nói thị phi tâm thường dao động, chao đảo, bất an. Vậy phải ráng bỏ tâm thị phi, ngôn ngữ thị phi. Chỉ nên nghĩ hiện giờ tu hành ra sao, có bệnh gì để chừa bỏ. Biết được khuyết điểm của mình để tu sửa, đừng lo chuyện của người.

Ở đây ai có lỗi thì Ban lãnh chúng có bổn phận nhắc. Nếu Thầy thấy, Thầy nhắc và dạy, còn tụi con chỉ có một chuyện ráng nỗ lực tu. Bao nhiêu thời giờ là để tụi con tu, không phải để bàn tán vô ích. Bởi vì những chuyện đó càng bàn tán càng tăng phiền não chớ không có lợi gì. Muốn tu có kết quả, mọi cái chướng đó tụi con phải bỏ, đừng nên giữ. Đó là điều hết sức khó, tụi con ráng tập, ráng tu.

Muốn bỏ bệnh thị phi phải dùng thuốc gì? Dễ lắm, chỉ dùng tâm hiện tại thôi. Mọi cái quá khứ vị lai của ai không màng tới, sống với hiện tại thôi. Ngay nơi đây, mình thấy, nghe, sống; còn cái gì qua rồi thôi, không chứa chấp, không lưu giữ. Kéo lôi quá khứ lại chỉ thêm phiền hà loạn động, bây giờ tụi con sống ngay niệm hiện tại này là đủ. Nếu sống tâm hiện tại, tụi con không còn phiền não, tự nhiên hết thị phi. Nên muốn trị bệnh thị phi thì phải sống với niệm hiện tại. Chỉ niệm hiện tại này là “nhất niệm vạn niên”, tất cả thứ khác đều buông bỏ, như vậy tụi con mới tiến.

Bệnh thứ tư là tật đố, nghĩa là thấy ai có gì hơn mình thì ganh ghét, châm biếm, nói nặng nói nhẹ để cho người ta bực bội. Đó là bệnh tật đố, người nào cũng có. Ai thua mình thì khinh khi, sanh ngã mạn, ai hơn mình liền ganh ghét sanh tật đố. Bệnh này rất khó trị.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy: “Khi thấy người bố thí, mình vui vẻ trợ giúp sẽ được phước rất lớn.” Có thầy Sa-môn hỏi rằng: “Phước ấy có hết không?” Phật dạy: “Thí như lửa của một cây đuốc, vài trăm ngàn người đều đem đuốc đến mồi lửa để nấu ăn hay thắp sáng, cây đuốc kia vẫn như cũ. Phước người bố thí cũng như thế.” Như vậy mới thấy công đức tùy hỉ ngang bằng công đức người bố thí, mà phước người bố thí không bị chia sớt.

Tại sao tùy hỉ nhẹ quá mà phước lớn như vậy? Người làm lành phải ra công ra của, còn người tùy hỉ chỉ có một niệm, đâu ra công của gì mà được phước bằng người kia? Bởi vì người bố thí bỏ đi lòng tham, người phát tâm tùy hỉ dứt được tâm tật đố. Tật đố là cố tật rất khó chừa. Người có bệnh tật đố khi mình dở không làm được việc, bị chê, thấy người khác làm được việc bèn gièm pha, nói này nói nọ, khiến cho họ buồn chán không làm nữa.

Tâm tật đố không tốt, tụi con phải biết dè dặt. Khi nào có niệm chê trách, gièm siểm người hơn mình, đó là tâm tật đố đang hiện ra, phải dừng lại, phát khởi tâm tùy hỉ. Nếu có ai làm việc tốt cho chúng, mình vui tùy hỉ thì cũng được phước như vậy. Tật đố làm gì cho người ta phiền não, mà mình lại tổn phước! Như vậy, muốn trừ tâm tật đố phải lấy pháp tùy hỉ để trị.

Tóm lại, bốn bệnh trên sẵn có nơi con người từ lâu đời lâu kiếp, gọi là thâm căn cố đế. Nay muốn trừ bỏ để tu hành cho được trong sạch phải y bốn pháp:

– Nếu là bệnh cặp bè bạn, tụi con dùng mục đích giải thoát để tự nhắc nhở mình.

– Nếu bị bệnh tư hữu phải dùng tâm buông xả trị. Thái tử Tất-đạt-đa hồi xưa bao nhiêu của cải còn bỏ, ngày nay mình chưa có đòi cho có, giữ làm gì, phải xả.

– Nếu bị bệnh thị phi phải dùng ngay một niệm hiện tại, mọi việc trong quá khứ hay ở đâu đó đừng lôi kéo trở lại, sanh phiền não.

– Nếu sanh bệnh tật đố nhớ dùng pháp tùy hỉ để trị.

Tụi con nhớ dùng thuốc trị bệnh, lần lần bệnh sẽ dứt. Nhưng phải uống cho đúng mức, đừng uống cầm chừng không hết bệnh. Nếu tụi con hằng dùng thuốc, hằng tu như vậy, Thầy hi vọng sẽ tiến và đạt kết quả trên đường tu. Tất cả chớ có chần chờ! Mong tụi con cố gắng!

Ngày 30-2 Ất Hợi (30-3-1995)

Toàn chúng có tinh thần tự giác sám hối để sửa lỗi, cố gắng tu hành, đó là điều tốt.

Hôm nay Thầy có ít lời nhắc nhở chúng. Trước khi nhắc nhở, Thầy nói sơ lại chuyện chùa Vạn Phật ở bên San Francisco của ngài Tuyên Hóa. Chuyến đi Mỹ vừa rồi Thầy không tới đó, nhưng quí vị đi về có kể lại Thầy nghe.

Ngày trước người Mỹ lập một bệnh viện tâm thần trên một ngọn núi tốt. Làm xong rồi, các kỹ sư tìm mạch nước không ra. Nếu người bệnh lên đó ở đông mà không có nguồn nước để xài thì bệnh viện không thể hoạt động được. Các kỹ sư đành bó tay tìm không ra mạch ngầm. Vì không có nước nên muốn bán cũng không ai dám mua. Cuối cùng Hòa thượng Tuyên Hóa vận động mua, cả bệnh viện như vậy chỉ có một đồng bạc. Người ta bán tượng trưng, cho không được vì nguyên tắc phải bán. Hòa thượng mua rồi dẫn người đi đào giếng, chỉ chỗ nào cũng có nước. Điều này khiến cho mọi người rất tin tưởng Hòa thượng.

Hòa thượng về đó lập chỗ tu hành, vừa tọa thiền, vừa tụng kinh, niệm Phật, trì chú. Tu cũng miên mật lắm, đặc biệt là không nằm ngủ. Ngồi thiền rồi chừng nào ngủ ngồi tại chỗ ngủ luôn, không có nằm. Ngày ăn chỉ một bữa đúng ngọ, sáng và chiều không ăn. Vậy mà vẫn có rất đông người tới tu, mới thấy rằng người quyết tâm thì không sợ khó, không sợ khổ. Mọi người bên Mỹ đều tán thán đó là nơi tu hành chân chánh. Hòa thượng cũng đi giảng các nơi, người ta quí mộ lắm.

Như vậy để thấy rằng chỗ chuyên tu của người ta vừa ăn rất ít, ngày một bữa, vừa là ngủ ngồi, mà người ta còn dám thực hiện ở xứ văn minh. Chúng ta ở đây tối được nằm dài ngủ mấy tiếng đồng hồ, ngày ăn tới hai ba bữa cũng còn thấy thiếu. Đó là chỗ dở của mình. Cho nên Thầy nói để tụi con hiểu sự tu hành cần đặt nặng ý chí, đừng nghĩ rằng phải ăn ngủ nhiều mới đủ sức khỏe. Ở đây Thầy rất dung hòa chớ không cực đoan.

Bây giờ Thầy dẫn câu chuyện trong kinh A-hàm để nhắc nhở chúng. Câu chuyện này Thầy kể nhiều lần, nhưng chỉ thiểu số được nghe, đa số chưa nghe.

Trong kinh, đức Phật kể: Có nhà vua, một hôm ra lệnh cho người tử tù đi qua một con đường. Vua cho bày những trò vui, nào là ca hát, ăn uống, sắc đẹp, nào là những trò chơi vui lạ thích thú dọc hai bên đường. Ông đưa cho người tử tội một dĩa dầu đầy, bảo đi từ đầu đường này đến cuối đường kia, không để rơi một giọt dầu nào sẽ tha cho tội tử hình, ngược lại nếu đổ một giọt sẽ bị chém đầu. Được nhà vua ra lệnh như vậy, anh liền bưng dĩa dầu đầy đi từ đầu đường này đến cuối đường kia.

Trong khi những trò vui chơi đúng với sở thích bày ra đầy hai bên đường, anh chàng tử tù đi có dám ngó qua ngó liếc lại nhìn những cái đẹp, cái lạ đó không? Hay chỉ chăm chú nhìn vào dĩa dầu không dám lơi lỏng, để mong đi tới cuối đường được khỏi tội tử hình? Giả sử tụi con ở trường hợp đó sẽ xử làm sao? Luôn luôn biết sau lưng mình có chú lính cầm gươm bén, chỉ cần sơ sẩy đổ một giọt dầu là bị chặt đầu ngay, thử hỏi còn lòng dạ nào ngó những điều hay lạ thích thú chung quanh.

Đó là câu chuyện thí dụ, bây giờ đức Phật hợp pháp: Anh chàng tử tội đó là chúng sanh hiện nay. Chúng ta đang bị treo án tử hình, dài thì sáu mươi đến tám mươi năm, ngắn thì ba mươi, bốn mươi năm, có người chỉ mười mấy năm hoặc ba bốn năm, ai cũng bị tuyên án tử hình. Còn tất cả trò vui ở hai bên đường là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp bày ra chung quanh.

Sáu trần thật hấp dẫn, nhưng nếu chúng ta biết sợ chết thì khi bưng dĩa dầu đi, mình không dám lơi lỏng. Dù cho có thứ hấp dẫn mấy đi nữa cũng không dám để ý tới, chỉ dồn hết tâm lực vào dĩa dầu.

Chàng tử tội là chúng ta, còn dĩa dầu là pháp tu mình đang ứng dụng. Pháp tu dạy chúng ta luôn luôn phải tỉnh giác, đừng dính với sáu trần. Dính sáu trần là quên pháp tu. Cũng như vậy, mình ngó xung quanh thì quên dĩa dầu, mà quên dĩa dầu để bị đổ là chú lính chặt đầu ngay. Chú lính dụ cho quỉ vô thường, lúc nào cũng chực sẵn chặt đầu mình, không phải đợi đến cuối đường. Chúng ta thử kiểm lại một năm bao nhiêu người chết có phải toàn người già không? Có người già chết, có người trẻ đau chết hoặc bị tai nạn chết. Vô thường đến bất cứ lúc nào.

Tụi con có chú lính đứng bên cạnh rình không? Vậy mà tụi con thường nhớ chú lính cầm gươm bén đứng sau lưng mình chực sẵn, hay nhớ những chuyện tào lao bên ngoài? Do nhớ dĩa dầu, sợ chú lính nên tâm không chạy bậy. Bây giờ dĩa dầu không nhớ, chú lính cũng quên luôn, cho nên dính với sáu trần, nghe ca lắng tai nghe, thấy đẹp chú mắt nhìn, biết ngon để ý tới, cho nên dĩa dầu tụi con bị đổ hoài, chú lính đả thương mấy phen rồi phải không?

Tất cả những cám dỗ không ngoài sáu trần, còn pháp tu đưa mình tới giải thoát sanh tử nên nói khỏi tội tử hình. Chúng ta đủ điều kiện để khỏi tội tử hình mà cũng đủ điều kiện bị tử hình. Điều kiện bị tử hình là quên pháp tu và quên chú lính vô thường. Điều kiện khỏi tội tử hình là nhớ dĩa dầu và nhớ chú lính cầm gươm đang đứng sau lưng.

Nay tụi con muốn cho mình không bị bệnh phóng đãng, lơi lỏng chạy đây kia, thì lúc nào cũng phải nhớ pháp tu của mình, nhớ kiếp sống vô thường đâu có gì lâu bền chắc chắn. Hôm nay còn, ngày mai chưa chắc an ổn. Vì vậy mỗi ngày mỗi tháng mỗi năm nhớ vô thường đuổi gấp, cố gắng tu đừng để bị sáu trần cám dỗ làm cho xao lãng. Nếu bị sáu trần lôi cuốn, xao lãng pháp tu thì quên chú lính vô thường, từ con người muốn thoát sanh tử trở lại lao vào sanh tử.

Trên đường tu ai cũng có quyền giải thoát sanh tử tùy theo tâm niệm của mỗi người. Nếu người vào đạo quyết tu giải thoát, ghi nhận rõ đường lối tu hành rồi đem hết tâm tư thực hành, nhớ vô thường luôn luôn chực sẵn bên mình, lơi lỏng là chết, do đó không để tâm buông lung chạy theo ngoại cảnh. Đôi khi tụi con thấy đời sống bình an vui vẻ, chợt quên chuyện tu, quên đi vô thường, tâm chạy theo cảnh, rồi trầm luân muôn kiếp.

Vì vậy, khi tu tụi con phải luôn nhớ cuộc đời hết sức tạm bợ, sanh ra trên đời này dẫy đầy đau khổ. Nếu chúng ta chần chờ thả trôi thì có ngày cái khổ sẽ đến, chừng đó mình giải quyết không kịp. Vậy nên luôn nhớ tinh tấn tu không lười trễ, không dám lơi lỏng phút giây nào. Đó là điểm chủ yếu của người quyết tu giải thoát. Nếu khởi tâm buông lung lơi lỏng thì trên bước đường giải thoát không tiến lên được.

Đây là lời Thầy nhắc lại cho tụi con nhớ. Kinh Phật đã dạy như vậy để chúng ta biết mà gắng tu cho được giải thoát. Hãy cố gắng tinh tấn, đừng bỏ quên, đừng lơi lỏng! Dầu cho đời này chưa đi đến cuối đường nhưng cũng đi được nửa đường hoặc hai phần ba đường chưa hề đổ một giọt dầu nào, tu như vậy có thể bảo đảm sẽ đạt được mục đích giải thoát không nghi.

Ngày 28-3 Ất Hợi (27-4-1995)

Hôm nay Thầy nhắc toàn chúng một điều cần thiết. Khi tu nếu tụi con có những điều lạ, bất thường phải cho Thầy hay, hoặc tu có gì trục trặc, đừng e ngại, nói Thầy biết để Thầy sửa cho. Vì ở đây Thầy là người trực tiếp chỉ dạy tụi con, nếu có gì trục trặc không thưa, có gì hay không nói, Thầy biết đâu mà dạy. Chẳng hạn đến thưa: “Con tu như vầy, ngồi không yên tại lý do gì?” Cần nói rõ Thầy biết để Thầy chỉnh, tránh các bệnh do dụng công tu mà phát khởi. Hoặc khi tu thấy được cái gì hay, cũng cho Thầy biết để Thầy khuyến khích hoặc kềm chế đừng đi quá trớn. Đó là điều rất thiết yếu.

Nếu tụi con lẳng lặng không thưa không trình, nhiều khi mỗi người tu mỗi cách, một lúc ở đây loạn xạ, không biết tu cái gì, tu theo ai. Bởi vậy, phải có đường lối cụ thể, khi ứng dụng tu phải trung thành với đường lối đó. Đừng nên cái nào cũng bắt chước, cái nào cũng học, rốt cuộc không có đường lối tu gì hết, đó là điều không tốt.

Do đó, ở đây giả sử có vị nào tới nói chuyện, tụi con cũng nghe để học hỏi kinh nghiệm, nhưng đường lối của mình vẫn phải rõ ràng, tu có gì trục trặc phải thưa với Thầy, có gì tiến triển tốt nên trình Thầy biết. Như vậy là tụi con trung thành với đường lối tu của Thầy. Ngược lại, nếu tu lơ mơ không có kết quả gì, rồi khen chê… là không tốt, không làm đúng sở nguyện của Thầy. Thầy đã từng nói với tụi con nhiều lần, thời gian Thầy còn có mặt không dài, tất cả những gì Thầy muốn làm đều đã dồn hết vào Thiền viện Trúc Lâm này để lo cho đến nơi đến chốn.

Hiện nay Thầy đang lo dịch một số tư liệu đời Trần để giảng dạy, rồi tạo điều kiện in ra sách để có tư liệu Phật giáo Việt Nam, đó là trách nhiệm thứ nhất của Thầy. Kế đó là trách nhiệm hướng dẫn tụi con tu tập. Sau hết là tuy Thầy đã đi trước tụi con nhiều, nhưng đối với Thầy chưa phải là xong việc, nên Thầy cũng phải cố gắng tu, làm sao đến khi nhắm mắt Thầy có thể làm chủ được phần nào, không hổ thẹn mình là người đi trước.

Thầy thường thí dụ, người tu giải ngộ hoặc chứng ngộ giống như người ở xa muốn đi lên núi. Nếu chúng ta ở dưới miền Tây muốn lên ngọn núi Bà Đen, nghe lời người chỉ đường đi qua khỏi Sài Gòn, tới khoảng Trảng Bàng ngồi trên xe đã thấy núi. Như vậy chúng ta nhìn thấy núi nhưng đã biết tường tận chưa? Lúc ấy mình chỉ mới thấy dáng núi xanh ở xa xa chớ chưa rõ tường tận. Đó là Thầy thí dụ cho những người giải ngộ, thấy nhưng chưa tới. Kế đến tiếp tục đi tới chân núi, đó là dụ cho những người chứng ngộ. Rồi phải có thời giờ đi từ chân núi lên đến tận chóp núi, chừng đó mới gọi là người xong việc. Cho nên đừng nói ngộ là rồi.

Chúng ta tu từ chỗ không biết gì, nay thấy biết được là đã tiến bộ. Từ thấy biết một cách sơ sài, chúng ta ráng tu cho tới khi thấy được tường tận. Trong nhà Phật dùng chữ kiến tánh rất rõ nghĩa. Kiến tánh là thấy được bản tánh, chữ thấy đây không phải thấy bằng mắt mà là nhận ra như chuyện trước mắt, không còn nghi ngờ gì nữa. Lúc này mình đã đến tận nơi, thấy rõ ràng ngọn núi, tuy vậy vẫn chưa là người tới chóp núi, còn phải dày công nữa.

Cho nên Thầy thường nói, Thầy hiểu được đường lối tu nhưng việc làm của Thầy chưa phải là xong. Vì vậy, trong khi hướng dẫn chúng và sưu tập tài liệu để giảng dạy, Thầy còn có bổn phận phải ráng tu, làm sao khi còn sống được an vui khỏe mạnh, lúc nhắm mắt được tự do. Do đó trách nhiệm của Thầy rất nặng. Thầy không có thời giờ nhiều, mỗi ngày Thầy đi hai vòng quanh Viện là để cho có sức khỏe và trông chừng các việc, cũng để tất cả mọi người chung quanh đây thường thấy Thầy mà cố gắng tu, chớ không phải Thầy rảnh rỗi, vì còn bao nhiêu việc cần phải làm.

Nay tụi con biết rõ đường lối và việc làm của Thầy, tất cả nên cố gắng, ráng giữ làm sao trong thời gian ở đây, ai cũng nỗ lực tinh tấn đúng theo nề nếp Thầy đã đặt sẵn. Sống được như vậy là hay tốt rồi, còn thêm gì hơn quá sức tụi con thì Thầy không dám đòi hỏi.

Sở dĩ Thầy buộc tụi con phải sống theo lục hòa là vì Phật dạy lục hòa là gốc của Tăng. Chữ Tăng tiếng Phạn là Sanga, dịch là hòa hợp chúng, tứ chúng hòa hợp lại là Tăng. Như vậy, sống hòa hợp với nhau gọi là Tăng. Tụi con nhìn lại các nơi có được sự hòa hợp không? Hay mỗi người đều có hướng đi riêng, có của cải riêng, không ai hòa hợp với ai. Nhiều khi còn cãi lẫy, chỉ trích nhau, cho tới chùa này không vui với chùa kia… Đó là làm tinh thần hòa hợp Tăng bị giảm sút.

Hiện nay tụi con chưa dạy ai, chưa hướng dẫn được ai thì chính tụi con phải có tinh thần hòa thuận, trên dưới đều có hướng đi chung. Chẳng hạn như hồi nãy có người giữ đồng hồ mà không trình, chuyện đó nhỏ xíu thôi nhưng là cái mầm không tốt. Ở đây tất cả chúng không ai có đồng hồ. Mọi việc đều có giờ giấc, tới giờ nghỉ, giờ làm, lúc tu… đều đánh kiểng báo. Chỉ thực hành đúng là được rồi, có đồng hồ làm gì cho mất công giữ. Đã có người lo rồi, mình đừng để ý nữa, như vậy tự nhiên được yên ổn.

Cái đồng hồ là nhỏ, không đáng, nhưng nó là của riêng, tư hữu. Từ chỗ tư hữu đó tụi con sẽ so bì với nhau: “chị đó có, mình không có”, sanh ra những đòi hỏi không đáng. Cho nên từ chuyện nhỏ tụi con đều phải giữ gìn bình đẳng như nhau.

Ở đây đời sống dường như là khô khan, nhưng nhờ vậy không bị mắc kẹt tình cảm huynh đệ, từ từ tụi con sẽ thấy sống như thế là an ổn. Cái khô khan đó thành tựu rồi, tự nhiên tụi con có lòng từ bi vô hạn. Vì nếu còn thương một số ít người, tình thương đó sẽ bị hạn chế trong phạm vi nhỏ. Còn mình đối với ai cũng đều là huynh đệ, thương như nhau, không dính người này kẹt người kia, tới khi tâm thanh tịnh mới khởi lòng từ bi bình đẳng thương hết chúng sanh được.

Nếu sống ướt át kẹt ở một hai người tức đang ở trong trói buộc, là gốc của phiền não, làm sao khởi được lòng từ bi để có tình thương rộng lớn? Chính nhờ cái khô khan bước đầu đó, tụi con phát triển được lòng từ bi. Nếu được thương mến chiều chuộng, tụi con mới thấy vui, đó là vui trong trói buộc, gốc của đau khổ chớ không phải vui trong đạo thuần túy. Cho nên ở đây Thầy bắt tụi con sống rất khô khan, nghĩa là làm hết bổn phận của mình trong giờ công tác, tụng kinh, tọa thiền, đúng như Thầy sắp đặt. Đó là tốt rồi, còn làm thêm được gì thì tùy khả năng.

Tụi con phải hiểu rõ đường lối chủ trương của Thầy để cố gắng thực hiện cho được. Thầy đang trông đợi tụi con tu chớ không muốn tụi con mất thời giờ vô ích. Bước đầu là phải thực hiện được những gì Thầy sắp xếp. Kế đó tụi con vươn ra khỏi những chuyện tầm thường. Nếu bước đầu tụi con không làm được thì những nguyện vọng cao xa ngày mai chỉ là ảo tưởng, dù ở đây một trăm năm cũng không có lợi gì.

Đây là lời Thầy nhắc nhở, mong tất cả cố gắng!

Ngày 27-4 Ất Hợi (26-5-1995)

Qua tinh thần thỉnh nguyện, lúc này Thầy thấy trong chúng khá tốt, ít phạm lỗi lầm, đó là điều đáng mừng. Hôm nay Thầy chỉ nhắc vài điều.

Điều thứ nhất: T.T. sám hối nhưng vì bệnh tiếp tục xin dùng thức ăn trái thời. Thầy gọi là “xin” chớ không phải “sám hối”. Tại sao vậy? Vì sám hối là chừa bỏ, nay chưa bỏ được thì chỉ xin phép chúng cho dùng trái thời, lý do trị bệnh. Tụi con nhớ, khi nào sám hối là ngang đó không phạm nữa, còn tiếp tục làm thì không nói sám hối.

Điều thứ hai: Theo như trong bản Thanh qui, chúng ta quyết tâm tu theo tinh thần của ngài Trúc Lâm Đại Đầu-đà, gọi là sống đạm bạc. Gần đây tụi con thấy mình có ăn uống đạm bạc không? Đa số là không, như vậy mình có lỗi gì? Đó là điều Thầy muốn nói cho tất cả tụi con hiểu. Chúng ta tu đúng ra là nguyện sống đạm bạc từ ăn mặc, nghỉ ngơi…, mọi thứ vừa phải, hơi thiếu thiếu chớ không cho dư. Nhưng gần đây ở Thiền viện, Phật tử cúng liên miên, ăn uống đầy đủ, thành ra không đạm bạc chút nào. Nếu căn cứ theo bản Thanh qui, vậy là nói và làm không như nhau.

Bây giờ Thầy nói cho tụi con hiểu, Phật tử thương chúng ta, nhất là ở Thiền viện Trúc Lâm, khép mình trong khuôn khổ để tu, không có một chút tài sản riêng tư, ngoài những bữa cơm chánh không có gì khác. Như các nơi, Tăng Ni có tiền bỏ túi, cần gì thì mua dùng nên người ta không thương nhiều. Còn ở đây Phật tử thương mình thiếu thốn, sợ sanh bệnh nên xa gần đều tìm tới cúng dường. Nếu Phật tử đến cúng dường, chúng ta có vẻ thờ ơ hoặc từ chối, người ta sẽ buồn. Tụi con thử đặt mình vào tâm trạng người cúng, nghe ai tu hành tốt mình thương, muốn giúp đỡ mà họ lại từ chối, tụi con sẽ hiểu cái buồn này.

Cho nên chúng ta sống thế nào vừa tu được, vừa gây thiện cảm với Phật tử, gieo duyên với họ, để mai kia mình ra làm Phật sự được mọi người ủng hộ. Nếu chúng ta nghĩ mình chỉ tu thôi, rồi chối từ tất cả duyên của những người đến giúp mình, họ sẽ cho là chúng ta tự cao ngã mạn không cần ai, đó cũng là cái chướng, mai kia ra làm phật sự không được. Vì vậy, trong Thanh qui Thầy ghi “sống đạm bạc”, nhưng Phật tử đến cúng Thầy cũng vui vẻ nhận.

Khi người ta nhiệt tình đem vật thực hay tiền bạc tới cúng, mình hoan hỉ, điều đó làm cho thí chủ vui, như vậy Phật sự của mình mới vuông tròn. Nếu mình làm cho họ buồn nản, mất lòng tin là không tốt. Do đó, tụi con nên hiểu kỹ, mình không bao giờ đòi hỏi, nhưng với hảo tâm người ta cúng thì phải nhận.

Trong kinh A-hàm, Phật dạy: Có lần chư Tăng đến một nơi nọ an cư, vùng đó dân chúng ủng hộ, cúng nhiều quá đến nỗi chư Tăng ăn không hết, thừa thãi, buộc lòng Phật bảo đổ ở dưới để chư Tăng đi qua. Phải nhận cho người ta vui chớ không được từ chối, nên Phật bảo làm như vậy để thí chủ thấy phẩm vật họ đem đến chúng Tăng nhận hết.

Đó là hoàn cảnh quá đặc biệt, còn chúng ta ở đây chưa đến nỗi dư quá như vậy, chỉ đủ ăn, thư thả một chút thôi. Tuy trong Thanh qui Thầy nói sống đạm bạc mà ở đây thỉnh thoảng có những bữa ăn ngon, là do lòng thương của Phật tử, không phải Thầy vận động. Nếu người ta có lòng thương nghĩ đến Tăng Ni mà mình làm mất cảm tình, mất lòng tin, tức là gieo duyên không tốt.

Cho nên khi nào tụi con làm bếp hoặc làm Tri khố, có ai cúng dường phải nở nụ cười hoan hỉ, còn bực bội là gieo duyên không tốt. Cũng đừng bao giờ than: “Chúng tôi ở đây thiếu thốn quá!” Cả hai thái độ đó đừng bao giờ có. Nếu người đem vật thực đến cúng dường, nghe tụi con thố lộ những lời đó họ sẽ thối tâm, vô tình tụi con tạo duyên “khô rang”, mai mốt không ai giúp. Tụi con ráng cẩn thận dè dặt, ai đem tới giúp mình ít nhiều đều hoan hỉ nhận. Cho nên khi Thầy thấy người ta chở bắp cải đến cúng, để ở nhà khách đã hơi khô khô mà hai bên nội viện chưa lấy là Thầy rầy ngay. Người ta gởi đến với lòng thành, mình phải nhận cho họ vui, đừng bày trước mắt không đem cất người ta buồn.

Thầy có trách nhiệm nên phải nói rõ cho tụi con hiểu, đừng nên lộ ra những hành động, lời nói làm Phật tử buồn lòng, trong khi họ có tâm tốt đối với mình. Những thái độ chúng ta biểu hiện ra bên ngoài nói lên sự tu của mình.

Đến đây Thầy nhắc thêm về sự tu thiền. Chúng ta không chỉ ngồi yên một chỗ tu, mà trong hoạt động cũng tu. Nếu ngồi yên mới tu thì thiệt thòi trong khi hoạt động. Cho nên mình làm sao khi ngồi yên tu, hoạt động cũng vẫn tu. Hai thời đó không khác nhau mới hay. Tụi con thấy ngồi thiền hai tiếng đồng hồ là nhọc nhằn khổ sở hay quí báu? Ngày xưa, ngài Huệ Hải đến tham vấn Mã Tổ. Mã Tổ hỏi:

– Đến đây tính cầu việc gì?

– Thưa, con đến cầu Phật pháp.

Mã Tổ nói:

– Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?

Ngài Huệ Hải lễ bái, thưa:

– Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?

Mã Tổ nói:

– Chính nay ông hỏi ta, là kho báu của ông, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.

Nói như vậy Mã Tổ cho rằng nơi chúng ta ai cũng có kho báu. Ngồi thiền là quay lại tìm kho báu nhà mình. Kho báu mình có mà giờ đây bị bụi đất phủ lấp, bây giờ ngồi lại đào xới tìm cho ra. Như vậy thời gian chúng ta bới tìm là giờ quí hay thường? Nếu kiếm ra được kho báu, mình là ông trưởng giả, nên giờ phút đó rất quí.

Ngoài đời, người ta đi làm việc được số tiền kha khá, họ còn sợ mất sở nên phải đi đúng giờ, làm rất siêng năng. Nay chúng ta đang tìm kho báu, kho báu này chắc chắn có sẵn, chỉ cần bươi hết rác thì sẽ thấy nó. Như vậy giờ bươi rác để bày ra kho báu là vàng ngọc, chúng ta đâu có lôi thôi được. Vậy mà nhiều khi ngồi thiền lại trông kiểng xả thiền. Mình biết kho báu đã gần được thì còn muốn đốt đèn cố bươi tìm cho mau thấy. Chúng ta tìm được kho báu, làm Phật sướng biết chừng nào, quí gấp trăm gấp ngàn lần kho báu thế gian. Như vậy, giờ ngồi thiền là giờ phi thường, quí vô cùng, đừng nghĩ là tầm thường.

Khi tụi con ngồi dẹp bỏ rác để bày châu báu ra, nếu ai đánh kiểng sớm lẽ ra tụi con buồn. Đang làm việc trọng đại như vầy mà cho nghỉ sớm uổng quá. Đừng bao giờ ngồi chờ kiểng, vì đó là giờ tìm kho báu, nếu chờ thì đâu còn nghĩa tìm kho báu nữa, lại giống như làm thuê làm mướn trông mau hết giờ. Đây là làm cho mình, mình biết gần tới nơi ai biểu nghỉ đâu có chịu.

Bây giờ kiểm điểm lại, tụi con làm thuê cho ai, hay là đang tìm kho báu của mình? Thầy giàu sẵn đâu cần làm mướn cho Thầy, chính tụi con làm cho bản thân mình. Đó là chuyện trọng đại tụi con tự phát nguyện không phải do Thầy xúi giục. Tự tụi con muốn tìm cho ra kho báu nhà mình, nên phát nguyện vào chùa. Thấy tụi con phát nguyện mạnh, sợ lâu ngày xao lãng, tìm không được uổng cả cuộc đời, Thầy buộc lòng tạo duyên cho tụi con tới đây, bảo bọc và khuyến khích tụi con dành hết thời giờ tìm cho ra. Thầy chỉ bảo hộ cho tụi con tìm, không phải thuê tìm cho Thầy, nhớ như vậy! Bảo hộ nhắc nhở là trách nhiệm của Thầy, còn nỗ lực là việc của tụi con. Tìm được kho báu tụi con lấy ra xài chớ Thầy không xài của tụi con được.

Hiểu cho thật kỹ, khi ngồi tu mới vui với việc mình đang làm. Lâu lâu có người tìm được kho báu thích thú la lên, hoặc có người báo thấy dấu hiệu gì, hoặc gặp chút đất ướt… chứng tỏ đã đào gần tới kho báu rồi. Tất cả phải cố gắng đừng để Thầy kêu mới đào, không hối thúc thì ngồi nghỉ. Đó là việc của chính tụi con.

Thầy chỉ có hai trách nhiệm: Bảo hộ cho tụi con yên ổn ngồi đào, và nhắc nhở khi thấy tụi con mỏi mệt: “À, gần tới rồi, gắng đào sẽ được.” Phần chủ yếu là tụi con phải nỗ lực, hăng hái. Kho báu tụi con sẵn có, chắc chắn có. Trong khi đào, thỉnh thoảng có một hai dấu hiệu, biết đã gần đến mà không rõ còn bao xa, tụi con hăng hái đào sẽ được kết quả tốt, chắc chắn không nghi, vì Phật Tổ có nên chúng ta có. Phật Tổ được, Thầy lóe thấy được, tụi con đào sẽ được. Cái gì mình làm mù mờ, không có bằng chứng mới e ngại; còn trước mình Phật Tổ đã được và hiện tại Thầy cũng được phần nào, tụi con nỗ lực chắc chắn sẽ được.

Đó là điều hết sức cao cả và quí báu. Tụi con thấy ở thế gian, người ta đi bòn từng chút vàng, có khi nguy hiểm mà cũng đi làm. Còn mình ở đây có kho vô tận, không nguy hiểm gì hết, ngồi đào xới một mình, không ai rầy rà giành giật, lại còn được cho cơm ăn áo mặc, thiếu gì cho nấy. Như vậy quá tốt rồi, chỉ gia công làm việc cho mình mà không chịu làm thì dại khờ cỡ nào? Phải chi làm cho ai đó nên họ lo, còn ở đây làm cho mình mà người ta phải lo phụ. Thầy khuyến khích, sách tấn, còn Phật tử đem lương thực đến cúng, cần gì đều chu cấp đầy đủ. Đào cho mình mà ai cũng giúp đỡ, khuyến khích, dỗ dành. Vậy mà không chịu đào!

Nếu tụi con lơ là không nỗ lực là khôn hay dại? Thầy nói rõ cho tụi con hiểu đó là việc quan trọng của mình. Người khác tuy biết nhưng làm chưa được, nay thấy mình đang làm họ ủng hộ, mình phải ráng làm cho được, vừa lợi mình mà mọi người cũng hoan hỉ. Nếu mình lơ là, bản thân uổng đi một đời, thiên hạ cũng mất lợi lạc. Do đó, việc làm này vừa lợi mình lợi người, hết sức quan trọng, tụi con phải nỗ lực.

Giờ ngồi thiền là giờ vàng ngọc chớ không phải thường. Một phút qua là mất đi một phút quí báu. Ở ngoài người ta làm có tiền họ mừng, còn đối với chúng ta giờ ngồi thiền rất quí, phải vui thích hơn cả người được tiền! Tụi con hiểu vậy rồi, khi sửa soạn đi ngồi thiền cảm thấy hoan hỉ, không phải làm việc không công vô ích. Nếu người ta bắt mình làm một việc vô ích, mình mới chán nản uể oải; đằng này, làm ích lợi cụ thể cho mình sao không chịu hăng hái? Hiểu cho thật kỹ, rồi tụi con cố gắng làm cho được.

Hôm nay Thầy nhắc nhở cho tất cả nhớ. Kho báu tìm được rồi sẽ thành trưởng giả chớ không phải con ông trưởng giả!

Ngày 13-5 Ất Hợi (10-6-1995)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay thấy toàn chúng chỉ có lỗi nhỏ không có gì quan trọng, chứng tỏ tinh thần tu hành có tiến bộ, lỗi lầm mỗi ngày có giảm thiểu. Đó là điều đáng mừng.

Bây giờ Thầy nhắc vài điều. Tất cả người tu cũng như người thế gian, thường do thời tiết hoặc ăn uống không hợp với cơ thể sanh ra bệnh. Những bệnh đó tuy nặng nhưng dễ trị, chỉ có bệnh buồn bực là khó trị. Tụi con thường kinh nghiệm, khi nào bực bội chán nản thấy người mệt liền. Bệnh này uống thuốc không hết. Nếu cơ thể hơi suy nhược, thêm bệnh buồn chán tự nhiên sẽ thành trầm trọng, thuốc gì trị cũng không lành. Bởi vậy người tu nếu khéo một chút, giả sử cơ thể có chừng ba mươi đến bốn mươi phần trăm bệnh, tụi con có thể vượt qua được. Nếu tu không khéo, có những chuyện buồn rầu ôm ấp trong lòng, bệnh từ ba mươi bốn mươi sẽ tăng lên sáu mươi bảy mươi, nhiều khi cả trăm phần trăm nữa.

Vì vậy Thầy nhắc tụi con, người biết tu phải dẹp hết các thứ buồn phiền, chán nản, bực bội, bởi vì việc hơn thua, phải quấy, tốt xấu ở trong huynh đệ không có gì quan trọng hết. Cái quan trọng hiện giờ tụi con đang lo là đào lấy kho báu. Thầy nhắc lại ý kỳ trước, biết dưới đất có kho báu, nay bị người đổ bê tông bao bọc chắc quá nên phải đục từng chút, lần lần nó bể hết, kho báu mới bày ra. Khi tụi con tin tưởng vào kho báu mình đang tìm, giả sử có ai đi ngang chọc ghẹo, nói nặng nói nhẹ, tụi con không nên để ý tới, coi như trò chơi. Việc quan trọng mình phải đạt được là đào đem kho báu lên, ngoài ra mọi thứ đều không đáng kể. Như vậy mới là người biết dồn hết khả năng sức lực vào việc đáng làm.

Lúc mình đang đào, nếu có người tới nói lời trái ý liền bực tức buồn phiền rồi buông cuốc, như vậy cả đời cũng không đào được cái gì. Khi tụi con biết chắc có kho báu và dồn hết vào một việc, bảo đảm sớm muộn gì cũng thành tựu. Ngược lại, còn lăng xăng bên ngoài, chưa dồn hết tâm lực thì khó mà có kết quả được.

Ở thế gian người ta làm cả đời để sắm đồ quí hoặc cất nhà, mua xe. Do công khó cực khổ mới tạo nên nhà cửa, xe cộ, hoặc những món đồ quí trong nhà, nên trong lòng thường sợ mất. Cái nhà thì sợ cháy, sợ sập, xe cộ sợ hư, đồ quí sợ ăn cắp, lúc nào cũng lo sợ. Còn kho báu của tụi con tìm được rồi có sợ ai ăn cắp hay giành giật không? Nếu mọi người đua nhau tìm của báu như chúng ta thì có hại gì cho thế gian không? Người thế gian khi được của báu, thường sợ người trộm cắp, sợ kẻ ghét ghen, còn của báu này không bị tranh giành cũng không bao giờ mất.

Như vậy, so hai trường hợp: cả đời lo sự nghiệp thế gian và cả đời lo tìm kho báu nhà mình, cái nào quí hơn? Dù cho người đời được thỏa mãn ước nguyện về vật chất, ước nguyện đó không bao giờ thật sự thỏa mãn, cũng không tin tưởng được lâu dài. Trái lại, tụi con khi làm xong việc mình rồi thì bảo đảm trăm phần trăm. Cũng như Thầy tuy chưa lấy trọn kho báu như Phật Tổ, nhưng một chút đó không ai giành được, xài mãn đời không hết.

Như vậy tụi con mới thấy, cái của mình tìm lại được không thể mất, nếu có ai bắt chước mình còn mừng hơn. Ở thế gian khi đi buôn hoặc làm cái gì có tiền, thường sợ người khác bắt chước, sợ mất sở, mất bạn hàng; còn chuyện này ai đua làm, mình càng mừng. Đây là một việc làm trọn vẹn, nhận được rồi không mất, không ai có thể giành giật với mình, nếu có người muốn bắt chước lại càng tốt. Một việc làm hữu ích cho mình và người khác như vậy mà tụi con không cố gắng thật là phí uổng.

Cuộc sống chúng ta chỉ có mấy mươi năm, thời gian làm việc tốt và quí báu không nhiều, nếu tụi con không khéo, để cho những chuyện vui buồn chen vào sẽ không đủ thời giờ để làm việc. Vì vậy, biết việc này cao quí, cả cuộc đời mình phải tìm cho ra thì mọi cái tầm thường không quan trọng tụi con phải gác qua một bên, được vậy mới mau thành tựu. Đời tu muốn đạt được kết quả, đừng để những chuyện lăng xăng chi phối, đến khi già nhớ lại buồn và hối tiếc là mình đã phí thời giờ.

Đời tu cao cả biết bao! Có nhiều người già muốn tu mà không tu được, nên họ cúng dường lễ bái tụi con. Ở thế gian có ai lớn tuổi mà lễ bái người nhỏ tuổi không? Bây giờ tụi con tu, người ta thấy quí, họ không làm được như tụi con nên họ lễ bái. Điều đó càng khích lệ mình phải ráng làm tròn hơn nữa.

Tụi con thấy tất cả người đời làm cái gì cũng muốn được lợi, hưởng lợi. Còn ở đây chúng ta làm việc cho mình, lợi hưởng trọn vẹn mà người ta lại quí mình. Nếu tụi con tu đắc đạo cũng đắc đạo cho mình, vậy mà Phật tử đem cơm gạo đến cho tụi con ăn để tu. Tụi con làm một việc cả thiên hạ đều quí, như vậy là chọn đúng hay sai? Nếu sai chắc không ai ngó ngàng đến. Làm việc không ý nghĩa thì dù cho mình chết cũng chẳng ai để ý tới; còn đây là việc hi hữu rất có nghĩa lý nên nhiều người ủng hộ. Khi mình đang làm chưa được kết quả gì, người ta vẫn thương quí lo lắng, đủ thấy rằng việc làm của tụi con hết sức quan trọng và cao thượng.

Tụi con đừng để cho những thứ tầm thường vô nghĩa lý phá hoại sự cao cả của mình.

Gần đây, tụi con thuần thục theo nề nếp Thiền viện nên sống hòa vui và ít phiền não. Ít phiền não thì ít ai than thở bệnh hoạn, ít có ai gương mặt dàu dàu thở dài.

Đó là điều Thầy muốn nhắc cho tụi con, đường tu là con đường hết sức có ý nghĩa. Rất nhiều người đang mong mỏi, muốn thực hiện mà chưa được nên tán dương phù trợ cho mình làm để họ bắt chước. Vì vậy tụi con phải cố gắng tận tâm tận lực làm cho được việc, vuông tròn sở nguyện của mình, đồng thời những người thương quí mình cũng thỏa mãn, đạt được sở cầu. Nếu chúng ta lơ là, đến ngày trăm tuổi cũng không tới đâu. Đó là hủy hoại đời mình vô ích, cũng phụ lòng mong cầu của những người đang trông chờ mình.

Vậy nên tụi con ráng tu, chính là tu cho tụi con, lại còn giúp người thân, người thí chủ phát tâm theo. Đó là tự lợi và lợi tha. Không đợi tụi con tu thành Phật Tổ rồi sau mới dạy người, chỉ cần hiện tại tụi con làm được là người ta đã phát tín tâm rồi. Ngược lại, nếu ở đây mười, hai mươi năm cũng như thuở xưa không tiến thêm một bước nào, không có cái gì hay, thì những người trông đợi tụi con sẽ thất vọng và chính tụi con cũng không được gì, đó là tổn hại cho cả hai. Mong tất cả tụi con cố gắng.