TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ
Đời Đại Tống, Sa-môn Thích Nguyên Chiếu ở Dư hàng soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN HẠ

(PHẦN 3)

THIÊN GIẢI THÍCH ĐẦU ĐÀ

Đầu-đà là tiếng Phạm, giải thích ở sau. Đây là danh xưng cao quý của bậc Đạt sĩ, là danh từ khen tặng của bậc Thượng đức. Thế tục không biết chỉ theo danh xưng mà không hiểu rõ sự thật.

Hô đoãn cân vi đạo: gọi cạo tóc là đầu đà.

Người có đạo biết hổ thẹn, danh thật đều táng mất. Bỗng ôm trong lòng sự hiểu biết sâu xa, đây thật là chánh danh.

Trong phần nêu ý:

Khoa đầu có hai:

  1. Trình bày căn cơ.
  2. Từ thị trở xuống là hiển bày giáo.

Trong phần một: hai câu trên nêu đức, hai câu dưới là khen công. Báo là chỗ chiêu cảm của nhân đời trước; hành là chỗ tu hiện đời. Tinh nghĩa là mầu nhiệm. Khiết nghĩa là thanh bạch.

Siêu chúng lụy nghĩa là gần thì dứt bặt dục trần. Xa thì cởi mở sự ràng buộc trong các cõi.

Tủng là nói về tướng mạo của núi cao, khác với bực trung, hạ, nên nói là bất quần.

Trong phần hiển giáo, hai câu đầu chỉ chung một đời. Như trở xuống là dẫn kinh luận Đại thừa, Tiểu thừa. Cố trở xuống là nêu riêng Luật tông. Hai câu trên là y cứ chế giáo phản hiển.

Nói phàm chỗ chế: tức là chỉ chung y, thực, phòng xá, thuốc thang, v.v… Do đó, các giới phần nhiều là hạnh Đầu-đà đây nêu lỗi mà chế.

Phàm trở xuống là dẫn Thính giáo thuận rõ. Như trong giới hai phòng rộng nói mười hai hạnh Đầu-đà. Và giới y dư do có sáu mươi vị tu hạnh Đầu-đà đến chỗ Đức Phật, Đức Phật liền khen ngợi, do đây mà cấm chứa thức ăn. Do khai chế Trung hạ, sợ kia buông lung biếng nhác, vì thế trước khen bực Thượng hạnh, ý khiến cho biết hổ thẹn, ý chỉ kính mến sự cao ngạo.

Dục trở xuống là nêu ý dạy.

Biếng nhác khách nhiễm trần đều họi là tài năng của bậc trung hạ.

Biếng nhác là kiêu mạn, tức thuộc về kết hoặc, nhiễm trần là dục, tức thuộc về nghiệp phi. Thiền định phá kiêu mạn, giới dứt được ham muốn. Định phát tuệ, ba món học vô lậu đầy đủ. Định thì nhiếp tâm phòng ngự vì thế dụ như ngôi thành. Giới thì thứ lớp nhập đạo cho nên dụ như giai cấp. Giai là thềm.

Trong phần dẫn chứng, Luận Trí Độ, đầu tiên nói ý Phật khen ngợi, Đạo hạnh chung cho ba thừa Thánh Đạo. Thế lạc tức nhân khổ của năm dục.

Bốn y theo hạnh Đầu-đà là căn bổn chế, vọng chế khai giáo, cho nên nói là bổn.

Có trở xuống là nêu khai cho.

Nói nhân duyên là căn cơ trung và hạ, y, thực, phòng xá, thuốc thang bốn món khai giáo đều có duyên.

Bất đắc dĩ: không phải ý của Phật.

Việc khác: chỉ chung tất cả thính giáo.

Trong phần chia chương, hai phần trên chỉ hạn cuộc bổn bộ. Ba là hiển bày bộ khác. Bốn là nêu hạnh khác.

Trong phần giải thích tên, luật Thiện Kiến, hai câu đầu là dịch tên.

Đẩu Tẩu là nêu bỏ vật khiến cho hết không còn, từ thí dụ mà đặt tên.

Vị trở xuống là giải thích nghĩa. Phiền não là hoặc. Dính mắc là nghiệp. Trong kinh Thánh Thiện, kinh kia dưới chữ Thiên tử có chữ sở vấn. Kinh chỉ nêu nghĩa, có chút ít hợp với tên luận. Đầu tiên nêu hình tướng. Đẩu tẩu là trí năng trị. Dục, sân nhuế, si là phiền não sở trị.

Mỗi thứ luận riêng: kia chép: phủi sạch sáu nhập trong ngoài (sáu trần là ngoài, sáu căn là trong). Nay gồm sao chép cho nên chỉ bày.

Kế, từ hựu trở xuống là khen tu thuyết. Đầu khen tu nên nói là năng thiện. Như thị trở xuống là khen thuyết. Không lấy không bỏ nghĩa là đối với pháp lìa hai chấp có và không. Không tu nghĩa là không chấp chỗ tu hành.

Không: nghĩa là không chấp chỗ chứng đạo.

Luận kia chép: không có một chút pháp nào để chấp, đã không có chỗ chấp thì không có chỗ xả.

Lại không có tự tha hai người tu thì không có chỗ chứng (không thấy tự mình tu, khôngiới thấy người khác tu).

Trong phần hiển bày đức: Khoa đầu dẫn văn có năm. Trong kinh Tăng Nhất nói thủy tán đồng Phật, là ý muốn nói sự quan trọng của tổn hại và lợi ích.

Do trở xuống nêu lý do quan trọng.

Trong Thập Luân y cứ kia chính là bài kệ bảy chữ. Nay chép câu thứ tư trở xuống là nhiều chữ số. Sợ người sau vọng thêm vào, văn kia chỉ quở trách phá giới. Do phá giới cho nên mất hạnh Đầu-đà thì nêu lỗi nặng của phá giới. Câu đầu là nêu lỗi, câu kế nói lỗi nặng nghĩa là đồng năm tội nghịch.

Phật không cứu trở xuống hai câu là dẫn chứng.

Không nhập chúng: tức trong hai bộ tăng, đây là y cứ phạm thiên đầu mà nói.

Trong Kinh Hoa Thủ nói từ nhượng, kinh ấy chép: Ta thấy Thánh Vương còn cho là khó, huống chi được phân chia giường ngồi chung với nhau. Nay ta được thấy gần gũi mời thỉnh đã là đại lợi, huống chi thấy thân mang cùng ngồi chung trên giường, đây rất là ít có, Đức Như lai rất từ bi hỷ xả. Trong kinh Tạp A-hàm duyên khởi cũng giống như đây chỉ thêm đổi ý, xưng tán là khác.

Kinh ấy chép: Đức Phật ngự tại Kỳ-hoàn, các Tỳ-kheo thấy Cadiếp đắp y thô xấu đi đến, liền khởi tâm kiêu mạn. Đức Phật liền đổi y để dứt tâm kiêu mạn kia. Do thực hành khổ hạnh, Đức Phật còn tôn kính thì biết công đức nầy rất cao quý.

Tứ Phần là văn Kiền-độ, luật ấy chép: Đức Phật ngự tại nước Xávệ, bảo các Tỳ-kheo rằng: ta muốn ba tháng tịnh tọa tư duy, không để cho người ngoài vào, trừ người cúng dường. Các Tỳ-kheo lập chế: nếu có người nào vào thì phải sám hối tội Ba-dật-đề. Bấy giờ, Trưỡng lão Hòa Tuyên Bạt-Xà-Đà Tử và sáu mươi vị tu hạnh Đầu-đà ở nước Ba-la không dùng, các Tỳ-kheo đều đến chỗ Phật, Đức Phật khen lành thay lành thay! Hòa Tuyên các thầy, đây đều là chốn A-lan-nhã, được tùy ý hỏi thăm. Các Tỳ-kheo nghe rồi phần nhiều tu tập hạnh Đầu-đà, cho đến xả bỏ y dư rất nhiều, cho nên biết ít muốn lìa nhiễm, tùy thuận lời Phật tức cúng dường Phật.

Trong phần nêu bày lợi ích, luận nói tu mười hai hạnh Đầu-đà đều có đủ mười lợi ích. Vả lại, chỉ nêu một món A-luyện-nhã để nêu nhiều lợi ích. Cố chí trở xuống văn nêu tướng không dẫn lại.

a. Nêu bày. Nói lược thuyết nghĩa là nói không hết. Nói tận hành nghĩa là nói thời kỳ chính yếu.

b. Nêu tướng:

1. Thân không sở thuộc.

2. Không bị vật ràng buộc.

3. Không bị ngăn trở.

4. Trung luận nói: Tâm chuyển lạc tập A-luyện-nhã hoặc trụ xứ, nghĩa là tâm ưa thanh tịnh càng thêm cao quý.

5. Không có chỗ mong cầu.

6. Không trụ xứ, không sợ dệt để nêu bổn chí.

7. Lìa chỗ ồn náo.

8. Do thuộc chỗ thanh nhàn vắng lặng không chỗ làm.

9. Hễ tư thiền định thì phải nương duyên thanh tịnh.

10. Tưởng vô ngại nghĩa là “Tam-muội không”, luận nói đây là tác tưởng vô chướng ngại.

c. Từ nhược trở xuống là nêu duyên khai. Có nhân duyên, luận nói có mười trường hợp:

1. Cung cấp cho người bệnh.

2. Vì người bệnh mà xin thuốc thang.

3. Vì chăm sóc người bệnh.

4. Nói pháp cho người bệnh nghe.

5. Nói pháp cho người nghe.

6. Nghe pháp giáo hóa.

7. Cúng dường vị Đại đức.

8. Cúng dường Thánh chúng.

9. Vì đọc tụng kinh.

10. Khiến người đọc tụng kinh.

Có thông cuộc là y cứ vào duyên có, không. Ngoại đạo chế không khai cho nên không đồng.

Sau chỉ phẩm kia, văn có trường hợp mười ba, mười bốn.

Trong phần phân biệt, đầu tiên nêu tên lạm chung. Lan trở xuống là phân biệt hạnh thông cuộc, nghĩa là hai hạn cuộc mười thông.

Ồn ào, thanh tịnh là nói về xóm làng và chốn lan-nhã.

Trong phần nêu số, tổng quát có mười hai không ngoài bốn vị.

1. Nêu tướng sinh, chỉ y cứ tổng số, khoa sau nêu hạnh tức y cứ vào tướng riêng.

Trong phần tướng sinh, văn đầu, trước nêu sinh khởi. Sau từ cố trở xuống là nêu hình tướng.

Trong phần trước, đầu tiên nói y ban đầu, giúp đạo giúp thân, y thực đều như vậy. Chỉ có thức ăn thì thời hạn, y thì thường dùng nên nói là quan trọng nhất.

2. Nhược ư trở xuống là nói lên phải lập lý do. Đầu tiên nêu lỗi sai. Thị trở xuống là nêu giáo lập.

Ít muốn biết đủ là lìa sự tham cầu.

Thọ thủ có phương là hợp chế pháp. Chế pháp như ở sau sẽ nêu.

3. Khoa mỗi mỗi lập đều có xen vào phần sinh khởi ở trước, nêu tướng có hai đoạn, tìm văn có thể phân chia.

Trong phần ba nói đãng là buông lung biếng nhác. Tiết là tiết hạnh.

Chỗ trống tùy ngồi do oai nghi nói xứ có khác với ở sau.

– Ba trước là hướng đến mà ngồi. Ngồi là chánh tu nên gọi là trợ duyên. Nếu tâm quán ngồi cũng duyên mà thôi. Buộc niệm suy nghĩ tức tu chánh quán. Trảm triền là phá hoặc, xuất yếu là chứng lý.

Khoa kế chép rằng: nêu tên mười hai món sau đều nêu đầu.

Hành thể nghĩa là mỗi mỗi hiển tướng, bày chỗ tu.

Trong phần nói về y bá nạp. Văn đầu nói xả y đàn việt: là nhiều lỗi lầm.

Mặc y phẩn tảo: đầy đủ các lợi ích.

Khoa kế, y cứ văn luận đây nêu chung hai y đều lợi ích. Song chỗ dẫn nầy chính là dùng y phẩn tảo, cư sĩ cúng y do đó kèm theo dẫn. Đối với tướng riêng của văn luật trên rất dễ thấy.

Trong mười lợi ích:

1- Do đắp y nầy không sinh kiêu mạn, buông lung.

2- Thiếu

3- rất dể hiểu

4- Thiếu

5- Chữ truyền lầm hợp viết thành chữ trước. Luận chép: Do nhàm lìa tâm ưa đắp nhuộm y (đắp, mặc) không tham sự tốt đẹp.

6- Ít muốn thì thuận với đạo, cầu nhiều thì làm cho điều ác thêm lớn.

7- Kiềm chế thân.

8- Xả bỏ đồ trang sức.

9- Luận nói: Thuận theo tu tám Thánh Đạo để lìa tà cầu thuận chánh mạng.

Luật Thập Tụng nói do mặc (đắp) y nầy được sách tấn siêng năng, không nhiễm thế gian.

Luận tổng kết rằng: thấy mười lợi ích khi đắp hai y này, cho nên mười lợi ích nầy không chuyên về y Phẩn tảo để y cứ mà nói.

Y Phẩn tảo có mười lợi ích:

  1. Không vì y mà hòa hợp với người tại gia.
  2. Không hiện tướng xin y.
  3. Cũng không phương tiện nói để được y.
  4. Không cầu xin khắp bốn phương.
  5. Nếu không được y cũng không lo buồn.
  6. Được y cũng không vui.
  7. Khinh thường vật không có lỗi hoạn.
  8. Không trái với pháp bốn y ban đầu.
  9. Xếp vào trong số y thô (xếp vào y phẩn tảo trong hạnh Đầu-đà).
  10. Không phải là người tham đắm.

Trong phần ba, kinh ấy chép: Phật bảo Ca-diếp Sa-di Châu-na lượm được y phẩn tảo, đem đến ao A-nậu-đạt để giặt cho sạch, các vị trời từ xa trông thấy đều đảnh lễ, lấy nước giặt y này để tắm gội (Nghiệp Sớ nói rằng vì tâm thanh tịnh). Tiếp đó có một ngoại đạo đem tấm bện bằng bông đến giặt, các vị trời từ xa ngăn chớ làm dơ uế nước trong ao đó (Sớ rằng: do tà mạng mà được thể bất tịnh). Y phẩn tảo này đều là những mảnh vải vụn rơi rớt của người đời bỏ, lượm kết may làm pháp y.

Muốn cho tiết kiệm ít ham muốn, phải nghĩ ngoài một y Bá nạp này không còn vật gì nữa. Thời nay, chúng tăng phần nhiều làm Nạp san (áo lót nhiều thứ vải) đây không phải là pháp mục. Cắt may vải lụa năm màu, thêu thùa sặc sỡ gọi là Sơn Thủy Nạp, giá trị đến mấy ngàn bạc đây đều trái với sự tiết kiệm. Mấy năm may vá luống phí thời gian và công đức. Pháp theo thời lầm bậy, Đạo tùy sự mà dứt mất. Đây chính là vọng xưng bậc Thượng đức, xen lẫn dự vào hạnh Đầu-đà, những người hiểu biết phải rất cẩn thận.

Trong phần hai văn đầu nói xả bỏ những vật dư vì lìa lòng tham chứa để. Đắp ba y, hoặc gọi là chỉ ba y, chỉ dụ như độc nhất, vì ngoài ba y không có y nào khác.

Khoa kế, phần năm nói tế giới hạnh: lìa các vật dư, trì phụng tinh vi.

Phần sáu nói hành lai không lụy nghĩa là vì không bị vật ngăn trệ.

Tám: Tùy trở xuống y theo luận có chữ thuận, nghĩa là Lan-nhã không xứ vì ít việc.

Mười: Vì dùng tám Thánh Đạo lìa tà mạng.

Trong phần ba, khoa đầu nói ba thừa đều khất do chánh mạng đây là Thánh chủng vì bẻ dẹp tâm ngã mạn, lìa các điều ác. Tu bình đẳng nên sinh vật thiện, khiến thực hành Đàn ba-la-mật khởi đại hạnh, khiến sinh lòng từ, biết vì gieo hạt giống Phật. Bực cực Thánh còn như vậy huống chia các bực Thánh khác. Ba đời mười phương đều như vậy, đâu chỉ một cõi Ta-bà nầy.

Than ôi! Đời mạt pháp, năm trược càng nặng, ngã mạn tự cao không có tâm chánh tín, bôn ba theo thế tục. Xin bảo với các môn đồ, hoặc ỏng ẹo nơi thôn xóm, hoặc cười giỡn ở các ngã đường, hoặc làm việc buôn bán, hoặc đích thân cày bừa làm ruộng, kinh doanh các vật thế tục trọn đời không đủ.

Tự cam là kẻ thấp hèn sợ lao nhọc, có thể gọi là chỗ khinh mạn của kẻ ngu ở thế gian. Đâu biết rằng đây là diệu thuật của sự sống thanh tịnh, là pháp môn giải thoát tự tại. Trong nhân, cúng thí vô cùng, ruộng phước trong quả nào bằng. Tin là đầu mối để phát hạnh, là thềm thang đầu tiên để nhập Đạo. Đã biết muôn kiếp khó gặp, chớ để một đời luống qua. Xin tìm xem khắp trong Đại tạng, tin sâu lời Phật, hết sức vâng hành thì mới thật là Phật tử.

Khoa kế, luận có năm ý:

1. Xứ chúng nhiều phiền não, vì ăn thức ăn của tăng.

2. Làm thức ăn có nhiều lỗi.

Nói không đúng pháp hoặc mua, hoặc tổn thương tánh mạng. Hoặc ngủ nấu, ác xúc, cho nên không thanh tịnh.

3. Ràng buộc thuộc nhiều phiền hoạn, ép ngặt, nhan sắc mạnh mẽ. Sắc không an theo ý nên tâm không an.

4. Thuận hành bốn y. Đầu nêu chế ý, thọ trở xuống là bày sự tổn hại và lợi ích. Đầu tiên nêu sự tổn hại của thọ thỉnh. Nhược trở xuống là nói lợi ích của việc khất thực. Kiêm vị, kiêm nghĩa là tôn trọng.

5. Từ hựu trở xuống tức sự nêu pháp.

Nói vô tận nghĩa là biển lớn Phật pháp không có thỉ chung (đầu cuối).

Trong phần ba, khoa đầu trước nói pháp trong chốn A-lan-nhã. Đắp y, cầm tích trượng đi, v.v… tức là thân nghiệp. Tư duy tức là ý nghiệp. Thấy người hỏi thăm, v.v… là khẩu nghiệp.

Đả lộ trượng nghĩa là nhờ cây trượng biết được cách trên cỏ vì sợ sương, mốc ướt y. Hoặc nói rằng cầm tích trượng, trùng thú sợ.

Nếu gần trở xuống là thứ lớp vào xóm khất thực, có sáu pháp:

1. Pháp đắp y.

2. Từ chí trở xuống là cách nhìn. Đến môn thứ bảy, do luật chế pháp không quá bảy nhà. Nếu theo luận Tát-bà-đa thì có ba trường hợp thứ lớp khất thực.

– Đến một nhà được thức ăn, ăn không đủ thì thôi.

– Thứ lớp đến bảy nhà được thức ăn, ăn không được cũng thôi.

– Thứ lớp từ nhà này đến nhà khác ăn đủ thì thôi, không hạn lượng nhiều ít. Ngày sau khất thực trở lại theo thứ lớp đầu tiên. Y theo đây tùy người nêu ý thọ hành khác nhau nên không có chế nhất định.

3. Từ hữu trở xuống là pháp chánh khất thực. Bên đường vì nêu sự nhún mình. Thứ lớp vì không phân biệt nhà giầu, nhà nghèo, y cứ ở sau trừ các nhà có chó dữ, trâu dữ. Trong kinh Lăng-nghiêm nói rằng: Ca-diếp bỏ nhà giàu đến khất thực nhà nghèo. Tu-bồ-đề bỏ nhà nghèo đến nhà giàu, đều bị Đức Phật quở trách là không bình đẳng.

4. Từ nếu thế tục trở xuống là pháp thọ lấy. Đón lấy nghĩa là thấy người khác đem thức ăn đến thì đến trước họ mà đón nhận, do trái với tướng tôn trọng nên không chế không được.

5. Từ nếu trở xuống là phép quán thời gian.

6. Từ được ăn trở xuống là pháp tác niệm. Y theo sau phải giữ lại phần của giặc, hoặc nghi giặc cướp đoạt, không tưởng của mình, cũng có chút ít lòng tham.

Nhấn đến trở xuống là nêu tụ pháp, như trước tiến phủ, đồng với nghiệp hành ở trên.

Khoa kế nói không được nói v.v… là vì lìa tà mạng, tại hiện xứ là khiến cho người khác thấy.

Mặc nhiên lập: không cầu, tự xả, được phước nhiều.

Trong phần ba, nói ba tạng môn là nói theo có. Trong đây nhà thế tục không ưa vào, chỉ ở ngoài bức rèm ngăn che để tránh sự chê bai.

Búng ngón tay ba tiếng là khiến cho bên trong biết, nay hoặc rung tích trượng để thay thế búng ngón tay càng tốt.

Không tiện đi nghĩa là chậm lại đợi thí chủ ra, nếu không ra mới đi.

Trước tiên ăn thức ăn nấu chín vì không bị tổn hại.

Trong phần bốn, nêu lợi ích gồm:

  1. Thân được tự tại.
  2. Vì để khuyến hóa việc tu hành.
  3. Khởi niệm lợi ích cho người khác.

Sinh tâm từ biết nghĩa là thương xót người khác san tham bỏn sẻn ít phước đức.

Luận kia chép: Ta phải siêng năng tu hành tinh tấn (Hành khất không biếng nhác), khiến khéo trụ tâm bố thí (phát khởi đại hạnh), khởi tưởng mình chính là thức ăn (tác niệm).

Trong phần năm nói dễ đầy đủ, dễ nuôi dưỡng nghĩa là một bát liền no đủ khắp thân phần.

Trong phần sáu nói sinh nghiệp là vì khất thực ít nhất.

Tức kinh chép: tự thấy như vậy, nếu khởi tâm kiêu mạn sẽ mau bị tiêu diệt là ở đây.

Trong phần bảy nói là hộ thắng quả. Trong ba mươi hai tướng tốt của Chư Phật, tướng vô kiến đảnh là bậc nhất. Trong nhân là một người hành khất thấp hèn mà cảm được tướng nầy cho nên nói là gốc lành.

Tám là hướng dẫn người khác.

Chín là ít việc.

Mười là lìa tâm phân biệt vì nếu thọ nhận sự cúng thí riêng thì có tâm thiên vị.

Trong phần năm, tiếng Phạm là Phân vệ, Hán dịch là Đoàn đọa.

Do ở Tây Trúc phần nhiều là đoàn thực, cơm đựng trong cái bát.

Luận nói: khất thực nêu sự hiển bày.

Trong phần sáu, có ba:

  1. Dẫn chuyển thí để răn dè việc ăn một mình.
  2. Dẫn đường xa để răn dè từ chối việc mệt nhọc.
  3. Dẫn gặp nạn để răn dè việc khinh động.

Văn trong luận nêu ba mươi ba việc. Luận ấy chép: Đức Phật độ năm trăm Thích chủng sợ gần gũi người thân dễ phá giới nên đến nước Xá-Đề-Bà-Đề. Đầu hôm, gần sáng không ngủ, tinh tấn tu hành cho nên đắc đạo. Sau đó, Đức Phật đem về bổn quốc, trong rừng của vị tiên Ca-tỳ-la cách thành năm mươi dặm, vì thế Thích chủng dạo chơi trong vườn nầy (có chỗ sửa lại cách thành ba dặm là không đúng). Các Thích tử Tỳ-kheo do trước đây tu hành không ngủ cho là đêm dài. Từ trong rừng vào thành khất thực cho là đường xa, Đức Phật biết tâm của các vị nầy. Lại có sư tử đến lễ dưới chân Đức Phật, do ba duyên nầy nên Đức Phật nói bài kệ. Trong lời Sao dẫn ba câu trên. Câu dưới nói rằng không biết chánh pháp.

Lại nói: Đức Phật bảo Tỳ-kheo: khi thầy chưa xuất gia tâm buông lung, ngủ nghỉ nhiều nên không biết đêm dài, nay vì cầu Đạo nên giảm bớt sự ngủ nghỉ, vì thế biết đêm dài. Trong rừng nầy, các ông vốn dùng xe cộ dạo chơi nên không biết đường xa, nay đắp y, ôm bình bát đi bộ mệt nhọc vì thế biết đường dài. Sư tử này, vào thời Đức Phật Tỳ-bàthi là một người Bà-la-môn, nghe Phật nói pháp, mọi người không nói chuyện với người này, liền sinh niệm ác mắng nhiếc rằng mấy ông trọc đầu này không khác gì súc sinh. Từ đó đến nay chín mươi mốt kiếp thường bị đọa vào loài súc sinh. Do vì ngu si nên ở trong sinh tử lâu dài, nay đối trước Phật tâm thanh tịnh nên sẽ được giải thoát.

Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, đầu là dẫn duyên khởi. Mục-kiềnliên trở về, Xá-lợi-phất trước trở về thôn cũ vào thành. Xá-lợi-phất thường bị bệnh phong nên nói là hoạn nặng, các vị trời rơi lệ buồn thương cho ngài cách xa đời.

Hai câu đầu khen nghiệp lực, do hai vị Tôn giả nầy đều đền trả nghiệp đời trước.

Cố trở xuống là nói rõ nghiệp.

Đãn trở xuống là nêu quả báo.

Dứt bỏ nghiệp báo chung: do phá kiến tư hoặc, nghiệp căn mất hẳn, không bị đọa trong ba đường ác.

Biệt báo tức bị đánh và bệnh cho nên bị chết.

Trong phần bốn do thức ăn trước là chánh thực được no đủ. Chưa đến giờ ngọ nếu muốn ăn thì khai cho, phải làm pháp dư thực rồi mới ăn. Pháp thức đều đủ ở trong phần tùy tướng. Bực Thượng căn ít muốn không thọ pháp khai nầy, vì thế được tên mà thôi.

Luận Trí Độ, trước nói doanh cầu chứng không giới hạn ở trước.

Hậu thực tức dư thực.

Mất nửa ngày: chứng phương nghiệp ở trước.

Phật trở xuống là nêu ý xuất gia.

Nuôi ngựa là lợi dụng năng lực của nó, nuôi heo là lợi dụng thịt của nó để ăn. Người xuất gia hành đạo không nên lợi dụng sắc lực, ở đây và thứ sáu không có mười lợi ích, vì Ta-bà không có hai hạnh nầy.

Như trong phần hạnh khác của các bộ có nói. Trong phần năm nói nhất tọa nghĩa là chỉ ăn một lần, không đồng với hạnh trước, giống như thọ tiểu thực.

Lợi thứ hai trong mười lợi là nói không có vật gì khác.

Lợi thứ ba là không có phiền não khi làm việc.

Trong phần năm nói ăn một lần là hạnh sâu kín trong pháp thực.

Bảy là nói chướng hoạn, nghĩa là nhiều việc chướng ngại cho đạo nghiệp.

Khoa kế, có thực hành ăn một lần, sợ đói ăn nhiều, vì thế có lỗi nầy.

Pháp tiết lượng thực, văn thấy ở khoa sau.

Trong phần ba do người ăn no, phần nhiều không nghĩ đến Đạo, thên lớn ba độc vì không phải là Đạo nhân.

Trong phần sáu, khoa đầu ngoài một chén lại không được lợi ích, có khác với trước.

Trong phần hai, luận giải thoát nói tiết lượng thực là tên khác của nhất tọa thực (ăn một lần). Hai mươi mốt suỷ, xứ kia sủy thực, xứ nầy không phải như thế. Phải y cứ về miệng mà luận. Người ở phương nầy nhỏ bé, y cứ sau có thể cho mười người, phải tùy theo người thêm hoặc bớt, không cần nhất định chỉ rộng.

Như kia: luận chép rằng: vì sao phải thọ thực có tiết lượng, nếu ăn no không có chừng độ sẽ thêm kiết sử ngủ nghỉ, thường tham ưa vì bụng không nhàm. Biết lỗi này sẽ thấy được công đức của sự ăn uống có tiết lượng. Ta từ ngày nay sẽ dứt tâm tham lam buông lung, ăn uống có điều lượng không để bụng tự do, ăn nhiều thêm bệnh, biết đó nên không ưa, trừ tham diệt bệnh dứt các sự biếng nhác, khéo nhập sở hành, v.v… Luận Đại Trí Độ, đầu tiên nêu pháp tiết lượng.

Tác trở xuống là hiển bày lợi ích. Như trở xuống là luận gia tự dẫn kinh để làm chứng. Người kia thân hình lớn vì thế năm, sáu người có khả năng làm, xứ nầy mười người.

Trong phần bảy, luận Đại Trí Độ nói viễn ly xứ: đối với thôn, xóm mà có tên. Ba dặm là gần nhất, giảm bớt thì không thành.

Chỉ cho Tạp hạnh: luận giải rằng được thân xa lìa rồi cũng khiến cho tâm xa lìa năm món dục, năm món cái, v.v… Và nói rộng mười hai hạnh trên, tìm xem đó (văn thấy sáu mươi bảy, trong tạng kinh nầy chia quyển không nhất định).

Luật Tứ Phần nói vắng lặng là y cứ đương thể mà có tên. Như đối trong dặm: Một cung có bảy thước hai tấc. Trăm cung là bảy mươi hai trượng. Năm trăm cung là ba trăm sáu mươi trượng. Sáu thước là một bộ. Sáu mươi trượng là một trăm bộ. Ba trăm sáu mươi trượng là sáu trăm bộ tức là hai dặm.

Trung Quốc trở xuống là dẫn luật Thập Tụng. Đầu tiên nêu Chùa tháp ở nước kia, Ni sợ lăng nhục nên ở trong thành.

Kế từ mười trở xuống là dẫn chứng.

Chung quanh chùa nghe tiếng Hổ gầm nghiệm biết xa thành chừng một ngàn hai trăm bộ, ba trăm bộ là một dặm, như vậy là bốn dặm.

Luận Tát-bà-đa nói nghe tiếng trống đánh, y theo phần trong Tập Tăng thì tức có hai dặm, có giống luật Tứ Phần chút ít, nhưng các văn

không đồng, nên dùng bổn tông làm chuẩn. Như trước luận Trí Độ nói xa càng tốt.

Khoa kế, chỉ cho y của tăng: tên đồng mà tướng khác, vì sợ xen lẫn nhau. Theo chốn A-lan-nhã của tăng không có nạn thì năm dặm, có nạn thì hơn bảy mươi bộ như giới lìa y.

Trong phần ba do sự tình tương phản, người thích xem thường nhau, tăng lỗi diệt pháp vì thế Đức Phật đặc biệt chế giới. Thượng nghiệp, nghiệp tức là hạnh. Sùng là tôn trọng, nghĩa là trong thượng hạnh rất tôn trọng chốn A-lan-nhã (mười lợi ích như trước).

Trong phần tám dẫn luận tên khác, thì biết pháp nầy không cần gò mả.

Trong mười điều lợi, trước nói bốn tưởng. Tưởng tức là quán.

1. Tưởng vô thường: tất cả pháp hữu vi có hai thứ: một là chúng sinh, hai là cõi nước (tức hữu tình và vô tình). Hai pháp này đều thường sinh diệt cho nên nói là vô thường. Cho đến trải qua riêng sắc, tâm, ấm, giới nhập, v.v… mỗi mỗi đều như vậy. Do đối cảnh quán hạnh hiện tiền, vì thế trong luận đều nêu chữ “Thường”.

Luận Trí Độ chép rằng: Do thây chết nầy quán tất cả pháp dễ được tướng vô thường.

2. Tưởng chết: nghĩa là một thời kỳ quả báo thường trải qua hai thứ tử (phần đoạn tử, biến dịch tử).

3. Tưởng bất tịnh: Quán thân mình và người, trong đó có ba mươi sáu vật (như trong giới sớ nói), ngoài có chín lỗ, chất dơ bẩn thường chảy ra từ lúc sinh ra đến lúc chết không có một chỗ nào sạch cả.

4. Quán không đáng ưa thích: Quán hai món thế gian: một là chúng sinh, hai là cõi nước đều có những điều ác không đáng ưa thích.

5. Nghĩa là nhân quán thây chết tức đối với nhau sắc tâm không ràng buộc.

6. Thượng tướng thế gian kia.

7. Do vì buồn không vui.

8. Thường thấy thây chết, không sợ những việc khác.

9. Đầu dẫn luận Đại Trí Độ nói chỗ hiệu nghiệm. Đức Phật hạ sinh dưới cây Vô Ưu; thành đạo dưới cây Bồ-đề; xoay bánh xe pháp dưới cây cát tường; nhập Niết-bàn dưới cây Ta-la.

Kế dẫn luận Thập Trụ nêu mười điều lợi. Văn nêu bảy lợi, nay dẫn đủ mười điều lợi đó:

1. Không cầu phòng xá mệt mỏi.

2. Không cầu xin ngọa cụ mệt mỏi.

3. Không chỗ ưa thích mệt mỏi.

4. Không thọ dụng mệt mỏi. (Văn nầy không có chỗ mệt mỏi.)

5. Không có danh tự chỗ ở (Nghĩa là không có tên trụ xứ)

6. Không có việc đấu tranh.

7. Thuận theo pháp bốn y.

8- Dễ được không lỗi.

9 Thuận theo tu đạo.

10. Không có các hành xứ ồn náo.

(Lời sao nầy lược các điều lợi 5, , bằng chữ “đẳng” (v.v…). Lời ký xưa thì hợp hai điều lợi không ưa, không thọ dụng thành một. Pháp bốn y làm bốn là sai.)

Trong điều mười, khoa đầu nêu dưới cây có nhiều lỗi. Tiện trở xuống là nói ở chỗ đất trống có nhiều lợi ích.

Khoa kế dẫn kinh Tăng A-hàm quán pháp thành Thượng không định, do quán thân nầy đã nương xương lông, v.v… các duyên hòa hợp mà thành. Phải biét thân ta rốt ráo không thật có, đây là nhân không. Lại rõ các duyên tự thể cũng không, đây là pháp không. Như thật biết nhân pháp đều không tức phá hai chấp, vì thế nói là “Tới Pháp không”.

Trong phần ba dẫn luận, đầu tiên nói Thượng pháp. (Pháp thượng)

Ở tại cây trở xuống là nói Trung pháp (pháp Trung).

Vũ quy ốc trở xuống là khác với trên. Phú xứ ít tổn vì thế được dùng vật của tăng.

Trong phần bốn có mười lợi:

1. Không cầu xin.

2. Không ràng buộc.

3. Không hộ người khác.

4. Không có sự ưa thích.

5. Có hai lợi đều ngược với điều dưới gốc cây mà nói. Do dưới gốc cây còn bị tiếng gió, gai gốc, v.v…

6. Không chiếm chỗ của người khác.

7. Không lo sợ người khác cướp đoạt.

Như lai trở xuống là dẫn sở hành của Đức Phật khiến cho vui vẻ.

Rừng Đại úy cũng gọi là rừng Khủng úy, Hàn lâm tức rừng Thi Thầy Đà ở phía Tây Bắc thành cách Vương-xá mười dặm. Ở nước đó, người chết phần nhiều đem bỏ vào rừng này gọi là Lâm táng.

8. Bị người xúc não không khởi ý: là nêu hạnh nhẫn nhục để răn dạy đời sau.

Kinh chép: Người có thể thực hành hạnh nhẫn nhục mới có thể gọi là người có sức mạnh lớn là ở đây.

9. Tùy tọa nghĩa là hể chỗ không có người thì liền ngồi, không cần phải ở dưới gốc cây hoặc chỗ đất trông.

Luận Giải thoát Đạo gọi là gặp được chỗ ngồi. Giải thích rằng: không ưa thích chỗ tham lam của người, không xúc não người khác khiến cho tránh đi.

Trong mười điều lợi, điều một, hai dễ hiểu. Điều thứ ba, là không nhường nhịn. Điều bốn vì không khiến cho tránh đi. Điều lợi thứ năm là ước hy vọng. Điều thứ sáu y cứ vào việc của người khác. Điều thứ tám y cứ vào việc làm của mình. Điều thứ chín nghĩa là không xúc não người khác. Kia nói đầy đủ rằng không khởi nhân duyên sinh tụng.

10. Khoa đầu luận Tát-bà-đa, trước nói pháp ngồi: Nhiên trở xuống là nêu chế ý.

Khoa kế, đầu tiên nêu hình tướng tức là thân nghiệp. Như trở xuống nêu tâm hạnh, nói không luống ngồi. Trong kinh có bốn pháp: Hai pháp đầu là trị lỗi tức tự lợi. Pháp thứ ba là lợi tha. Pháp thứ tư là để tâm vào thắng cảnh. Ngủ nghỉ, trạo cử, tán loạn thì lìa niệm Phật cho nên không ngồi.

Sau chỉ luận là luận Giải Thoát, luận ấy chép: thường ngồi công đức đoạn vì sinh sự biếng nhác trừ khi thân bệnh (khai duyên bệnh). Lìa sự nhiễm xúc, ít vui, ít bị ràng buộc vào việc ngủ nghỉ sẽ được tịch tĩnh, có thể kham tu thiền định. Sở hành của thiện nhân là nghiệp vô ngại.

Trong phần ba nói mười điều lợi ích: Ba điều trước là trị vui, điều thứ tư là lìa khổ, điều thứ năm là buông tình, điều thứ sáu và bảy là thành nghiệp, thứ tám là tinh thần khoát đạt, thứ chín là thân an, thứ mười là nghiệp nhẹ.

Trong phần bốn, luật Tứ Phần, trước tiên dẫn duyên. Phật trở xuống là lập giáo. Câu đầu là lập chế. Ứng trở xuống là dạy tu. Tư duy là tu quán. Trong đây không nói nên chỉ như sau tức trong pháp bốn nghi của thiên chủ khách (Hoặc chỉ Ba quán trong Thiên Sa-di).

Trong luận Trí Độ, đầu tiên là khen pháp ngồi, cầu trở xuống là răn dè sự ngủ nghỉ. Đại sự là chỉ việc cần phải dò xét trong Đạo. Tức kinh chép: không nên vì nhân duyên ngủ nghỉ khiến cho một đời luống qua vô ích không được lợi ích gì.

Lại nói: các giặc phiền não thường rình rập để giết người, rất thù hận nhau. Đâu thể ngủ nghỉ, không tự cảnh tỉnh mình… Nhược trở xuống là dạy pháp ngồi.

Hông không dính chiếu là thường ngồi.

Phần ba, trong các bộ:

Luận Tỳ-ni Mẫu: đối với thức ăn trị sân, dứt bỏ phiền não là Thượng hạnh.

Luận Trí Độ: nói dứt trừ mười hai thứ nước trái cây ép.

Không nhất tâm: kia giải thích rằng: vì ăn uống tương nên tìm cầu các thứ tương, nghĩa là tương quả, tương mật… Như Ngựa không có roi, ăn cỏ hai bên đường không chịu tiến lên đường trước, nếu có roi thì ý ăn cỏ sẽ dứt.

Kinh Bảo Vân chép: phần một trong bốn phần tức nói khất thực là hạnh riêng. Đầu tiên chánh nêu hình tướng.

Cái âm là cái, cũng là khất vật, cho quỷ thần tức nay gọi là thí thực.

Nhược trở xuống là dẫn pháp khất thực.

Trước tiên là phá giới cấm: hoặc tại gia phá năm giới, tám giới.

Hoặc xuất gia trái Đạo.

Chỗ có thể bị cơ hiềm là nhà dâm nữ, quán rượu, v.v…

Trong Thập Trụ, kia không có dư một buổi ăn, vì thế có hai thứ nầy, khác với ở trên.

Đều có mười điều lợi ích: kia nói rằng: Thọ y bằng lông tơ có mười lợi ích:

  1. Trong số y thô (xấu), nghĩa là đồng với y phẩn tảo.
  2. Ít cầu xin.
  3. Tùy ý được ngồi.
  4. Tùy ý được nằm.
  5. Dễ giặt.
  6. Nhuộm cũng dễ.
  7. Ít bị côn trùng gặm nhấm làm hư.
  8. Khó mục nát.
  9. Không thọ y khác.
  10. Không mất y cầu đạo.

Sau khi ăn không thọ thức ăn uống phi thời, có mười điều lợi:

  1. Không ăn nhiều.
  2. Không ăn no quá.
  3. Không ăn thức ăn ngon.
  4. Ít có sự tham cầu, mong muốn.
  5. Ít bị chướng ngại, họa hoạn.
  6. Ít bệnh tật.
  7. Dễ đầy đủ.
  8. Dễ nuôi dưỡng.
  9. Biết đủ.
  10. Khi thiền tịnh thân không bị mõi mêt.

Luận Giải Thoát Đao chép: Hai pháp y tương ưng: nghĩa là y Phẩn Tảo và ba ý.

Năm pháp thực tương ưng, nghĩa là:

  1. Thứ lớp khất thực.
  2. Nhất tọa khất thực.
  3. Tiết lượng.
  4. Đúng thời.
  5. Sau ngọ không được ăn.

Năm pháp ngồi, nằm tương ưng.

  1. Chỗ vô sự (Chốn A-lan-nhã).
  2. Dưới gốc cây.
  3. Chỗ đất trống.
  4. Gò mả.
  5. Chỗ gặp được.

Một là mạnh mẽ tương ưng nghĩa là thường ngồi không nằm, nhưng việc mạnh mẽ này có thêm hai chữ phân.

(Trong pháp khất thực, phần nhiều là thứ lớp khất thực, còn pháp khác đồng như luật Tứ Phần).

Luật Thập Tụng nói chỗ mưa nhiều thì bốn tháng. Ở Tại lộ là mùa đông. Tám tháng ở chỗ che khuất, xuân hạ mưa nhiều. Ít mưa thì ngược với trước: mùa đông tám tháng xuân ở chỗ có che. Bốn tháng mùa hạ ở chỗ có che.

Trong phần kết chỉ. Trước là chỉ phần nêu trước. Tổng trở xuống là phân biệt các văn.

Luận kia, trước gồm nêu tên, kế gồm hiển bày tướng. Sau tùy thực hành mà nói riêng.

Trong phần nói về mỗi hạnh, Một là đầu tiên nêu lỗi, Hai là nói thọ, Ba là hiển đức, Bốn là hiện lỗi, vì thế nói là thứ lớp rõ ràng, v.v… Hơn nữa, cũng lược nêu bày. Kia chép: Vì sao thọ khất thực? – Nếu thọ sự mời thỉnh của người khác thì có ngại cho nghiệp mình (nêu lỗi). Ta từ nay dứt thọ nhận sự mời thỉnh của người mà thọ pháp khất thực.

Vì sao được công đức? – Vì y theo tâm sở nguyện tấn chỉ tự do, dứt trừ sự biếng nhác, đoạn diệt tâm kiêu mạn (Nguyện đức). Nếu thọ sự mời thỉnh của người khác, đây là mất khất thực (nói về lỗi). Các hạnh 2 khác đều như vậy, thấy đủ ở phần hai, nếu cần thì tìm xem.

Trong phần bốn nói tạp pháp, tức những việc cần làm trong chốn A-lan-nhã.

Đầu tiên có bốn phần:

1. Chỗ cần đầy đủ.

2. Từ nếu thấy trở xuống là nói đợi bạn lữ.

3. Từ có dư trở xuống là nói pháp ăn xong rồi. Cho người tức là khất cầu, phi nhân là quỷ, thần, cầm, súc, v.v… Ở chỗ đất sạch (ở tịnh địa), trong nước hoặc không có người nuôi, giữ lại để trong tịnh xứ dự định sau sẽ thí.

4. Từ có cướp bóc trở xuống là nói pháp đợi giặc. Chế biết thời tiết để đề phòng nạn cướp bóc.

Cố trở xuống là dẫn luật Thập Tụng, văn chứng rất dễ biết.

Tinh kinh là sách âm dương.

Sau chỉ luật Tứ Phần tức lưu thực v.v… Trong phần hai nghĩa là dùng cây cọ cây thì phát ra lửa.

Hỏa châu là Thủy tinh châu, ánh sáng mặt trời soi chiếu dùng cây mồi sẽ phát ra lửa. Sợ đồng với xảo thuật của thế gian nên khai cho che lại dùng.

Trong phần ba, trước nói hạnh Đầu-đà, đây là chỗ dùng ngày nay. Sau đọc tụng v.v… do đó mà dẫn. Những người như trên buông lung không theo thứ lớp. Thêm phân cho vạt nghĩa là đều suy tôn người có đức, để dắt dẫn người sau.

Trong phần bốn, luật Ngũ Phần nói thọ thỉnh phạm tội Đột-cát-la. Đây là nói về khất thực, mười một phần khác đều trái phạm, y theo đạo giải thoát tức y Phẩn tảo, thọ nhận thí y của cư sĩ tức là lỗi. Nhưng ba y, nếu chứa dư thì có lỗi. Khất thực thọ thỉnh thì có lỗi (như trên). Không làm pháp dư thực, làm thì gọi là lỗi. Nhất đoàn thực mà tái thực (ăn lại) thì lỗi. Ở chốn Lan Nhã mà tụ lạc thì lỗi. Ở gò mả mà ngồi chỗ khác thì lỗi. Ở dưới gốc cây mà ở trong nhà thì lỗi. Đất trống mà có che thì lỗi. Tùy tọa mà ngồi ở chỗ tham ưa thì lỗi. Thường ngủ ngồi mà nằm thì lỗi. Không xả mà trái lời Phật chế đều phạm tội Đột-cát-la.

Không thể khiến cho xả: nên nói rằng ngày nay ta xả pháp khất thực v.v… Thì biết mười hai phạm hạnh này đều phải tác pháp thọ và hành thực không nên xả bỏ.

Không thọ thì không thành, không xả thì trái phạm, nên biết điều đó.

THIÊN GIẢI THÍCH TĂNG TƯỢNG

Hai chữ trên trong đề là cảnh sở kính, hai chữ dưới là nghi năng kính. Tăng là chung đối với riêng, tượng là về kinh pháp. Chữ Tức trở xuống là lập nghi kính.

Văn trong ba khoa thì Tam bảo là thắng cảnh, chung làm sở kinh (xưa nói rằng Tăng là năng kỉnh, tượng là sở kỉnh, là sai) lấy lời kia liền cho Tăng ở đầu. Chữ Chuẩn trở xuống là nghi kính, Phật để ở trước. Trí là thuận đến, văn nói là đưa đến, nghĩa là dùng tâm chí kính đưa đến cảnh cao siêu.

Trong bày ý, văn đầu tiên hai câu trên là nói mở mang lập pháp, nghĩa là chúng Tỳ-kheo nêu sự có pháp, giáo hóa giúp thời thế xán lạn sinh thiện, phát sinh lòng tin cho chúng sinh, thì bày sự cao sâu của Phật pháp cho người biết quy hướng, vì vậy nên nói rằng cảnh ngưỡng do đây mà lập. Chữ Khiêm trở xuống bốn câu là nói chỗ tôn sùng của đạo, tục. Tôn cách khiêm cung là nói trong tâm kia, liễm kính nhiếp nghi là nói mặt bên ngoài, hạ mình tự thấp là khiêm tốn, tôn trọng người gọi là cung cách, nhà Nho có lễ ký, đầu tiên nói là “thảy đều cung kính”, là biết người kính chữ lễ. Lại, Nho giáo không ngoài năm điều thường mà là lễ chung. Luận Ngữ chép: “Cung mà không lễ thì nhọc”, thì biết khiêm kính sách thế tục chỉ bày rõ, cho nên nói là mạng chương.

Chữ Hựu trở xuống là dẫn Phật chế kính Phật Pháp Tăng, thầy trò nhiếp nhau, thượng trung hạ tọa lễ kính lẫn nhau, thì biết tôn cách Phật pháp đưa lên trước, cho nên nói rằng “Bên ở đầu”, hoặc có thể phàm đối với thắng cảnh, hoặc thấy tôn thượng quyết trước chí kính cho nên nói là mới. Chữ Khởi trở xuống là nói kính mạn có thể hay chăng. Hai câu trên là bày việc chẳng nên làm, hai câu dưới là nói phải lập kính. Hình nghĩa là tiêu tóc, phục tức hoại y. cứ mạn nghĩa là cao ngạo với người. Mới gọi là pháp ngộ, ở sau có nói rõ. Nhưng người xuất gia khác thế tục không chỉ nghi tướng bên ngoài, mà phải do nội pháp cho nên nói là thanh cách.

Trong dẫn chứng xét sở đoản của mình thì trong có tâm hổ thẹn, do có hổ thẹn thì biết tôn trọng người, biết hổ thẹn là gốc của cung kính. Kiêu mạn tự khoe khoang là không biết hổ thẹn. Chữ Thị trở xuống là khuyên tu, hễ ở đạo của ta nên vâng lời Phật dạy.

Trong phần thứ ba, ban đầu bày lễ hoại, hai câu trên là chỉ bày chung. Di là biến đổi, đạm là cạn mỏng. Sáu câu kế giải thích riêng. Bỉ là tệ xấu, mạt là rốt sau, vì là Lãnh tụ cho nên đứng đầu trong chúng.

Mi là đầu chân mày, thọ là tuổi cao, ngược tướng cho nên đi ở sau. Vũ lực là ỷ thế lấn hiếp người. Văn hoa nghĩa là văn chương thế tục. Bốn câu trên bày ngồi, kế là trái đạo. Hai câu dưới nêu rõ đồng thế tục. Thời xưa còn vậy, huống gì nay là thời suy mạt, không đáng lấy làm lạ. Chữ Như trở xuống là kết khuyến sinh khởi. Đề dẫn tức chỉ ngay thiên nầy. Nói răn dạy là trình bày sự dạy dỗ.

Khoa kế, trong phần chia chương, chỉ như đề tức bổn chương pháp phó.

Trong ý chế, khoa đầu, luận Đại Trí Độ trước nói về cảnh chân, do sinh thân của Phật là pháp thân, là chỗ sở y, chữ Như trở xuống là dẫn duyên chứng. Phật lên cõi trời Đao-lợi nói pháp cho mẹ nghe, khi khắp từ cõi trời xuống nhân gian, chúng đều đón rước. Tu-bồ-đề ở trong thất đá thực hành Tam-muội Không, nghĩ rằng: “Phật thường nói: Nếu người dùng mắt trí tuệ quán sát pháp thân Phật là thấy Phật trước”, nghĩ rồi chỉ ngồi yên trong thất. Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc muốn gặp Phật trước bèn hóa thành Luân vương ngàn người con cùng theo, mọi người thấy vậy bèn tránh đường, nhờ đó được gặp Phật trước, Liên Hoa sắc hiện lại thân cũ đảnh lễ Phật, Phật nói: “Ngươi chẳng phải là người gặp ta trước, mà chính Tu-bồ-đề là người gặp ta trước vì thực hành quán không, được thấy pháp thân gọi là chân cúng dường (do Phật quở “thôi đi” cho nên nói là không nhận).

Kế, trong ý kính, đầu tiên là gạn bày, chữ Tứ Phần trở xuống là dẫn giải thích văn, xuất xứ từ ở kiền-độ phòng xá. Luật kia chép: Bấy giờ, Phật từ thành Vương xá cùng các Tỳ-kheo đi trong nhân gian đến thành Tỳ-xá-ly, bấy giờ nhóm tỳ-kheo sáu vị đến trước lấy phòng cho Hòa-thượng và người quen biết, v.v… Khi Xá-lợi-phất, Mục-kiềnliên đến sau không có phòng nghỉ, phải ngủ trên đất, do đó Phật nhóm chúng quở trách, như sớ Sao có dẫn. Ban đầu dẫn lời Phật hỏi, chữ Chư trở xuống là chúng đáp. Chữ Phật trở xuống là quở trách, liền thấy ý chế. Chữ Quảng trở xuống là dẫn duyên, kia chép: “Thuở xưa có con voi, con khỉ và con chim rất thân nhau (xuyết phải là gọt ngược, nhĩ nhã chú thích rằng lớn như chim bồ câu cũng gọi là cưu hoặc nói là chim sẻ) nương một cây Ni-câu-luật. Chúng nghĩ rằng: “Chúng ta ở chung phải cung kính nhau, hỏi thăm nhau, nhớ việc xa gần.” Voi nói: “Tôi nhớ lúc nhỏ cây này chạm bụng tôi.” Khỉ nói: “Tôi nhớ cây này hễ giơ tay là đến ngọn nó.” Chim nói: “Tôi nhớ mặt đá núi Tuyết có cây Ni-câu-luật lớn, tôi ở cây đó ăn trái, bay đến đây nhả ra hạt, mọc lên cây nầy.” Bấy giờ voi để khỉ trên đầu, khỉ để chim bên vai đi khắp nơi thôn xóm, nói kệ như sau:

Câu trên là hạnh cung kính

Câu kế là nói lợi ích

Câu ba là hiện quả báo Câu bốn là hậu quả.

Chữ Nhữ trở xuống là khuyên nương. Chữ Tự trở xuống là lập chế.

Ngày nay chúng tăng không có tôn ty riêng, bậc túc đức sinh muộn làm lễ lẫn nhau, thọ giới luống chia thời phần, ngồi hạ luống đếm cạn sâu, than ôi! Đời mỏng, tình phù phiếm. Đau đớn thay, luật pháp băng hoại, người có tâm mở mang nên tha thiết noi theo.

Khoa kế, trong kinh Đại Bi đầu tiên nói về tu nhân, khuynh là tận tâm, trắc là lánh xa. Chữ cho nên trở xuống là kế nói cảm quả, như Phật khi sắp thành đạo ở bên sông Ni liên, thân thể gầy yếu không thể tự đứng vững, chiêu cảm cây rủ cành xuống giúp Phật đứng lên. Đến khi nhập diệt rừng Song thọ biến thành mầu trắng, v.v… vô tình còn như vậy huống chi làm hữu tình?

Trong kinh Tăng Nhất, đầu tiên nói về quả báo vị lai. Chữ Dĩ trở xuống là suy ra nhân cũ. Trong kinh Tạp A-hàm răn dè nhắc nhở Tỳkheo. Bốn chúng là sở kính. Thu nhiếp các căn, nghĩa là cung kính cẩn thận. Đêm dài là chung cả hiện tại và vị lai. An vui là chung cho thế và xuất thế.

Trong phần ba, luận Trí Độ đầu tiên nói đối với Phật khác nhau có bốn: Hai món trước là tục chúng đều ngồi, Hữu học và Vô học chia riêng. Ba đạo là ba quả, phàm phu rất dễ biết. Chưa xong nghĩa là chỗ chứng của đạo. Chia phá nghĩa là hoặc được dứt bỏ. Chữ hựu trở xuống là nói đại tiểu ngồi có thứ lớp, bao nhiêu. Phật tăng chúng ba thừa ngôi vị khác nhau. Chúng của Đức Thích-ca thuần là Thinh Văn, cho nên nói là không riêng Bồ-tát tăng. Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu cát tường. Di-lặc dịch là Từ Thị. Thứ lớp là y vào tuổi hạ, theo đây để nói các đại Bồ-tát quyết nên thị hiện luật nghi Thinh Văn, tức như kinh nói là hiện thân Thinh Văn mà nói pháp.

Khoa kế, trong phần không nên, văn đầu tiên có bốn món, trước là người thế tục, còn là đạo chúng. Lại nữa, hai là hạ tọa, ba là chẳng phải Tăng, bốn là Vô đức.

Trong phần ba nói mười ba nạn, người không có giới thiếu hạnh ba học (Giới, định, tuệ). Hai diệt thể hoại, xưa triều đình phần nhiều ra lệnh cho tăng lạy vua và cha mẹ, bởi không biết Tam Bảo là ruộng phước cho bốn loài nương nhờ, đạo vượt lưới trần, đức khỏi sự ràng buộc, chẳng phải tôi của vua, không phải con của cha mẹ, chẳng nằm trong số bốn dân, là khách trong ba cõi, thân tuy vượt khỏi các hình thức nhưng tâm dám đâu quên vâng kính, nhưng do chí cầu giải thoát, báo đáp cù lao, không lưới huân tu, giúp trên trị nước, giáo hóa người dân, đâu phải bái lạy mới là báo đức.

Trong bảo lương, nói tấm khinh là do không biết hổ thẹn, khinh mạn người có đức, tức do nơi tâm, tám pháp sau đây đều là quả báo vị lai, hoặc có thể sáu và bảy chung ở hiện tại và vị lai. Chữ cho đến trở xuống là nói đức mỏng, người phá giới không có phần, tức kinh Phạm Võng nói “Không được đi trên đất của vua, không được uống nước của vua, năm ngàn đại quỉ thường đứng che trước mặt, chà quét dấu chân người ấy và mắng là tên cướp nguy hiểm” lại như kinh Phật Tạng nói “Không tiêu một chén nước, một miếng vải, huống gì là bốn thứ cần dùng”. Chỉ cho thiên trên tức trong phần đối thí.

Trong phần nên lễ, văn đầu tiên thì, vô duyên là duyên thấy. Khoa kế, dưới lễ trên nên nói là hợp kính. Trong lớn nhỏ, kính nhau tự nói cho nên ở đây chỉ cho đó.

Trong phần thứ hai, đầu tiên dẫn nhiều văn, luật Tứ Phần nói mười món lớn nhỏ chia làm hai. Kinh Tăng Nhất, trong tháp gọi là phi xứ, luật Ngũ Phần nói sân nhau gọi là tâm ác, luật Thập Tụng có năm, chữ tịnh trở xuống là trước hai tháp là bảy, luật Tăng-kỳ có bảy, chia ra rất dễ thấy. Ngũ Bách Vấn là bày ra khuôn phép, y cứ ra là phạm tội Đột-cát-la. Luật Tăng-kỳ có sáu món, chữ giai trở xuống là bày riêng kinh tháp v.v… ý không thật có.

Trong thứ ba, tiêu phần có ba: Trước là Phật Bảo, nghĩa lẽ ra gồm cả Pháp. Sau chánh là nói rằng tượng Phật, kinh sách, trụ trì nghĩa đồng, tức chữ tượng trong tựa đề. Hai khoa sau tăng có phần riêng, tức là chữ Tăng trong tựa đề.

Trong kính nghi, khoa đầu là chánh nói, y cứ giới trộm ở trước, vật Phật thọ dùng cho đến vật vì Phật đều không được mua bán. Chi-đề cũng dịch là Miếu. Chữ có trở xuống là dẫn chứng. Vua là vua Bình-sa. Văn chú nói thế luôn ở trên, nên là sách lớn, nghi kia truyền lầm. Thí Phật thì thường không chung với Tăng, thí cho Tăng thì gồm cả Phật.

Khoa kế nói năm công đức, bốn món trước là quả báo riêng và bày nhân quả, một món sau là quả báo chung ở trước làm nhơ cho nên chỉ bày quả. Kinh nói Nam-mô, trong âm nghĩa dịch là quy lễ, hoặc dịch là quy kính, hoặc nói là độ ngã. Như lai, Thành Luận nói rằng: “Nương

đạo như thật, đến thành Chánh giác ”, không có chấp trước là lìa trần nhiễm. Chí chân là lìa luống dối. Đẳng Chánh giác nghĩa là ba đời đạo đồng, chánh là phân biệt tà vọng ở trước. Chữ thử trở xuống là khuyên tu. Chư Phật sở hành trở xuống là kẻ phàm nên học.

Trong phần thứ ba, đầu tiên dẫn ba lễ. Miệng, tức nói tướng xét hỏi gọi là hạ lễ, cong gối tức quỳ là trung lễ, trám chấm đến đất tức cúi đầu. Thử địa trở xuống là bày năm vòng. Địa Trì nói không cho nên dẫn A-hàm tiếp tục giải thích, năm chỗ đều tròn đầy nên nói là năm vòng. Bốn chi và đầu gọi là năm thể, luân thì chỉ riêng năm chỗ, thể thì không gọi một thân. Chữ tiên trở xuống là chánh bầy nghi lễ. Chánh lập (Đứng thẳng) là nhiếp oai nghi của thân, chắp tay là định tâm tưởng, hai tay bằng nhau, các ngón đều nhau. Người thời nay chỉ bằng ngón thôi. Khuất thì trước xuống sau lên, khởi thì trước lên sau xuống, cho nên chú thích rằng không lẫn lộn. Tay nương chân là duỗi tay xuôi xuống tiêu biểu cho cung kính rất mực. Người ngày nay có kiết ấn là không biết pháp. Đời suy pháp tán không biết lễ nghi, hoặc lạm văn nầy nên cầu y theo tiêu chuẩn.

Trong phần thứ tư, dẫn hai đoạn luận, ba câu đầu của đoạn trước là gồm nêu. Chữ tri trở xuống lại giải thích sáu nghĩa, thông là tâm kính, riêng là chia ba nghiệp. Hai chữ cung kính nghĩa phải gồm thân, lại không y cứ năng kính. Hai chữ tôn trọng thì gồm sở kĩnh. Chữ lại nói trở xuống là dẫn đoạn kế. Trên nêu dụ Phật như ruộng phì nhiêu, chuyển tâm như giống tốt, bền chắc như gieo giống trong ruộng ấy. Chữ tùy sắp xuống là hợp pháp, một điều lành v.v… là nhân, đến Phật là quả. Chữ do trở xuống là nói lên ý.

Trong thứ năm, Luận Tỳ-ni Mẫu nói ở Ấn-độ, đi chân đất là kính, cho nên không được vào tháp, xứ nầy cho sự mang đắp là lễ, hoặc mang giầy cũng cần sạch sẽ. Chỗ tuyết lạnh cho phép, là khai ở vùng biên giới.

Trong Tam Thiên oai nghi ban đầu nói về phép nhiễu, một biện pháp kém, hai là bày lòng từ, ba là lìa khinh trạo, bốn lìa xúc uế, năm là lìa ồn ào. Chữ hựu đương trở xuống là kế nói dụng tâm. Nhớ nghĩ ân Phật là từ vô lượng kiếp đến nay vì độ chúng ta không tiếc thân mạng để cầu Bồ-đề. Nghĩ trí Phật là dùng phương tiện khéo léo không thể nghĩ bàn. Nhớ nghĩ giới kinh là ba tạng giáo pháp, khai phát cho ta. Nhớ nghĩ công đức là oai thần tướng tốt không gì sánh bằng. Niệm tinh tấn là cho đến không có chỗ nào bằng hột cải mà không phải là chỗ bỏ thân mạng. Nhớ nghĩ Nê-hoàn là thị hiện diệt độ khiến các chúng sinh kính mến riêng ta. Cho đến là lượt giáng sinh thành đạo, xoay bánh xe pháp. Tăng là ruộng phước, thầy thì nhiếp dẫn (biên tức Tam Bảo). Cha mẹ sinh nuôi, bạn học cân nhắc đều suy nghĩ báo ân cho nên nhớ nghĩ tất cả người tức lợi tha, nhớ nghĩ học tuệ tức tự lợi. Nhớ nghĩ dứt trừ bỏ tức bỏ sắm sửa phước trời. Mưa bỏ giày, thì biết trời trong cũng cho mang lên, chỉ cần sạch sẽ. Như trong chỗ nhớ nghĩ không ngoài Tam Bảo, bạn bè, từ bi, phước tuệ, tự lợi, lợi tha, v.v… tìm đó sẽ thấy.

Trong thứ sáu, Ngũ Bách Vấn giúp sự hiềm nghi. Luận Đại Trí Độ bày pháp nhiễu, Hiền Ngu rõ lễ từ, kia nói: “Xá-lợi-phất từ tạ Phật nhập Niết-bàn”. Phật hỏi: “Sao không phạm một kiếp”?

Đáp: Đức Thế tôn tuổi đã tám mươi mà không nhập vào Niết-bàn, con không nỡ thấy Như lai nhập Niết-bàn. Lại Chư Phật ba đời, hàng đệ tử thượng túc đều nhập Niết-bàn trước (xét Kinh Bổn Khởi là Xá-lợiphất là đệ tử bên mặt, Mục -liên ở bên trái).

Văn kinh chỉ nói đi chung quanh, tiếp tục dẫn luật Thiện Kiến nói đầy đủ về nghi thức. Trong Tạp A-hàm nói lễ chân là bày tột sự cung kính. Nhưng các kinh luận đều khiến đi nhiễu theo chiều bên phải. Xưa nay tranh luận ồn ào không dứt, đều do không hiểu hai nghi nhiễu Phật nhiễu đàn có khác, lại y cứ thẳng, tổ dạy lược rõ đường lớn, còn bao nhiêu rộng như nói riêng. Đầu tiên nói nhiễu Phật, là nghi quy kính, nói rằng nhiễu bên phải là mặt xoay về Tây Bắc. (như tượng xoay mặt về phía Nam, người đi xoay mặt về hướng Bắc, giở chân xoay mặt vế hướng Tây, mà đi về phía Bắc). Vai phải hầu hướng Phật mà cung (Đây là bày chính nghi) vì như thấy có vị Tăng, chẳng phải ở pháp này. Lại Đông xoay Bắc chuyển đây là nhiễu bên phải (Nêu ra lầm). Phạm Tăng ở Tây Trúc kinh hành đầy ắp thành ấp kinh đô, xoay nhiễu mắt nhìn dấu chân kia đều xoay về hướng Tây mà đi nhiễu bên phải, để thuận thiên đạo như mặt. (Đây là dẫn việc đích thân thấy để chứng thành nghĩa trên).

Kế là nói nhiễu đàn, Cảm Thông Truyện vị trời nói về giới đàn Tây Trúc rằng: “Chúng Tăng đăng đàn thọ giới, thuyết giới, xong việc xoay về hướng Đông nhiễu bên trái rồi lại ra phía Nam”. Giới Đàn Kinh, Tổ Sư đối chân ý nói rằng: “Luận Sư chớ thấy xoay về hướng Đông nhiễu bên trái cho là phi pháp, đây chính là đại lý thiên thường”. (Cảm Thông Truyện chép: “Thiên thường chính là bên trái người, thường là bên phải”). Tổ dạy rõ rằng người vọng xuyên tạc, hoặc khúc dẫn sách thế tục (như sách thiên văn các mùa, nói về Trưởng giả), hoặc vọng nương việc đời (Như chấp trâu đạp lúa con nhện giăng lưới). Vả lại, nhiễu Phật vồn là chí kính, nhiễu đàn là tiện về thành sự. Chí kính thì quyết phải nhiễu bên phải để tiêu biểu cung kính siêng năng giữ gìn. Hành sự thì quyết cần nhiễu bên trái để tiện trên dưới mà thứ lớp (như cách thức vào nhà ăn, khi nói tự tứ và vào nhà) quyết nương theo đây phán, đâu có nghi ngờ?

– Nếu vậy sao Đàn Kinh nói: “Xoay Đông chuyển Bắc nhiễu Phật một vòng”?

Đáp: Ở đây vốn đăng đàn là làm pháp thọ, do đó xoay sau Phật, cho nên nói rằng nhiễu Phật, ở đây đồng điện tháp đặt biệt bày thấp kỉnh ư? (Xưa, khi dẫn Tú Châu Linh Quang Xá-lợi nhiễu bên trái làm chứng, đích thân chiêm lễ nhưng đều là chuông vàng lay động đâu thấy Xá-Lợi, trái hay phải đây cũng rất là luống dối).

Chánh rõ tướng kính, phần bác bỏ phi, ban đầu hợp kỉnh. Thứ ngã đẳng là không chỉ đời Mạc, kính tượng giống chân Phật, kính kinh đồng chân pháp, cho nên nói là đồng quán.

Chữ kim trở xuống là chánh bác bỏ, lại có bốn: Ban đầu chữ phi, chữ tịnh trở xuống là chỉ bày lý do, câu đầu là không trí, câu kế là không tin, câu ba là không biết, do không có ba thứ này nên không giữ lễ độ, cho nên nói rằng thiếu đại tiết. Chữ hoặc trở xuống là nêu ra tướng phi, văn này nhiều việc không ngoài ba nghiệp. Nương nghĩa là vén y bày vai. Đạn là nạn. Chữ trí trở xuống là tỏ hình trạng lỗi. Khoa kế, ban đầu dẫn văn lễ người, treo phướn lọng đều chẳng phải việc xấu, vẫn là răn dê khinh hối. Bởi đối với Thanh lại không có tôn trọng nên nói là kính chỗ riêng. Đạp là chân đạp lên. Chữ ký trở xuống là bày răn dạy. Ban đầu khuyên cẩn thận. Chữ chí trở xuống là chỉ bày pháp. Đi đến bên nước sâu dụ cho kia sợ sệt (kinh Thi nói rằng: “Chiến tranh tranh như bước đến vực sâu, như đi trên băng mỏng, nay dùng lầm”).

Chữ thử trở xuống là bày lợi ích, câu trên là khuyên người, câu dưới là cảm Thánh. Chữ thả trở xuống là nêu dụ. Khuyến đài là quận, huyện, quan điển. Chữ phàm trở xuống là khuyên nương tín nhiệm.

Trong riêng bác bỏ, ban đầu chỉ phi. Hạ sáng tức đáy sàng. Ngày nay bọn ngu phần nhiều tập theo phong tục sai lầm, người có hiểu biết nếu nghe xin sửa đối lại. Tổ Sư có xuất hiện vào đời Tấn, Ngụy đích thân thấy việc kia bèn ở trên giường thiết lễ với Tăng, kia lại trách cho rằng kính người, v.v… mẫu mực tức chỉ cho pháp luật. Chữ dư trở xuống là dẫn chính thân truyền để kiểm nghiệm. Đã phải pháp Tây Trúc, rõ ràng là lạm hạnh cõi nầy. Chữ hựu trở xuống là dẫn văn để làm chứng, kinh kia có ba việc không nên lễ:

  1. Mình ở chỗ cao, Thượng tọa ở chỗ thấp.
  2. Thượng tọa ở trước, mình ở sau.
  3. Mình ở trên tòa không nên lễ người dưới tòa, văn nầy thường dẫn kinh đối.

Trong phần tạp nêu, khoa đầu Thập Tụng nói có ba việc ban đầu đi ở trước là dẫn theo. Kỹ nhạc tức người ca và đồ nhạc. Y cứ sau luật Tăng-kỳ tức tự làm chẳng phải chỉ là tay cầm. Chữ vi trở xuống là bễ thế người vì truyền tin. Văn khai Hòa-thượng, còn người khác lẽ ra được (Xưa nói rằng giống như trong thế tục truyền lạy trước nhận sai lễ, y cứ lý thú thì không phải vậy, chỉ cần thầy dặn dò, Thượng tọa chuẩn đồng.

Chữ đắc trở xuống là thứ ba nói đối tọa, hoặc là nhìn tưởng hoặc lại thiền tụng. Luật Tăng-kỳ trước nói làm nhạc lìa lỗi, vẵn là quyết văn trì hành của Thập Tụng. Kế là sai thế tục làm, chỉ khai Phật sự.

Khoa kế, Trí Luận, Trì Thế đều nói ý Như lai để Xá-lợi lại là muốn nói cung kính được quả báo rất sâu. Mè, gạo, hột, cải đều so sánh với Xá-lợi. Kinh Trì Thế có bốn quyển: Thứ nhất nói: “Nay ta tuy được Bồ-đề vô thượng vẫn còn tinh tấn không thôi. Đến lúc Niết-bàn vẫn còn phát tâm tinh tấn”. Vát thân như hột cải là vì sao? Vì thương xót chúng sinh đời sau. Lại nên dùng Xá-lợi độ là vì tâm được thanh tịnh.

Trong thứ ba, có hai đoạn: Trước dẫn luật Tăng-kỳ chỉ bày chung bốn thời, lược dẫn thành đạo, xoay bánh xe pháp hai ngày cho nên nói là nhẫn đến (ngày nay chỉ biết hai thời cúng dường giáng sinh, Niếtbàn, còn hai học đời sau chưa nghe, người nghe nên thực hành).

Chữ tát trở xuống là kế định ngày tháng, lại có hai: Ban đầu dẫn văn chỉ bày khác, gồm rõ bốn ngày, nhưng chỉ hai ngày trùng lập, nay lấp điềm ứng giáng sinh ngày mồng tám tháng tư. Lại y cứ Niết-bàn ngày mười lăm tháng hai diệt độ thì bốn ngày là riêng khác, ta cũng có thể làm. Lại xứ nầy cơ duyên chỗ kia là một năm bốn ngày thời tiết của môn đồ họ Thích: Mồng tám tháng hai thành đạo, ngày rằm tháng hai nhập Niết-bàn, mồng tám tháng tư đản sinh, mồng tám tháng tám xoay bánh xe pháp. Nghĩa thích ứng thời chớ sự chuyên góc.

Ngày thành đạo chỉ là xuất xứ từ luận Tát-bà-đa hai ngày giáng sinh và nhập diệt như sau tự rõ.

Ngày xoay bánh xe pháp là y cứ luật Tứ Phần ngày nay, sau khi thành đạo năm mươi sáu ngày Phạm Vương mới thỉnh (Mồng năm tháng tư, vì một tháng thiếu) tìm đến vườn Nai tháng tư điều cơ (Mồng bảy tháng tám là hai tháng thiếu, đến đây nói pháp tức ngày mồng tám).

Hoặc có kinh nói sau khi thành đạo quá sáu lần bảy ngày (bốn mươi hai ngày) mới nói pháp, hoặc hai lần bảy (mười bốn ngày) hoặc là ba lần bảy (hai mươi mốt ngày) đều không nhất định.

Kế dẫn điềm ứng chỉ bày riêng giáng sinh. nói đủ rồi: “Thái Tử ứng điềm”. Kinh Bổn Khởi có hai quyển. Sau dẫn kinh Niết-bàn nói nguyệt đức là nói riêng nhập diệt. Niết-bàn ban đầu nói rằng, tức văn trong phần tựa quyển thứ nhất, phân biệt với ba mươi ở sau, kinh kia nói rằng: Trong ta-la Long Thọ, lúc ấy cùng đại tỳ-kheo tám mươi vạn trăm ngàn người trước sau cùng vây quanh. Mười lăm tháng hai đến thời Niết-bàn. Mười vị tiên là:

  1. Xà-đề-thủ-na.
  2. Bà-tư-tra.
  3. Tiên-ni.
  4. Ca-diếp Thị.
  5. Phú-na.
  6. Tịnh Phạm Chí.
  7. Độc Tử.
  8. Nạp Y Phạm Chí.
  9. Hoằng Quảng Bà-la-môn.
  10. Tu-bạt-đà-la.

Mười vị nầy là Thượng thủ của ngoại đạo, nghe Phật Niết-bàn, quy y được độ.

Quá ba tháng tức nửa tháng sau của tháng năm. Lại Sư Tử Hống quyển ba mươi chép: “Vì sao Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn vào tháng hai?”

Phật nói: nầy người Thiện nam! Tháng hai là tháng dương xuân, muôn vật sinh trưởng, hoa quả tốt tươi, sông ngòi đầy tràn, trăm thú sinh sản (Phù giống như sinh). Lúc nầy chúng sinh phần nhiều tưởng là thường, vì phá chấp thường của chúng sinh. Sư Tử Hống chép: Như lai ngày đan sinh, xuất gia, thành đạo, xoay bánh xe pháp mầu đều lấy ngày mồng tám, vì sao riêng Niết-bàn lại chọn ngày mười lăm?

Phật nói: nầy người Thiện nam! Như ngày mười lăm mặt trăng tròn đủ, Chư Phật, Như lai cũng giống như vậy, nhập đại Niết-bàn không có thiếu sót.

(Cho nên biết một kinh trước sau tự riêng, ngày nay liền dùng văn sau).

Trong Nguyệt Đức gần với luận Tát-bà-đa ở trên. A-hàm cũng nói rằng “Như lai Niết-bàn ngày mồng tám tháng tám”. Chữ thử tinh trở xuống là thứ hai, y cứ nghĩa hội thông. Ban đầu chánh nói, thứ hai dẫn chứng. Xá-bà-đề tức là Xá-vệ, trong văn lại nêu thấy nghe, theo Luận nói đủ là “Xá-vệ chín ức nhà, ba ức nhà thấy Phật, ba ức nhà tai nghe có Phật mà mắt không thấy, ba ức nhà không nghe không thấy”. Phật ở Xá-vệ hai mươi lăm năm mà các chúng sinh nầy không nghe không thấy huống chi ở xa (Luận nêu Vương Xá số ức, không nói thấy nghe). Do nghiệp kiêu mạn, nêu ra lý do không thấy và không nghe. Bọn ta sinh không gặp Phật đâu chẳng là kiêu mạn rất nặng hay sao? Vỗ ngực tự trách, đau đớn đắm chìm, than ôi!

Chư Phật trở xuống là nêu dụ, diệt sau chánh pháp không bằng hiện tại, tượng pháp không bằng chánh pháp, đời mạt pháp không bằng tượng pháp, cho nên nói là chuyển nhẹ, nghĩa là tâm thờ Phật càng mỏng. Tâm nghiệp tức mạn tập. (Xưa ghi đều dùng Hạ ba đời Hạ, Ân, Chu mồng một, hòa hợp các văn là rất trái ý Tổ, nếu có thể hòa hợp liền chẳng phải thấy nghe khác nhau, huống gì là kinh luận đều y cứ ngày tháng của Thiên-trúc, đâu hôm mồng một của xứ nầy mà hòa hợp hay sao?)

Trong Cảm Thông Truyện, Tổ Sư hỏi vị trời rằng: xứ nầy truyền lúc Phật đản sinh không nhất định làm sao chỉ?

Vị trời đáp: Đều có lý do. Đệ tử sinh thời thấp kém, đủ thấy nương dấu vết Phật. Nhưng Phật có ba thân, hai thân pháp báo, trời, người chẳng thấy được. Hóa thân giúp khắp cõi Tam Thiên, cho nên có trăm ức Đức Thích-ca tùy cơ cảm ứng trước sau không nhất định, không đáng nghi ngờ.

(Y cứ mà biết xưa ghi không đáng nương theo).

Trong thứ tư, ban đầu nêu Tỳ-kheo thưa hỏi: sau trong Phật đáp, Tam bảo và giới, trụ trì, cương lãnh, kinh, mạn, hưng, phế quyết kia rõ ràng. Thứ hai, kính Tăng nghĩa là đại chúng bốn người sắp lên.

Trong giải thích, khoa đầu trước nói đồ chúng đứng hầu. Không có trái nghĩa là thuận giáo. Chữ truyền trở xuống là chỉ vọng, chữ truyền bình thinh. Ngày nay thiền giảng không biết phép lễ, đứng nhận chúng lễ, hoại diệt tăng tông. Vả lại tăng bốn người thì làm việc công cao, chỉ một người thì sức yếu, lý trái ngược kính, vì giữ giáo giới tạm khai chúng đứng. Huống chi ngoài không khuôn phép, trong đức trống rỗng, chỉ muốn tự tôn đâu nghĩ quả báo đời sau, quyết phụ cao thức xin nghe lời thẳng, hoặc đối đại chúng quyết nên khởi kính, Phật nhận chúng lễ chỉ có thể ba người. Hoặc chúng đứng vòng tròn thường biêt chẳng tiện, đã ở địa vị sư biểu đâu được hồ đồ.

Khoa kế, tăng tàn trở xuống là đã phạm thiên đầu, mất địa vị thầy. Đệ tử kinh lý là cầu tăng hành pháp đệ tử dư số. Cũng phải kính lễ, nghĩa là thầy xin sám lập lễ bày lời. Chữ vi trở xuống hai câu là nói ý kính lược, là biết đệ tử ở tăng, chỉ y cứ tăng riêng mạnh yếu, bất luận thầy trò cao thấp. Hành sám đã vậy, trai giảng các việc y cứ nghĩa đều không, cho nên chú giải để chỉ bày.

Trong lớn nhỏ kính nhau, khoa đầu, trước luận Tỳ-ni Mẫu tức lời Phật sắp nhập diệt dặn dò. Ban đầu khiến kính thờ giới, trụ trì trong mộc-xoa là hơn, cho nên chế y theo. Chữ đương trở xuống là kế khiến kính nhau. Tịnh pháp tức Luật phạm. Tôn trọng nghĩa là tuổi cao đức đầy mọi người tôn trọng. Tuệ mạng nghĩa là nghe rộng, nhớ dai, dùng tuệ làm mạng, đều là lời khen tốt đẹp.

Thứ hai, trong kế lễ ban đầu chỉ bày chung. Năm chúng trở xuống là lược đề cập chữ tháp. Tương lễ là như năm chúng đối nhau thì bốn ngôi cao thấp, hai chúng Sa-di đồng một ngôi. Nếu năm chúng nói tự chia lớn nhỏ, ngay chúng đồng tuổi thì phải đối nhau lễ. Như lai và tháp, năm chúng đều kính một bề tôn trọng cho nên nói là chung lễ. Tháp là một phần, chữ sơ trở xuống là nêu riêng.

Khoa kế, trong Ngũ Bách Vấn quyết trước lễ tháp, dẫn Phật làm thí dụ, ý nên báo ân. Chữ tử trở xuống là nghĩa y cứ luận nói lễ mộ, không nói chết.

Trong bày riêng, văn đầu tiên nếu y cứ Sa-di cũng lấy sự thọ giới trước sau để chia ra thượng trung hạ, ở đây y cứ nhiều người, đầu tiên nhận sắp bày, kế vì nói. Năm sinh tức năm lớn nhỏ ở đời. Năm xuất gia tức năm vào đạo trước sau.

Khoa kế, ý hỏi sợ cho là chúng sau đồng đại tăng. Trong phần đáp có hai nghĩa: Ban đầu y cứ giới đồng giải thích. Chưa thọ giới cụ túc tức đồng chung gọi là Sa-di. Không có thắng đức là giới thể đồng. Chữ hựu trở xuống là kế y cứ giải thích chẳng phải thầy. Đại tăng không như vậy là trái với hai nghĩa trên. Tỳ-kheo-ni trăm tuổi hạ lễ Tỳ-kheo mới thọ giới.

Trong phần ba, ban đầu bày nghĩa lễ, thân miệng kính thành cung kính để bày ý trọng. Chữ xuất trở xuống là hiển tiếng Phạm và tiếng Hoa. Chữ ngũ trở xuống là nói về chung riêng. Chữ trung trở xuống là nói nhận thế tục lễ. Kinh Cung kính do Trung A-hàm kiết tập, kinh ấy nói rằng: lúc ấy, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo phải thực hành cung kính và khéo quán kính trọng các vị Phạm hạnh. Nếu không cung kính thì không có việc ấy.

Trong thứ tư, luận Tỳ-ni Mẫu có bốn tên, cuộc hạn y cứ giới hạn của hạ, nếu luật Ngũ Phần lấy ở trên không người, lúc nào cũng nhận xưng thì không lớn nhỏ. Ngày nay xưng Thượng tọa không biết ai là hạ tọa.

Trong phần thứ năm, khoa đầu trước nói phạm vi cùng ngồi. Chữ nhược trở xuống là kế rõ trải giường lớn nhỏ, có ba:

1. Giường ngồi. 2. Giường nằm. 3. Người ngồi.

Nghĩa là dưới ba khuỷu tay, tức giường ngồi thì nửa khuỷu hai thước bảy tấc, hoặc dưới số cùng không cho ngồi chung, giường nằm quá ba khuỷu là năm thước. Bốn thước sắp lên là ba người hoặc hơn cho nên thêm đến bốn hàng. Bốn tuổi, như sáu tuổi hạ được ngồi chung với người mười tuổi hạ. Lớn sẽ được liền giường: Một là do giường nhỏ, hai là không cho động, cho nên tạm khai. Chữ nhược không trở xuống là kế rõ mềm nệm y theo lượng giường trước, chữ nhược tán trở xuống là sau nói trải cỏ, do không hạn lượng cho nên được ngồi chung.

Khoa kế, Già luận nói nghĩa trải đất là nối dài không thể động. Luận Tát-bà-đa, giường nói rộng khác nghĩa là trên giường trải tòa. Giữa trống, bặt là tiêu chuẩn phải xa nhau mới khỏi lỗi chê bai. Nói rõ về nam nữ thế tục rất dễ biết.

Trong phần sáu, ban đầu nói nhận lễ, nghĩa không có chợt cao ngạo như dê câm kia, có ngoại đạo sống như dê câm thọ pháp không nói chuyện với nhau, ở đời có người giữ phép không nói là thực hành hạnh trên, đây là pháp ngoại đạo, nên mau bỏ đi. Lời hỏi thăm tùy thời mà biến đổi, không hẳn phải nương theo đây, cho nên nói là “đẳng”. Chữ cung trở xuống là nói kêu gọi. Tuệ mạng là gọi chung không duyên hạ tọa, tuy già lớn cũng được gọi, tức như trong kinh nói Tuệ mạng Tu Bồ-đề.

Thứ hai, trong pháp phụ tạo tượng, khoa đầu hai câu trên là nêu bày. Chữ Như lai trở xuống là chánh nói. Hiện tại tức hóa tướng Phật pháp, một thời kỳ lợi ích gần. Vị lai là trụ trí Phật pháp, ba thời lợi ích xa. Tức kinh nói rằng: Người đáng độ đã độ, người chưa độ làm duyên được độ.

Kế, trong phần chánh nói, văn đầu tiên trước bày viết về Mụcliên. Chữ trí trở xuống là sau dẫn Như lai từ bi dạy dỗ. Do Phật đản sinh được bảy ngày thì Ma-da qua đời, sinh lên cõi trời Đao-lợi. Phật sau khi thành đạo nghĩ báo ơn mẹ nên lên trời nói pháp suốt một mùa hạ. Xét kinh tạo tượng, bấy giờ vua Ưu-điền nhớ Đức Như lai nên sai Mục-liên dẫn ba mươi hai người thợ lên cõi trời kia, dùng gỗ chiên-đàn, mỗi người khắc một tướng, như vậy đến ba lần mới được đầy đủ. Văn nói rằng “sợ” là nếu luận viết tợ như chỉ ngài Mục-liên, lấy sau từ bi răn dạy là suy ra ý Phật. Tuy duyên là do ý của vua Ưu-điền, mà vẫn giữ đến đời sau.

Kế trong rủ lòng dạy dỗ, đầu tiên nói thọ ký, tức Ưu-điền nghe Phật hạ thiên, đặt tượng trong tháp báu, để đón rước Phật, tượng liền bước đi bảy bước để đón Như lai. Phật xoa đảnh thọ ký cho tượng, lời như ở Sau dẫn. Cúi đầu uốn mình cho nên nói rằng thùy địa. Chữ nhân trở xuống là kế chánh dạy dỗ. Nghi tắc pháp thân là tiêu biểu oai dung tướng tốt của pháp thâ, được tam-muội niệm Phật dễ thành. Đủ tướng tốt là do sinh sự ưa muốn nên chiêu cảm quả báo cao quý. Như thị tức chỉ đàn tượng, ban sắc về sau phải mô phỏng theo.

Trong chú giải, Quốc tăng tức Cưu-ma-la-diễm từ Tây Thiên mang tượng muốn đến Trung quốc, đi qua bốn nước đều bị giữ bổn vẽ (Chú thích “Sau này truyền tức biết là bổn vẽ thứ tư chẳng phải tượng Ưu Điền tạo”). Đến nước Quy-tư, Quốc vương lại khiến bỏ đạo, ép gả em gái, sau sinh ra ngài La-thập, ôm tượng đến Diêu Tần, sau Hiếu Võ đời Nam Tống phá nhà Tần lại rước tượng nầy trở về Giang Tả dừng ở chùa Long Quang. (Cho nên hiệu Long Quang thụy tượng) Đến đời Tùy đặt tại chùa Trường Lạc ở Dương Châu, có vị tăng tâu thỉnh tượng về chùa (nay ở Đế Kinh, đây là y cứ Long Quang Bích Ký đã chép, hoặc Cảm Thông Truyện vị trời nói chẳng phải ngài La-thập đem đến, chưa rõ là ai).

Kế, trong chỉ bầy Phương Tây, khoa đâu trước bày mặc tình, ký lạc thế nhiễm như sau tự thuật. Chữ sở trở xuống là thế dẫn chế xưa. Ban đầu, dẫn Ấn-độ truyền đến. Lĩnh đông tức Chấn Đán ở phía Đông Thông Lĩnh. Phong cốt mạnh khỏe là nói thể chất, mặt mày kia. Kính là thẳng, oai nghi nghiêm túc trang trọng là nói oai thế. Mỗi phát thần quang là nói sự linh dị. Quang thế sinh thiện là nói động người.

Trong chú giải, y theo Minh Dương Ký chép: niên hiệu Hàm Hòa năm thư tư đời Đông Tấn, Doãn Cao Lý ở Châu Lăng (khổ hồi thiết, lại âm lý) nhân thủy triều xuống thấy trong bến có ánh sáng, sai người vớt lên được một tượng vàng cao gần ba thước, thiếu ánh sáng mu bàn chân, bèn lấy xe muốn chở về nhà, lúc đi ngang qua chùa Trường Can (Trường Can là tên đất, Can là đất chùa Lũng tại Lũng Trắc ở Kim Lăng ở Thượng Nguyên) xe bèn không đi, nên mặc tình trâu kéo vào chùa. Lại qua hơn một năm có người đánh cá ở huyện Lâm Hải lại tháo nước được một tòa hoa sen dâng lên vua thành đế, vua ban sắc để tượng cùng chỗ cũ phù hợp. Sau có năm vị tăng Ấn-độ đến nhà Cao Doãn nói chúng tôi ở Thiên-trúc được một Tượng Dục Vương đem đến, đi đường nguy hiểm bèn chôn ở mé sông Huỳnh, sau tìm lại không được, chúng tôi đều mộng thấy tượng nói rằng: “Ta trôi theo Giang Nam được Cao Doãn vớt lên” cho nên chúng tôi đến hỏi thăm ngài Cao Doãn, Cao Doãn dẫn vị Tăng vào chùa lễ tượng, năm vị tăng nhân đó ở lại chùa. Qua bốn mươi ba năm sau có Hợp Phổ Quận ở giao Châu là Thái Châu Sư lại vớt được cai hào quang dâng cho vua Văn Đế, lại sai đưa đến chùa Trương Can lại hợp với chế gốc. Khắc ở gót chân, nghĩa là bảy chữ A… khắc ở chân tòa, vì tiếng Phạm trước không ai biết, sau Cầu-Na đến mới biện định. Ở kinh đô, được nhà Tùy rước vào chùa Hưng Thiện thuộc phủ đại ở kinh triệu, thường đến ngày lục trai có phát ra ánh sáng.

Kế dẫn cõi nầy chế tạo. Đời Hán Phật pháp mới truyền đến là ở trước đời Tấn, Tống. Phưởng phất là gần giống. Chữ tinh trở xuống là gồm nêu ra lý do, câu đầu là tâm lượng, câu kế là kính mến, câu ba nghĩa là pháp xưa. Chữ cố trở xuống là kết thành chỗ dẫn.

Trong hai pháp mất, khoa đầu trước nêu được mất, do đó lại nói phước kính, đoạn đó lỗi ở không phép. Chữ đản trở xuống là kế bày tướng phi, lại có hai: Ban đầu bác bỏ tạo tượng, trước nói sắm sửa bất tịnh. Chữ Bồ-tát trở xuống là kế bày hình tượng trái nghi, thân lượng luận giá trị kia cho nên chỉ hỏi dài ngắn, tướng tốt không khiến dụng cho nên bất luận toàn đủ. Tranh giá lợi độn, lợi nghĩa là người thợ muốn được nhiều, độn tức người chủ không chịu thêm giá. Tính cung là cung cấp thức uống ăn. Bốn câu trên là danh cú nhân phi. Chữ tửu trở xuống bốn câu là tượng phi. Hương di là dâng tặng, chữ di khứ thinh. Chữ trí trở xuống hai câu là nói kia không công, chữ thọ thượng hô. Hình thể lỏa lồ, thân cong co gãy là loại dâm nữ (xưa ghi cho là nói bất tiện, cho nên âm là diêu để dạy người tốt đẹp không thấy ý. Ở đây trách người tạo đâu chê tượng thánh, hẳn cho là dâm nữ nói thô là đố phụ làm sao không đổi? Nay chỉ y chữ tôi chỉ châm ngược chứ không nhọc xuyên tạc) Hàm sân nợ, mắt vai khô nứt, huơ ay không cho nên dụ là đố phụ.

Chữ cho đến trở xuống là kế nói tạo kinh, nhược bút nghĩa là không khéo viết, ác tượng là không chọn thợ khéo, chỉ dưỡng tức cung cấp ít.

Trong thứ hai, ban đầu nói không linh, kinh tượng giữ gìn thì được công cao cho nên tin là đầu. Chữ cố trở xuống là nói lỗi. Trộm cắp là gặp đoạt mất. Hủy hoại là bị gió lửa làm tổn. Riêng lén nấu đúc, nghĩa là vàng đồng, v.v… nấu tượng làm vật khác. Đốt kinh thọ dụng tức chữ kinh bằng vàng bạc đem nấu lấy làm vật khác. Phần nhiều gây ra tội lỗi là làm lụy người. Chữ tinh trở xuống là nêu ý. Mỏng, hèn, khinh hối, trái lễ giáo tục, chẳng phải lời dạy trang nghiêm của Phật, cho nên nói rằng trái pháp thế, xuất thế. Hai báo hiện tại, vị lai nhìn tượng mà ra, sau đó chế tạo có thể không dè dặt ư?

Trong thứ ba, ban đầu rẽ hợp pháp có linh. Trong chú giải tức tượng chùa Trường Can trước ở chùa Hưng Thiện, gặp giặc duyên đủ như chú giải. Lại bộ Thánh Hiền Lục chép: đời Tùy, điện Phật chùa Hưng Hoàng ở Tương Châu bị cháy, có tượng đồng cao trượng sáu ở ngay dưới rường, bị lửa đốt cây rường gãy rồi, tượng tự dời năm sáu thước về hướng Nam, phía Nam tro than cách năm sáu thước mà tượng không dính bụi, ở sau chùa Bạch Mã chim chóc không xâm, đây đều là tạo lập có pháp mà chiêu cảm.

Chữ đãn trở xuống là kế nói chí thành cảm Thánh. Trong đây Tây Độ Linh Nghi nói khéo thấy thạch nha là y theo kinh Trà-tỳ nói: “Bốn răng nanh thì hai cái ở cõi trời Đao-lợi”, (tức ở chỗ Đế-Thich)”, một cái bị La-sát trộm (tức vị trời dâng Tổ Sư, nay ở Đế kinh) hai cái khác văn kinh không chép. Thiếu đầy tức dưới đảnh xương ngang, nhiễu đảnh mà chuyển, đến cổ họng lõm xuống, như thiếu duyên đầy. Khi trà-tỳ lấy để ở cõi trời Đao-lợi, sau Sa-di Tu-na vì Quốc Vương Sư Tử mà lên cõi trời kia lấy về. Theo kinh Tăng Nhất, trên hai tượng kia nêu riêng tạo lập. Chữ nhị trở xuống là hợp bày thân lượng.

Kế trong phần tạo tháp, khoa đầu, trong tạp tâm trước nêu tên. Xá-lợi, tiếng Phạm lần lượt, nói là Thất-lợi-la, Hán dịch là Thân, tức di thân của người, hoặc thân nát, hoặc toàn thân, tóc, móng, tro xương gọi chung là Xá-lợi. Nhưng Xá-lợi và tháp gọi chung là phàm Thánh, nay nói tạo lập phần nhiều là tháp Phật, cũng chung cho các vị Thánh khác, không gọi chi-đề nghĩa là chỗ để hình tượng, sau giải thích là miếu mạo. Tháp hoặc trở xuống là phiên dịch tháp-bà, thâu-bà cũng đều là lầm lược. Kinh Âm nghĩa nói: nói đúng là Tốt-Đỗ-Ba, dịch nghĩa là phương phần, là chỗ cao rõ (do vì vọt ra). Hoặc nói rằng đại tụ, hoặc nói là tụ tướng (Vì xếp nhiều vật mà thành).

Khoa kế, ban đầu bày nhân quả. Sơ khởi là mới làm. Phạm phước nghĩa là phước tối thắng của Phạm Thiên Vương. Chữ như duyên trở xuống là so sánh Phạm phước. Chung cả Nam Châu không bằng một Luân Vương. Chung Luân Vương bốn châu không bằng sáu tầng trời cõi dục (Tứ Thiền nương núi Tu-di cho nên nói riêng), chung bốn châu và sáu tầng trời cõi Dục không bằng Phạm Chúng Sơ thiền, chung cả người cõi trời Phạm Phụ không bằng Đại Phạm Thiên Vương.

Chữ thử trở xuống là khuyên tu. Xây tháp lập chùa được phước như vậy cho nên dạy phải học.

Trong thứ ba, ban đầu nói tạo lập. Đặt nên là cho bền chắc, làm an là giữ bên ngoài, treo cờ phướn lọng báu tức là thang ghế. Chữ bất đắc trở xuống là kế chế đạp dơ. Chú dẫn Đại Luận hội trên thần danh. Chữ hựu trở xuống kế giải thích Mật tích, do Bồ-tát thị hiện cho nên được gọi như vậy. Kim cương tức là cầm chày dùng để làm đao, sau dẫn luật Ngũ Phần, hầu hạ hộ vệ Phật, sau khi Phật diệt độ cũng như vậy. Nếu có cỗ lấy cho khai câu dứt. Chữ nếu tháp trở xuống là nói lọng che. Chữ địa trở xuống là rõ trị, chữ tu trở xuống là nói khí cụ, do phong tục ở Ấnđộ phần nhiều đi chân đất. Để bên đường là tiện lên trên. Ngoài làm tường là sợ dơ uế. Chữ nếu trên trở xuống là nói dâng lên cúng dường. Thức ăn uống được cho đạo tục tức người giữ tháp. Làm việc tức người xây dựng. Chữ xá trở xuống nói giữ gìn Xá-lợi. Chữ nhược trở xuống là nói quét dọn, chỉ có thể bỏ bụi, vật khác đều được. Chữ Da trở xuống là nói sự trang mghiêm, thủ luân: xưa nói rằng “Trong tay Phật có bánh xe ngàn căm”.

Trong thứ tư, ban đầu nói chọn đất. Quy nghĩa là xem xét. Chữ kỳ trở xuống là chỉ phương chỗ. Nên hướng Đông bắc là để cửa chùa hướng Đông, tức hai phương trước mặt và bên trái làm, trong chú thích trước bày ở Ấn-độ, cũng viết là Tịnh. Hướng Đông bắc gió nhiều thì hơi hôi không đến điện tháp, đây là lý do cửa chùa hướng về phía Đông. Sau nói xứ nầy nên ở Tây nam, nay nhà bếp, nhà xí phần nhiều ở Đông bắc, cũng do hướng Nam tây gió nhiều. Chữ bất đắc trở xuống là cấm xâm phạm, ở Ấn-độ đất phật, Pháp, Tăng có giới hạn riêng, không lẫn lộn nhau. Chữ lạm trở xuống là chỉ giới trộm, kia nói muốn xây tháp ở đất của Tăng phải làm pháp hòa Tăng, v.ô5

Trong thứ năm, khoa đầu có năm đoạn; ban đầu khuyên tu. Nhất thiết trí, gồm thâu mười cõi, trí thế, xuất thế đều tròn đủ, gốm chứa không cùng, sinh ra vô tận, cho nên dụ như Tạng. Sinh thân là hiện tại, diệt thân là Xá-lợi. Chữ nhược tự trở xuống là rõ làm xong. Tự có công đức, nghĩa là giàu với đạo hạnh, mọi người kính tin. Với mình chớ khinh là do có khả năng cúng dường, được phước đức lớn. Chữ phàm sắc xuống là nói dụng tâm. Nhược dĩ trở xuống là nói vật thí. Hiện tại và sau khi diệt độ không khác nhau là chỗ được phước còn mất đồng nhau.

Nhược kiến trở xuống là nói cấp đủ.

Khoa kế, sửa chữa tự làm khuyên người tùy sức tự đào. Trong thứ ba, đầu tiên nói tạo lập. Chữ nhược thị trở xuống là nói làm cho sạch. Chữ nhậm trở xuống là nghiêm sức. Chữ họa trở xuống là nói tạp uế, cõi nầy thường dùng keo cá, trâu…, tuy là tanh hôi nhưng vẽ bền lâu. Chữ ưng trở xuống là nói cúng dường. Chữ bất trở xuống là nói phi pháp. Tô thoa sữa để rửa đều là phép ngoại đạo.

Trong phần thứ tư, khiến mật tàng là không sinh thiện. Khiến cung kính là sợ sinh kiêu mạn. Ngày nay có làm vọt tường hoặc vẽ tướng đầu Phật đều nên ẩn đi.

Trong phần thứ năm, khen ngợi có công năng hiển bày đức của Phật cho nên hơn cúng dường vật báu.

Trong thứ sáu, khoa đầu trong kinh Vô Cấu, trước người nữ hỏi va việc quả báo: quét tháp. Hai, là hỏi bơ, sữa cúng dường; bốn tướng tức hình người vuông tròn, bán nguyệt. Ba, là hỏi tu bốn pháp. Thiền là định của cõi Sắc và Vô Sắc. Phạm hạnh là bốn tâm vô lượng. Hai thứ trên là chánh dùng, một thứ sau là nhân nhẫn. Chữ Phật cao trở xuống là Như lai kế đáp. Đáp trong ban đầu hỏi năm thứ phước: Một là nội cảm. Hai và ba là ngoại ứng. Bốn và năm là lai báo, lớn là báo riêng, năm là báo chung. Chữ nếu người trở xuống là đáp câu hỏi thứ hai: bốn tướng bốn tiết, trong phần đầu “Nếu người tin Phật cú tuyệt”, câu nầy là nêu tâm nhân. Chữ viên trở xuống là nghiệp hạnh, nghĩa là ở đất tháp lấy bùn trét làm tượng, cho nên có vuông tròn khác nhau. Chữ bỉ trở xuống là nói được báo, tức sinh báo và hậu báo (ba món khác văn tiết đều như vậy).

Phật-bà-đề tức Châu Thắng Thân ở phía Đông, người cõi kia mặt tròn (Câu xá nói người ở Đông Châu mặt hình bán nguyệt không giống với kinh). Cù-đà-ni tức Tây châu, người cõi ấy mặt như nưa mặt trăng, Đâu-suất, Hán dịch là Tri túc, là tầng trời thứ tư ở cõi Dục. Uất-Đơn tức Bắc Châu, người cõi kia mặt vuông, Diệm-ma tiếng Hán nói là Diêu Thiện, là tầng trời thứ ba của cõi Dục, hình mặt người tức Nam châu, mặt người trên rộng dưới hẹp. Văn thoát hai báo, kia nói rằng: “sau sinh cõi Diêm-phù-đề, qua đời sinh lên tầng trời ba mươi ba (Đao-lợi)”.

Chữ sở trở xuống là tổng kết bốn tướng. Nếu người nhập thiền trở xuống là đáp câu hỏi thứ ba, ba câu đầu nói nhân tu. Bốn phạm hạnh là từ, bi, hỉ, xả. Chữ bỉ trở xuống là nói cảm báo, gốc lành là hiện báo, phước báo là lai báo, tức thế giới người, trời. Định Thiền Phạm sinh lên cõi trời, quy giới chung cho trời, người. Niết-bàn là quả xuất thế, kinh

Niết-bàn chép: “Phương Đông có thế giới Phật tên là Bất Động, Phật hiệu Mãn Nguyệt Quang Minh”. Bồ-tát Vô Úy bạch Phật: “Chúng sinh cõi nầy tạo những nghiệp gì mà được sinh về cõi nước ấy?” Phật dùng kệ đáp như sao đã dẫn. Bốn câu trên tức bốn món nhân. Trong chánh thủ có hai, một câu sau là bày quả. Nói không Phạm, nghĩa là không xâm tổn.

Trong phần hai, Ấn-độ phần nhiều dùng diệu hương thoa thân cúng dường, mười giới chế cấm, ở đây hỏi đó. Trong pháp có hai, giải sau là chánh dùng của nay.

Trong thứ ba, phá chùa quả báo nặng, lại nói công lao tạo lập sâu nặng. Hai, là pháp xây chùa. Trong gồm chỉ bày, đầu tiên nên nhân pháp, tức Pháp Sư Lộ Dụ khen ngợi đạo hạnh cao đẹp, cho nên nói là thạnh đức. Tự cáo tức đường chung của văn kia. Chữ cụ trở xuống là chỉ bày chỗ trình bày kia. Chữ sự trở xuống là rõ chỗ dẫn dụ ngày nay.

Kế, trong dẫn bày, văn đầu tiên trước bày đúng như pháp. Cơ nghĩa là cơ hiện. Thiệp là can thiệp tức các chỗ gần chùa Ni, bên chợ v.v…, nghĩa là chỉ xây nhà ở mà khi yết-ma kiết giới thì có làm, cho nên nói cũng có. Nói ngoài hạn, hoặc nhà, hoặc ở ngoài chùa. Chữ số trở xuống là dẫn bày cây đá, v.v… là trồng cây tiêu biểu sự lớn lên, dựng đá là nói lên nghĩa xuất sinh Viện vô thường ở phía đây nói lên sự chìm nổi chẳng lâu. Lập chùa là tiêu biểu người mê biết quay về. Lầu quán là tiêu biểu thứ bậc đạo phẩm. Ven ao là tiêu biểu tà ma ngoại đạo rửa tâm. Cắt hoa sen tiêu biểu cho người tu hành tâm thanh tịnh, còn bao nhiêu như kia nói, nếu cần thì nên tìm (Đồ kinh ở gần Nhật-bản đen đến văn có hai quyển, tức Tổ Sư chọn). Ở đây che tà thuật nghĩa là khiến tà ma ngoại đạo không còn oai thế. Chướng dụ như đóng lại. Cần thú sợ oai nghĩa là khiến loài khác không dám xâm phạm. Hình nghi ẩn ánh nghĩa là tượng bày đáng xem, làm sự khâm phục kính mến cho đời, tức kẻ sĩ thứ dân sinh thiện (Xưa ghi vọng giải thích, nay đều không lấy).

Kế, trong vô pháp, khoa đầu miên tích giống như nói dài lâu, bỉnh là cầm. Thố cử nghĩa là mỗi việc phế lập đều mặc ý. Phỏng giáo nghĩa là xen lẫn tu tập theo phong tục sai lầm. Cạnh tâm là tâm chiến đấu cạnh tranh. Lực chí hết sức dụng ý. Cao hiển tức phó tranh tâm nhiệm mầu. Vượt kia bèn xưng chí hơn người.

Khoa kế nói người tục ngu tối, văn bày bổn chủ nghĩa chung cho người khác. Hủy là y cứ vật, tổn nhục là y cứ Tăng. Thừa là phụng thờ. Khoa nầy chữ lớn đều dẫn tự cáo, cho nên chú thích để giúp. Xin mời là cầu xin coi sóc các việc. Thời kia còn như vậy, ngay nay có gì là lạ. Lại có điện đường yến tiệc, bếp Tăng nấu giết, gởi cho tạp vật, chứa nhóm lương thực, hoặc giành làm nha đình, hoặc kết làm trường vụ, hôn nhân sinh bản, tạp uế khó nói, đây là do đạo chúng chẳng có tài, đâu chỉ kẻ tục người Nho không biết, hối hận pháp môn bị che mất, ai là người phò trì. Lại than hận báo địa ngục, ai sẽ là người cứu trị, quyết lòng ôm hiểu biết sâu xe nầy không còn suy nghĩ, là biết họa phước không của, chỉ do người chiêu cảm, kẻ có sức, có thể giúp thuyền mà khuyên.

Trong phần ba, đầu tiên là chánh khuyên. Cãi vãng nghĩa là hối hận các lỗi trên. Tu lai nghĩa là từ đây về sau vượt lên. Theo pháp tức nương giáo, càng mới tức khởi kính.

Trong chú giải, đầu tiên bày ý bổn thí. Chữ duy trở xuống là bày chỗ ứng. Chữ vi bỉ trở xuống là nói lợi ích. Kế dẫn kinh làm chứng. Xà vương gây ra tội nghịch tà kiến, sau mới quy y Phật cầu sám hối, cho nên thực hành lệnh nầy. Trí thâu nghĩa là khoa phối tài vật. Rước đưa nghĩa là chỉ thờ quan liêu, việc thờ Phật đều khiến buông bỏ.

Chữ khởi trở xuống là suy tìm lý do được tin.

Trong phần bốn, khoa đầu có hai, trước khuyên kính thờ pháp vật, nơi chốn thọ dụng thường hay vắng lặng. Tượng bày hương đèn thường phải trang nghiêm sạch sẽ. Chữ nãi trở xuống là kế khuyên nhiếp tâm niệm pháp. Cắt nhiễm tức nhớ nghĩ hình tướng kia. Vốn mưu việc gì? Tức kinh chỗ cho rằng phải tự sờ đầu v.v… giới thể là niệm thọ thể, bổn thệ được lặp lại, tức kinh gọi là nghĩ pháp đã thọ v.v… Lý nghiệp sâu xa nhỏ nhặt, người đời phần nhiều ngụy lạm cho nên nói rằng “Chân chỉ”. Hành lai v.v… tức nhớ nghĩ thánh pháp. Lai nghĩa là đối với bốn oai nghi, bốn việc đều vâng theo khai chế, không cho vọng động. Tăng đã nội tu, kẻ tục quyết thêm cung kính.

Khoa kế, ban đầu nêu việc đời. Trong chú giải nói ngụy chủ sáu nước thời Văn Hầu, Can mộc người đời Tấn, lúc nhỏ nhà nghèo, làm nghề cầy bừa cắt cỏ, ở nhà tranh mà không cầu danh lợi, địa vị. Sau đến Tây Hà thờ Tử Hạ làm thầy, dưỡng đức không nói tâm thông sáu nghề (Lễ, nhạc, xạ, cưởi ngựa, làm thơ, toán số là sáu nghề). Văn Hầu trọng tài đức của Can Mộc, ra lệnh đem xe giá đến ra mắt. Can Mộc vượt tường trốn đi, tùy tùng nói: “Can Mộc cũng là kẻ sĩ vải thô có gì mà Ngài trọng như vậy, sao lai không bắt tội?”

Văn Hầu nói: Can Mộc không xu hướng lợi ở đời mà dừng ở đại đạo, ở ẩn trong hang cùng ngõ hẻm mà tiếng tâm vang cả muôn dặm. Hạnh nương đức, ít ai sáng ở đời, giả như sáng ở đức ít người giàu tiền tài. Can Mộc giàu ở nghĩa ta nghe đời không kịp đức, tôn tài không bằng nghĩa trọng, ta dám không tôn trọng kẻ hiền đức đạo nghĩa hay sao?

Sau mời làm tướng mà không đến. Lư Thị tức Lưu Bị là tiên chủ nước Thục. Khổng minh tức Gia Cát Lượng tự Khổng Minh, Tiên chủ xem trọng, chính thân cầu làm Thừa tướng, Tiên chủ nói: “Quả nhiên có Khổng Minh như cá có nước”. Phải biết giàu đạo đức còn khiến vua quý trọng, người khác có thể biết là dường nào.

Kế, là trong so sánh đạo, ban đầu nói người khác cung kính. Đạo sĩ vốn khen ngợi họ Thích, sau bị bọn khăn vàng lạm rình bèn không khen ngợi nữa. Đắp pháp y ấy là nói hình tướng, đến chỗ Phật đi là nói về nội tâm. Ba học vô lậu, tám chánh đạo, sáu độ, bốn thệ nguyện rộng lớn… là chỗ Phật đi. Oai nghi, v.v… là nói sự động dừng kia. Chữ nhược trở xuống là dạy tự kính. Do tự mất là quy lỗi về mình. Không đâu chẳng kính nghĩa là đối người không phân biệt. Chữ kính tắt trở xuống là bày lợi ích. Kính người có oai nghi là tâm bày ra ngoài. Đâu chỉ v.v… là tự lợi gồm lợi tha.

Trong chú giải hiển bày nghĩa thầm cảm vời. Trên nêu dụ, ruộng không cầu, tâm người muốn toan gieo cho nên nói là tự gieo. Chữ đạo trở xuống là pháp hợp. Tăng không cần, ý người tự cũng cho nên nói là tạm gởi. Tiệm là thầm, thác là gieo vào.

Trong phần ba, đầu tiên là nói bày người khác khinh. Chữ dĩ trở xuống là kế nói tự mất. Pháp diệt thân là trái với các việc, tâm hình, oai nghi ở trên, buông thả trong ngoài thân tâm, không có pháp cho nên diệt ở thân. Chữ nhược trở xuống là kết khuyến. Chú giải chỉ bày đợi gặp pháp vua quan. Đầu tiên dạy oai nghi bên ngoài. Không đưa rước là do khuất đạo. Không đồng giường là sợ. Chữ hựu trở xuống là dạy nội tâm, nhưng đây y cứ Tỳ-kheo bên trong có thật đức, vua quan đều ôm lòng tin sâu cho nên có thể làm. Ngày nay đạo hay tục cả hai đều kém mỏng, chưa thể như văn, đều khiến có đạo vẫn còn phải quán cơ, sự ở nơi gặp thời, tuy nghi thích biến. Lượng sự rộng hẹp của món đồ, xét thứ vị cao thấp, quán căn cơ tin ưa sâu cạn. Xem lại tình phân thuần thục hay chưa. Đây cho nên Lễ Ký quý ở theo tục, Dịch Thơ tốt đẹp là tùy thời, nếu dính mắc một mối thì chắc chắn gặp hoạn nạn, xưa nay phần nhiều sợ đời có chiêu cảm.

****

GIẢI THÍCH THIÊN HỨA THỈNH

Hứa là Tỳ-kheo nhận lời, thỉnh tức thí chủ mời đến. Lại hứa trước ý mời còn sự giáo hóa dẫn dắt, quyết bố thí pháp thức, phát khởi tâm kia nên nói là lập phép tắc.

Trong bày ý, ban đầu rõ lý do người đời lo sắm phước. Luận Trí Độ nói “hai phần phước trí, người đời tu phần phước nghĩa là bố thí. Kẻ đạo tu phần chánh nghĩa là học tuệ”. Lưới trần ràng buộc nên nói là “Hôn tục”. Thế nghĩa là giáo bày, chẳng phải cấm chế. Tiếp ngu hoặc, tức trước cái gọi là nhân duyên xuất gia đắc đạo, hoặc lại khiến xa lìa đường ác, sinh làm trời, người, kham lãnh sự giáo hóa. Chữ nhi trở xuống là kế nói đạo chúng nhận phó trái nghi, thí cả bốn việc cho nên nói rằng tâp phiền. Sinh chê bai tức tổn người, si mạng tức tổn mình. Đường khổ tức mình và người đều đọa. Chữ cố trở xuống là bày điều thuật ngày nay, như biệt tức mười khoa sau, nêu chương có mười nhiếp hết trước sau. Một, sáu và chín sự chung Tăng tục, còn bao nhiêu đều ở Tăng, đủ như ở sau giải thích.

Môn đầu, trong đến thỉnh, luật Thập Tụng nói lập Duy-na, sau dịch là tự hộ, nghĩa là người làm việc giữ gìn trong coi chùa, còn bao nhiêu tên như ở quyển thượng. Tăng-kỳ ban đầu dạy đáp thỉnh, sợ làm ngại duyên cho nên không nhất định đáp. Nhược hữu trở xuống là khiến xét thật. Bất đắc trở xuống là rõ dự tham hỏi. Đây y cứ sinh phần, hẳn là xưa biết thì không cần.

Khoa kế, Luật Ngũ Phần khai mượn vật tăng. Luật Tăng-kỳ khai tăng làm việc, lại y cứ vô năng quyết hữu năng, chỉ có thể chỉ trao. Chữ Hưng nên viết là chữ Dư, là cùng khiêng vật. Trong văn chỉ phân biệt đối chữ Dư, sợ cho là được làm đồ ăn cho nên chú quyết thích. Môt là tránh xúc nấu, hai là trái nghi, Tứ phần nói lìa dối, dẫn bổn duyên khởi để làm phép tắc cho đời sau. Vì đời sau là hoặc sợ quá đáng mà vời lấy sự chê bai của người đời, hoặc sự đời mạt phước kém không tiêu nổi.

Trong thứ ba, dẫn quy tắc chân thật của Phật để làm phép tắc về sau, văn nêu ba tướng, tùy một liền thành giống. Đầu kinh âm nghĩa chép: “Tựa nên viết là đầu, thế gian cho là điểm đầu”.

Trong thứ tư, Ngũ Bách Vấn có năm việc. Ban đầu xét vật thí, làm vật Phật tức nhà điêu khắc, vẽ tượng Phật ngày nay, gồm chung đạo tục. Nhược tiên trở xuống là kể rõ tái nguyện, nghĩa là nhà thi chủ khả năng không kịp, muốn dùng ba lần dâng hương ba lần thí vật tức là ba hội, do trái bổn tâm nên nói rằng không rõ. Chữ nhược trở xuống là 8 thứ ba nhận thần thực, Kinh Quỷ Tử Mẫu chép: Phật giáo hóa tại nước Đại Đâu, có có một bà mẹ tánh ác, thường trộm con người khác, Phật nói pháp cho nghe và bảo rằng: Từ nay về sau ở bên tinh xá Phật, nhân dân không con đến cầu thì nên cho. Nay hoặc có người bày đồ ăn đem thí cho Tỳ-kheo, chú nguyện liền vì thí chủ cầu nguyện, rộng ở quyển sáu. Chữ cô trở xuống là thứ tư chọn nhà thí, nhà bán rượu, do hợp với sự chê bai thì không được vào. Trước chế các thời nên nói là tất cả. Các cửa được ấy là quyết y cứ có duyên. Thỉnh tăng thiết trai khiến kia trì giới dừng nghiệp, phương tiện dắt dẫn. Nhược cộng trở xuống là thứ năm khai ngồi chung với thầy.

Trong thứ năm có ba, đầu tiên dẫn văn chỉ bày. Luật Tứ Phần chung hai thỉnh. Luật khai trở xuống là các văn đều nói tăng thứ. Phạm Võng chép: “Tất cả không được thọ thỉnh lợi dưỡng riêng về mình, mà lợi dưỡng nầy thuộc của mười phương tăng, thỉnh riêng tức là lấy vật của Hiền thánh Tăng mười phương” (Đây cấm thọ thỉnh) lại nói rằng thứ lớp thỉnh thì được Hiền Thánh tăng mười phương, mà người đời thỉnh riêng năm trăm vị La-hán Bồ-tát tăng, không bằng thứ lớp thỉnh một phàm phu tăng, nếu thỉnh riêng là pháp ngoại đạo, bảy Đức Phật không có pháp thỉnh riêng” (ở đây cấm thí chủ).

Nhân Vương cũng quở trách, kia nói rằng: “Các Tỳ-kheo tội ác thọ thỉnh riêng là pháp ngoại đạo, chẳng phải pháp của ta”. Luật Thập Tụng, Thiện Sinh, v.v… văn quyển trung tùy tướng đã dẫn Ngũ Bách Vấn chỉ rõ thỉnh riêng, sai người đi thay tức là bỏ thỉnh, nếu nghi ngờ phạm tội đọa liền kết hay sai trái thí phi pháp, y theo luật phạm tội Độtcát-la. Chữ ký trở xuống là thứ hai khiến khuyên khen thứ lớp tăng, hai câu sau chỉ lược về thỉnh riêng. Tùy tướng tức giới ăn riêng chúng.

Trong thứ sáu, ban đầu chỉ lầm. Chữ tốt trở xuống là cái chính hai chữ “Chú phần”. Từ dưới đến trên nghĩa là bôn ba mà đến. Trên phó xuống nghĩa là lợi nhận hứa, nếu làm chuyển đến nghĩa dường như không tôn trọng, nay viết rằng phó là muốn nói lên đại độ. Phó là đến. (Ngày nay viết cáo tang nói chữ phó tức là báo điềm xấu, chữ tuy là Tổ dạy, không thể dùng đó cũng là nghĩa tùy thời). Chữ thử trở xuống là nói ý, nếu có chỗ không biết thì làm cho người tục khinh đạo, tuy nhỏ mà lớn, thành có chỗ giúp. Cao vọng nghĩa là đức nhìn cao xa, nhưng sợ đời sao cho là việc nhỏ bèn dẫn ngạn ngữ để làm chứng. Ngạn ngữ cho rằng “Theo truyền thuyết thế gian thường nói không y cứ sách vở”. Câu đầu nghĩa là tạm mượn vật của người, nên nghĩ tức thời trả lại. Câu kế nghĩa là lầm lấy tài vật của người cần phải suy nghĩ sớm bồi thường lại.

Nói thấp hèn, nghĩa là tuy việc thường của thế tục, nếu có trái thì rất mất hành quân tử, cho nên nói liêm sĩ là gốc (Chỉ Quy cho rằng đây nêu ra văn trong Hy gia Tân yếu Lãm, Dương Thái Truyện nói rằng “Cố biết lời người, thời thưởng kia là sớm thưởng, thấp hèn là khinh nhỏ”).

Trong phần bảy, luận Tát-bà-đa có năm chế. Ban đầu chế đồng đến không thưa trước vào. Não chúng cho nên đọa (theo luật, đến nhà ngươi Phạm không thưa đồng giới lợi, nay là nhà thí chủ nên tội độtcát-la). Chữ chủ trở xuống là thứ hai, chế cách này, vì trước đến nên vời lấy chê bai. Chữ nhược trở xuống là thứ ba chế ăn xong tự ở. Chữ kinh trở xuống là thứ tư chế biết việc đến sau, vì người sắp xếp việc nên đến trước. Chữ thực vị trở xuống là thứ năm chế chưa thí liền đứng dậy, nghĩa là chưa thí tài, chú nguyện nay tăng chưa làm thí không hề đi trước, vừa được thí đã không đợi chú nguyện là rất nhiều. Những người khác nghĩa là chẳng phải thủ lĩnh, làm riêng nghĩa là lén đi. Báo đồng học là khiến biến sở duyên. Chữ tuy trở xuống là lại giải thích chế ban đầu, trước nói nhà thí, văn nầy dường như nhà người khác.

Trong thứ tám, hai văn đều nói tăng thứ, luận y cứ pháp đồng, kinh cho hình đồng, đều là xuất gia giải thoát tức xứng đáng nhận sự cúng dường. Kinh Niết-bàn chép: “Tuy chưa thọ giới đã xếp vào số Tăng”.

Trong phần chín, luật Tăng-kỳ nói tác niệm tức sáng sớm khởi sáu niệm, vì niệm chỗ ăn, các chỗ khác hối lỗi là trái niệm Độc kiết la, Luật Thập Tụng kết phạm lại y cứ nhà thế tục thỉnh riêng mà nói. Sau dẫn Luận để quyết tác hướng khởi tội, ở đây chung cho nhà thí chủ, không chỉ là thường trụ. (Xưa nói rằng ở đây y cứ tăng xá là sai)

Môn thứ hai, luật Tứ Phần ban đầu nói chúng nhóm. Nói muốn thọ nghĩa là sắp đến. Nhược đàn việt trở xuống là kế qua đến, có ba: đầu tiên bày oai nghi, tùy tướng sau kế như chim bay. Chữ nhược trở xuống là phần hai khai đi trước. Việc Tam Bảo, nuôi bệnh là duyên huổn, cho nên chế phải thưa, nạn mạng sống, nạn phạm hạnh là nạn gấp cho nên không cần hỏi. Nếu Thượng tọa trở xuống là thứ ba khuyên đợi nhau, y cứ vào văn đã nói là dưới đợi trên, nghĩa y theo trên dưới phải đợi nhau, sợ không kịp chúng cho lỗi đạo. Thứ ba, trong đặt Thánh vị, khoa đầu trước nói tượng Phật, hoặc có nhà riêng thì đến chỗ cũ. Chữ nhiên trở xuống là kế bày tòa thánh tăng, chia làm ba, đầu tiên dẫn chỗ y cứ. Đời Lương Võ Đế nêu ra văn kia đã mất, trong kinh Tạng Tân-đầu-lô có thấy, nói về pháp thỉnh. Do vị Tôn giả kia Phật dạy ở đời làm ruộng phước lớn cho bốn bộ đệ tử ở đời mạt pháp. Người chí thành cầu thỉnh thì phần nhiều có cảm ứng. Dự thỉnh đêm ấy, sinh nói rằng lắm giường mới, mền nệm mới, trải lụa trắng trên nệm (tức sạch mềm), đầu hôm đúng như pháp mà thỉnh thì đều đến. Khi đến, trên nệm hiện có dấu nằm, ở nhà tắm cũng hiện dấu dùng nước nóng. Khi đại hội thỉnh, hoặc ở thượng trung hạ tọa hiện làm hình Tăng, chỉ người cầu thấy còn người khác không hề thấy, khi ngài đi rồi thấy hoa không héo nên biết được. (Nghĩa là dùng hoa tươi trải tòa Thánh vị, lấy không héo làm ứng nghiệm) nay đây chỉ lược nói là “Chỗ ngồi có tướng”.

Chữ kim trở xuống là kế khiến dạy bày. Thỉnh Thánh là việc khó nên nói là không dễ. Người tục bàn nhận gọi đó là môn sư, người thế tục gọi là môn đồ (nay trái lại gọi Tăng là môn đồ là sai).

Chữ tất trở xuống là thứ ba nói tự lập bày. Trong bác bỏ phi, ban đầu bày phi. Ngồi không tức mạn Thánh, ở đất trước Phật đều là chỗ sai. Hẹp nhỏ gọi là bạc lược, xét bộ Ni Sao thì tòa không được cao thước sáu, lại không cho lấy đồ thường trụ Tăng cúng dường, vì hộ giới đồng với kẻ phàm, hoặc có bố thí lại dùng vào Thánh tăng (y theo nhà tục không được ứng phó, chùa Tăng thỉnh, Thánh tăng dùng) Lại chỉ lập tòa trống, không được để hình tượng lên. Chữ như trở xuống là chánh bác bỏ, chi thấy Ngài có thể người đó do không biết pháp, không có khả năng nhận lãnh tránh nhiệm nầy. Thắng duyên là Phật và Thánh Tăng. Tự tổn, tổn người gọi là diệt pháp, là rất đúng. Ngày nay người diệt pháp đều là đúng tên nầy.

Kế, trong trải giường, theo Tăng-kỳ thì ban đầu nói trải giường, vì người đời không biết cách cho nên dạy họ, ăn uống cũng như vậy, đồng đồ trải ở trước. Nhược thí chủ trở xuống là kế nói chỗ Ni. Được dạy sắp bày, trong Đề Xá chế Ni chỉ trao. Ở chỗ riêng là vì dứt sự chê bai nghi ngờ. Hoặc ở dưới tăng, chỉ khiến xa nhau. Không hơn tăng là tôn ty trái ngược.

Trường A-hàm có ba ý:

1. Bày Phật ở giữa.

2. Nói chỗ đạo tục khác nhau.

3. Biết chúng thế tục được đồng trai hội. Tuy có đây mà cuối cùng thành xen lạm, thường không sinh điều lành, may mắn có nhà riêng, chỗ khác càng tốt.

Môn thứ tư, khoa đầu trước nói trải tòa. Tiêu biểu cung kính có hai:

  1. Trước Thánh, sau là mình.
  2. Thân lui thì tránh Thánh.

Luật Tứ phần, kế nói nhập vị, xem xét lẫn nhau chớ để cho phi

pháp. Sau dẫn luật Tăng-kỳ, bày pháp không đúng như pháp tướng loạn chánh. Ma-ha-la là Tỳ-kheo-ni ngu si, chỉ sai khiến khởi, do nữ giới phần nhiều thẹn thùng. Dâm nữ, tức ở trong Ni chúng có người làm điều ác.

Khoa kế, luật Tứ Phần đầu tiên chế tướng hỏi. Năm tuổi tức hạ lạp. Chữ nhược trở xuống là bày chuyên khai. Cho tám Ni tức là văn trong Đơn đề của Giới bổn ni. Nay đây y cứ dùng, chữ lao trong phần ba là khứ thịnh, là an ủi. Do đến nhà thí chủ không nên đứng im lặng, phải trước an ủi, thăm hỏi khiến sinh vui mừng mạnh mẽ. Trong nhà là miệng người, sinh hoạt là sự nghiệp, còn bao nhiêu thì tùy cơ, cho nên nói là “đẳng”, nhưng đạo quý ở ít lời, không nên dính mắc nhiều, chỉ tùy thời duyên dắt dẫn mà thôi. Kia hoặc nói lời khéo léo khiến vọng sắc lấy tình trên gương mặt, uốn lưng, cúi đầu, ý mưu cầu sau mới thỉnh, đâu chỉ là khuất đạo, mà còn là diệt pháp, nếu trọng đạo hộ pháp thì quyết không làm như vậy.

Trong thứ tư, ban đầu chế đến sau. Cố ở sau, nghĩa là tự cậy mình tôn quý, ý muốn động chúng. Ngày nay nhiều người như vậy, nghe thì phải nên răn dạy, chỉ có thể ẩn đức của mình khiến người tôn trọng, đâu chỉ tính kế để gọi là quang vinh. Tuy có thể bỏ qua vì không biết, thật đáng chê cười người có hiểu biết. Chữ diệt trở xuống là kế khai không đứng dậy. Dầu là tôn trưởng chẳng phải việc nên làm. Chữ nhược trở xuống là phần ba rõ lưu vị. Đây gọi là biết kia có duyên mà chưa đến.

Trong phần năm, Luật Tăng-kỳ đầu tiên là Thượng tọa quở dừng. Thánh Tỳ-ni tức là giới của Phật, do trong phép Chúng học chế vào nhà người tại gia không được giỡn cười, phải nên im lặng không nói, là thịt ở chân răng. Vô thường, v.v… là bốn niệm xứ. Tưởng chết tức chín tưởng. Chữ do trở xuống là kế dạy người khác tự lợi. Cỏ gãy nghĩa là cỏ khô trong tay gãy. Chữ nghĩa trở xuống là lệ quyết, y theo trên quở chế khiến giữ gìn cẩn thận.

Trong phần sáu, luật Ngũ Phần ban đầu là lời khen Thí chủ. Chữ hựu trở xuống là dạy đến chùa mình, người cần báo khiến biết cho ăn. Luận Tát-bà-đa cho rằng khách bên ngoài, nhiều khiến tác pháp mời đến. Hoặc thí chủ, hoặc môn sư đứng ở chỗ cao xướng rằng: “Người sáu mươi lạp vào” (không có thì giảm dần) hễ được một người liền khỏi các tội. Còn bao nhiêu không nhóm nghĩa là sau có người đến, chỉ tùy tướng tức giới riêng chúng.

Trong phần năm, luật Tứ Phần hỏi: Các tịnh là do thấy trong mâm có rau quả sống” cho nên phải hỏi. Y theo trong tùy tướng phải hỏi nước 52 lọc chưa. Luật Tăng-kỳ nói đưa đồ ăn. Về pháp Thường thọ, Kinh Kim Quang Minh chép: “Có hai nhân duyên thọ mạng được lâu dài: Một là không sát sinh, hai là bố thí”.

Môn thứ sáu, khoa đầu Tứ Phần, ở sau sợ nghĩa là nhân pháp được. Lạm ăn tà duyên kia, người đời truyền ý ở trước, khiến cho chúng đương thời biết trước tình chỉ rồi mới nhận ăn, cho nên nói là không lỗi. Nhưng tuy cả hai không nương pháp càng tốt, nếu y cứ tùy cơ thì không thể nhất định.

Trong phần hai, đọc tụng phải đợi người mời. Nhà thế tục ngày nay hoặc có tang chay, chúng tăng cùng đến gượng làm việc phúng tụng, không có ý lợi người, chỉ mong mời trai tăng, trọng ăn uống, hoại chánh pháp, vời lấy sự chê cười của thế tục, người biết nên răn dạy.

Trong phần ba, khoa đầu là thêm tức duyên cầm hương rước tăng, do có thể tín chung cho nên nói rằng “Phật sai”. Hiền ngu là duyên hành hương kia thứ bảy nói rằng: Phật bảo A-nan: về quá khứ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, ở cõi Diêm-phù-đề có một nước lớn tên là Ba-na-nại, lúc bấy giờ có một người ưa lo làm giàu, tâm kia ưa thích vàng, ra sức gom chứa, khi được một hũ thì đào đất chôn trong nhà. Trọn đời chứa nhóm như vậy được bảy hũ vàng và đều chôn hết, sau bị bệnh chết, làm một con rắn độc giữ các hũ vàng đó, như vậy lần lựa làm thân rắn cả một muôn năm, đến khi thọ thân rắn sau cùng thì tâm nhàm chán bỗng sinh khởi, thấy một người tiện đường đi ngang qua, rắn kêu người đó nói rằng: “Nay ở chỗ tôi đang có một hũ vàng muốn nhờ ông cúng tăng làm phước. Lúc bày đồ ăn cúng thì đem một cái A-tiên-đề (Hán gọi là thảo lung, tức cái lồng tre) đến bắt tôi”. Người kia đến ngày mang con rắn đến chùa để trước chúng tăng, khi ăn rồi rắn đến chỗ tăng đứng lên và sai người kia thứ lớp cùng dường, Tăng thọ thực xong nói pháp cho rắn nghe, rắn càng thêm hoan hỉ, bèn dẫn chư tăng đến chỗ để vàng, có hơn sáu hũ vàng đều cúng hết cho Tăng, liền bỏ thân rắn sinh lên cõi trời Đao-lợi.

Phật bảo A-nan: Người mang rắn đến chỗ Tăng lúc ấy chính là ta ngày nay, rắn độc xưa là Xá-lợi-phất ngày nay.

Phú-na-kỳ cũng là kinh thứ sáu kia, chép rằng: Lúc Phật ngự tại nước Xá Vệ, nước Phóng bát có vị Trưởng giả có người con tên là Phúna-kỳ, sau xuất gia chứng quả A-la-hán, giáo hóa người anh là Tiệnna làm nhà chiên đàn thỉnh Phật, đều cầm lư hương cùng lên lầu cao, xa hướng về tinh xá Kỳ-hoàn, đốt hương đảnh lễ niệm Phật và Thánh Tăng, khói hương bay theo hư không đến trên đảnh Phật kết thành một lọng báu, Phật biết liền nói với Tỳ-kheo Thần Túc đồng đến. (trước là duyên hành hương, sau là duyên rước tăng)

Kế, khoa đầu, phân biệt thí chủ đúng sai. Tăng mắc tội tăng tàn, Ni phạm tội nặng Ba-la-di. Chữ ngũ trở xuống là nói nghi thức Tỳ-kheo, luật, luận đều y cứ nén hương cho nên có lỗi nầy, ngày nay phần nhiều dùng khói hương xông tay, thì nam nữ ngồi đứng theo lý đều thông.

Trong phần ba, bại là âm Phạm, chưa thấy văn kinh ấy, trên dẫn các duyên, chỉ thẳng hành hương không nói lâm bại. Chữ cố trở xuống là chỉ các văn, chỉ rõ khai bại, ý là vẫn còn, nay cũng ít dùng.

Trong chú nguyện, khoa đầu Tứ Phần khiến tùy muốn tức là cơ, ưng cơ nói pháp thật khó, trách nhiệm kia ở người có trí, tùy việc quán lường, Tăng-kỳ chọn người có khả năng, không cần phải là Thượng tọa. Cho đến là tùy có, không thể thứ lớp chọn xuống. Đều mắc tội là hợp chúng, đột-cát-la chế phải học.

Văn ban đầu trong chánh chỉ bày, trước bác bỏ sự sai lầm của người thế gian. Thụ là đức trẻ chưa đội mũ, nay chỉ gọi chung, thường người nhỏ là phàm thụ. Quý tộc là trưởng giả giàu sang. Đảnh thực, đảnh là đồ đựng thức ăn, quan Đại phu trở lên đều nêu đảnh mà ăn, nay truyền lầm gọi đó là Hóa, gượng nói vọng vui gọi là siểm, nay đọc sớ hiện việc soi rõ. Chữ cố trở xuống là dẫn so sánh, kinh pháp còn như vậy các việc khác làm sao nói cho hết.

Khoa kế, trong kệ của người chết, hai câu trên là than vô thường, bao nhiêu đều bày quả báo về sau. Cõi trời, địa ngục là quả báo thế gian, Nê-hoàn là quả báo xuất thế gian, do nay tu điều lành quyết được quả báo lành. Kế, hai câu trên của kệ sinh con là thay chỗ nương tựa. Bảy đời tức bảy Đức Phật. Bốn câu kế là nêu dụ, nghĩa là quy về Phật được hộ trì như cha thương con. Hai câu sau là giúp thân thuộc. Nhà nước, luật kia chép: “Nếu vào nhà mới bày biện cúng dường, nên nói rằng: Nhà cửa che mát bố thí, (nghĩa là làm nhà thực hành bố thí) chỗ muốn tùy ý được chúng hiền thiện cát tường ở trong đó mà thọ dụng” Ở đời, người có chút trí tuệ biết ở chỗ mát sạch mà trì giới, giữ phạm hạnh, tu phước, bày biện đồ ăn, Tăng chú nguyện cho nên dũ trạch bụi trần thường sinh hoan hỷ, sinh tâm lành ngày đêm ở trong đó. Nếu vào trong xóm làng và đến chỗ hoang vắng, hoặc ngày hoặc đêm, thiên thần thường theo ủng hộ. Cổ khác, luật kia chép: Các phương đều an ổn, chư Thiên tốt lành, nghe rồi hoan hỷ, mọi chỗ muốn đều được, kẻ hai chân an ổn, loài bốn chân an ổn, khi đi được an ổn, lúc đến cũng an ổn, ngày an đêm cũng an (nghĩa là người hay khách, đến hay đi, ngày và đêm đều bình an). Các vị trời thường giúp đỡ, bạn bè đều là hiền thiện, tất cả đều an ổn, mạnh khỏe, hiền thiện ưa, tay chân đều không bệnh, giở thân động thể không có bệnh khổ, nếu có muốn gì liền được, sự mong cầu đáng như tâm nguyện.

Thủ phụ ấy, nên nói rằng “Người nữ tin giữ giới, người chồng cũng vậy, do tín tâm nầy có thể làm việc bố thí, hai người đều trì giới tu tập hạnh chánh kiến, cùng ưa vui làm phước, các vị trời thường tùy hỷ, quả báo của nghiệp nầy như đi đường không có tư lương.”

Về xuất gia, luật kia chép: “Ôm bát xin mọi nhà, gặp người sân hoặc gặp người vui vẻ, toan giữ gìn ý kia, xuất gia bố thí là khó.” Chữ Tăng trở xuống là bày chế. Trong phần ba, lời kệ Trường A-hàm tức khen ngợi bố thí, hai câu đầu khen kia tin ưa, hai câu kế là khen lòng nhân kia, hai câu sau bày cảm báo. Đáng kính đáng thờ là chỉ cho Tam bảo, kính là trong tâm, thờ là cúng dường. Lời nguyện trong luật Ngũ Phần, bài kệ đầu nguyện người và súc sinh đều an vui, một bài kệ sau là sự mong cầu được đầy đủ. Cày ruộng gieo giống dụ cho ngày nay bố thí, chữ nghĩa trở xuống là y theo răn dạy, y cứ Thánh là phép tắc, muốn ở tùy nghi. Bốn biện nghĩa là: Nghĩa vô ngại biện, pháp vô ngại biện, từ vô ngại biện và lạc thuyết vô ngại biện. Đối duyên, duyên là cơ.

Trong thứ tư, kinh thứ sáu nói rằng: Xưa, ở thành Xá-vệ có Trưởng giả thứ lớp thỉnh tăng, lúc ấy ngài Xá-lợi-phất và Ma-ha-la đến nhà kia, ngay lúc đó cổ khách được của báu mang về nhà, lại vua nước ấy ban cho xóm làng, phong cho chức Trưởng giả, lại người vợ sinh được con trai, nên nói rằng: “Các điều vui lớn nhóm họp”. Lời nguyện có năm câu, hai câu đầu xưng cái vui kia nhóm, chữ báu là viết nhầm, kia viết đúng là chữ báo. Hai câu kế là khen hạnh bố thí, mười lực là đức của Phật, do nghĩ nhớ Phật nên sắm sửa cúng dường. Câu sau là chú nguyện.

Ma-ha-la khổ cầu, luật kia chép: Xá-lợi-phất chú nguyện rồi, Trưởng giả tâm vui mừng liền lấy hai bức lụa trắng cúng dường Ngài. Ma-ha-la buồn rầu, nhân đó theo cầu học, sau ở trong tăng thứ lớp được làm Thượng tọa, Trưởng giả kia xuống biển mất của báu, vợ ông ta lại gặp nạn quan, con lại bị chết, mà Ma-ha-la chú nguyện y như trước, trưởng giả nghe rồi tâm liền tức giận đánh đuổi đi là lần thứ nhất. Vào trong ruộng mè của vua, đạp mè, bị người giữ ruộng lấy roi đánh đi là lần thứ hai. Đi đường tiến về trước gặp người cắt lúa mạch, pháp thế tục kia nhiễu lúa mạch xoay bên phải thì bày thức ăn uống, xoay bên trái thì là không lành, bấy giờ, Ma-ha-la bèn xoay bên trái, chủ lúa giận nắm tay đánh nói rằng: “Sao không xoay bên phải và chú nguyện rằng thêm nhiều vào” là lần thứ ba. Lại đi về trước gặp người chết, Ma-ha-la bèn nhiễu mộ kia và chú nguyện nói là nhiều vào, tang chủ nổi giận bắt đánh, nói rằng: Ông thấy người chết phải thương xót nói rằng: Từ nay về sau chớ có như vậy, là lần thứ tư. Lại đi đến trước thấy người làm đám cưới liền chú nguyện rằng: Từ nay về sau chớ như vậy nữa. Người kia nổi giận lấy roi đánh, bèn nói: Sao không tránh đi, là lần thứ năm. Lại cuồng chạy, gặp người bắt chim, chạm vào lưới thợ lưới chim giận lại đánh, bèn nói: “Sao không từ từ bò tới mà đi” là lần thứ sáu. Bèn y lời kia nói, gặp người gặt áo, thấy kia bò đi cho là muốn trộm y áo, bèn lại đánh, đây là lần thứ bảy. Về chùa Bạch Phật, Phật do đó răn dạy chúng. Như văn nói rằng: “Kẻ hậu học gặp văn dè dặt chớ cười, phải hổ thẹn là mình không có khả năng giáo hóa người, cần gấp tiến học, nếu ông làm Thượng tọa thì sẽ thế nào? Thường thường gieo xấu cho người thì đời sau sẽ giống Ma-ha-la”.

Môn thứ bảy, khoa đầu trong thọ thực có hai: Ban đầu định trước sau, đã đều có đưa ra, tùy dòng không ngại. Kinh nói ý ấy, tức đặt thầy chỗ y cứ, kia nói: “Phật bảo ngài A-nan: từ nay về sau, cúng thí xong khi ăn dùng đây làm thường” (sấn tức chú nguyện nói pháp). Kế dẫn lời nguyện. Lợi gồm tài và sự. Vui chung thế gian và xuất thế gian, dẫn đây làm cách thức còn bao nhiêu tùy căn cơ.

Khoa kế, đầu tiên nêu lý do có năm:

1. Bắt chước Chư Phật: Do Phật bắt chước Phật mà dạy đệ tử khiến chọn pháp. Mi là cháo.

2. Ngại chúng giới: Hoặc sợ ngồi vòng tròn không ổn mà phạm túc thực, hoặc lìa các nghi sai trái, v.v…

3. Tịnh y: Ở tây Thiên đi chân không ngồi thì dơ y, ăn xong rửa chân mới ngồi kiết già.

4. Di-tục: Quyết phải như thế tục kia khi ăn thường ngồi mâm, xứ nầy không như vậy.

5. Ăn để: Liền đối việc.

Chữ nhân trở xuống là lập pháp chế. Kiếp trước tức là sau gọi đó khác nhau. Bốn dọc nghĩa là chân chạm đất ngón hướng lên. Giao nghĩa là phải trái xen nhau. Kiều là đứng một chân. Trong xuất sinh thực, văn đầu tiên tuy chung trước sau lý hợp ở trước, theo kinh Bảo Vân thì khuất thực chia làm bốn phần: một phần cho người đồng phạm hạnh, một phần cho người xin, một phần cho quỉ thần, một phần cho minh ăn, cho nên biết trước đưa cho sau mới tự ăn.

Khoa kế, trong văn dẫn, đầu tiên là dẫn bổn duyên, kinh Niết-bàn quyển mười lăm chép: Phật du hóa ở nơi hoang vắng, nơi xóm làng, có một quỷ thần tên là khoáng dã, thuần ăn máu thịt giết nhiều chúng sinh. Lại ở xóm làng kia mỗi ngày ăn thịt một người. Phật thuyết pháp cho mà nó ngu si không nghe theo, Phật hóa thân thành một vị quỷ thần có sức mạnh, quỷ kia kinh sợ quy y, Phật hiện thân như cũ lại nói pháp cho nghe, khiến quỷ thọ giới bất sát.

Quỷ bạch Phật rằng: Con và quyến thuộc thỉ nhờ máu thịt mà sống, nay thọ giới phải làm sao để sống?

Phật nhân đó dạy đệ tử, như sau sẽ dẫn. Chữ Tứ phần trở xuống là kế nói nêu chung.

Truyền rằng, xưa chép: “Pháp Mãnh đời Tấn đến nước phía Tây, tương truyền miếu quỉ tức thần khoáng dã, hoặc Quỷ Tử mẫu”. Nay phần nhiều vẽ ở đầu cửa, vốn được cúng cho ăn, người đời nay gọi là thần cửa, lầm thay rất lâu. Chữ Ái đạo trở xuống là thứ ba, chỉ bày nhiều ít, đây y cứ nêu riêng mà nói. Sau dẫn Luận Trí Độ, quỷ có khả năng biến thực cho nên không cần cúng nhiều, sợ phí của tín thí.

Khoa kế, đầu tiên nêu việc đời, chữ y trở xuống là trong khuyên dẫn bao hàm ý người chết không cần thọ hưởng. Nhập xứ là tên chỗ ở của ngạ quỷ. Trước nếu tự trở xuống, nên thêm chữ tự để giúp. Tạp A-hàm khuyên làm phước, nói rộng việc ấy, kia nói: “Có một Phạm Chí bạch Phật con có người bà con mới chết, muốn sắm sửa đồ ăn cúng không biết người kia có ăn được chăng?”

Phật nói: “Trong loài ngạ quỷ có một chỗ gọi là nhập xứ, ngạ quỷ ở đây được ăn, còn chỗ khác thì không được, vì đều có đồ ăn riêng”.

Không sinh nhập xứ nghĩa là sinh vào đường khác. Tự được công đức nghĩa là do sức tâm thí cho nên nhậm vận thầm hộ trì. Giới là năm giới, chỉ được thân người, lại y cứ cận báo nói phải bố thí. Kinh Thí Dụ nói nhân ngài Mục-liên thấy rồi bạch Phật, Phật đáp như trong sao. Rõ biềt thí phước thầm giúp chốn u linh, chỉ có thể tu hành, không phải nhọc nhằn cúng tế. Trong phần ba, do quỷ có thần thông biết ít làm nhiều, ở đây nói thí xuất sinh không cần cúng nhiều.

Trong tạp pháp, khoa đầu, luật Tăng-kỳ trước tiên khiến chiếu cố người ở gần. Chữ nhược trở xuống là kế dự thảo nhận ăn. Người thứ ba tức mình trên hai tòa. Luật Tứ Phần khiến Thượng tọa xem đồ ăn đồng đều không cho chỗ nhiều chỗ ít. Vẫn dẫn kinh bày nửa quả, kinh rút ra trong tập A-hàm, kia nói: “Vua A-dục dùng mười muôn ức tiền vàng cúng thí mà chưa đủ vì chỉ có bốn ức, các quan tâu với Thái tử, Thái Tử liền ra lệnh cấm, cho đến trong tay vua chỉ còn nửa trái Am-ma-lặc. Vua A-dục buồn than rồi liền sai người hầu đem trái cây ấy đến chùa Kê tước nói ý mình rằng “Vua A-dục thăm hỏi các đại Thánh chúng, và đây là sự cúng dường sau chót, xin các vị thương xót mà nhận sự cúng dường này”. Bấy giờ, vị Thượng tọa liền sai nghiền nát ra bỏ vào nồi canh, khiến tất cả đều được thọ dụng, làm việc nầy rồi vua liền qua đời.

Khoa kế, luật Tứ Phần nói duyên chế, luật Tăng-kỳ nói khai thông, Thập Tụng hội tên, đồng cúng là y cứ cho khắp, đồng đựơc là y cứ thọ đủ, đẳng là đồng. Tùy ý tức mặt tình ăn, luật Ngũ Phần kết phạm, văn nói Ni phạm, chúng sau tội nhỏ, Tăng nên y cứ đồng, luật Thập Tụng nói duyên riêng đợi được khắp câu dứt.

Trong phần ba, luật Ngũ Phần dạy nghi thọ thức ăn, luật Tăng-kỳ dạy pháp Tiến thực. Hồi thực nghĩa là hồi chuyển trong miệng, thêm một lần khuyên thế tục hành thực. Vua quan làm việc là nghi thường ở Ấn-độ, ở ở Trung Hoa Lương Võ Đế đích thân làm. Ích hành tôn trọng pháp xưa nay không có, còn bao nhiêu thứ dân chưa đủ tự trọng.

Trong phần bốn, luật Tứ Phần nói người v.v… Hai bộ là hai chúng, tức năm chúng đều thâm nhuần trước Tăng sau Ni, y cứ buổi sớm. Kế là dẫn văn kinh khuyên thực, v.v… nói rằng: “Kinh Phạm-ma-nan Quốc Vương”, mất tên người dịch. Tăng-bạt nghĩa là khiến ăn đồng một vị, khác với đẳng cúng ở trước.

Trong phần năm, luật Tăng-kỳ ban đầu dạy giữ tay, nước kia dùng tay bốc ăn, xứ nầy ăn bánh trái phần nhiều cũng dùng tay. Chữ ẩm sắp xuồng là kế dạy giữ gìn đồ đựng, đồ uống tức đồ ăn canh có nước. Khẩu xứ tả, ở đây y cứ nhiều người cùng dùng, muốn che hạ tọa cho nên rửa khiến đồ ăn sạch sẽ. Chữ thượng trở xuống là thứ ba, răn nhắc đại chúng, Tứ Phần ban đầu nói không được ăn, nghĩa là làm đồ ăn có rơi rốt không được tự đói, mất giới hạn lớn. Chữ nhược hữu trở xuống là kế nói thu dọn vật rồi. Tỳ-nại-da dạy khi ăn lấy bát.

Trong phần sáu, luật Thập Tụng nói không được vung tay mà ăn, Tăng-kỳ nói không được nhai cơm có tiếng nhóc nhách, bạc tiêu là nhai có tiếng. Tỳ-nại-da nói túc tỷ: hoặc khi ăn khịt mũi, hoặc nhai cơm như tiếng khịt mũi. Ngũ Phần nói đầu tiên không được tay bốc cơm rơi rớt mà ăn. Chữ ích trở xuống là kế khai ngậm cơm nói chuyện, kế là dẫn luật Tăng-kỳ bày riêng khai chế. Tứ Phần khai thức ăn rơi rớt, luật Thiện Kiến khai nước trong bát đổ vào nhà người tại gia, vì không có cơm.

Thứ tám, là luật Tăng-kỳ nói đầu tiên chế đợi nhau, chỉ y cứ Thượng tọa. Loại sói có thú tánh bạo ác để để dụ cho sự gấp gáp. Chữ Bối âm là phái, hoặc viết là Bối. Chự hựu trở xuống là kế nói dư thực, sợ cho rằng Tăng ăn dư không nên cho người thế tục, theo đây nói khai trong chùa nên đóng. Khoa kế, trong kinh, hành thủy nghĩa là đồ riêng đựng nước, để khi ăn rửa tay, ăn xong súc miệng, không giống như ngày nay rửa tay mà ăn. vẫn dẫn Tạp A-hàm chứng dùng súc miệng.

Trong phần chín, khoa đầu là đạt-sấn, đại sấn là tiếng Phạn hơi khác, cũng nói là đàn sấn, Hán dịch là Tài thí, nghĩa là pháp báo thì, gọi là đạt sấn, văn y cứ thí y, y theo nên không cuộc hạn (người đời cho là dùng tiền thí ăn gọi là sấn, không biết tiếng Hoa tiếng Phạn đều nêu, gọi thuyết pháp là thí tài, đều sai).

Hỏi: Vậy gọi thí vật hay là gọi nói pháp?

Đáp: Y cứ vào tên gọi vật. Nay cho rằng khi làm bố thí quyết nói pháp, vì từ ngữ nói pháp cho là đạt-sấn, theo lý nói đủ là đạt-sấn nói pháp, sự nghĩa mới hoàn toàn.

Hỏi: Ở đây khác gì với chú nguyện?

Đáp: Theo sự thì hình như đồng, nghiên cứu nghĩa thì có khác, chú nguyện thì riêng bày chớ làm, đạt sấn thì chung nói pháp, nay hoặc sắm sửa trai Tăng sự cần dùng chung.

Khoa kế, ban đầu dẫn khuyên khởi, một khiến sinh nghi, hai là làm cho sinh khởi chê bai. Đàn-việt cũng nói là Đàn-na, đều là lầm lược. Tam Tạng Nghĩa Tịnh nói rằng: “Nói đủ là Đàn-na-bát-để” Hán dịch là Thí chủ. Chữ Thập trở xuống là kế dẫn Phật chế. Văn chú chỉ trên, tức nếu vì làm lợi cho nên có các bài kệ bố thí, v.v… Khi nói còn bao nhiêu nghe ấy là có duyên cần đến, không có duyên ở.

Trong thứ ba, bốn lợi ích thì hai lợi trước là lợi người. Trong thứ tư, khế kinh Tu-đa-la là Hoa Phạm đều nêu, mỗi món nghĩa là khiến tùy cơ mà nêu. Văn khai nhiêp ấy, là không cần tụng hết.

Trong phần năm, luật Ngũ Phần phân biệt đức. Ban đầu dẫn duyên, phá giới không hạnh, tà kiến không có trí tuệ, căn cơ không đầy đủ là không có oai nghi, người ác được thế lực nghĩa là nhờ đây mà sinh khởi chê bai.

Chữ Phật trở xuống là lập chế. Già luận lựa chọn khả năng, văn rõ tụng bối, lệ y theo nói pháp quyết chọn người có khả năng.

Trong phần sáu, đầu tiên nêu kệ luật. Tăng nhất trở xuống là dẫn giải, câu đầu là hai nghiệp thân miệng, câu kế là nghiệp tâm, ba là chánh tuệ, bốn là chánh tín.

Trong phần bảy, ban đầu bác bỏ thế gian. Chữ nhược trở xuống là kế khuyến nói. Theo luật Ngũ Phần, tức trong chú nguyện dẫn rằng “Bốn chân ông an ổn v.v…”, hoa xỉ là lời thêu dệt, hoang phí thước giấy, trái lại với chữ xa.

Trong thứ mười, tám người tức lưu hai chúng còn bao nhiêu khai đi trước, đồng như trên có duyên, Bần đạo cũng nói là phạp đạo, đều là lời khiêm nhường, nay Tăng thọ trai chỉ biết ăn no nhận cúng thí mà thôi, chứ luận nghi pháp độ không có một chút đáng xem thì lấy gì khiến thí chủ kia phát tâm lành, để tiêu của tín thí, thương thay.

Khoa kế dẫn kinh, Phật đang nói pháp khiến người sau bắt chước, bộ là giờ thân.

****

THIÊN GIẢI THÍCH ĐẠO TỤC

Đạo là pháp năng giáo hóa. Tục là căn cơ được giáo hóa, dùng pháp tiếp cơ quyết vâng theo chánh giáo. Chuẩn bị thong thả phép tắc hóa độ nên gọi là hóa phương (phương pháp giáo hóa).

Trong ý nghĩa, bốn câu trước của khoa đầu là nêu chung, bóng theo hình mà sinh, nghe do tiếng mà phát, hình và bóng, tiếng và âm vang không thể lìa nhau nên dùng để dụ. Hình riêng dễ hiểu. Nói pháp riêng, hoặc y cứ giới mà giải thích, hoặc y cứ hai phần phước và trí để giải thích, hoặc có thể giáo thế và xuất thế, chế pháp khác nhau. Chỗ đến đồng, nghĩa là đạo tu nhân giải thoát, tục kết duyên giải thoát, hạnh kia mau chậm mà cầu giải thoát thì không khác, rất hợp văn sau.

Chữ cho nên ố trở xuống là giải thích rộng. Ban đầu giải thích giúp nhau, bốn câu trước giải đạo nhờ tục giúp, phụ nghĩa là gần gũi. Hai câu sau nói tục cầu đạo giúp. Chữ cố trở xuống là kế giải thích chỗ đến, câu đầu là Phật bảo, hai câu sau là hai ngôi báu pháp và tăng. Trụ trì một câu chung suốt trên dưới. Tăng đồ diệt, vì Tăng tông thiếu hạnh tức là diệt.

Trong khoa kế, ban đầu bày vọng làm. Kiêu mạt là thời, ít hiểu biết là người, rõ luật là có hiểu biết, biết thời là có trí. Lời từ cổ họng phát ra, sự do tâm cắt. Không khảo sát kinh điển cho nên phát ra từ tâm họng. Chữ sở trở xuống là bày lỗi lầm, sự mặc tình ở tâm cho nên phi pháp, lời pháp ra nơi họng cho nên lầm lạm. Đều do đồng ấy là suy lý do vọng. Gang tấc nghĩa là tâm trí, cho nên sau dẫn chứng. Hai câu đầu là là tùy tục, hai câu kế là chê pháp, hai câu sau là tạo nghiệp rộng sinh.

Tà kiến nghĩa là lần lữa hoại người. Trong phần chương, chữ châm là điều khuyên răn, chia làm ba chương: Hai giáo trước, đạo đối tực chỗ làm, một giáo sau là tục khiến tăng truyền cáo.

Trong nghi nói pháp, khoa đầu trước hết là khuyên người đời hộ pháp, vì Phật khen ngợi. Kinh nói: “Nếu hộ trì pháp, phải biết người này chính là đàn việt lớn của Chư Phật ở mười phương. Chữ hựu trở xuống là răn chắc kẻ đạo thọ thí ban đầu bày răn nhắc. Đình lịch tử dụ cho rất ít. Kế giải thích tướng phá. Sau là chỉ bày tên ác. Chỉ là không trong sạch. Khúc là không ngay thẳng. Huyễn là không chân thật. Tặc nghĩa là xâm đoạt, vọng tổn tín thí. Túy nghĩa là thần tánh hôn mê. Thiên-đà-la là làm hại tuệ mạng người, nêu như vậy ba mươi mốt, nay thấy có hai mươi tám”.

Trong phần hai, ban đầu khai tiếp cốt yếu. Chữ bất đắc xâm trở xuống là chế phi pháp, có sáu món; hai người đồng tòa vì tôn trọng không có hai, hại ồn ào lộn xộn. Cãi nhau nghĩa là đối chiếu so sánh hơn thua, xen cầu dài ngắn nghĩa là che dài, nhật ngắn. Bác thiết nghĩa là vặn hỏi, không thể hợp bồi thì không nói được. Ca thinh lỗi lầm như văn tự bày. Năm lỗi trước sau tổn mình, còn bao nhiêu tổn người. Nếu nói trở xuống là thứ ba, nói về khai lược, tuy nương kế thỉnh cũng cần chọn khả năng. Luận Trí Độ nói: “Thiếu đức không trí tuệ không thể ở tòa cao, như chó sói thấy sư tử liền núp vào hang không dám ra. Đại trí không sợ sệt nên ở tòa sư tử, thí như sư tử rống, các thú đều kinh sợ, quyết vì người thỉnh, y theo đây tự lượng, không nên sợ hãi, chớ khiến núp vào hang. Chữ dạ trở xuống là nói lập tòa, hoặc là ban đêm không rảnh để bày cho nên khai được ngồi”.

Trong phần ba, có sáu pháp:

  1. Lễ Tam Bảo.
  2. Lên tòa cao.
  3. Đánh thánh thỉnh chúng (nay phần nhiều đánh bảng).
  4. Tán vận (Văn là tự làm, nay đều người khác làm, tiếng dứt thì thưa, đối mặt, nói kệ, cầu thỉnh, v.v…)
  5. Chánh nói.
  6. Quán sát căn cơ để tiến hay dừng.

Hỏi: Cho như pháp ưa nghe nên nói? (Văn không rõ xuống tòa, nay thêm tiếp theo).

7. Nói rồi hồi hướng.

8. Lại làm tán vận.

9. Xuống tòa lễ tạ.

Tăng truyện nói rằng: Thu Tăng diệu mỗi khi giảng xong xuống tòa quyết chấp tay sám hối rằng: Ý Phật khó biết, phàm phu không thể suy lường được. Nay những lối con đã nói là truyền thọ của tôn sư, chưa dám chuyên tiếp, xin đại chúng đối với pháp nghĩa nầy hoặc đúng hoặc sai xin hoan hỉ cho. Trước tiên đánh tránh nhóm chúng gồm có mười pháp, ngay nay giảng đạo nên y theo cách thức này, năm tiết trong phần bốn đều dùng chữ Hựu ở giữa. Ban đầu nói lượng chúng lấy hiểu biết làm đầu. Năm phần lìa năm phần pháp thân, luận tự giải thích rằng: “Pháp sâu nghĩa là giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến (có chỗ nói năm ấm là sai)”. Sâu là pháp xuất thế, cạn là pháp thế gian. Ác thuyết, Luận Thành Thật cho là lời thêu dệt.

Thứ hai là nói hiểu âm nghĩa. Âm nam nữ là do tánh nam nữ y theo sự nghiệp mà có khác, tùy theo phẩm loại kia tướng lời, nói phải phân chia, xen tạp lộn lạo không gọi là khéo nói.

Thứ ba là dạy dụng tâm. Trước nói xa lìa ba tâm tham, luông lung và kiêu mạn, nếu vì tiếng tăm, lợi dưỡng, quyến thuộc đều là tâm tham. Sau nói thành tựu bốn tâm: Từ là thương xót kia chưa ngộ. Hỷ là khiến tâm chúng an. Lợi ích là khiến người khác hiểu biết, bất động là hiểu suốt pháp vốn không, không cả bỏ hay chấp trước. Cho nên Bát-nhã nói rằng: Thế nào là người giảng nói như như bất động? Tất cả pháp hữu vi như mộng huyển, như bọt nước, như sương, như ánh chớp, nên quán sát như vậy. Lại kinh Pháp Hoa chép: “Đại từ bi là nhà (đối với từ hỷ ngày nay), nhu hòa nhẫn nhục là áo (lợi ích), các pháp không làm tòa bất động, thật hành được như vậy mới có thể nói pháp”. Khoác lạc sự học, khoe khoang khả năng đều là báng Phật.

Thứ tư là dạy an lành. Tâm sợ hỏi có năm lỗi, không sợ thì ngược lại. Thứ năm, khiến răn nhắc chúng nói pháp hàm loạn, không để cho chấp trước thế gian.

Trong phần năm, đầu tiên răn nhắc tham lợi, đồ chúng bắt chước thầy những điều tốt ở trên. Ngày nay trộm tham lợi phần nhiều cầu nhóm hợp làm bậy, kẻ hậu sinh bắt chước theo làm tổn thương Phật pháp, tự hoại và hoại người, Dương Tử gọi là phép chẳng có phép, tắc chẳng phải tắc là rất nhiều, thương xót thay.

Kế là giải thích ba chúng. Ban đầu tuy trí giới, do tâm vì lợi ở chung với người phá giới nên nói là tạp. Hai, đã ít muốn nên không tham lợi, nhưng là độn căn không dạy được người nên gọi là ngu si. Ba, không nhiễm lợi dưỡng, lại rành về giới tướng, uốn nắn mình và người nên gọi là thanh tịnh. Chữ vì sao trở xuống là giải thích khéo biết giới tướng ở trên có bốn: một là biết nặng, hai là biết nhẹ, ba là biết phi luật không chứng, bốn là biết luật nên chứng. Trong văn chỉ giải thích. Trong biết nhẹ lại nêu giới can ngăn ở thiên kế, nhiếp oai nghi ở sau, tạp tướng đều thông suốt. Trong chẳng phải luật lược nêu bất tịnh, còn các phi pháp khác đều điều diệt tẫn, cử tội. Riêng không theo giòng cho trái là phải, nên nói là không chứng, là trong luật nói xa ác thích thiện, đúng như pháp mà nói. Một chữ là chữ Luật, do luật là pháp dạy dỗ bao gồm đại, tiểu, khai, già, nặng, nhẹ, cho nên tuy rộng chung, mà chỉ quy về một chữ. Chữ nếu trở xuống là nói duyên khai phạm già. Phi xứ nghĩa là nhà dâm, quán rượu, hàng thịt, đây cho rằng Bồ-tát xuất gia ở trần không nhiễm, có thể được làm, Thinh Văn tự nhiếp, e gặp tục bị nhiễm, cho nên chế không làm như ba chúng trên trên. Ngày nay còn không có hàng ngu tạp huống chi thanh tịnh ư? Tăng tông che diệt, Phật pháp biết nương vào đâu? Than ôi!

Trong phần sáu, Tạp A-hàm ban đầu bày ra giới hạn nhiếp chúng, sợ ia càng nhiều nạn với sự dạy dỗ, không lợi ích với người, phải là năng lực cứu được chứ không hạn cuộc ở lời nói. Cao Tăng ngày xưa cả ngàn đồ chúng vây quanh dưới tòa, phải lượng tài sức, càng xét tự tâm, chớ tham quyến thuộc để mưu đồ tiếng tăm. Đây chính là chứa nhân, cuối cùng sẽ tự đọa, Phật trở xuống là kế rõ chẳng hỏi thì không đáp. Hỏi qua đời, nghĩa là lúc chết gần bay xa, hỏi không có ích nên nói là luống nhọc, chữ phu trở xuống giống như dừng lời hỏi. Mười hai duyên: Vô minh và hành là nhân quá khứ. Thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ là quả hiện tại. Ái, thủ, hữu là nhân vị lai. Sinh là già chết là quả vị lai. Nhân quả ba đời, sinh từ nối luôn từ duyên, cho nên luống không. Biết sinh là hư dối thì chết còn có gì? Rõ vọng tu chân, được thoát sinh tử cho nên nói là độ đây, luật Tăng-kỳ nói đạo tục trái phạm, kia nhân Tỳ-kheo theo người tại gia làm điều trái, so sánh Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phạm Ba-la-di, người tại gia không thọ giới nên không phạm, chô nên nói rằng “biết làm sao”. Do không danh tướng chớ so lường quả báo đời sau, ý bày lại nặng khiến dạy dỗ người đời.

Trong phần bảy, vì lợi nói pháp tức là tà mạng, không tham không phạm là tâm khó biết, mong đừng tự dối mình.

Trong phần tám, vào phòng người nghĩa là phép thưa hỏi vào phòng thầy. Bên ngoài búng ngón là báo, cho nên trong biết. Chánh niệm mà đứng là không có tưởng khác. Kế hỏi kinh tức là chánh hỏi thời pháp. Dưới giường hỏi là đứng dậy khỏi chỗ ngồi, không nghĩ duyên ngoài, phải lắng lòng nghe nhận, bày sự hiểu biết, làm lễ tạ sự chỉ bày, lại đi ra cửa không quay lưng lại thầy.

Trong phần chín, khoa đầu luận Tỳ-ni Mẫu toát yết thì đồng luật Tứ Phần ở trước, ở đây dẫn bổn duyên để bày ý khai. Mười hai bộ:

  1. Khế kinh.
  2. Trùng tụng.
  3. Thọ ký.
  4. Phúng tụng.
  5. Vô vấn tự thuyết.
  6. Nhân duyên.
  7. Thí dụ.
  8. Bổn sự.
  9. Bổn sinh.
  10. Phương quảng.
  11. Vị Tăng hữu.
  12. Luận nghị.

Ba tạng giáo pháp không ngoài mười hai bộ này, cũng gọi là mười hai phần giáo. Soạn ân soạn, yếu ngôn nghĩa là chứa đựng căn cơ kham dùng. Diệu từ là hiển rõ dễ hiểu.

Khoa kế, kinh Niết-bàn dạy phải xem trọng pháp, không nói tám duyên. Phi thời nghĩa là không phải nói như giới chúng học đã chế. Phi quốc nghĩa là điều không tin ưa. Tự khuyên là xưng mình có khả năng. Tùy chỗ không gặp chúng lên tòa v.v… là diệt Phật pháp, thuận theo ngu tình của mình, trái với chánh giáo. Chữ hà trở xuống là nói lý do không cho. Ngày nay chẳng nói phần nhiều rơi vào các lỗi, chẳng phải bậc thầy của trời người, là tri thức xấu ác.

Trong phần ba, có bảy món thí:

1. Nhãn, nghĩa là mắt lành nhìn cha mẹ, sư trưởng v.v… đời sau sẽ được mắt trời, thành Phật được mắt Phật.

2. Sắc mặt vui vẻ, đời sau được xinh đẹp, thành Phật được thân mầu vàng.

3. Lời nhu nhuyến khéo léo, đời sau lời lẽ rõ ràng, thành Phật được bốn thứ biện tài.

4. Đứng dậy xa rước, lễ bái… đời sau tướng mạo oai nghi trang nghiêm, thành Phật được ba thân.

5. Tâm tốt lành, đời sau không bị cuồng loạn, thành Phật được Trí Nhất Thiết.

6. Giường ghế, (Giường ghế mình cho người tạm ngồi) đời sau được giường bảy báu, thành Phật được tòa sư tử.

7. Phòng xá (phòng mình giữ người tạm qua đêm) đời sau được cung điện tự nhiên, thành Phật được nhà Bốn thiền.

Nay dùng hai câu các các…, mà bao gồm hết.

Trong phần bốn, nói mình nhập thuyền đại Thánh, thương xót thì khuyến khích đời sau. Trong đạo Nho, người quân tử lời không nói ra, hổ thẹn thân không đến. Lại nói rằng “Làm trước rồi lời kia mới theo sau, huống chi Phật pháp tu nhân mà ngôn hạnh trái nhau, rất than thở kia, huống chi đâu không có sắc xấu hổ ư?”

Trong phần năm, dẫn Phật nói pháp, lấy ngộ đạo làm đầu, tùy nghi khéo léo khiến kẻ hậu học đầu tiên vì vui gồm thích, căn cơ lược nhiếp nhiều thành một thuyết. Hạnh là quán hạnh, pháp là pháp môn. Chữ cho đến trở xuống là kế đối với ưa thích riêng, căn cơ rộng, khai một thành nhiều thuyết, hoặc hai hoặc ba, cho đến tám muôn. Nếu y cứ kinh nói rằng: “Vô lượng vô số phương tiện” cũng đâu dừng ở con số trên. Nói tám muôn, người chân đế nói rằng: khi Phật mới thành đạo cho đến lúc nhập Niết-bàn, qua ba trăm năm mươi lần nói pháp, mỗi hội đều chỉ sáu Ba-la-mật thành hai mươi mốt ngàn, mỗi pháp đều phối hợp với bốn đại, sáu trần, mười pháp thành hai mươi mốt ngàn, lại phối với ba độc v.v… thành tám mươi tư ngàn, nay nêu đại số chỉ nói là tám muôn.

Thứ mười, luận Tỳ-ni Mẫu có năm tiết, ban đầu làm pháp môn sư. Trong năm tiết, tiết thứ ba là chỗ ứng, bốn tiết khác không ứng. Trong bốn tiết, tiết thứ hai chẳng lợi người, ba tiết khác là ngại tiết mạn. Chữ văn trở xuống là khiến người tôn kính pháp. Trong năm món hai món là thấp hèn, gần nhà quyền vị, bị người sai khiến. Bốn là tà mạng, ba món khác đều tránh hiềm nghi. Trộm lời nghĩa là thấp tiềng không công minh rõ ràng. Chữ nhập trở xuống là phép oai nghi váo thế tục. Thu nhiếp các căn là ví cảnh dục nhiều. Chữ hữu trở xuống là pháp không nên ở lâu.

Trong chín việc thì bốn việc trước là khinh người, năm là mạn pháp, sáu là không tin, ba việc khác là bủn xỉn xấu xa. Như mua bán ở chợ, mong trả báo. Chữ nhược nhập trở xuống là pháp lìa lỗi dùng tâm. Ban đầu bày pháp, chữ như trở xuống là dụ rõ. Núi cao đến vực sâu là dụ thấp lòng cung kính nhiếp tâm. Trăng di động tay là dụ không dính sáu trần.

Trong phần mười một, luật Thập Tụng ban đầu dạy khéo nói, thật tướng các pháp nói chung lớn nhỏ. Lại y cứ Tiểu giáo tức chỉ thiên không. Chữ thử trở xuống là khiến quở trách dừng, phải xét đúng sai chớ theo tốt xấu. Chữ hựu trở xuống là cho diễn bày, chỉ không trái nghĩa tùy ý mở rộng, thuật nghĩa rất đúng. Còn văn thì không cho là do Thánh chế, không xen lời phàm (nay có người tâm thô liền chú giải Thánh điển, y theo đây quyết là lỗi chẳng nhỏ), luật Ngũ phần nhận thí trước không có ý. Luật Thập Tụng lúc nói không được ăn, vì không nhận rõ.

Trong phần mười hai, luận Tát-bà-đa khuyên cố gắng, ý thí vì mình cần phải khuyên vì chúng làm. Tứ Phần, ban đầu chế tà thuật. Chữ đương trở xuống là dạy chánh hạnh, lại có ba: Ban đầu dạy trước sau. Chữ hựu trở xuống là dạy thọ giới, trắng đen đều ba ngày gọi là sáu ngày chay. Chữ Phật trở xuống là dạy làm bố thí, văn nêu bỏ vật để so sánh châu báu, nói trùng để so sánh với người, vẫn dẫn nhân duyên luận Trí Độ làm chứng, kia thứ tám nói rằng: Phật ngự tại nước Xá-vệ thọ tuổi xong, A-nan theo Phật du hóa các nước, đến thành Bà-la, vua ấy biết Phật có thần thông oai đức càm hóa tâm chúng sinh, nếu Phật đến đây thì ai còn ưa ta. Liền chế hạn rằng: “Nếu có người cho Phật ăn, nghe Phật nói thì thâu năm trăm đồng tiền vàng”. Bấy giờ, Phật và Anan đi khất thực mọi người đều đóng cửa, ôm bát không mà trở về. Bấy giờ, có người tớ già cầm đồ để đựng nước gạo cặn vữa (nghĩa là tương gạo) ra đổ ngoài cửa, thấy Phật tướng tốt bèn nghĩ rằng: Người này là vị thần đáng ăn cơm cõi trời, nay tự giáng thân đi xin có lẽ là đại từ thương xót tất cả, cho nên bạch Phật rằng: Nay đồ ăn dở tệ nầy nếu Ngài cần thì hãy nhận, Phật biết tâm bèn mới trao bát nhận. Phật liền mỉm cười, ánh sáng chiếu đất trời, A-nan hỏi Phật: Vì sao mỉm cười, Phật nói : Người nữ già nầy vì thí đồ ăn cho Phật, trong mười lăm kiếp sinh lên cõi trời, nhân gian, hưởng thọ phước vui sướng, sau được thân nam xuất gia học đạo thành Bích-chi-phật nhận ức đồ ăn ngon không dứt.

Kia nói: Sa-di hai mươi ức kiếp dùng đồ ăn ngon dâng Phật, Phật dùng đồ thừa cho vua Tần-bà-ta-la, cho nên biết Phật thọ rồi cho thì được ăn, không cho thì không thể tiêu. Lại nữa, sắp bày đồ ăn cúng Phật, Phật chưa ăn, thì người không thể tiêu, ăn rồi dư Phật cho thì được tiêu (trên là văn luận, nay chỉ nhận lấy chút vật ngon để làm chứng). Thiện kiến nhận sai việc lành không phạm do chẳng phải sai.

Trong phần mười ba, Địa Trì Ban đầu nói gặp nhau thăm hỏi. Chữ hựu trở xuống là tùy duyen chú nguyện, luật Tứ Phần ban đầu nói đợi gặp người bệnh. Phương tiện sai là đáng sai, vì lợi ích cho họ nên khen ngợi. Cho làm nghĩa là kẻ tục có lòng tin mà không nơi nương tựa. Chữ nhược trở xuống là tùy thế tục chú nguyện. Hắt hơi là nhảy mũi. Luật do

Tỳ-kheo không chú nguyện, vời lấy sự chê bai cho nên chế.

Trong phần mười bốn luật Tăng-kỳ có ba đoạn: Ban đầu phép vào chúng quan vua. Trước chế chẳng nên. Chữ ưng trở xuống là dạy khéo nói. Hai nhà tức Sát-đế-lợi và Bà-la-môn, Chư Phật khéo lợi ích chúng sinh, người có đức hạnh thì sinh trong dòng Bà-la-môn, nếu có oai thế thì sinh trong dòng Sát-đế-lợi, pháp luận là Phật pháp. Lực luân là vua quan. Chữ hựu trở xuống là răn nhắc xúc chạm là phạm. Hình tướng là hình tướng người. Chữ dục trở xuống là cho bày ý. Chữ tục trở xuống là bày nên đáp, sợ có quên sót ngại duyên cho nên lời đều không nhất định. Kế rõ vào nhà cư sĩ, không nên khiến kia hổ thẹn mất lòng kính tin. Chữ ưng trở xuống là bày an ủi vỗ về, phương tiện dắt dẫn, phát khởi gốc lành kia. Thứ ba vào chúng ngoại đạo, hai tiết đồng với trước. Hình trí nghĩa là nói lời hủy nhục, hoặc làm môn sư, hoặc là tiếp đối, hoặc khiến dạy dẫn dắt. Lại nữa, nghi thức nói pháp không chuyên dẫn dạy kẻ tục, làm thầy dạy đạo nghĩa cũng đồng, nhưng sự loại tướng nương nhờ nơi đây đã rõ.

Thứ hai, trong ba quy y, chế ý dẫn kinh. Ban đầu chính nói ý nhận, tức luận Tát-bà-đa nói rằng: Như người mắc tội trốn vua sang nước khác để cầu cứu giúp. Chúng sinh cũng như vậy, lệ thuộc vào ma, có lỗi sống chết, quy hướng Tam Bảo, ma không làm gì được. Cho nên biết, nếu thọ ba quy y được thoát sinh tử. Ma phiền não là ba độc cướp mất pháp lành. Ma năm ấm dời đổi không dừng. Ma chết là ép ngặt mạng căn. Thiên ma là quấy nhiễu khiến lui sụt đạo, bốn loại ma này đều não hại, không được tự do, nên gọi là Ma. Chữ danh trở xuống là kế bày pháp cao siêu, tên một mà nghĩa khác là kinh kia, thứ năm tự giải thích rằng: Phật thường, pháp thường, Tỳ-kheo tăng là thường, ở đây nói Như lai muốn chỉ bày cho chúng sinh hai món báu thường trụ chân tâm mộc thể, đối phương tiện trong giáo tùy nghi ly hợp cho nên nói rằng cảnh giới Chư Phật đồng. Đã biết phương tiện vốn là dẫn thật, nay thọ ba quy y đều là rõ tánh, căn cơ tuy chưa hiểu suốt nhưng có thể do đó mà người trao dùng giáo không thể không biết.

Nói một là ba, kinh chép: “Thế nào la một?” Phật bảo Ma-ha-baxà-ba-đề Kiều Đàm-di rằng: Chớ cúng dường ta, hãy cúng dường tăng, nếu cúng tăng liền được đầy đủ, Bà tùy theo lời ta thì đó là cúng dường Phật, vì giảit thoát thì cúng dường pháp, vì thọ dụng thì cúng dường Tăng. Nói ba là mộc, như luận Tát-bà-đa hỏi: Phật cũng là Pháp, pháp cũng là Phật, Tăng cũng là pháp, chính là một pháp có gì khác không?

Đáp: Tuy là một nghĩa mà tướng có khác nhau. Tất cả công đức đại trí vô sư là Phật Bảo, tột chắc thật Niết-bàn là Pháp Bảo, công đức hữu học, vô học của Thinh Văn là Tăng bảo.

Chữ hựu trở xuống là hiển bày công năng, cho nên biết Tam Bảo gia hộ không làm hại người, rồng, súc sinh còn vậy huống chi với người. Nghĩa sau tức trong pháp thọ giới, nghiệp số đầy đủ, ở đây không phiền dẫn.

Trong phần hai, ban đầu bày ý, chỉ khiến chưa quy y Tam Bảo đều gọi là tin tà, thuận theo sinh tử đều gọi là tà nghiệp. Chữ A-hàm trở xuống là dẫn bày. Mé Niết-bàn sinh tử là thời vô thỉ, không chỗ đến là mé vị lai, nghĩa là thành quả Phật chứng đại Niết-bàn gọi là Niết-bàn, gọi là không chỗ đến. Lời kia đến chỗ cùng tột lại vì không có chỗ đến. Nghiệp sớ chép: Tứ mé sinh tử đến mé Niết-bàn. Chỉ cho thứ mười, kia chép: Tự nhớ tất cả điều bất thiện đã làm, như người tự hại tâm sinh sợ sệt. Kinh sợ hổ thẹn, trừ chánh pháp nầy lại không gì cứu hộ bèn lại quy y chánh pháp nầy, không còn gì cứu hộ bèn lại quy y chánh pháp… chữ tất trở xuống là chỉ cho pháp. Tùy thời nghĩa là như các kinh chỉ sám mười nghiệp ác ba đời.

Trong phần ba, Trí Luận có ba:

1. Đủ nghĩa. 2. Đối cảnh. 3. Tác pháp.

Đạo chúng so với thế tục đều là địa vị thầy, cho nên chú thích chung. Trong ba pháp, nói mỗ giáp là xưng tên mình. Trọn đời là nói thời kỳ kia. Sau ba kết, lại càng dặn dò không để quên mất. Dẫn luận Tát-bà-đa để nói thành hay không, nếu tâm xao động thì không đâu chẳng dạy.

Trong phần bốn, kinh Đại Tập nói mẹ nhận gồm giúp cả con. Thiện thần hộ là y theo kinh Đại Quán Đảnh, một quy về mười hai thiên thần, cộng chung có ba mươi sáu vị thần. Luận Tát-ba-đa đối với giới phân biệt khác có ba: Đầu tiên là chọn đường. Năm đường là trừ loài người ra. Không thọ giới là chỗ chấp của tông kia, Luận Thành Thật, Luật Thiện Kiến thì rồng súc được thọ năm giới. Nghiệp sớ chép: Đa luận y cứ vô tri, thì người còn không được huống chi quỷ súc. Như các đường khác được, nghĩa là có hiểu biết. Chữ cũng trở xuống là phần hai phân biệt thời. Năm giới phải giữ trọn đời, ba cõi cuộc hạn một ngày một đêm, tông Thành Thật không như vậy, như sau đã rõ. Chữ bất trở xuống là phân biệt pháp, như năm giới, tám giới ở sau. Tam quy ngôn trở xuống là phát giới. Năm giới trong phần phân biệt người, Luận Thành Thật y cứ vào mười ba nạn đều là chướng giới. Nay nói bảy nạn, cư sĩ thì có, chỉ chướng mười giới, giới cụ túc cho nên nói rằng: Tỳ-ni không cho, không chướng năm giới, tám giới cho nên nói rằng: “Người tại gia”. Giới thế gian là đối trên, xuất gia là giới xuất thế, tự sáu nạn còn lại, biên tội phải thọ, phá thì cuộc hạn Đại tăng, huỳnh môn, hai hình súc sinh là nặng, cho nên không nói, luận Tát-bà-đa chỉ phân biệt biên tội (xưa nói rằng: y cứ chưa thọ sám là nói phi. Biên tội hằng chướng đâu được luận sám. Nghiệp sớ nói sám tự không thành bảy nạn của người).

Khoa kế, ban đầu khiến bày duyên cảnh, đồng với giới cụ tức ở trước, tình cảnh đều đồng. Phi tình chỉ là rượu. Nghiệp sớ chép: Sắp muốn thọ giới trước phải nói duyên cảnh rộng hẹp cho nghe, khiến người thọ chí thấy tướng xa rõ ràng. Chữ thiện sinh trở xuống là kế khen công đức của giới. Rất khó nghĩa là công sâu khó được không thể khinh thọ, ba giới do đây sinh cho nên đây là căn bản, tức kinh Thiện Giới chép: Không thọ năm giới, không phát khởi mười giới, cho đến lần lửa không phát giới Bồ-tát, v.v… năm món là năm điều, tùy người có khả năng nhiều ít đều được, nếu thọ một giới gọi là Nhất phần Ưu-bà-tắc, hai giới gọi là Nhị phần Ưu-bà-tắc, ba giới gọi là thiểu phần, bốn giới gọi là đa phần, năm giới gọi là mãn phần. Trước bày giới tướng xét hỏi giới có thể thọ được chăng, rồi mới cho thọ. Y theo nghiệp sớ thì họ ba quy y trao thẳng năm giới. Lựa người ấy là để lật tà, sơ tâm khó nhổ nên liền dẫn quy y, nếu lại che sớ cho lại tích xưa, năm giới không như vậy, trước đã quy chánh, tâm tánh điều nhu, suy nghĩ chấp ngã, cho nên phải lược phân biệt.

Thứ hai, trong tác pháp, khoa đầu lời câu chia làm năm:

1. Bày tên mình.

2. Quy Tam Bảo hồi hướng cảnh giới.

3. Trọn đời… nói lên chỗ mong đợi, văn nêu trọn đời, hoặc một ngày đêm, hoặc một tháng, hoặc một năm, tùy thời tự xử.

4. Vì năm giới, chánh là lập thể. Vả lại nêu mãn phần, hoặc một phần, hai phần, cũng ở gặp cơ. Ưu-bà-tắc xưa dịch là Thanh tín sĩ, cũng nói rằng cận sự nam, nữ là Ưu-bà-di.

5. Như lai đồng kết quy chánh bổn. Do danh từ Tam Bảo chung cho chín mươi sáu món, sau phải hiển chánh, chẳng đồng lạm trước, do hiệu cao quý nầy ngoại đạo không có. Như lai là nương đạo như thật, lại đến thành Phật. Chí chân ấy thể ngộ không tà. Đẳng Chánh Giác là đạo đồng ba đời. Đây thật là chỗ ta nương về, còn bao nhiêu chẳng kính ấy, cho nên nói là Thế tôn của ta (đây đều nhiếp lược Nghiệp sớ để giải thích, còn các chỗ khác rộng như kia).

Trước ba quy y thệ chánh phát giới duyên, ba pháp vừa xong liền nạp giới thể, sau ba quy y kết là dặn dò phi thể.

Khoa kế, ban đầu dạy nghe. Đa-Đà, Hán dịch là lai, A-la-ha Hán dịch là ứng (ừng là ứng cúng). Tam-miệu Tam-phật-đà Hán dịch là Chánh đẳng Chánh giác, cũng nêu ba hiệu khiến sinh kinh tin. Chữ tận trở xuống là bày tướng tà dâm là phạm về người. Câu xá có bốn:

  1. Vợ người.
  2. Vợ mình chẳng phải đường (đường đại tiện và miệng).
  3. Phi xứ (Chẳng phải trong phòng).
  4. Phi thời (Lúc vợ mang thai, cho con bú, thọ bát quan trai).

Trong năm giới bốn giới trước là tánh giới, hữu tình cảnh phát, một giới sau là giá giới, phi tình cảm phát. Uống rượu lung tung sẻ gây ra bốn lỗi, cho nên cấm riêng. Chữ thị trở xuống là dặn dò có bốn:

  1. Dặn giữ gìn cẩn thận.
  2. Khuyên làm phước.
  3. khiến thọ trai.
  4. Dạy hồi hướng.

Một năm ba lần là tháng giêng, tháng năm, tháng chín, cõi u minh, gương nghiệp xoay vần chiếu soi châu Diêm-phù ở phía Nam, nếu có điều thiện ác trong gương đều hiện rõ (Hoặc nói rằng Thiên vương đi tuần bốn thiên hạ, ba tháng nầy là tuần cõi Diêm-phù ở phía Nam. Lại nói rằng trong ba tháng ác quỷ có thế lực cho nên khiến tu việc lành). Tháng sáu, hắc bạch hai nữa tháng có ba ngày, xét theo Luận Trí Độ thì mồng tám sứ giả của Thiên Vương xuống trần gian, ngày mười bốn Thái Tử Thiên Vương xuống trần gian, ngày mười lăm Thiên Vương tự xuống quan sát chúng sinh làm lành làm ác, ngày hai mươi ba, hai mươi chín và ba mươi cũng vậy. (Tháng thiếu đều y theo Bồ-tát nên dùng ngày mồng một).

Trì trai là thọ tám giới, hoặc chỉ thọ trai trước giữa ngày ăn một bữa, sau giữa ngày không được nhai (nay nhiều sớ không tiết độ ăn chiều, đây chẳng phải trai còn hơn. Lại có người uống nước trọn thời là người thanh tịnh. Đây là tà thuật, tất cả chúng sinh nhờ ăn mà sống, chỉ cho giữ quá giữa ngày là chánh giáo của Phật).

Thứ ba, trong phân biệt Luận Thành Thật trái ngược Hữu tông, cả ba đều cuộc hạn riêng: (tờ 0)

  1. Phải thọ đủ.
  2. Không thêm.
  3. Nhất định trọn đời.

Luận Tát-bà-đa nói phải là năm chúng, sớ chép: “Đều là người hoằng pháp”, kẻ tục chỉ từng thọ phi nên không cho. Luận Trí Độ, đoạn đầu duyên khởi lục trai khác với Luận Trí Độ ở trước bởi lý do khác nhau. Trước tuy thọ trai cả ngày không ăn nhưng lại không có pháp lành, Phật do đó dạy dỗ dắt dẫn cho nên sửa thêm.

Khoa kế, trong phần hỏi nếu y theo Hữu bộ chỉ phát bốn chi, Thành Tông đủ bảy, rất giống với luận cho nên dẫn bày. Trong phần đáp đầu tiên y cứ nghĩa giải thích, hai câu trên chánh đáp nêu một. Chữ hựu trở xuống là càng là giải thích nêu vọng, sợ nói rằng: Sao không ở trong ba đường khác mà nêu một? Cho nên ở đây giải thích. Chữ như trở xuống là dẫn bày. Mười điều lành nhiếp vô lượng, nói dối nghiếp ba món khác, so sánh nhau chẳng khác, cho nên nói rằng y cứ theo mà biết.

Trong thứ ba, như văn giới mắng nhiếc nhau có giải thích đủ. Nội pháp tức nghiệp cũ, ngại pháp tức y báo, thêm một ý cũng đồng với trên. Nội vật tức chánh báo, dùng sơ sao so sánh thân quyết chiêu vời lấy ương họa. Sau chỉ cáo văn không phiền dẫn lại. Tu là tìm.

Tám giới, khoa đều, luận Tát-bà-đa khai tâm niệm ấy là tự thệ mà thọ. Sớ chép: Chẳng gọi là đường thường, văn kia chép: Nếu không có người thì được tâm niệm thọ, rõ là duyên khai. Thứ hai trong tác pháp, đầu tiên dạy đủ oai nghi. Chữ ưng trở xuống là phép chánh thọ, một ngày một đêm nên ở dưới ba quy y, văn có bốn đoạn:

  1. Xưng tên.
  2. Quy cảnh.
  3. Thời hạn.

Chữ y cứ trở xuống, Luận Thành Thật nói thọ không dài ngắn, tùy người sửa thêm.

4. Lập thệ.

Sớ chép: Nói tịnh hạnh, là do chỗ kỳ hạn vâng trì chí đồng Chư Phật (Lại phân biệt năm giới không dứt chánh dâm). Không nói Như lai Chánh giác ấy là năm giới đầu tiên lìa tà duyên cho nên dùng chánh để ngăn, nay đây lại thêm thì đâu cần.

Trong sám hối, Bố-tát dịch là Tịnh trụ, cũng dịch là thanh tịnh, lý nên trước sám sau thọ. Trong luận nêu ngược cho nên chú giải dời đổi, trong phần nói tướng, ban đầu là nói tướng. Chữ nguyện trì trở xuống là thứ hai, dạy phát nguyện ở ban đầu, mỗi việc đều nói: “Như Chư Phật” sớ chép: Nêu sở hành của cảnh giới Thánh. Mê pháp cũng như

vậy, ấy là dẫn đã giống trước. Nếu y cứ yết-ma thì nói rằng: “Như Chư Phật trọn đời không sát sinh, mỗ giáp một ngày một đêm không sát sinh có thể giữ được chăng? (đáp rằng giữ được)”. Nay đây chỗ bày hoàn toàn nương theo Luận Trí Độ. Sớ chép: “Có bổn nói: Con là mỗ giáp một ngày một đêm không sát sinh cũng vậy” ấy là nói thẳng đã khế hợp. Trên đồng Chư Phật không nhờ hỏi đáp cũng thành nói tướng (nay nương yết-ma mà nói). Giường cao lớn tức chân cao thước sáu trở lên, hoặc loại lớn rộng ba khuỷu tay. Lại tám tứh giường tốt trong A-hàm là giường vàng, bạc, sừng, ngà trang sức cho nên hơn, Phật, thầy, cha mẹ từ người cho nên hơn, không cần cao, rộng đều không nên ngồi. Ấn-độ dùng hoa kết tràng đội lên đầuvà dầu thơm thoa thân để làm trang sức cho đẹp. Xứ nầy phải bỏ đeo hoa, ngọc và phấn thoa mặt v.v… y theo văn là chính giới mà nói tám, Luận Tát-bà-đa chép: Trai dùng quá nửa ngàykhông ăn làm thể, tám việc soi rõ cho nên thành thể trai (nghĩa là dùng tám giới cấm ngăn lỗi buông lung mới nói lên trì trai thanh tịnh nên nói là soi rõ). Cộng tướng giữ gìn gọi là tám chi trai, cho nên nói tám trai mà không nói chín, lý do không ăn quá ngọ, ở sau có nói riêng. Nếu theo yết-ma thì hợp giường cao ca múa làm một, quá ngọ làm tám. Lại thêm trong một, quá ngọ là thứ sáu. Nên thân trang nghiêm quán sát lắng nghe vì một đều là chỗ nêu khác nhau, tùy nương đều được.

Trong phát nguyện, ban đầu lìa đường ác. Tám nạn là ba đường (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), trời Trường thọ, châu Bắc câu lô, trước Phật sau Phật (sinh trước Phật xuất thế hay sau khi Phật diệt độ), thế trí biện thông, các căn không đủ. Chữ ngã trở xuống là phân biệt quả báo ở đời. Chữ nguyện trở xuống là bày chỗ mong cầu. Tát nói là nhã, cũng nói là Tát-bà-nhã, Hán dịch là Nhất-thiết-trí. Chỉ thêm một ấy, kia nói rằng: nay ta do công đức bát quan trai nầy không đọa đường ác, tám nạn, biên địa, dem công đức nầy nhiếp hết tất cả điều ác của chúng sinh, tất cả công đức trí tuệ bố thí cho người kia khiến thành đạo Vô thượng chánh chân, cũng khiến tương lai đời Phật Di-lặc hội được thoát khỏi sinh già bệnh chết.

Nói quan trai, nghĩa là cấm, đóng không cho buông lung, tịnh định thân tâm. Sao sớ nay thấy Nghiệp sớ. Trong tạp tướng, luật Tăng-kỳ gọi thọ mà sợ tục duyên nhiều khiến không nhớ, Thập Tụng thì kẻ tục đến do đó khuyên họ thọ, thêm một trước sám sau thọ, chứng minh chỗ chú giải trước chứ chẳng phải tự ý. Chữ trung A-hàm trở xuống là ba kinh đều nói về lực dụng. Mười hiệu, là Như lai (đồng nói ở trước) ứng cúng (xứng đáng làm ruộng phước) Chánh biến tri (tịch chiếu pháp giới) minh hạnh túc (quả từ nhân được) thiện thệ (khéo đến Bồ-đề)Thế gian giải (suốt ngụy thông chân) Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu (nhiếp hóa theo đạo) Thiên nhân sư (Ứng cơ trao pháp) Phật (giác ngộ quy chân) Thế Tôn (độc tôn trong ba cõi).

Trai kinh ấy chép rằng: Ngày thọ trai phải tập năm niệm:

  1. Phải niệm mười hiệu của Phật.
  2. Phải niệm pháp, ba mươi bảy đạo phẩm đầy đủ không hủy hoại.
  3. Phải niệm chúng, và cung kính gần gũi.
  4. Phải niệm giới, nhất tâm vâng giữ.
  5. Phải niêm trời, đời sau sinh lên cõi trời sau được Nê-hoàn.

Luận Thành Thật ban đầu nói công đức cao quý. Kia dẫn Đế-thích nói kệ rằng:

Trong sáu ngày thọ trai

Vâng giữ đủ tám giới Người nầy được phước đức Thì là đồng với ta.

Phật ngăn đó rằng: Nếu người hết lậu hoặc mới nên nói kệ nầy, cho nên biết phước báo của thiên chủ không bì được bậc Thánh ra khỏi ba cõi. Mới có khả năng so bì trở xuống là nói dài ngắn đều thành, sớ nói rằng: Giáo pháp tiếp độ thế tục không thể y cứ. (xưa dẫn luận Tátbà-đa, nữa ngày không được vẫn là chấp Bộ kế y theo lý đều thông) Câu Xá trước giải thích tràng hoa anh lạc là đồ trang sức thân. Trừ chẳng phải xưa, nghĩa là bỏ đồ trang sức mới tốt. Chỗ thường dùng, cho nên nói là không sinh v.v… say là hôn mê, loạn là tán loạn. Điều thiện không sinh được nhiều là sợ người tham cứu tâm không chuyên nhất. Bàn rộng quy giới, riêng thọ là hay, thì tâm không khác, pháp không thông lạm. Chúng thọ giới ngày nay phần nhiều với lý tuy thông, sau trở thành chẳng phải thường. (có thuyết nói rằng: y cứ người trao giới vọng nói có nhiều thầy đồng trao giới, vốn không có lý nầy đâu cần chế đó. Lại nói rằng: Chữ thọ (nhận) viết thành chữ thọ (trao) là rất lầm).

Luật Ngũ Phần ban đầu dạy người thế tục không biết kính đạo, văn tám pháp nêu năm pháp trước, hủy Tam Bảo và giới là bốn, năm là không lợi cho trụ xứ Ưu-bà-tắc (ngăn bộ thọ giới), sáu là làm xấu tiếng tăm người, bảy là muốn hủy nhục trụ xứ của kia, tám là dùng phi pháp làm chánh pháp dối gạt người (hoặc có thể ba món nầy dùng chung không lợi sửa đó cho nên không nêu riêng). Nếu có tám pháp nầy cho khiến không kính, vì không có đức.

Chữ nhược trở xuống là kế dạy người đạo không đến kẻ tục. Xóm làng cũng vậy, ở trên y cứ một nhà nhóm họp đều sân Tỳ-kheo không đến xóm làng kia. Tạp A-hàm chỉ bày rất thật. Trong sạch nghĩa là không nhiễm trần. Tu tịnh trụ nghĩa là vâng giữ giới hạnh. Thành tựu nam tướng nghĩa là có tiết tháo trượng phu. Miệng nói ba quy y nghĩa là ban đầu cần thầy thọ. Đủ bốn món nầy thì danh và thật cả hai đều xứng đáng.

Thứ hai trong phần nói về sinh duyên, đầu tiên dẫn duyên. Chữ Phật trở xuống là lập chế. Thân gánh vác cha mẹ là chấp lao phụng thờ. Y phục quí đẹp, tức là cung cấp đồ dùng. Bên phải là cha, bên trái là mẹ, là thuận âm dương. Hoặc có thể phương kia thờ mẹ riêng (có thuyết nói: Ở Ấn-độ phía đông là tôn quý, trái là Bắc, phải là Nam, Bắc là âm, nhưng người làm chỗ hướng không nhất định, chưa hẳn là vậy).

Chút ân, là ôm ấp nuôi dưỡng đến khi khôn lớn trải qua thời gian dài, trăm năm khổ nhọc không báo chút ân huống gì là nhiều? Do kẻ đạo cung cấp cho thế tục vốn là làm nhơ nhà, chỉ chấp nhận cho cha mẹ nên nói là cho. Mắc tội nặng là trái chế, cát-la nghiệp đạo nặng (có thuyết nói nghịch lan rõ ràng).

Trong phần hai, không tin thiếu sự lo lắng ấy là ép ngặt khiến quy y chánh, cho nên kinh lý nghĩa là cung cấp sửa soạn. Có tin buông cho, là quyết không luống phí. Khai đem đến chùa, là không có người thân đáng nương tựa. Rửa mẹ không xúc chạm vì xúc chạm không khai thân, cha như Sa-di là nuôi đồng với tiểu chúng. Truyện Đường Tăng nói: Kỉnh Thoát thường gánh mẹ một đầu, kinh sách một đầu, lúc để mẹ dưới gốc cây, vào xóm xin ăn để tự no đủ.

Lại Tề Đạo Kỷ cũng mang kinh sách, tượng Phật và mẹ già dùng chổi tre gánh đi, thường bảo mọi người rằng :Kinh đâu không dạy hay sao?

Quét đất tăng bằng cõi Diêm-phù không bằng quét đất Phật bằng bàn tay. Hầu hạ cung cấp cho mẹ thì đồng với người chứng ngôi vị Bồtát. Có người muốn gánh giúp, Tế Đạo Kỷ nói: Đây là mẹ tôi, chẳng phải mẹ ông, khổ lụy hình hài đều là thân tôi, có thân quyết có khổ, nào được đem khổ nhọc cho người, cho nên thân là khổ trước xin chớ giúp nhau. Đây là đại độ đâu thể so sánh với thường tình. Tuy giáo có chút trái mà quy về thuận lớn. Báo ân hết mực xưa nay không có.

Thứ ba, là Niết-bàn, Tam bảo cùng một thể, thể không sinh diệt nên đều là thường trụ. Khải là mở. Bảy đời, Bắc Viễn sớ chép: “Vô thỉ đều khai đâu chỉ là bảy đời, nhưng chỉ tùy thế tục mà nói là bảy.” Kinh

Phạm Võng chép: “Chúng sinh sáu đường đều là cha mẹ ta, ta đời đời đều thọ sinh nơi đó.” Mẫu luận nói tham, trước pháp sau thật, không tham nhưng pháp không thiếu.

Ở luật Tứ Phần chép: “Đại Ái Đạo xin xuất gia, Như lai không chấp nhận, A-nan xin thế nói: Ái Đạo là Di mẫu của Phật, Phật ra đời bảy ngày thì Ma-da qua đời, Di mẫu nuôi nấng Phật đến trưởng thành. Ái Đạo ở đời đã chứng Sơ quả, cho nên nói rằng: Huống gì được tịnh tín, phải biết ân nuôi dưỡng rất lớn, dù mang cha mẹ trên vai cả trăm năm cũng không báo được chút phần, nhưng khiến một lòng nghe đến Tam bảo liền đáp được ân nặng, chỉ có Phật pháp mới báo được ân sinh thành dưỡng dục, còn cung cấp bên mình chỉ gọi là nuôi thẳng thôi.

Trong phần bốn, kinh thứ nhất nói rằng: Phật nói: vào đời quá khứ, ta ở tại nước Ba-la-nại, có người con Trưởng giả tên là Từ Đồng Nữ, cha chết làm nghề bán củi, ngày được hai tiền để nuôi mẹ già. Kế được bốn tiền, tám tiền, mười sáu tiền, sau muốn ra biển tìm châu báu, người mẹ liền ôm chân không cho đi, người con kéo tay làm đứt mấy cọng lông tay của mẹ, bèn ra biển tìm của báu. Lúc trở về thì có hai con đường là đường bộ và đường thủy, người con liền đi theo đường bộ, bèn thấy có ngôi thành lưu ly mầu xanh, có bốn ngọc nữ cầm bốn hạt châu như ý, trỗi nhạc ra rước vào trong thành, suốt bốn vạn năm thọ nhiều vui sướng (quả báo hai tiền) kế lại đi về trước thấy ngôi thành pha-lê có tám ngọc nữ cầm châu ra rước, thọ vui bốn vạn năm (quả báo bốn tiền), lại bỏ đi đến ngôi thành bằng bạc, có mười sáu ngọc nữ đón rước, thọ vui mười sáu vạn năm (quả báo tám tiền). Lại bỏ đi đến ngôi thành bằng vàng, có ba mươi hai ngọc nữ cầm châu ra rước, thọ vui ba mươi hai vạn năm (quả báo mười sáu tiền). Lại bỏ đi xa thấy ngôi thành sắt, tâm sinh nghi ngờ bèn vào thành sắt, có một người đầu đội vòng lửa, lấy bỏ lên đầu Đồng Nữ (quả báo làm tổn lông tay mẹ), Đồng Nữ hỏi ngục tốt: “Tôi đội vòng này khi nào mới khỏi?”. Đáp: “Khi nào thế gian có người tội phước giống như ngươi, mới thay thế được.” Lại hỏi: “Nay trong ngục này có nhiều người tội như tôi chăng?”. Đáp: nhiều không thể tính kể.

Nghe xong liền nghĩ: Xin tất cả chịu khổ đều nhóm hết vào thân tôi. Khi khởi niệm nầy rồi, vòng sắt rớt xuống đất, ngục tốt lấy đinh ba sắt đánh vào đầu, chết được sinh lên cõi trời Đâu-suất.

Phật nói: Đồng nữ lúc ấy là thân ta, phải biết với cha mẹ làm chút việc bất thiện, mắc quả báo đau khổ rất lớn, làm chút cúng dường được phước vô lượng (Đồng Nữ là tên của Trưởng giả chứ chẳng phải là con gái).

Chim oanh vũ, kia nói rằng: Đời quá khứ, ở núi Tuyết có một con chim Oanh vũ, cha mẹ đều mù. Lúc ấy có chủ ruộng, khi mới gieo giống nguyện rằng: Cho tất cả chúng sinh cùng ăn. Oanh vũ con liền thường đến ruộng mổ lúa về nuôi cha mẹ. Chủ ruộng đi xem xét lúa má, thấy các côn trùng, chim cắt lúa liền nổi giận giăng lưới bắt Oanh vũ bị bắt nói: Ông chủ trước có tâm tốt nay sao lại giăng lưới bắt? Vả lại ruộng như mẹ (vì thường sinh trưởng) gieo giống như cha (vì nối tiếp nhau), thật ngữ như con (vì đáng quý tiếc), chủ ruộng như vua, ủng hộ do mình (vì được tự tại). Nói lời đây rồi chủ ruộng vui vẻ hỏi: Ngươi lấy lúa nầy làm gì? Đáp: Có cha mẹ mù xin để nuôi dưỡng.

Phật nói: Chim oanh vũ là thân ta, chủ ruộng là Xá-lợi-phất, cha mẹ mù là Tịnh Phạn và Ma-da.

Thêm một hai tiết, ban đầu so sánh công đức. Một đời bổ xứ là Bồ-tát Đẳng giác, y cứ mà biết đức nuôi dưỡng chỉ thua Phật. Bồ-tát giới nói: Hiếu thuận là pháp chí đạo. Sách Nho cũng cho rằng là chí đức cột yếu của đạo, bao gồm muôn việc lành, là nguồn của trăm hạnh. Đạo Nho, đạo Phật đều nói như vậy, mà đạo Phật là tha thiết nhất, dạy thường phải nghĩ báo ân chớ có bội ân.

Chữ văn trở xuống là kế nói ân lớn. Chữ văn nên viết là chữ hựu. Đều thêm một nên gọi là tuy dùng thiện dẫn dắt mà ân cha mẹ khó báo, vì cha mẹ có ân mà không mong con báo đáp. Chữ thị trở xuống là kết khuyến.

Trong phần năm, luận nêu bệnh mù, các bệnh khác cũng vậy. Lại chỉ thiếu chỗ cần dùng không cần đợi bệnh. Tự có thể xe sợi ấy là đặc biệt nêu việc nhỏ hèn, các loại khác đầy đủ, không cần gượng cho, phạm tội tức Đột-cát-la, đồng với nhơ nhà người, y theo đây mà châm lường.

Trong phần sáu, luật Tăng-kỳ dạy sửa tục. Chữ A nhập thinh, chuẩn nên tức nghĩa y cứ văn không nêu ra, cho nên thêm một nói đổi tánh. Kia nói rằng: Bốn họ xuất gia, đồng xưng là họ Thích, liền gọi là Tỳ-kheo chẳng quan hệ gì với thế tục. Đây nói sau khi lìa tục rồi không được nương tộc họ cũ. Luật Thiện Kiến chép: Đứa ở đã xuất gia thì chẳng thuộc về mình nữa. Cho nên trang sức tốt đẹp thêm rồi không còn lại tên cũ. A-ma-ni tức Phật gọi tên Di mẫu, nhưng hai hiệu nầy là tên chung của nữ giới. Tăng-kỳ chế cuộc hạn thân thuộc lúc cũ cho nên khác nhau.

Trong phần bảy, ban đầu cho khiêng thây chết, dẫn kinh nói y cứ,

văn kia chép rằng: Ái Đạo Niết-bàn, Phật và A-nan, Nan-đà-la khiêng thây đi chôn. Bấy giờ, Phạm thiên, Đế-thích, Bốn Thiên vương muốn khiêng thay, Phật đều không cho vì muốn báo ân, đến vua Tịnh Phạn cũng vậy. Pha âm pha, nga âm ngã, nghĩa là nghiêng động.

Kế chế biến phục, ngày nay phần nhiều mặc ca-sa tơ lụa, dùng vải bố thí làm áo tang. Lại nói rằng: Tăng không có áo chế chỉ có vải bố hơi thô là không nghe biết. Luận Trí Độ chép: “Như lai đắp vải bố thô ca-lê”, truyền lầm đến nay, kẻ ngu mê không sửa. Lại có mũ trắng, điều bạc, giày cỏ, gậy tang giống như thói quê hèn của kẻ tục, một phen buông lung ngu tình, thấy văn đây rõ ràng sớm sửa đổi.

Thứ ba, là phép vào chùa. Trong ý lập, đầu tiên nói chùa thanh tịnh trang nghiêm. Tăng ở có hai:

  1. Mến mộ vắng vẻ liền tự tu hành.
  2. Bố thí lời dạy dỗ tức giáo hóa người.

Ở chỗ vắng không ồn ào, nhận lãnh lời dạy dỗ không được khinh mạn. Bốn câu nầy y cứ hạnh nói lên (chỗ) nơi.

Chữ thả xắp xuống là kế bày cách thức vào pháp tu, ban đầu nói điều nên làm. Hai câu trên nêu cảnh cao quý, sáu câu dưới bày lý do cầu pháp. Chữ ưng là nên như vậy. Cúi ngước là oai nghi tướng mạo. Thực hành là việc đã làm. Chữ khởi trở xuống là chỉ bày không nên làm. Đạo là giẫm lên, hình là thấy. Chẳng phải chỉ là đồng, nghĩa là không lợi ích mà có tổn. Lưu là đọa. Trong Chánh pháp, khoa đầu có năm:

  1. Vào cửa chùa.
  2. Lạy tổng thể Tam bảo, chữ Tiên trở xuống là kế lễ Phật.
  3. Khế, khế giống như khắp. Nay phần nhiều là xưng kệ khen ngợi Phật, tùy chỗ có thể nói ba lần.
  4. Chữ lễ Phật trở xuống: Lễ tổng thể ngoài của Tăng, như nay chỗ nhà chúng.
  5. Chữ nhược trở xuống: Răn nhắc giữ gìn cẩn thận, đầu tiên bày răn nhắc.

Trong chú giải, đoạn trước giải thích trên tự mất lợi hành. Tuc thuyết, nghĩa là đồng thế tục, khuyết đạo hạnh. Đoạn sau dạy tùy nghi dạy bày. Trái Tăng thì không sinh tín tâm. Thủ dị nghĩa là tìm lỗi của Tăng. Chữ kinh trở xuống là dẫn chứng chưa rõ kinh nào. Đầu tiên khiến bỏ ác, kế chỉ bày pháp đi, thuận Phật đi tức xoay bên phải, vào Tây ra Đông Phật ở bên phải ta. Vén y bày vai phải là bày có làm việc. Đi ngược là xoay bên trái, ngược với trên rất dễ biết. Duyên ngại nhiễu bên trái là chỉ bày quyền khai, nghĩa là hướng Tây có ngại thì ngược

lại từ hướng Đông mà vào, Phật ở bên trái ta rất trái việc hầu hạ cho nên nay giữ nguyên tưởng như bên phải không khác thì khỏi lỗi. Vào ra hướng về Phật là nhờ sự mà bày tâm, quy y không trái.

Khoa kế, đầu tiên niệm Tam bảo. Phật và Tăng là năng giác, nhân quả tuy chia mà giác ngộ đạo đồng, cho nên nói là một thể. Đạo tức nguồn quả, Chư Phật là bổn tâm của chúng sinh tột chứng gọi là Phật, mới học gọi là Tăng, Tăng hiện tại học pháp, thẳng đến quả Phật, nếu vậy đối đãi với tăng đâu cho khinh lờn.

Trong chú giải, đầu tiên dạy niệm Tăng thì Tam bảo đầy đủ, chữ kim trở xuống là kế khiến niệm mình không khác với Tăng, còn tôn trọng mình đâu dám khinh mạn người. Chữ để trở xuống là kế lìa các lỗi. Hai câu đầu là bỏ kiêu mạn, hai câu kế là ngăn giết hại, một câu sau là lìa xúc chạm dơ uế, đều là nương việc bày pháp, như chú giải đã hiển bày. Chữ đương trở xuống là thứ ba tu tịnh phước, biểu đối cũng như chú giải.

Trong thứ ba có năm pháp. Ban đầu hộ hủy tổn chú giải nói là: “Người khác cúng”, tức ngọa cụ v.v… đều là của người thí cho. Thiện Phẩm tức tự thân kham nhận đạo. Chữ tinh trở xuống là trừ sự chọc ghẹo. Chữ Sa-môn trở xuống là không nằm trước. Chữ hựu trở xuống là kính chỗ tăng ngồi, nêu dụ để dẫn chứng, tìm văn sẽ rõ. Trong kinh tức kinh Bảo Ấn Thủ, lại kinh Văn-thù Vấn chép: Chết ngồi trên giường sắt. Chữ nhược trở xuống là không đứng dậy sau.

Trong bác bỏ phi, văn đầu tiên là duyên vào đạo, là do gốc lành phát khởi. Nhân Tịnh độ là tâm thanh tịnh. Xa lìa xung đột vì mong giải thoát. Điệt tức là triệt là dấu xe đi.

Khoa kế, ban đầu bày không biết. Cẩn dụ như lược. Không hiểu ý pháp là gồm mê ba phần trên. Đều không v.v… trở xuống hai câu là trái với nhân duyên trên. Ruộng phước cúng dường là xa lìa xung đột ở trên. Trong chú giải nói chẳng phải hoàn toàn không ấy là không che đây có tin. Chữ đa trở xuống là nêu phi pháp, có ba tiết: Đầu tiên là bày vô trí tạo nghiệp, trước bác bỏ nhóm họp, ngày nay phần nhiều như vậy. Chữ hựu… trở xuống là bác bỏ xâm hủy. Đồ lục là âm mưu làm hại. Đê đột là xúc phạm. Buông lung ngoan độn ngu si là không sợ nhân quả. Chữ hoặc trở xuống là bác bỏ quy tắc hạn hẹp. Chữ cụ trở xuống là gồm bày nhân quả.

Hai, là nói có trí được lợi lớn.

Ba, dẫn kinh hợp chứng, văn kinh đều dụ, v.v… trở xuống là nói suy lợi tức hợp ruộng vườn, tật lê có gai như cũ ấu mà nhỏ, cảnh trước 8 là chùa tăng.

Trong pháp nữ nhân, đầu tiên chỉ đồng. Chữ duy trở xuống là bày khác, lại có hai: Ban đầu là chỉ lỗi. Giả là hư giả. Bài là thôi bày, là lôi kéo. Đãng nghĩa là buông lung xúc chạm. Chữ tất trở xuống là bày pháp. Ngại tuyệt nghĩa là lệ thuộc người, không được tự tại. Bỉ là nhàm xấu, điệu là hối hận, kính Sa-di là sợ người cho là chưa thọ giới cụ túc thì không cung kính cho nên chú rõ rất dễ biết.

Trong phần nêu pháp chùa, ban đầu kết trước. Chữ sở trở xuống là chánh chỉ bày, trước dạy lễ trì. Chữ phàm trở xuống là dạy xả thí. Kim cương là vật báu cứng bén, già-lam là chỗ phước nghiệp cho nên ví dụ. Kế, trong yếu thuật, văn đầu tiên chỉ Trung quốc là trước nói là Kỳ-hoàn cựu pháp.

Trong phần chánh chỉ bày, văn đầu tiên trước nêu đạo tục giúp nhau. Duyên tu đạo là nhờ ngoại hộ kia, sinh cảnh lành, phước trí từ đó sinh. Chữ xuất gia trở xuống là kế nói kính hộ lẫn nhau. Ban đầu đạo cần nhiếp tục. Bốn bối là trời, người, rồng, quỷ. U là chung ba đường, hiển thì chỉ có loài người.

Khoa kế, đầu tiên là bày chúng đạo, chí đi xa kém. Chữ trí trở xuống là kế dạy kẻ tục giữ chí hành xả. Trọn chiếu là rất hiểu không trách ngày nay. Xa độ là đại lượng không thấy lỗi nhỏ. Lược là lược bày. Chữ sở trở xuống là bày chốn u linh đồng giúp. Khắc là cứu. Khắc chiếu đều là tâm trời, rồng. Trọn xa là chí xuất gia, như trong Cảm Thông truyện, Vị trời bảo Tổ sư rằng: “Các nước Thiên-trúc không bằng xứ nầy, xứ nầy (Trung Hoa) phạm giới rất hổ thẹn, ở trong tuy xâm phạm mà bên ngoài vẫn giữ gìn cẩn thận, khiến các vị trời thấy một điều lành của kia mà quên trăm lỗi. Nếu thấy tạo tội đều khóc lóc, đều giữ gìn không để ma não hại.” Chữ kim trở xuống là bác bỏ phàm tục thường chê bai. Ban đầu bày sự ngu mê kia. Chữ tự trở xuống là nêu lỗi lầm, câu trên chướng Thánh đạo, hai câu kế là mất lợi lành, hai câu sau là vời lấy quả báo khổ. Chữ khả vị trở xuống là kết khen.

Trong phần ba, đầu tiên là chánh nói, đây tức chuyển giải thích khoa trên không nhận lời giáo hóa. Chữ như trở xuống là dụ rõ. Anh nhi tức dụ kẻ tục ngu, tức trước gọi là trẻ con ngu si (có chỗ đem trẻ con dụ cho Tỳ-kheo là sai).

Trong phần dặn dò, chợt xem thế văn dường như chung cả một thiên, xét kỹ ý văn thì kết thúc khoa nầy.

Thiên giải thích chủ khách.

Ở lâu gọi là chủ, chợt qua gọi là khách. Nếu đối ba cõi thì không có chủ khác, nay trông già-lam đều là lâu, tạm gượng chia chủ khác để nói sự đãi ngộ. Nhưng y cứ trong luật chế chủ đãi khách, chỉ là chủ cần tiếp khách, khác đến có lễ vật, cho nên nói rằng đãi nhau.

Trong ý chế, hai câu đầu nêu xuất gia hơn ở thế tục vì không lệ thuộc người như khách. Hai câu kế nói du phương phiêu bạc, chỗ nào cũng tạm dừng được, tức dùng chùa viện so với quán trọ, nghĩa là đồng như nhà tiếp khách, đã không nhất định dừng nghĩa phải đón rước tiếp đải cho nên nói rằng tạm ở lại đây. Chữ cố trở xuống là nói chế. Khúc tức vốn cong, v.v… Sinh khởi ở văn sau.

Trong khoa đầu, trước nói khách đến vào chùa, sau nói cựu trụ (chủ) đón rước khách. Biết tháp Phật v.v… hoặc hỏi người hoặc tự mình thấy. Đến cửa nên mở là không khóa cho phép tự mở, nếu không thể tức trái với trên. Trong đây ngày đêm không đóng cửa, nên việc cũng rất ít. Dưới tường là chỗ thấp. Bước vào, phương nầy đẽ kỵ chưa thể nương dùng.

Khoa kế, luật Tứ Phần ban đầu cầu phòng xá, tự nói tuổi để biết trên dưới. Có gì thì chủ cấp cho. Thuốc viên, nêu lên không bỏ vật báo đặc biệt, nêu đến việc nhỏ để lệ thứ khác. Kế là hỏi chỗ, luật Ngũ Phần nói không ngũ là ngăn nạn.

Trong phần ba, luật Tứ Phần lễ tăng, chỉ ở bốn tòa để thành chúng, còn tòa khác không lễ vì e nhọc phiền. Suy nghĩ là thiền định, lễ tụng lại đồng. Luật Thật tụng nói khi thấy nghĩa là chớ gần.

Trong phần bốn, văn đầu tiên trước hỏi nơi pháp thực. chữ hựu trở xuống là kế hỏi lợi dưỡng có sáu. Tăng sai là Tăng thứ. Đàn-việt đưa đồ ăn nghĩa là đem đồ ăn vào chùa, mười lăm tháng tám tức sáu ngày trai, nhiều người bày đồ cúng (Nghiệp Sớ chép: Hắc, bạch có ba ngày, văn thiếu ngày mười bốn). Tháng giêng nước kia xem trọng, cũng có nhiều người sắm sửa cúng dường. Đàn-việt thỉnh tức là thỉnh riêng (xưa nói rằng tăng thứ là sai). Ba, là hỏi người, súc, đều y cứ nhà thế tục.

Khoa kế, đầu tiên bày Tăng chế, chữ nhược trở xuống là nói trải chiếu giữ khách, không nói biết là sợ đuổi bạn, cho nên vẫn an vui. Cấp lương thực là y cứ nêu ra mình, chắc chắn phải thường trụ.

Trong phần ba, mười việc cho ấy, hai việc trước cho vật, tám việc sau cho lời. Tập tục là phong tục nên làm, tăng dạy khiến tùy phương chế độ. Sự ấy có thể ăn, sự là vật. Trong pháp phụ, khoa đầu, hai câu trên là bày công phu của giáo pháp để có thể thành thiện. Có do nghĩa là do ở dạy. Hai câu kế là nói sự cao quý của oai nghi để có thể thành nhân cảm quả. Minh nhân là tâm nghiệp chưa bày. Hiển quả là báo tướng có thể thấy. Tông là gốc, chữ thị dĩ trở xuống là dẫn chứng. A-thuyết cũng nói là A-thuyết-thị, Hán dịch là Mã Thắng, theo Phật thọ học mới có bảy ngày đã đầy đủ oai nghi, do năm trăm đời trước làm con vượn, nên nay vẫn còn lăng xăng, xuất gia bảy ngày liền sửa thói cũ, dùng oai nghi ngộ vật nên gọi là oai nghi bậc nhất. Ngài Thân Tử và Mục-liên là bạn cùng ước hẹn rằng nếu được cam lộ quyết cùng nhau nếm, sau Thân Tử gặp ngài Mã Thắng oai nghi khoan thai bèn hỏi: thầy ông là ai, và nói pháp gì? Đáp: Pháp từ duyên sinh, cũng theo duyên diệt, tất cả các pháp là không, chẳng có chủ, (ở đây y theo luật Ngũ Phần dẫn, hoặc có nêu rằng “Các pháp từ duyên sinh cũng theo duyên diệt, Phật ta là Đại Sa-môn thường nói như vậy”). Thân Tử nghe rồi liền chứng Sơ quả, kế truyền đến Mục-liên cũng chứng Sơ quả, sau cùng Mã-thắng đến Phật xin xuất gia. Truyền pháp… tức Ngũ Tổ Ưu-ba-cúc-đa, oai nghi nghiêm túc, chúng sinh đều theo sự giáo hóa của Ngài, như Phật chẳng khác, chỉ không có tướng tốt, người thời bấy giờ gọi là Vô Tướng Hảo Phật (giống Phật mà không có tướng tốt như Phật).

Lại Tổ thứ hai mươi là Xà-dạ-đa, khéo giữ oai nghi, ai thấy cũng cung kính, được Phật thọ ký. Xà-dạ-đa là Luật sư rốt sau, cho nên biết Tổ truyền chung đều dùng oai nghi khiến chúng sinh sinh tâm lành. Phương san tức Phó Pháp Tạng truyện. Chữ Cố trở xuống là kết trước khởi sau.

Trong phần nêu bày, văn đầu tiên là luật Ngũ Phần, nói oai nghi giáo hóa chúng sinh công rất sâu, thiếu thì hai lợi (Tự và tha) đều mất cho nên chẳng phải rất rõ hay sao? Luật Tăng-kỳ nói hành pháp, ngó thẳng là đầu không cúi ngước, nên xoay thân không nên xoay cổ. Trung A-hàm đầu tiên là riêng bày hành pháp, nối tiếp luật Tăng-kỳ ở trên. Thú vương tức sư tử và voi đầu đàn. Chữ nhược trở xuống là chung rõ bốn nghi, đầu tiên nói vào xóm làng tức bày hành pháp. Chỗ vô sự tức A-lan-nhã, hợp nói cách ăn, văn thấy trong pháp Đầu-đà. Chữ hoặc trở xuống, là nói hai cách đứng và ngồi, chữ ư trung trở xuống là nói cách nằm đầu mặt hướng về tượng không xoay lưng lại, là tưởng tướng sáng không bị ngủ mê. Pháp nằm của luật Tăng-kỳ phần nhiều giống như trên, văn lại chỉ rõ đầu hướng là không giống, vì ca-sa và sư trưởng đều tôn quý. Ngậm miệng chống, đoạn tâm dễ định, niệm tuệ tu quán hạnh không tạm quên. Chỉ như trên ý tức tưởng nói tướng v.v… luật Thập Tụng nói đèn không nằm vì sợ lộ hình.

Trong phần nêu hạnh, khoa đầu tiên trước nói dọn sạch. Tuỳ tướng là chỗ che trong giới trải vật của tăng. Chữ khứ thời trở xuống là nói thưa bảo. Chữ hậu khứ thời trở xuống là nói quán phương lượng bạn, lợi suy nghĩa là có ích và vô ích, thời nói là phải nói liền nói. Nếu có trở xuống là nói pháp tạm ở sau lại đi. Hạ tọa bị bịnh trở xuống là nói cách lo liệu khi gặp bịnh, Thượng tọa có bịnh lẽ ra nên chăm sóc, chi rõ hạ tọa vì sợ mà bỏ. Được thoát nghĩa là sai tổn.

Khoa kế ban đầu nói cách làm, trước ngón sau gót là tướng tiện. Thứ tư trở xuống là nói chỗ tìm. Bửa ăn trước là tiểu thực, bữa ăn sau là giữa ngày thọ trai. Phải thưa vào là do tìm đồ ăn đêm quyết vào nhà thế tục.

Trong thứ ba, rỏ ràng là thô bạo vì nhất tâm lìa tạp niệm. Quán địa hai ý là chỉ và tác. Bồ tát bất thối xưa nói là Sơ địa trở lên.

Trong ngồi nằm, khoa đầu, luật Tăng-kỳ trước nói cách ngồi. Lạc trì nghĩa là hai gối trụ đất, nói rõ pháp nằm, nghĩa là tướng mạn, nằm sấp là tướng đói, nằm hông trái là tướng dâm, nằm hông phải là đúng như pháp. Chỉ ba mươi lăm là kia nói rằng “Nên như Sư tử đầu đàn thuận hông phải mà nằm”, nếu hông phải có mụt ghẻ thì không tội, không như vậy thì trái oai nghi. Thêm một, tay tiếp xuôi, kia do ngoại đạo rút bỏ giường cho nên chế (lịch âm lịch, nay là giường nhiếp) luật Thập Tụng chế ban ngày nằm là bị bịnh nên khai. Mắt mừng khiến kinh hành là trừ hôn tư. Luật Thiện Kiến ban đầu chế buộc niệm, Tam Bảo, giới, thì, thiên là sáu niệm. Dưới nói ngồi quì đều hai, thiền quán ngồi kiết già, uống ăn ngồi xổm, Ni phải quì thằng, đều chung cho tăng, tăng chế hỗ quỳ thì không chung cho Ni, cho nên chú thích “có chỗ đứng riêng”.

Khoa đầu trong hạnh riêng, Tam Thiên oai nghi nói ngồi xổm. Tréo chân phải trái, tréo là lỗi cả hai. Thụ là gót hướng lên trên, ngồi xổm nghĩa trái với hướng về phía. Trạo sao là lay động. Thi trụ nghĩa là một chân chống đất, một chân giơ thẳng về trước. Thượng túc là giơ một chân.

Kế nói năm việc nên chung cả hai cách ngồi. Không y cứ theo trước, nghĩa là hai tay chỏi giường. Mẫu Luận nói ngồi kiết già. Chữ kiểm nên viết kiểm. Khoa kế trong Tam Thiên oai nghi, không ngồi chung với thầy, không vượt quyền người trên. Luật Thập Tụng ban đầu chế khởi tha là ỷ mình lăng nhục người. Chữ nãi trở xuống là kế chế lạm xuống.

Trong phần ba, ban đầu nói cách nằm. Khước cứ nghĩa là lui thân mà ngồi. Khiếm âm khiếm, mở miệng bày hỏi. Tra khứ thinh, là than thở. Bầy chó nghĩa là ỷ nhau. Khởi do thời tiết là nghĩ minh tướng nên tâm khởi. Đáng trách nghĩa là các niệm biếng nhác, ham ngủ. Chữ hựu trở xuống là kế nói về pháp vào chúng. Di là lưu.

Trong cách nằm, luật Thiện Kiến nói niệm khởi, Tam thiên nói về tướng nằm. Luận Tỳ-ni Mẫu răn ham ngủ. Hai thời là đầu hôm và gần sáng, một thời là nửa đêm. Luật Tăng-kỳ cấm dậy muộn, chú giải chỉ cho thuyết trước tức nằm hông bên phải, sau là xếp chân, ngậm miệng, v.v…