Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VI. ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN ĐỆ NHỊ
(TT)

Hóa hiện kỳ thân, do như điện quang(Hóa hiện thân mình, ví như ánh chớp): Câu này hoàn toàn cùng với phía trước chiếu ứng lẫn nhau. “Hóa hiện kỳ thân” chính là thị hiện “tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp”. “Do như điện quang”, điểm này là then chốt rất quan trọng. “Điện quang” chính là nói “sinh diệt đồng thời”, cũng chính là “không sinh không diệt”, đây là thần lực rất khó nghĩ bàn! Các Đại sĩ nhằm độ chúng sinh, hóa hiện đủ loại thân tướng, thoáng nhanh như ánh chớp, đến khắp mười phương cõi nước, trên cúng dường, dưới hóa độ, bình đẳng phổ chiếu, chẳng phân biệt: ưu, liệt, thân, sơ, vật, ngã, kia, đây v.v…

Sách Hội sớ chép: “Ánh chớp gồm bốn ý nghĩa: Một là rất nhanh chóng, hai là phá tối tăm, ba là chẳng trụ, bốn là chẳng phân biệt. Bồ Tát trong một niệm, một thời, đến khắp tất cả mười phương thế giới, trên cúng dường chư Phật, dưới lợi ích quần sanh, chẳng có tướng xuất nhập, trước sau lẹ làng như ánh chớp”. Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Chữ “chẳng trụ” ở đây có nghĩa là “Không trụ tướng”, Bồ Tát độ hóa chúng sinh mà không chấp trước cái “tướng độ hóa chúng sinh”. “Không phân biệt” là “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhơn”, chúng sinh có cảm, Phật và Bồ Tát tất sẽ có ứng. Ví như cái khánh, gõ thì mới kêu; không gõ thì không kêu. “Gõ” là “Cảm”, “tiếng kêu” là “ứng”; gõ càng mạnh tiếng kêu càng lớn, âm thanh càng dài là đạo lý vậy.

Liệt ma kiến võng, giải chư triền phược(Phá tan lưới chấp, thoát dây ràng buộc): Đoạn phía trước là “tự thọ dụng” của Bồ Tát “Hóa hiện kỳ thân, do như điện quang”, là trí tuệ chân thật. Có trí tuệ chân thật mới có thể cứu giúp chúng sinh, không những chính mình không mệt mõi, trái lại càng tăng thêm Định-Tuệ. Nếu thật sự chưa vào được cảnh giới này, chớ vội giáo hóa chúng sinh, không chừng bị chúng sinh dẫn đi mất! Việc này đã xảy ra rất nhiều! “Liệt” là tiêu trừ, là phá tan; “ma”; như Trí Độ Luận giảng “Đoạt tuệ mạng, hoại đạo pháp và gốc lành công đức nên gọi là ma”. “Kiến” là cách nhìn, cách suy nghĩ, tìm cầu, quyết định v.v… bao gồm cả chánh và tà. “Ma kiến võng” (lưới “Kiến Hoặc” của ma) là tà kiến bời bời đan rối vào nhau khiến người khó thoát, giống như lưới rập nên cũng gọi là “Tà kiến võng” (lưới tà kiến).

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: “Kiến” là kiến giải; “ma kiến” là tất cả những kiến giải sai lầm, cách nhìn sai lầm, suy nghĩ sai lầm mang đến cho chúng ta vô lượng, vô biên khổ nạn. “Võng” là lưới, tỉ dụ cho nhiều, cho phức tạp. Những tư tưởng, kiến giải sai lầm của chúng ta quá nhiều, thật vô cùng phức tạp. Nhờ ân chư Phật, Bồ Tát chỉ dạy, chúng ta mới có thể xa lìa những kiến giải, tư tưởng sai lầm; mới biết sáu cõi, ba đường là hiểm đạo. Ngay trong hiểm đạo này quyết gìn giữ tự thân không bị ô nhiễm, không bị đọa lạc. Muốn được bản lĩnh này, tâm chúng ta phải luôn trong “Chánh Định”; không luận cảnh duyên thế nào, trong tâm vĩnh viễn là thanh tịnh, là tường tận, là giác chớ không mê, mới có năng lực giúp người khác, khuyên bảo người khác phá tà tri tà kiến, đây là “Liệt ma kiến võng” (Xé rách lưới Kiến Hoặc của ma).

Giải chư triền phược”: “Triền phược” là phiền não. “Triền” là quấn, trói. “Phược” là trói buộc, dùng dây thừng cột trói lại. Như vậy thì tự do đã mất! Đây là tỉ dụ.

Trong kinh Phật nói “Bát triền, tam phược:

Bát triềnlà: vô tàm, vô quý, đố kỵ, bỏn xẻn, ác tác, thùy miên, trạo cử, hôn trầm.

– “Tàm” là tự mình làm chuyện sai quấy biết tự thẹn, tự áy náy, tự lương tâm cắn rứt. Người này có lương tâm.

– “Quý” là biết hổ thẹn trước những dư luận, chỉ trích, phê bình. Người không có tàm, quý thì vấn đề sẽ trở nên trầm trọng. Họ làm chuyện xấu xa mà lương tâm họ không hề cắn rứt; người ngoài có phê bình, họ cũng mặc kệ, vậy thì vô phương! Cho nên, vô tàm, vô quý là đại phiền não nghiêm trọng. Hai chữ này dù thế hay xuất thế gian đều rất xem trọng.

– “Đố kỵ” là tâm ganh ghét cũng là phiền não nghiêm trọng.

Bỏn xẻn” là tâm keo kiệt, cái này với “tham” cùng một thứ; tự mình tiếc rẽ không muốn cho người, không muốn giúp người. “Bỏn xẻn” có thể là bỏn xẻn tài, bỏn xẻn pháp.

Ác tác”: Người thế gian thường nói chơi trò tinh nghịch, phá phách, mặc dù không cố ý nhưng những tạo tác này không phải thiện. Xã hội hiện nay có rất nhiều, họ xem những việc ác này cho là hiện tượng bình thường thì nguy to rồi! Đâu biết rằng chính ngôn ngữ, tạo tác của mình gây ra ảnh hưởng phản diện, bất thiện, tiêu cực đối với xã hội to tát đến dường nào!

– Chúng ta ngày nay niệm Phật vì sao không được nhất tâm?

– Một ngày niệm Phật vài tiếng đồng hồ, nếu xem tivi nửa tiếng thì hỏng hết cả!

Cho nên, người niệm Phật khẳng định không xem ti vi, không nghe truyền thanh, ngay đến báo chí cũng không xem thì tốt nhất. Bởi trong đó đăng tải toàn những vấn đề rối loạn của xã hội; những gì có thể xem thì chưa được nửa trang! Những sự việc này đều thuộc về “ác tác”. Muốn bảo vệ chính mình, bảo vệ tâm thanh tịnh của con em, phải dạy chúng cách ly những thứ này, chỉ có tâm thanh tịnh mới khởi sinh trí tuệ chân thật. Nếu tâm bị ô nhiễm, cho dù có thông minh cũng chỉ là tà tri tà kiến!

Thùy miên” (ham ngủ nghỉ): Có ngủ nghỉ sức khỏe và tinh thần con người mới được hồi phục. Tuy nhiên, không thể tham ngủ quá nhiều sẽ dễ bị hôn trầm, không tốt. Cho nên, đây cũng là một phiền não.

– “Trạo cử”: Là tâm bao chao, không an, không định.

– “Hôn trầm” là tinh thần không phấn chấn, lúc niệm Phật vừa ngồi xuống chỉ tịnh là ngủ gật ngay. Có người lúc đi nhiễu Phật họ cũng ngủ gục! Đây là hôn trầm không phải công

Tam phược: là tam độc phiền não “tham-si-sân”. Có những thứ này làm sao tâm được tự tại! Cho nên, phải “giải chư triền phược”. Phật pháp dạy chúng ta “chánh tri, chánh kiến”; “ma kiến” hoàn toàn tương phản với “chánh tri, chánh kiến”.

– Làm thế nào điều chỉnh quan niệm sai lầm của họ?

– Biện pháp tốt nhất là giảng kinh nói pháp khiến cho họ khai ngộ. Sự việc này không phải thời gian ngắn mà có thể làm được. Nếu họ không khai ngộ, hiểu sai ý nghĩa của Như Lai, cho dù nghe một trăm năm cũng là uổng công! Thậm chí đem kinh điển của Phật cũng biến thành “ma kiến”, việc này xảy ra rất nhiều. Người xưa gọi là “xem chữ hiểu nghĩa, ba đời chư Phật bị hàm oan!”. Đại Trí Độ Luận thường nói: “Phật pháp không người nói, có trí cũng không thể hiểu”. Người thế gian cho dù có thông minh trí tuệ, xem kinh Phật cũng không thể hiểu.

– Vì sao họ không hiểu?

– Vì kinh Phật từng câu, từng chữ đều nghĩa ở ngoài lời. Đó là chỗ khó của Phật pháp. Phật pháp là pháp giác ngộ, nếu nương theo âm thinh, văn tự mà cầu giải, nhất định không thể nào khai ngộ!

– Vì sao? Vì còn chấp tướng! Lìa tướng mới có thể khai ngộ. Khi nói pháp phải chú trọng “thiện xảo”, “xảo” là phương pháp xảo diệu, “thiện” là khiến người nghe có thể ngộ nhập, đó mới là “thiện”. Nếu người nghe không thể ngộ nhập, tuy “xảo” mà không “thiện”. Cho nên, phải giúp người nghe ngộ nhập mới được.

– Làm thế nào giúp họ ngộ nhập? Phải chăng đi tìm một người chân thật cao minh để nói pháp?

– Không phải vậy! Ngày xưa có rất nhiều người nói pháp chưa khai ngộ nhưng người nghe pháp lại ngộ rồi. Đây mới là “diệu”. Đúng như câu: “Biết nói không bằng biết nghe”.

– Bạn nghe kinh đã nhiều năm không thể ngộ nhập là do đâu?

– Bạn không biết nghe!

Người xưa xem kinh, nghe giảng rất dễ dàng thể hội. Người ngày nay tuồng như thông minh hơn người trước, nhưng nghe mấy mươi năm, thậm chí nghe cả đời vẫn không thể khai ngộ! Điểm này phải hiểu: Người xưa học Phật, không luận tại gia hay xuất gia đều có năm năm học giáo.

– Năm năm học giáo là ý nghĩa gì?

– Năm năm học giới; không phải học giới luật mà là tuân thủ răn dạy của thầy.

Ngày trước, muốn học Phật, năm năm đầu đến đạo tràng làm tạp vụ, làm những việc nặng nhọc để tu phước. Không có phước thì không được! Cho nên, năm năm đầu tu phước lẫn tu tuệ, “Phước tuệ song tu”.

– “Tuệ” thì tu như thế nào?

– “Tuệ” là tu “căn bản trí”!

– Năm năm dạy bạn cái gì ?

– Dạy bạn “vô tri”, giúp tâm bạn định lại.

Trong Thiền tông dùng phương pháp “tham cứu” nhằm ngăn chặn tất cả những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước trong tâm bạn. “Giáo hạ” thì dạy bạn đọc kinh. Mỗi tông phái, mỗi đạo tràng cách học không như nhau. Sau khi hoàn tất công việc, bạn phải mau tranh thủ học thuộc kinh. Cho nên, trong giảng đường không có chỗ ngồi cho bạn, bạn không thể nghe kinh! Trong thiền đường cũng không có chỗ ngồi cho bạn! Năm năm đầu chỉ là phục vụ đại chúng, sau năm năm bạn mới có tư cách đến giảng đường nghe kinh hoặc đến thiền đường để tham thiền.

Tóm lại, năm năm đầu “tu phước” chính là xả thân vì thường trụ, nỗ lực làm việc, chăm sóc sự đi lại, sinh hoạt của đại chúng; “tu tuệ” là học thuộc kinh điển, hoàn toàn học thuộc lòng, không có giảng giải. “Học thuộc” là “Giới-Định-Tuệ” tam học, giúp tâm bạn Định không khởi vọng tưởng, nếu có vọng tưởng sẽ không thể nào học thuộc. Dùng phương pháp này để tu “căn bản trí”. Có được nền tảng năm năm như vậy, sau đó đến giảng đường nghe giảng kinh, mới có thể khai ngộ.

Người hiện tại đã bỏ mất đi nền tảng này! Hơn nữa, vừa tiếp xúc Phật pháp, họ liền nghe rất nhiều người giảng, xem qua rất nhiều tư liệu khác nhau, khiến đầu óc họ rối tung hồ đồ đến mê hoặc! Cho nên, người khai ngộ hiện nay không có! Hiện tại, chúng ta không phải “liệt ma kiến võng” mà là “đọa ma kiến võng”, sa vào lưới ma, không thể ra khỏi!

Tôi nghĩ: Ở Niệm Phật Đường này, chúng ta cố gắng niệm Phật cho tốt trong ba năm, sau mới đến nghe giảng kinh, đây là chiếu theo qui củ để làm. Thế nhưng, hiện tại nếu áp dụng như vậy, e rằng sau ba năm niệm Phật, đến sau cùng mọi người đều chạy hết! Cho nên, chúng ta phải ngày ngày khuyên nhủ, phải đem lợi ích thù thắng này giải thích tường tận cho mọi người hiểu, khiến họ mới phát tâm, sinh tâm hoan hỉ ở Niệm Phật Đường chí tâm niệm Phật. Do vậy, trong giai đoạn mở đầu, giảng kinh vẫn là điều rất cần thiết.

Viễn siêu Thanh Văn, Bích Chi Phật địa, nhập Không, Vô Tướng, Vô Nguyện pháp môn, thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa(Vượt xa địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, nhập pháp môn “Không, Vô Tướng, Vô Nguyện”, khéo lập phương tiện, hiển thị tam thừa). Đây cũng là tướng thứ bảy “chuyển pháp luân” trong tám tướng thành đạo.

Viễn siêu Thanh Văn, Bích Chi Phật địa”. Hai câu này khen ngợi “thật Đức” của các Đại sĩ trong hội, “sở giác” (những điều các ngài giác ngộ) thù thắng, vượt xa địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật. Theo sách chú giải của cụ Hoàng:

Thanh Văn” (Sravaka) là đệ tử Phật theo pháp Tiểu thừa, nghe giáo pháp của Phật mà ngộ lý Tứ Đế. Họ đã đoạn được hai “Hoặc”: Kiến và Tư, thoát khỏi “Phần đoạn sinh tử” nhập Niết Bàn (“Phần đoạn sinh tử” còn gọi là “Hữu vi sinh tử” là sự sinh tử của phàm phu trong tam giới. Do quả báo từ nghiệp thiện hay ác khác nhau mà có hình mạo, thọ lượng khác nhau. Do thân mạng có dài, ngắn khác nhau nên gọi là “Phần đoạn”).

Tịnh Ảnh Sớ nói: “Ngôn giáo của Đức Phật thuyết gọi là Thanh. Nghe tiếng giải ngộ nên gọi là Thanh Văn”.

Bích Chi Phật” (Pratyekabuddha): “Bích Chi” (Pratyeka) là tiếng Phạn; Hán dịch là nhân duyên . “Phật” nghĩa là “giác”. Cựu dịch Bích Chi Phật là Duyên Giác; tân dịch là “Độc Giác”.

Theo “Đại Thừa Nghĩa Chương”, Duyên Giác có hai   cách hiểu:

– Một là quán mười hai nhân duyên, đoạn Hoặc chứng Chân, từ duyên mà giác ngộ nên gọi là Duyên Giác.

– Hai là do các duyên sự tướng của ngoại giới như gió thổi cây động v.v… mà được giác ngộ nên bảo là Duyên Giác.

Tông Thiên Thai lại phân chia hai danh từ này như sau:

– Ra đời gặp nhằm lúc Phật xuất hiện, quán mười hai nhân duyên được giác ngộ là Duyên Giác.

– Ra đời nhằm lúc không có Phật, thấy ngoại duyên: gió thổi cây động, lá rụng, hoa bay v.v… mà giác ngộ là Độc Giác.

Hai thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật nói trên đều là bậc hạ căn trong hàng đệ tử Phật.

Nay các Đại sĩ đây vượt xa hơn họ như Sách Bình Giải nói: “Nhị Thừa tuy đắc ba Không môn, nhưng chìm đắm nơi Thiên Không. Bồ Tát chẳng giống như vậy, thấu đạt lưới huyễn, đắc pháp bình đẳng. Vì vậy, tuy trụ ba Không môn mà chẳng trụ vô vi, cho nên dẫu làm Thanh Văn, làm Duyên Giác lại siêu việt địa vị Thanh Văn, Duyên Giác”.

Kinh Đại Bảo Tích, pháp hội Thiện Đức Thiên Tử có chép : “Dĩ Thanh Văn pháp giáo hóa chúng sinh, cố ngã thị Thanh Văn. Dĩ Bích Chi Phật pháp hóa ích chúng sinh, cố ngã thị Bích Chi Phật dã. Dĩ đại bi pháp giáo hóa chúng sinh, cố ngã thị Bồ Tát. Ư nhất thiết pháp đắc giải thoát, nhất thiết vô ngại cố. Tùng sở hóa chúng sinh, hoặc dĩ Thanh Văn pháp hóa ích, hoặc dĩ Bích Chi Phật pháp hóa ích, hoặc dĩ Bồ Tát pháp hóa ích. Cố ngã thị Thanh Văn, ngã thị Duyên Giác, ngã thị Bồ Tát dã”. (Dùng pháp Thanh Văn giáo hóa chúng sinh nên ta là Thanh Văn. Dùng pháp Bích Chi Phật giáo hóa, tạo lợi ích cho chúng sinh nên ta là Bích Chi Phật. Dùng pháp đại bi giáo hóa chúng sinh nên ta là Bồ Tát. Trong hết thảy pháp được giải thoát vì hết thảy vô ngại. Đối với chúng sinh được ta hóa độ, hoặc dùng pháp Thanh Văn giáo hóa để làm lợi ích, hoặc dùng pháp Bích Chi Phật giáo hóa để làm lợi ích, hoặc dùng pháp Bồ Tát giáo hóa để làm lợi ích, nên ta là Thanh Văn, ta là Duyên Giác, ta là Bồ Tát).

Câu này nói đến phương tiện khéo léo của các Đại sĩ; tùy cơ độ sinh, thị hiện làm Nhị Thừa, chẳng bỏ hình tướng Thanh Văn, Bích Chi Phật nên bảo là “viễn siêu” (vượt xa). Chữ ‘địa’ trong chánh kinh là địa vị, là cảnh giới.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Trong cách nhìn của phàm phu, Thanh Văn là thánh nhân, họ có năng lực siêu việt sáu cõi luân hồi. Tuy nhiên, nếu so họ với Bồ Tát thì cự ly này còn kém rất xa! Cho nên, trong Phật pháp Đại Thừa, Thế Tôn thường quở trách hàng Tiểu Thừa, cũng chính là khuyến khích họ bỏ “Tiểu” hướng “Đại”. Nhất định sớm muộn gì họ cũng sẽ quay đầu. Duyên Giác hay Bích Chi Phật quay đầu có phần nhanh hơn A-la-hán vì căn tánh của họ bén nhạy. Lại nữa cơ duyên gặp được Đại Thừa, gặp được thiện tri thức của mỗi người cũng không giống nhau.

Tiểu Thừa so với Bồ Tát: Người Tiểu Thừa không chủ động đi giúp người khác, không “làm bạn không mời của tất cả chúng sinh” như phía sau đoạn kinh này nói. Việc này Tiểu Thừa nhất định không làm được! Không phải họ không độ chúng sinh; nếu bạn cần đến họ, họ phải quán xét xem thiện căn, duyên phận của bạn thế nào mới ra tay giúp bạn. Không như Bồ Tát, dùng tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, không phân biệt, không chấp trước; điểm này về mặt đức hạnh, Tiểu Thừa không thể sánh với Bồ Tát. Đương nhiên, sức định, đạo lực, trí tuệ của họ cũng không thể sánh bằng Bồ Tát, tuy rằng công phu đoạn chứng của Bồ Tát cũng y như họ.

Trong Đại Kinh nói “Bồ Tát viên giáo Thất Tín vị” đoạn “kiến, tư phiền não”; A-la-hán cũng đoạn “kiến tư phiền não” công phu của họ giống nhau nhưng thần thông, đạo lực, trí tuệ, thiền định của “Bồ Tát Thất Tín vị” cao hơn A-la-hán rất nhiều. Đạo lý này cũng dễ hiểu vì tâm lượng của Bồ Tát lớn hơn nhiều so với tâm lượng của A-la-hán!

Trên Kinh Hoa Nghiêm nói: Vào thời mạt pháp, người đương cơ là “Đại tâm phàm phu”. “Đại tâm phàm phu” còn vượt trội hơn Thanh Văn, Duyên Giác. Vì sao? Vì Thanh Văn, Duyên Giác không có cơ duyên tu học Đại Thừa như Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa v.v…, họ không có phần! Không phải Phật không bình đẳng mà chính họ không tin tưởng, không tiếp nhận! Điểm này họ thua xa “Đại tâm phàm phu”. Gọi là phàm phu, vì một phẩm vô minh, phiền não họ cũng chưa đoạn. Tuy nhiên, nếu luận về tâm lượng, về kiến giải, chân thật “Đại tâm phàm phu” siêu việt hơn Tiểu Thừa, Thanh Văn, Duyên Giác. Đây là tán thán đối với những Bồ Tát dự hội này siêu việt rất xa hàng Nhị Thừa. Câu phía sau là chứng nhập tam-muội.

“Nhập Không, Vô Tướng, Vô Nguyện pháp môn”: còn gọi là “Tam giải thoát môn”. Chữ “Không, Vô Tướng, Vô Nguyện” được Tịnh Ảnh Sớ giảng như sau: “Chúng sinh và pháp đều không có tự tánh nên gọi là Không. Cho đến nhân duyên cũng chẳng có tướng nên bảo là Vô Tướng. Do vượt khỏi cái “bị lấy” (sở thủ), xa lìa tâm chấp lấy nên bảo là Vô Nguyện”. Đại, Tiểu Thừa đều có “Vô Nguyện”, có kinh gọi là “Vô Tác”, ý nghĩa như nhau. “Tam giải thoát môn”, ba cánh cửa này có thể giúp bạn chứng đạo, thông đạt vô ngại, chứng được chư pháp thật tướng.

Trong Tiểu Thừa nói: Bạn có thể vượt thoát sáu cõi luân hồi, nhất định là từ trong ba pháp môn này mà thành tựu. Trong Đại Thừa pháp nói: Ba pháp môn này có thể giúp bạn siêu việt mười pháp giới chứng được “Pháp giới nhất chân”. Cho nên, Tam giải thoát mônthông cả Đại, Tiểu Thừa; danh tướng tuy như nhau nhưng cảnh giới thì không giống nhau. Thí dụ nói: “Không môn”, người Tiểu Thừa chứng được “Ngã không” nên siêu việt sáu cõi; người Đại Thừa chứng được “Ngã không” và “Pháp không” nên siêu việt mười pháp giới, có thể chứng được “pháp giới Nhất Chân”.

“Cửa Không” là từ tự tánh. Từ trên lý thể tất cả vạn sự vạn vật mà nói “tướng có tánh không, sự có lý không”. Họ có thể từ tướng thấy được tánh, từ sự có thể quan sát được lý. Họ chân thật tường tận được sự tướng là huyễn hóa, như trên Kinh Kim Cang nói: “mộng, huyễn, bào, ảnh”. Cái tướng này là giả tướng không phải thật tướng, là sát-na sinh diệt, không thực tại. Từ nơi cửa này, phương pháp này mà ngộ nhập, thoát ly sinh tử, siêu vượt ba cõi, đó chính là từ “cửa Không” mà chứng đạo.

Thiền tông Trung Quốc và “Pháp Tướng tông” là từ cửa này vào. Cách này rất khó! Chúng ta ngày nay dù niệm cách nào cũng không vào được! Nếu không vào được thì vào cửa thứ hai là cửa “Vô Tướng”. “Tướng” là “Hữu môn”, có thể từ “Hữu môn” mà vào.

– Đã “Hữu” vì sao gọi là “Vô Tướng”?

– Bởi tướng là duyên sinh. Kinh Bát Nhã nói: “Vạn pháp duyên sinh”, phàm hễ pháp do nhân duyên sinh đều không có tự tánh. Từ chỗ này tỉ mỉ mà quan sát, thấy được tướng là giả tướng. Nếu chân thật thấy được tất cả tướng đều là giả tướng thì bạn đã nhìn thấu, thông đạt, tự nhiên có thể buông bỏ, không còn chấp trước, liền siêu việt sáu cõi, vào được cửa “Vô Tướng”.

Nếu không vào được cửa “Vô Tướng” phải vào cửa thứ ba là cửa “Vô Nguyện” cũng gọi là cửa “Vô Tác”. “Nguyện” là tạo tác, “Vô Nguyện” là không có bất cứ tạo tác nào. Nên nhớ! Không tạo tác ở đây là chỉ cho tâm không khởi động niệm, chẳng phải bảo bạn thân không tạo tác. Nếu thân không tạo tác, thử hỏi bạn có ăn uống, ngủ nghỉ, đi đứng làm việc hay không? Nếu có thì vẫn là tạo tác, làm sao nói không tạo tác được!

Cho nên làm bất cứ công việc gì mà không khởi tâm động niệm, không chấp trước đó gọi là không tạo tác. Cho thấy việc này cũng không dễ! Suy cùng nghĩ cạn, tám vạn bốn ngàn pháp môn, ba cánh cửa giải thoát tuyệt hay nhưng rất khó vào! May thay! Có Pháp môn Niệm Phật, cửa này thì được! Đây là “lão thật niệm Phật”, điều mà trong Kinh Vô Lượng Thọ nói, bao hàm hết thảy Pháp môn, chân thật là “nhất tu nhất thiết tu” (một tu thì tất cả đều tu).

Trong Phật pháp, việc thứ nhất chính là dạy bạn phát nguyện, không có nguyện làm sao có thể thành công! Có đồng tu hỏi tôi:

– Phàm làm việc tốt mà không cầu bất cứ thứ gì đó mới chân thật là việc tốt.

– Lời nói này tuy không sai, nhưng trên thực tế: Như đúng mà sai! Bạn không mong cầu nhưng bạn có thật đạt đến không mong cầu chăng?! Bụng đói phải ăn cơm, mệt rồi phải nghỉ ngơi, bạn vẫn có sở cầu”, sao có thể nói là “vô sở cầu!

Chân thật đạt đến “vô cầu”, đó không phải là cảnh giới của phàm phu chúng ta, mức thấp nhất phải là Pháp Thân Đại Sĩ như Kinh Hoa Nghiêm nói. Họ chân thật làm đến được “vô niệm”, còn chúng ta thì không thể nào! Cho nên, trong cảnh giới, Phật và Bồ Tát vẫn thị hiện có “sở cầu”. Đừng nói là Bồ Tát Viên Sơ Trụ, Bồ Tát Đẳng Giác , Như Lai thừa nguyện tái lai, đến giúp chúng sinh cũng phải thị hiện phát nguyện. Thích Ca Mâu Ni Phật há chẳng thị hiện tám tướng thành đạo, cũng đã dạy chúng ta phát “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”, hay sao? A Di Đà Phật phát bốn mươi tám nguyện mới có thể viên mãn thành tựu được thế giới Tây Phương Cực Lạc. Cho nên văn tự trong đây nhất định phải hiểu cho tường tận, nếu chỉ nhìn văn hiểu nghĩa thì ba đời chư Phật đều bị hàm oan!

“Vô Nguyện” ở đây là nói lìa tâm năng sở (như Tịnh Ảnh Sớ nói : vượt khỏi cái bị lấy” (Sở thủ) , xa lìa “tâm chấp lấy” (năng thủ), cái nguyện này mới gọi là nguyện chân thật. Người thế gian đều có nguyện vọng, nhưng nguyện vọng của họ không bền bỉ, nếu gặp duyên, họ lại thoái tâm là do nguyên nhân gì? Bởi nguyện của họ phát ra từ vọng tâm, không phải từ chân tâm. Từ vọng tâm thì có phân biệt, có chấp trước, có tạo tác. Chân thật phát nguyện thì không có điều kiện.

Chư Phật Như Lai “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”, chính là không có điều kiện, đối với tất cả chúng sinh hữu tình, vô tình đều quan tâm, thanh tịnh bình đẳng, thương yêu bình đẳng. Phàm hễ có điều kiện đều là giả, đều không thật. Có điều kiện là có năng, có sở; năng và sở là hai pháp.

Lục Tổ Huệ Năng nói: “Hai pháp thì không phải Phật pháp; Phật pháp là không hai”. Có thể đoạn dứt hai bên năng, sở, đó mới gọi là “Vô Nguyện”, mới gọi là “Vô Tác”.

Trong kinh thường nói: “Thập phương nhất thiết Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân”, mười phương tất cả Phật bao gồm cả chúng ta trong đó, việc này nói lên tất cả pháp đều đồng một thể (cộng đồng nhất Pháp Thân). Thế nên lòng từ bi của Phật, Bồ Tát là “đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”. Phàm phu mê là mê ở việc này; chư Phật, Bồ Tát giác ngộ cũng từ sự việc này. Tâm từ bi của các ngài không cần có bất cứ điều kiện nào, trong tâm thật sự đã giải thoát, tâm khai ý giải; cảnh giới đó mới thật sự vui sướng không gì bằng! Sau khi thông hiểu thế nào là “Vô Nguyện”, chúng ta mới thể hội được đại đức xưa nói: Làm mà không làm, không làm mà làm, đó là lìa cả hai bên, hai bên đều không chấp trước.

– A Di Đà Phật có chấp trước đối với bốn mươi tám nguyện của Ngài chăng?

– Không có! Tâm ngài thanh tịnh, không nhiễm một trần, ngài liền “Vô Nguyện”. “Hữu Nguyện” cùng “Vô Nguyện” là một không phải hai cái này tuyệt diệu! Do đây có thể biết “Vô Nguyện”, cánh cửa này thường gọi là “Pháp môn không hai”.

Tóm lại, vào đạo có ba cửa: Cửa Không (tức “Không”), cửa có (tức “Vô Tướng”), cửa không hai (tức “Vô Nguyện” hay “vô tác”). “Hai” mà “không hai”; “nguyện” mà “vô nguyện”; “vô nguyện” tức “nguyện”. Rất nhiều Bồ Tát Đại Thừa từ cửa này mà khế nhập “cảnh giới Như Lai quả địa” tức là “Pháp giới Nhất Chân”. Chúng ta tu học Tịnh Độ, sinh vào thời kỳ mạt pháp phải hiểu những đạo lý này.

Nhìn chung, “tam giải thoát môn”, chúng ta đều không thể vào được. Ba cửa này là con đường thông lộ. Hiện tại chúng ta phải mở con đường sau, không đi ba cửa này. Cho nên, Tịnh Độ tông gọi là pháp môn đặc biệt, “môn dư đại đạo”, ngoài ba cửa chính qui, vẫn còn một cửa thật đặc biệt mà rất nhiều Bồ Tát đều không biết nên gọi là pháp khó tin! Nếu nói với họ về “Không, Vô Tướng, Vô Nguyện”, họ có thể tin không hoài nghi, nhưng nếu nói “Niệm Phật vãng sinh” thì họ không tin!

Niệm Phật vãng sinh” dường như không có cửa, không có trong ba cửa này nhưng đó là pháp môn đặc biệt, riêng biệt, là “pháp ngoài cửa lớn”. Suy cùng nghĩ cạn, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, đến sau cùng qui nguyên đều không ngoài ba cánh cửa này. Đó là trên kinh Đại, Tiểu thừa thường nói. Riêng đối với Tịnh Tông, chúng ta cũng có bí quyết vào cửa.

Hiện tại chúng ta xây dựng Niệm Phật Đường. Mỗi đồng tu bước vào Niệm Phật Đường đều sinh tâm hoan hỉ, được Phật lực gia trì. Trước khi chưa bước vào Niệm Phật Đường, bạn còn hoài nghi rất khó tin tưởng: Có người hoài nghi thể lực mình không đủ, một ngày một đêm chắc không thể chịu nổi huống hồ hai ngày hai đêm càng không thể chịu nổi! Thế nhưng, sau khi bước vào Niệm Phật Đường, càng niệm càng hoan hỉ, chính mình cảm thấy thật ngoài sức tưởng tượng, thậm chí không ngờ chính mình lại có thể có được năng lực này, từ đó mà tín tâm sinh khởi; không chỉ hai ngày hai đêm mà bảy ngày bảy đêm cũng có thể được.

Làm sao biết được? Ngạn ngữ có câu người gặp việc vui tinh thần thoải mái”. Bạn bước vào Niệm Phật Đường với tâm trạng hoan hỉ thì tinh thần liền sảng khoái; nếu bước vào với tâm trạng chẳng vui thì bạn đã mất đi tinh lực phấn khởi trong khi niệm Phật. Hoan hỉ là chất bổ dưỡng tốt nhất cho sinh lý chúng ta, bất cứ dinh dưỡng nào cũng không thể sánh bằng với dinh dưỡng hoan hỉ, việc này phải biết!

Phật pháp Đại Thừa dạy chúng ta thường sinh tâm hoan hỉ. Thế nhưng, làm gì có được nhiều việc vui đến như vậy, chỉ niệm Phật mới chân thật là hoan hỉ. Hoan hỉ của niệm Phật phải chính bạn đích thân cảm thọ; không bước vào Niệm Phật Đường, bạn không thể có được cảm thọ này.

Cùng một đạo lý, người trời Sắc giới đã đoạn tuyệt tất cả mọi sự ăn uống, nhưng chẳng bao giờ nghe nói họ bị bệnh. Thử hỏi:

– Họ dùng phương cách gì để duy trì sắc thân của họ?

– Trên kinh nói: “Thiền duyệt vi thực”.

“Thực” là thí dụ cho thứ bổ dưỡng. Chúng ta phải dùng thức ăn nước uống để bồi dưỡng thân thể. Họ dùng là “thiền duyệt, an vui trong thiền định để trưởng dưỡng tự thân. Ngày nay, chúng ta ở Niệm Phật Đường Niệm Phật tam-muội, còn nồng hơn so với “thiền duyệt” của người trời Sắc giới. “Thiền duyệt” của họ thành thật mà nói, không có Phật lực gia trì! Chúng ta Niệm Phật tam-muội, không những được A-Di Đà Phật bổn nguyện gia trì, mà mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai, đều gia trì, làm sao mà không hoan hỉ chứ! Đích thật là Pháp hỉ sung mãn! Tinh thần phấn khởi trăm phần, càng niệm càng hoan hỉ! Càng niệm càng có thể lực! Nếu bạn nào sức khỏe không tốt, thường hay bị bệnh, nên thường đến Niệm Phật Đường này niệm Phật, những bệnh nhỏ đó đều sẽ tiêu hết. Chính bạn phải có niềm tin, phải biết oai thần gia trì của Phật, Bồ Tát thật không thể nghĩ bàn!

Ngày nay, chúng ta niệm Phật, hi vọng không cần quá cao, mức thấp nhất là “công phu thành khối”. Chỉ cần niệm Phật đến “công phu thành khối”, tương lai vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc nhất định nắm được phần chắc. Nói khác đi, ngay đời này bạn nắm chắc sẽ thành Phật. Trong mười phương pháp giới, chọn lựa này của bạn là thù thắng nhất. Có đồng tu đến hỏi tôi:

– “Công phu thành khối” là như thế nào?

– “Công phu thành khối” là trong tâm chỉ có nhớ Phật, niệm Phật. Ngoài nhớ Phật, niệm Phật ra, các vọng niệm khác đều không có. Sức niệm tưởng này mạnh, khiến phiền não trong tâm bị đè xuống, phiền não tuy còn đó nhưng không thể khởi tác dụng, không khởi hiện hành đó là niệm Phật được “công phu thành khối”.

Nếu lìa khỏi Niệm Phật Đường, tiếp xúc với cuộc sống thường ngày vẫn còn khởi tâm sân hận khi gặp việc không vui; vẫn khởi tâm tham đắm khi gặp việc vừa ý v.v… phải biết rằng công phu của bạn chưa đạt đến trình độ này! Công phu chân thật đạt đến thành khối, cho dù gặp bất cứ hoàn cảnh nào, tâm bạn vẫn duy trì được trạng thái bình lặng, an trụ trong cảnh giới ở Niệm Phật Đường. Trong Niệm Phật Đường, chí ít bạn phải rèn luyện tâm mình đạt đến công phu này mới xem là có thành tựu. Có đồng tu nói:

– Việc này rất khó!

– Không sai! Làm Phật đâu phải là chuyện quá dễ dàng! Sự việc này bình thường bạn phải dụng công.

– Công phu là gì?

– Nhìn thấu, buông bỏ! Cũng chính là nói đối với tất cả mọi người, mọi việc, mọi vật phải thấy nhạt đi đôi chút, không nên quá chấp trước. Phải xem: Việc lớn hóa nhỏ, việc nhỏ hóa không, không nên chấp trước từng li từng tí, thì công phu của bạn mới có lực. Nếu mọi thứ đều so đo tính toán, vậy thì rất đáng lo!

Cho nên, việc nào cũng nên xem nhẹ: Có cũng tốt! Không có cũng tốt! Thiệt thòi cũng tốt! Chịu lỗ cũng tốt! Bị chiếm tiện nghi cũng tốt! Thứ gì cũng đều tốt! Không nên tính toán, cũng không cần phải hỏi qua. Chân thật là “nhiều một việc, không bằng ít đi một việc; ít đi một việc không bằng không có việc gì”. Tất cả tùy duyên qua ngày thì tốt!

Những đồng tu lãnh đạo đạo tràng Cư Sĩ Lâm chân thật là rất hiếm có! Chúng ta ở bên cạnh quan sát khởi tâm động niệm của họ, việc làm của họ đều rất bội phục! Họ làm rất đúng pháp, rất tương ưng, đều có thể hóa nặng thành nhẹ, có thể tùy duyên mà không phan duyên. Phan duyên chính là chấp trước, nhất định phải làm như thế nào đó theo ý của mình, vậy thì sai rồi!

“Thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa” (Khéo lập phương tiện, hiển thị tam thừa): “Thiện” là khéo léo. Sách Pháp Hoa Nghĩa Sớ viết: “Phương tiện là tên khác của thiện xảo. Thiện xảo là công dụng của trí”.

Kinh Đại Tập dạy: “Năng điều chúng sinh tất linh thú hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thị danh phương tiện” (Có thể điều phục chúng sinh khiến họ qui hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì gọi là Phương tiện).

Hội Sớ cũng nói: “Kinh Niết Bàn chép: ‘Trí độ Bồ Tát mẫu, phương tiện dĩ vi phụ’ (Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của Bồ Tát, phương tiện là cha)”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Phật pháp chú trọng “khế lý” và “khế cơ”. “Khế lý”, nhất định phải tương ưng với tánh đức, trí tuệ đức năng đầy đủ trong tự tánh. Câu phía trước “Không, Vô Tướng, Vô Nguyện” đó là tánh đức, nếu tương ưng với chỗ này “thiện lập phương tiện hiển thị tam thừa” thì họ liền siêu việt. Cũng thế, pháp môn Niệm Phật có thể tương ưng với “Nguyện” của Phật, cụ thể là bốn mươi tám nguyện như trên kinh này đã nói, cũng tương ưng với tánh đức của Phật tức danh hiệu A Di Đà Phật, công đức danh hiệu chẳng thể nghĩ bàn!

“A Di Đà Phật” là “Vô Lượng Giác”. Mỗi giờ, mỗi lúc, mọi chỗ, mọi nơi, đối với người, với việc, với vật đều giác chớ không mê, đó là A Di Đà Phật. “Mê” là phàm phu, “Giác” là Phật. Cho nên, mỗi niệm tương ưng với giác mới có thể vào được cửa, đó chính là “Khế lý”.

Ngoài “khế lý” còn phải “khế cơ”. “Cơ” là căn tánh của đại chúng hiện tiền. Phật pháp là sống không phải là chết. Phật pháp độ người hiện tại, không phải độ người xưa, cũng không phải độ người vị lai, cũng không phải độ người thế giới khác. Bạn phải hiểu được căn cơ của đại chúng hiện tiền.

Cho nên đồng tu phụ trách dẫn chúng trong Niệm Phật Đường phải tường tận đạo lý này. Chính mình phải thường hay khích lệ, khuyến tấn lẫn nhau, phải nghiên cứu cải tiến lẫn nhau, không được chấp trước thành kiến của chính mình, phải thường thỉnh giáo với Pháp sư thời khóa ngày hôm đó xem các vị cảm thấy như thế nào? Có chỗ nào cần phải cải tiến? Phải thành thật, cung kính mà thỉnh giáo, không phải qua loa, không phải khách sáo. Ngoài ra, còn phải hướng đến mỗi đồng tu đến tham gia niệm Phật, hỏi nhiều nơi họ, thỉnh giáo nhiều lần với họ, khiến đạo tràng chúng ta được cải tiến mỗi ngày. Không ngừng cải sửa, ngày ngày tiến bộ, vậy còn gì bằng! Đạo tràng này tự nhiên trở thành mô phạm đệ nhất thế gian.

– Đạo tràng đệ nhất do đâu mà có?

– Do ngày ngày cải tiến! Phát hiện điều gì không thích hợp thì lập tức phải sửa đổi. Sửa đổi nếu vẫn chưa thích hợp thì tiếp tục sửa nữa, cứ thế mà ngày ngày tiến bộ. Như vậy mới có thể làm được “khế cơ”, mới gọi là “hằng thuận chúng sinh, tùy hỉ công đức”. Hai câu nói này của Bồ Tát Phổ Hiền, chân thật làm đến được “khế cơ”.

Ngày trước, Tổ sư, đại đức lập ra những qui củ là tùy thuận căn tánh của chúng sinh thời đó. Hiện tại, nếu chúng ta vẫn một mực không đổi, chỉ chiếu theo qui củ của các ngài, đem “Bách Trượng thanh qui” hoàn toàn chiếu theo đó mà làm thì sẽ thành cái gì? Đó là đem người hiện tại đi ngược về quá khứ, khiến ai nấy đều thuộc triều đại nhà Đường, vậy thì người hiện tại không làm được! Cho nên, nhất định phải hiểu được tinh thần, nguyên tắc của nó, thậm chí trên thực tế cách làm của chúng ta cũng cần phải tu đính.

Cho nên qui củ có thể cải đính, giới luật nhà Phật cũng có thể cải đính. Bạn xem! “Bách Trượng thanh qui” chính là giới luật của Thích Ca Mâu Ni Phật, vào lúc đó đã làm ra một cuộc tu đính rất lớn, biến thành Trung Quốc hóa, hiện đại hóa, bổn thổ hóa. Tuy nhiên, điều quan trọng là vẫn phải duy trì tinh thần nguyên tắc giới luật của Phật, không được thay đổi, vậy mới có thể nói được thông. Đó cũng gọi là “khế cơ”.

Hiển thị tam thừa”: “Hiển” là minh hiển, “Thị” là thị hiện, chữ “thừa” trong “tam thừa” có nghĩa là cổ xe, là công cụ chuyên chở khiến cho người ngự trên “thừa” ấy đều đạt đến quả địa. Pháp “tam thừa” là pháp phương tiện, pháp thị hiện. Thế Tôn , sau cùng trên Kinh Pháp Hoa đã đưa ra kết luận: “ Duy hữu nhất thừa pháp, vô nhị diệc vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết”. Câu này nói rất rõ ràng với chúng ta: “Tam thừa” là Phật phương tiện nói, còn chân thật nói chỉ có pháp “nhất thừa”.

– Cái gì là “nhất thừa”?

– Thành Phật là “nhất thừa”!

Có thể thấy được chư Phật Như Lai vô cùng từ bi, bổn nguyện của các ngài đều hi vọng tất cả chúng sinh ngay trong một đời thành Phật, không phải dạy chúng ta làm Bồ Tát, làm A-la-hán v.v… Không phải vậy!

– Chúng ta có thể làm được hay không?

– Đáp án là khẳng định! Tất cả chúng sinh đều có thể trong một đời chứng được Phật quả cứu cánh viên mãn.

– Vấn đề là ở chỗ nào?

– Là ở ngay chính bạn! Bạn có chịu tin vào chính bạn hay không? Nếu không tin vào chính bạn, vậy thì không còn cách nào! Trong nhà Phật, chữ “Tín” trước tiên là tin chính mình. Trong A Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích Đại Sư giảng chữ “Tín” bao gồm sáu nghĩa: Tín tự, tín tha, tín nhân, tín quả, tín sự và tín lý.

– Thứ nhất là “tín tự” tức là tin chính mình. Chính mình không có lòng tin đối với mình, không tin tưởng ngay một đời này ta có thể làm Phật, vậy thì tất cả chư Phật cũng không cách gì giúp bạn! Bạn nhất định không thể thành Phật! Cái mấu chốt này rất lớn!

– Thứ hai mới là “tín tha”, là tin tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật, tin tưởng A Di Đà Phật, tin tưởng lý luận và cảnh giới mà Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói là chính xác, tin tưởng bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, nguyện nguyện đều hiện thực, y theo Pháp môn này tu nhất định sẽ được Phật A Di Đà đến tiếp dẫn ta vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc, bất thoái thành Phật, đây là “tín tha”.

Phật pháp không giống như tôn giáo khác. Tôn giáo khác việc đầu tiên là phải “tin Thần”, không phải tin chính mình. Có năm tôi hoằng pháp ở Hoa Kỳ, gặp một số mục sư của Ki Tô giáo, ba, bốn người đến nói chuyện với tôi. Họ nói: Tịnh Tông chúng ta rất giống với Ki Tô Giáo của họ. Tôi hỏi:

– Rất giống ở chỗ nào?

– Đều là chữ “Tín”, chúng tôi tin Thiên Chúa, các bạn tin A Di Đà Phật! Tôi nói:

– Hoàn toàn không giống nhau! Họ hỏi:

– Không giống ở chỗ nào? Tôi nói:

– Tịnh Độ tông chúng tôi: Thứ nhất là tin chính mình, thứ hai mới tin A Di Đà Phật. Bạn hoàn toàn tin tưởng Thiên Chúa, không có lòng tự tin ở chính mình thì làm sao như nhau được! Nhất định phải xây dựng lòng tự tin, kế đến phải tin tưởng lời Phật dạy.

Pháp Môn Tịnh Độ chân thật là “thiện lập phương tiện”, bốn chữ này nói được đến cứu cánh. Lý luận của Pháp môn này, hiểu hay không hiểu cũng chẳng hề gì, không hiểu cũng có thể thành tựu, chỉ duy nhất thành thật mà niệm, chí tâm mà niệm, kiên trì mà niệm, nhất tâm không xen tạp mà niệm thì kết quả sẽ thù thắng không thể nghĩ bàn!

– Thế sao chúng ta vẫn còn phải giảng kinh?

– Giảng kinh là vì mọi người không có phước nên ngày ngày phải giảng kinh!

– Người thế nào gọi là có phước báo?

– Người thành thật niệm Phật là có phước báo! Ngày ngày họ chỉ chuyên nhất một câu A Di Đà Phật, không nghĩ đến bất cứ thứ gì, loại người này có phước báo!

– Chúng ta vì sao không có phước báo?

– Mỗi ngày từ sớm đến tối nghĩ tưởng xằng bậy, cho nên mới cần giảng kinh cho bạn nghe, dạy bạn giác ngộ, dạy bạn tường tận. Cho nên Phật độ chúng sinh, chỉ có hai loại người dễ độ: Thứ nhất là người thượng căn lợi trí, khuyên dạy họ liền thông đạt tường tận, một vọng niệm cũng không có, trung thực mà niệm. Thứ hai là người hạ căn hạ trí tức là loại ngu hèn.

– Ngu hèn là gì?

– Bảo họ niệm thì họ trung thực niệm, không cần phải tìm hiểu. Từ sớm đến tối họ không có bất cứ vọng niệm nào. Loại người này có thể thành công. Khó độ nhất là loại người ở giữa, là hàng trung căn, chúng ta thuộc loại người này, thật rất phiền phức! Cho nên, Thế Tôn phải mất bốn mươi chín năm khổ cực cần lao, giảng kinh thuyết pháp cũng chỉ vì loại người này!

Nên biết: Buông bỏ là đại phước báo! Hàng trung căn chúng ta chỉ thật sự buông bỏ khi đã hoàn toàn tường tận, thấu suốt được vấn đề! Thế nên, người không có vọng niệm là người có phước báo. Tuyệt đối không thể nói: Có địa vị cao, tài sản nhiều là có phước báo. Hiện tại tuy họ hưởng thụ vật chất, nhưng hưởng được bao năm?! Chết rồi vẫn tiếp tục luân hồi trong ba cõi, sáu đường! Chân thật hiểu được sự việc này mới biết công đức niệm Phật thù thắng đến dường nào!

Pháp môn Niệm Phật là dạy chúng ta một đời làm Phật. Có người hoài nghi, nghĩ mình ngu si, tạo nhiều nghiệp chướng, tội nghiệp rất sâu nặng, làm sao có thể thành Phật?! Trên kinh này nói: Chỉ một câu Phật hiệu tiêu tám mươi ức kiếp sanh tử trọng tội. Bạn niệm một ngày một đêm được bao nhiêu niệm theo đó mà tính xem số lượng mình đã tiêu được bao nhiêu tội nghiệp? Thật không thể nghĩ bàn!

Lời Phật nói là chân thật không phải giả đích thật là có hiệu quả!

– Thế sao đã niệm một ngày một đêm, nghiệp chướng vẫn cứ còn nguyên?!

– Vì tội nghiệp bạn quá sâu, quá nặng! Cứ tiếp tục ngày ngày niệm Phật, ngày ngày sẽ tiêu nghiệp, đạo lý là như vậy. Trên kinh Phật nói: Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, sức mạnh này rất lớn. Nếu có thể liên tục niệm Phật đến ba năm, tội nghiệp vô lượng kiếp của bạn thảy đều tiêu hết.

– Làm sao biết được?

– Khi bạn vãng sinh sẽ rất tự tại: Biết trước giờ đi, đứng mà đi, ngồi mà đi, sang đến Tây Phương Cực Lạc thế giới không phải cõi “Phàm thánh đồng cư” mà là cõi “Thật Báo Trang Nghiêm”. Trong kinh này nói có ba bậc vãng sinh, bạn là “Thượng phẩm vãng sinh”, mới biết câu Phật hiệu này tiêu nghiệp chướng không thể nghĩ bàn!

Cho nên, khoảng năm Càn Long, đầu nhà Thanh, Pháp Sư Từ Vân Quán Đảnh đã nói trong Chú giải Kinh Quán Vô Lượng Thọ (còn gọi là “Quán Kinh Trực Chỉ”, thâu tập trong Đại Tạng Kinh) như sau: “Nghiệp chướng của chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay rất là cực trọng, bất cứ kinh luận nào trong Phật pháp, bất cứ sám pháp nào đều không thể sám trừ được nghiệp chướng, duy chỉ có pháp môn Niệm Phật mới có thể tiêu trừ được”. Việc này cũng ví như người bị bệnh nặng, tất cả thuốc men chữa trị đều vô hiệu, chỉ còn một phương pháp duy nhất là chí tâm niệm Phật có thể sẽ tiêu trừ.

– Pháp Sư Từ Vân Quán Đảnh, trong nhà Phật được xem là một nhà thông  thái:  Tông, Giáo, Hiển, Mật  ngài  đều  có thể quán thông. Trước tác của ngài rất phong phú, đại khái có khoảng hơn ba mươi loại. Ngài cũng có chú giải Kinh Lăng Nghiêm. Từ xưa đến nay không ai chú giải Chú Lăng Nghiêm, duy nhất chỉ mỗi mình ngài.

Ngoài ra, sách Pháp Hoa Văn Cú cũng nói:

Phương tiện là cửa… Thể nhập được chân thật, hiển lộ được chân thật toàn là do công của phương tiện. Theo cách giải thích này, Tiểu Thừa là cái cửa để vào được Đại Thừa nên Tiểu Thừa được gọi là giáo pháp phương tiện. Hơn nữa, tam thừa thông với nhất thừa nên tam thừa cũng gọi là Phương Tiện giáo”.

Kinh luận trên đây thật đã tỏ rõ được yếu chỉ “Thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa”. Tướng thứ bảy “Chuyển Pháp Luân” đến đây đã xong.

“Ư thử trung hạ, nhi hiện diệt độ” (Đối với hàng trung, hạ căn ấy, thị hiện có diệt độ): Đây là tướng thứ tám “Nhập Bát Niết Bàn” trong tám tướng thành đạo. “Niết Bàn” cựu dịch là Diệt Độ, tân dịch là Viên Tịch. “Diệt Độ” là diệt nhân quả sinh tử, diệt hết dòng lũ sinh tử.

Kinh Niết Bàn dạy: “Diệt chư phiền não, danh vi Niết Bàn. Ly chư hữu giả, nãi vi Niết Bàn” (Diệt các phiền não gọi là Niết Bàn. Lìa các hữu (tam giới) mới là Niết Bàn).

Sách Tâm Kinh Lược Sớ của ngài Hiền Thủ ghi: “Niết Bàn, Hán dịch là Viên Tịch, ý nói: Không đức gì chẳng đủ nên bảo là “viên”, không chướng nào chẳng tận nên nói là Tịch”.

– Phật, Bồ Tát có diệt độ hay không?

– Không có! Các ngài đã chứng được không sinh, không diệt thì làm gì còn có sinh tử. Sinh tử chỉ là thị hiện như biểu diễn trên sân khấu.

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: các kinh luận trên đây đều nói về các Pháp Thân Đại Sĩ chỉ chuyên chí Phật quả, chẳng trụ vào diệt tận như tro tàn, nhưng vì để nhiêu ích (làm lợi ích) hai thừa trung và hạ nên dùng phương tiện khéo léo thị hiện tướng Diệt độ. Như phẩm “Thọ Lượng”, Kinh Pháp Hoa chép: “Nhược Phật cửu trụ ư thế, bạc đức chi nhân bất chủng thiện căn, bần cùng hạ tiện, tham trước ngũ dục, nhập ư ức tưởng vọng kiến võng trung. Nhược kiến Như Lai thường tại bất diệt, tiện khởi kiêu tứ, nhi hoài yếm đãi bất sanh nan tao chi tưởng, cung kính chi tâm… Thị cố Như Lai tuy bất thực diệt, nhi ngôn diệt độ”. (Nếu đức Phật trụ lâu dài trong cõi đời thì kẻ đức mỏng chẳng gieo trồng căn lành, bần cùng hạ tiện tham đắm ngũ dục, bị vướng vào lưới ức tưởng vọng kiến. Nếu thấy Như Lai thường trụ bất diệt sẽ khởi ý kiêu ngạo, phóng túng, sinh lòng mỏi nhác, lười biếng, chẳng thể sinh nổi ý tưởng khó gặp Phật và tâm cung kính được… Vì vậy, Như Lai tuy thật sự chẳng diệt, lại nói là diệt độ).

Chẳng phải là diệt độ, lại hiện có diệt độ nên bảo là “thị hiện”. “Thị hiện” như vậy là để độ căn cơ trung, hạ. Nếu là bậc thượng căn thì thấy rất rõ ràng: Như Lai chẳng từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Vốn đã thoát khỏi sinh diệt thì nào có Niết Bàn! Vì vậy, Thiên Thai Trí Giả Đại Sư đời Tùy khi đọc đến phẩm “Dược Vương” của Kinh Pháp Hoa, thấy hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan.