NHỮNG LÁ THƯ TỊNH ĐỘ
(Trích đọc những Lá Thư của Đại Sư Ấn Quang)
Thư Trả Lời Cư Sĩ La Trí Thanh
Diễn đọc: Tạng Thư Phật Học

 

Thư trả lời cư sĩ La Trí Thanh

(thư thứ nhất)

Nhận được thư đầy đủ, khoản tiền phóng sanh [ông đã gởi] sẽ dùng vào các món chi phí lặt vặt [cho lễ] phóng sanh, miễn sao chính mình không [đem khoản tiền ấy] dùng vào việc khác thì sẽ không trở ngại gì; cũng không ngại nói rõ với mọi người khi họ tụ tập [tham dự lễ phóng sanh] thì mình lẫn người đều không phải lo nghĩ gì! Quang một mực chẳng chủ trương phóng sanh vào những ngày khánh đản Phật, Bồ Tát và trong những ngày tốt như mồng Một, ngày Rằm. Chuyện này đã thành lệ nhất định không thay đổi được, do có [nhiều] người phóng sanh [trong những ngày ấy] mà những kẻ đánh bắt loài vật sẽ đặc biệt săn bắt nhiều hơn; cũng lắm khi vì [có người] phóng sanh mà họ mới đi bắt! Thói đời phần nhiều háo danh, [người ta ưa] phóng sanh trong những hôm ấy để được tiếng! Lòng người phần nhiều lại hay quen thói làm gì cũng chấp chặt theo lệ: Nếu chẳng phóng sanh trong những bữa ấy sẽ không chịu mua [loài vật] để phóng sanh [trong các hôm khác]. Tuy Quang thường nói với người khác như thế, rốt cuộc cũng chỉ trở thành nói uổng công!

Thêm nữa, cũng chớ nên phóng sanh loạn xạ. Đem thả xuống sông lớn thì không sao; chứ đem thả trong ao, phàm là cá dữ mà cũng thả lẫn vào đó, tức là thả giặc vào chỗ nhân dân tụ tập, lũ cá đều trở thành thức ăn cho nó! Muốn mỗi một việc đều đúng như pháp thì quả thật khó thể làm được. Do vậy, hãy nên cực lực đề xướng “kiêng giết, ăn chay” để làm cách giải quyết từ căn bản; chứ phóng sanh [chỉ là] chuyện thực hiện [hành vi cứu vớt] phần nào nhằm mong sao ai nấy đều cùng thấu hiểu ý nghĩa phóng sanh mà thôi! Nếu tận sức phóng sanh mà chưa thể lập cách phù hợp thì cũng chỉ là công vẫn chưa bù được tội.

Hành động phóng sanh về mặt Sự tuy vì loài vật, nhưng về mặt Ý thì thật sự vì con người. Nếu con người ngưng giết chóc, cố nhiên chẳng cần dùng đến hành động ấy. Nhưng con người tâm ăn thịt càng thịnh, nếu không lập ra hành động ấy; lâu ngày chầy tháng, hành vi dã man ở Phi Châu[1] sẽ lưu hành khắp cõi đời! Há chẳng nên không lập sẵn cách để những kẻ ham giết chóc, ưa ăn thịt kia sẽ cùng sanh lòng răn dè tự phản tỉnh ư? Người phóng sanh chỉ nên mang ý niệm chẳng nỡ sát sanh, chứ đừng so đo con vật [sẽ được thả] ấy có ăn những sanh vật khác hay không! Loài cá phần nhiều ăn cá nhỏ hơn và những loài trùng nhỏ sống trong nước (tiểu thủy trùng). Nếu biện luận như thế thì thả một con cá to ắt hằng ngày nó sẽ giết vô số cá nhỏ và thủy trùng, tức là “thả một, giết nhiều”, vậy là “công ít, tội nhiều!” Nhưng trút[2], rắn, rái cá, xét đến cùng chẳng có mấy; đã chẳng thể mua hết các sanh vật để thả thì có lẽ cũng nên làm từ từ để khỏi bị kẻ rỗi hơi bàn ra tán vào!

Phóng sanh thì hãy nên lấy việc “chí thành niệm Phật, trì chú cho những con vật ấy” làm gốc. Bất quá, tất cả nghi thức cũng chẳng qua nhằm biểu thị pháp tướng mà thôi! Nếu như có ai khác [hiện diện trong khi phóng sanh], cố nhiên nên dựa theo nghi thức mà làm. Nếu không, chỉ dốc hết lòng Thành niệm Phật là được rồi! Hơn nữa, đối với những con vật sắp được thả, nếu nhằm ngày Hè hãy nên thả cho mau. Nếu câu nệ lề lối, cứ chiếu theo nghi thức để thực hiện, chắc sẽ phải tốn thời gian, bất lợi cho mạng sống [của con vật]. Cư sĩ phóng sanh hãy nên theo cách thức đơn giản. Nếu tâm chân thành, không giả dối, tiếm việt, thì chiếu theo nghi thức để phóng sanh cũng không phải là hoàn toàn không được! Nếu lầm lạc bắt chước theo nghi thức của Tăng sĩ, sẽ trở thành Ngã Mạn! Pháp cố nhiên viên dung, nhưng phải khéo dụng tâm. Tại gia cư sĩ có thể làm lễ phóng Mông Sơn thì cố nhiên [thực hiện] nghi thức Phóng Sanh cũng không trở ngại gì! Nhưng cần phải trọn chẳng mang tâm tiếm việt, ôm ý niệm độ sanh sâu xa thì mới được!

Xét ra, trong năm Dân Quốc 22 (1933), tức năm Quý Dậu, chùa Dũng Tuyền ở Cổ Sơn khánh thành vườn phóng sanh vừa mới được xây dựng, Đại Sư soạn bài văn bia, cho khắc vào đá đặt trước Bạch Vân Đường, đã nêu tỏ lý phóng sanh không còn sót. Nay chùa Trường Khánh là sơn môn bậc nhất ở Di Sơn, Phước Châu, xây thêm tường vây quanh ao phóng sanh. Xây cất xong xuôi, Đại Sư đã tám mươi tuổi, sức yếu, mắt lòa, chẳng dám phiền Đại Sư viết lách, chỉ kính cẩn sao chép bút tích chân thật từ sáu bài chỉ bày ý nghĩa trọng yếu của việc phóng sanh do Đại Sư đã gởi đến dạy dỗ trước kia, khắc vào đá, đặt bên trái ao. Nguyện những người theo đuổi việc phóng sanh trong hiện tại và vị lai đều cùng cố gắng! (Ngày lành tiết Trọng Xuân năm Canh Thìn – Trung Hoa Dân quốc 29 (1940), đệ tử quy y La Trí Thanh kính cẩn viết).

 (thư thứ hai)

Người ăn chay đừng nên ăn trứng gà do nó có mầm sống. Dẫu không có mầm sống, cũng chớ nên ăn vì nó có chất độc. Có người bảo “ở nơi không có gà trống thì trứng sẽ không có mầm sống”, ở nơi đây rất ít [có loại trứng ấy]. Xưa kia, có một người thích ăn trứng gà, lâu ngày chất độc tích lại trong bụng, sanh ra rất nhiều trứng gà và gà con. Các thầy lang chẳng hiểu căn bệnh ấy. Trương Trọng Cảnh[3] bảo nấu tỏi ăn, liền ói ra rất nhiều gà con cùng những con gà đã có lông hoặc không lông. [Ông Trương] bảo bệnh nhân suốt đời đừng ăn [trứng gà] nữa, hễ ăn sẽ không có cách gì trị được. Đủ biết trứng gà gây họa lớn thay!

Xét ra, những đệ tử nhà Phật ăn chay ở Phước Châu thường sợ thiếu chất bổ, viện cớ “trứng gà không có cồ, chẳng có mầm sống thì đều có thể ăn được”, quen nết tạo thành phong tục, khiến cho người chẳng hiểu chuyện bị lầm lẫn, gần như phá giới. Vì thế, đệ tử đặc biệt khẩn cầu đại sư khai thị bài này. Hãy nên ấn hành, đăng tải rộng rãi để cảnh tỉnh người khác. Đệ tử La Trí Thanh kính cẩn ghi chú.

(thư thứ ba)

Thư nhận được đầy đủ. Ông bệnh ngặt đã lành, khôn ngăn mừng rỡ, an ủi. Linh Nham Sơn Tự chuyên tu Tịnh nghiệp, công khóa [hằng ngày] giống hệt như khi đả thất bình thường; thật là chỗ đạo tràng tu hành sốt sắng bậc nhất ở Giang Nam. Hiện thời vận đời nguy hiểm, bất luận là ai đều lấy chí thành niệm Phật, niệm Quán Âm làm chủ yếu để mong tiêu trừ ác nghiệp trước mắt, được vãng sanh Tây Phương khi lâm chung thì có thể nói là “do họa mà được phước” vậy. Nếu không, từ nay về sau, càng khó làm người, bởi cách giết người, hại người không kiểu lạ lùng nào chẳng có, không trốn tránh nơi đâu được! Chỉ có chuyện sanh về Tây Phương là phương kế an thân lập mạng ngàn vạn phần ổn thỏa, thích đáng. Xin hãy nói với khắp hết thảy mọi người thì lợi ích sẽ vừa sâu vừa xa.

Đứa con quý vừa được sanh ra nên đặt tên là Tông Thành. Tông là chủ. Thành là chân thật chẳng dối, tức là “làm sáng tỏ Minh Đức” vậy. Lấy lòng Thành làm chủ thì sẽ có thể sáng tỏ được Minh Đức. Ấy chính là ý nghĩa “Tánh lẫn Tu cùng tỏ, Thể và Dụng đều trọn vẹn, rõ ràng”. Đặt tên như vậy để nó nhìn vào cái tên, nghĩ đến ý nghĩa, sẽ mong chính mình thật sự có [những phẩm đức ấy] ngõ hầu có thể rạng danh gia đình, tự lợi, lợi tha. Pháp danh nên đặt là Khế Giác. Giác chính là Phật Tánh. Chúng sanh do mê nên chẳng khế hợp với Phật Tánh. Khế hợp với Giác thì mê tiêu, giác lộ. Nếu hai cái tên ấy chẳng phạm húy tổ phụ đời trước thì có thể sử dụng suốt đời, chẳng cần phải đặt quan danh[4], tự, hiệu v.v… Thọ Xương Kinh Thiền Sư[5] là người đất Mân, lúc đẻ ra, khó sanh, ông nội bèn ở ngoài cửa sổ niệm kinh Kim Cang, chỉ niệm hai chữ “Kim Cang” đã an nhiên sanh ra. Ông nội vui mừng, nhân đấy đặt tên là Huệ Kinh, đến tuổi đội mũ (nhược quan) cũng không đặt tên khác. Về sau xuất gia cũng chẳng đặt tên khác. Ngài chính là một vị cao tăng thời Vạn Lịch nhà Minh.

Do vậy biết nữ nhân khi sanh nở hãy nên chí thành niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, không một ai chẳng an nhiên sanh nở. Phải niệm ra tiếng, chớ nên niệm thầm! Những người săn sóc bên cạnh cũng niệm ra tiếng, chớ nên nói “lúc sanh nở lõa lồ chẳng sạch, nếu niệm sợ mắc tội lỗi!” Cần biết rằng: Lúc ấy là lúc liên quan đến tánh mạng, do không làm sao khác được; chứ không phải như lúc bình thường có thể cung kính mà lại ngạo mạn, coi thường, chẳng cung kính, khiết tịnh! Mấy năm trước, Quang trọn chẳng nói đến chuyện này. Về sau lắm phen nghe nói có người do sanh khó mà bị mất mạng và kẻ ngu hễ trong nhà có người sanh nở thì người thường ngày niệm Phật chẳng dám ở trong nhà, phải đợi hơn cả tháng mới dám quay về, cho rằng “hễ bị huyết tanh xông nhằm, những công lao trước kia sẽ mất sạch!” Lời lẽ nhảm nhí bậy bạ ấy thật là đáng thương xót. Vì thế, mấy năm gần đây tôi thường nói với người khác. Những người hành theo đó, không một ai chẳng ứng nghiệm, đủ biết Bồ Tát thật là đại từ bi.

(thư thứ tư)

Người thông minh trong cõi đời thường muốn làm kẻ được ngàn đời tôn sùng, rốt cuộc đến nỗi học thuyết lệch lạc, tà vạy, tạo dựng những thuyết kỳ dị, khiến cho người đời sau bị lầm lạc, gây chướng ngại cho thánh đạo. Thuở đương thời được mọi người đều suy tôn, [tới khi] độc khí của học thuyết ấy phát tác mạnh mẽ mới biết loại học thuyết ấy quả thật đã ngầm vun quén cội rễ họa hại gần một ngàn năm trước! Trình – Châu xiển dương Nho tông, chuyên chú trọng chánh tâm thành ý, phàm “nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi” đều cho là không có. Lại nói “hễ có làm gì để làm lành thì không phải là thiện thật sự!” Bọn họ muốn [làm ra vẻ] khác hẳn với Phật; vì thế, những nhà Nho đời sau một mực đề cao thuyết ấy! Đã không có nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi, thì thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để phạt, mọi người đều trong mê, trong mộng, đến nỗi phong hóa cõi đời ngày một đi xuống, chánh nhân ngày một hiếm hoi. Đến khi gió Âu vừa thổi tới thì hết thảy những chuyện “xô đổ lễ giáo, vượt lý, phạm phận” đều được miệt mài đề xướng, muốn cho khắp cả cõi đời đều cùng thực hành. Nếu Trình – Châu chẳng bài xích nhân quả luân hồi, những nhà Nho đời sau đều truyền bá, vâng giữ [nhân quả, luân hồi], dẫu gió Âu dữ dội đến đâu đi nữa, ai chịu theo những tà thuyết ấy? Do vậy, nói rằng: “Cội rễ họa hại của các thảm kịch hiện thời quả thật bắt nguồn từ việc Trình – Châu đả phá, bài xích nhân quả luân hồi!”

Nay muốn cho gia đình, xã hội bảo tồn được đạo đức xưa kia thì phải lấy đề xướng nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi làm nhiệm vụ cấp bách. Biết nhân quả, luân hồi, tin nhân quả, luân hồi, dẫu là kẻ tầm thường cũng có thể thành ý chánh tâm. Chẳng tin nhân quả, luân hồi, dẫu là kẻ thiên tư thượng đẳng như Trình – Châu vẫn chẳng thể hoàn toàn thành ý chánh tâm! Vì sao nói thế? Bọn họ nhờ Phật học để làm sáng tỏ tâm pháp của thánh nhân, nhưng lại ngược ngạo báng Phật; tâm ý ấy còn có thể là chánh, là thành được nữa chăng? Hay là tà, là ngụy vậy? Bọn họ muốn khác biệt với Phật nên đều mạt sát những sự lý nhân quả báo ứng của thánh nhân, biến thuyết “cách vật trí tri” của thánh nhân thành chuyện phù phiếm, không thiết thực! Chẳng phải họ hoàn toàn không biết “đoạn trừ vật phiền não sẽ đạt đến chân tri sẵn có”, chỉ vì chẳng muốn mang hơi hướng giống với nhà Phật nên lập ra thuyết ấy, nghịch kinh trái thánh cũng lớn lắm! Tâm ấy, ý ấy đều là vì muốn cho thiên hạ hậu thế suy tôn chính mình, vọng tưởng được gọi là “người trực tiếp kế thừa mối đạo”. Nếu chưa thấy được mối họa của gió Âu, ai dám nói những thuyết của bọn họ có những tội khiên như thế?

Quang muốn các ông ai nấy đều đề xướng “nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi” nhằm làm căn cứ để vãn hồi thế đạo nhân tâm; do vậy bèn suy xét từ cội nguồn, nói ra nguyên do của nỗi họa hại trong thời gần đây. Quang nói lời này chẳng phải phô phang ý kiến ức đoán của chính mình, xằng bậy bàn luận cổ nhân, mà quả thật là do tâm bình khí hòa chuẩn theo lý, chuẩn theo tình mà bàn luận. Sợ lỡ ra các ông chẳng biết dốc sức [nơi đâu] nên mới khích lệ, khơi gợi vậy!

(thư thứ năm)

So với những người khác, thầy thuốc hoằng dương Tịnh nghiệp dễ dàng hơn. Nếu sẵn chí lợi người sẽ liền có thể tu hành ngay, đâu cần phải lánh đời ẩn dật dài lâu mới có thể tu hành được? Quang muốn ẩn dật lâu dài là vì tinh thần chẳng đủ nên mới bàn đến chuyện ấy, chứ không phải chỉ cầu lợi cho chính mình, chẳng muốn làm lợi cho người khác! Vợ và con gái cùng tu, quả thật là khuôn mẫu tốt đẹp “học đạo tại gia” vậy! Nếu phong thái này [được lưu truyền] trong một làng, một ấp, ắt sẽ có người thuận theo, phụ họa, nối tiếp nhau thực hiện. Trong cõi đời hiện thời, chớ nên manh nha ý tưởng xuất gia, vì tại gia thuận tiện hơn, xuất gia đâm ra lại bị vướng mắc, trở ngại, chẳng được tự tại!

***

[1] Tức tục lệ ăn thịt người của những bộ lạc cổ sơ ở châu Phi.

[2] Xuyên Sơn (gọi đủ là Xuyên Sơn Giáp) thường được biết dưới tên Trút (Pangolin) hay Tê Tê, là một loại thú ăn kiến, thân dài, đuôi dài, mũi nhọn dài, toàn thân phủ đầy những tấm vảy cứng trông như bộ giáp, thường thấy ở Á Châu. Theo Wikipedia, cái tên Pangolin xuất phát từ chữ Pengguling (vật cuộn tròn) trong tiếng Mã Lai. Trút thường hoạt động kiếm ăn vào ban đêm, ngày cuộn tròn lại ngủ. Khi gặp nguy hiểm, chúng cũng cuộn tròn mình lại, dựng những tấm vảy cứng sắc lên để tự vệ. Trút có bốn chân ngắn nhưng rất sắc và mạnh, có thể đào tung những ụ mối, tổ kiến kiên cố để kiếm mồi, nên người Hoa mới gọi nó là Xuyên Sơn (xuyên qua núi). Trút thường có lưỡi dài giúp chúng có thể quét lưỡi vào những ngõ ngách trong tổ kiến, ổ mối để ăn những con mối non, kiến non. Người Hoa thường tin thịt Trút rất bổ dưỡng và nhiều dược tính. Họ tin vảy Trút có tác dụng chữa sưng phồng, luân lưu huyết khí và giúp phụ nữ mới sanh có nhiều sữa nên Trút bị săn bắt tàn nhẫn, gần như bị tuyệt chủng ở Trung Hoa.

[3] Trương Trọng Cảnh tên thật là Cơ, tự là Trọng Cảnh, là một y sư nổi tiếng thời Đông Hán, không rõ sanh và mất vào năm nào. Căn cứ theo những dữ kiện được ghi chép về cuộc đời ông, người ta chỉ có thể phỏng đoán ông sanh vào năm 150 và mất vào khoảng năm 219. Ông đỗ Hiếu Liêm, làm Thái Thú quận Trường Sa. Do vậy, thường được gọi là Trương Trường Sa. Trong thời gian ấy, chánh quyền Đông Hán suy yếu, giặc giã nổi lên, tật dịch lưu hành, gia đình Trương Trọng Cảnh cũng bị bệnh dịch chết gần hết. Do vậy, ông phát phẫn quyết chí nghiên cứu y dược. Bộ Thương Hàn Tạp Bệnh Luận của ông được coi là một bộ sách y học đầu tiên được biên soạn đầy đủ theo phương pháp khoa học và được sắp xếp một cách hệ thống, hợp lý nhất của Trung Hoa (gồm bệnh án, triệu chứng, nguyên nhân, cách điều trị và lý luận điều trị). Bộ sách này được rất nhiều y sư đời sau ra sức chú giải. Tác phẩm Kim Quỹ Yếu Lược của ông cũng được đánh giá rất cao nhưng không nổi tiếng bằng.

[4] Quan danh: Tên đặt khi làm lễ Nhược Quan (20 tuổi).

[5] Huệ Kinh (1548-1618) là một vị cao tăng thuộc Tông Tào Động, sống vào đời Minh, người ở Phủ Châu, Sùng Nhân (nay là huyện Sùng Nhân, tỉnh Giang Tây), tự là Vô Minh, Đã có chí xuất gia từ nhỏ, đến Lẫm Sơn xin tu pháp với ngài Uẩn Không Thường Trung ba năm, sau khi có chỗ tỉnh ngộ, bèn ẩn tu tại Nga Phong ba năm. Một bữa, khi cố sức dời tảng đá, đá trơ trơ không lay động, đang trong lúc tận lực xô đẩy, Sư hoát nhiên khai ngộ, trình sở ngộ lên ngài Thường Trung, được ấn khả. Đến năm 27 tuổi Sư mới thọ Cụ Túc Giới, từ đấy suốt hai mươi bốn năm không rời Nga Phong. Về sau, Sư đến yết kiến Tổ Liên Trì, cũng như đến lễ tháp Tổ Bồ Đề Đạt Ma ở Thiếu Lâm, lên kinh sư lễ ngài Đạt Quan, qua Ngũ Đài tham yết ngài Thụy Phong, rồi trở về chùa Bảo Phương ở quê nhà để khai giảng tòa, hoằng dương tông Tào Động. Môn nhân nối pháp có Bác Sơn Nguyên Lai, Hối Đài Nguyên Kính, Kiến Như Nguyên Mật, Vĩnh Giác Nguyên Hiền v.v… Khi Sư mất, chính ngài Hám Sơn Đức Thanh đã soạn bài minh để khắc trên mộ.