NHỮNG LÁ THƯ TỊNH ĐỘ
(Trích đọc những Lá Thư của Đại Sư Ấn Quang)
Thư Trả Lời Cư Sĩ Chương Dĩ Thuyên
Diễn đọc: Tạng Thư Phật Học

 

Thư trả lời cư sĩ Chương Dĩ Thuyên

(thư thứ nhất)

Nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Toàn, y theo trí huệ của Phật mà tu Tịnh nghiệp chính là Huệ Toàn. Đã tự có thể cân nhắc[1] được pháp môn nào phải nên tu, lại còn có thể cân nhắc cho hết thảy mọi người mà nói ra pháp khế lý khế cơ nhất này. Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai. Há có nên nói “cha bảo ăn thịt mà chẳng tuân lời là bất hiếu” ư? Lỡ mai kia cha ông phát cuồng, bảo ông rằng: “Cha thương con lắm. Con hãy nên cắt thịt nơi thân cha để ăn thì lòng cha mới hết sức vui vẻ. Nếu con chẳng cắt thịt cha để ăn tức là bất hiếu! Kẻ bất hiếu thiên địa quỷ thần đều tru lục! Nếu con ăn thịt cha tức là đại hiếu, tôn kính cha mẹ, thiên địa quỷ thần sẽ vĩnh viễn che chở, khiến cho con vĩnh viễn hưởng tốt lành”. Ông có chịu vâng lệnh ấy hay chăng? Ông nghĩ “cha bảo ăn thịt mà chẳng tuân lời thì là bất hiếu”, còn bảo là “mắc tội lớn”, tức là ăn nói mù quáng thiếu hiểu biết!

Chỉ nên đem ý ấy để uyển chuyển khuyên dụ, chớ nên chống đối quyết liệt. Lại còn phải khuyên cha mẹ ông ăn chay trường để đời đời kiếp kiếp khỏi phải thường chịu sát báo! Làm được như thế mới là chân hiếu. Người đời dùng thịt để tỏ lòng hiếu, chính là hành vi của kẻ vô tri! Đã quy y Phật, sao còn coi những tình ý mê muội của thế tục là đúng? Ông Hoàng Sơn Cốc đời Tống có thơ khuyên kiêng sát sanh ăn thịt như sau:

Ngã nhục, chúng sanh nhục,
Danh thù, thể bất thù,
Bổn thị nhất chủng tánh,
Chỉ vị biệt hình khu,
Khổ não tùng tha thụ,
Phì cam vi ngã nhu,
Mạc giao Diêm quân đoán,
Tự sủy ứng hà như?
(Thịt ta, thịt chúng sanh,
Danh khác, thể nào khác,
Vốn cùng một chủng tánh,
Chỉ sai biệt hình hài,
Khổ não chúng cam chịu,
Ngọt béo ta hưởng riêng,
Đừng đợi Diêm Vương xử,
Tự suy ắt biết mà!)

Xin hãy đưa thư tôi cho cha ông đọc. Nếu cha ông chịu nghe theo lời tôi thì thật là công đức chẳng thể nghĩ bàn. Nếu cụ vẫn muốn ăn thịt thì chỉ nên nấu nướng đôi chút để cụ khỏi quá thèm, đừng tận sức cung cấp kẻo tạo thêm sát báo cho cha ông. Lại chỉ nên mua những loại sẵn có ngoài chợ, đừng giết trong nhà. Sát sanh trong nhà, nhà sẽ biến thành nơi giết chóc, không gì kém tốt lành bằng!

(thư thứ hai)

Nhận được thư đầy đủ. Ở nhà rảnh rỗi thì hãy nên sốt sắng đem pháp môn Tịnh Độ giảng nói cho song thân để họ sanh lòng chánh tín hòng được vãng sanh thì công đức lớn lắm. Tuy đọc kinh điển Đại Thừa, vẫn phải lấy Niệm Phật làm chánh hạnh. Nếu một dạ nghiên cứu ý nghĩa của kinh, vứt niệm Phật ra sau ót thì có thể trở thành gần giống như một bậc đại thông gia, chứ siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này e rằng sẽ nhường cho ngu phu ngu phụ, còn chính mình trọn chẳng có phần đâu! Cần biết rằng: Pháp môn Niệm Phật là pháp môn đặc biệt trong Giáo; trừ pháp này ra, đừng nói phàm phu chẳng thể liễu ngay trong đời này, ngay cả bậc thánh nhân đã chứng Sơ Quả, Nhị Quả cũng chẳng thể liễu trong đời này được! Tâm đừng chuộng cao, cho rằng “hiểu rõ ý nghĩa kinh Phật sẽ được đại lợi ích”. Nếu nghĩ như vậy, sẽ chẳng khác gì kẻ giữ sổ sách nơi tiệm buôn! Tuy nói có mấy ngàn, mấy vạn, mấy chục vạn qua tay ta lo liệu, nhưng rốt cuộc đâu phải của chính mình, tới khi xong chuyện, chính mình chỉ được chút phần tiền lương mà thôi! Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ! Từ nay đừng gởi thư đến nữa! Có ai muốn quy y, hãy bảo họ quy y với vị Tăng nơi ấy, hoặc [quy y với] vị nào dựng cao tràng pháp. Còn như Quang, quả thật chẳng có mục lực lẫn tinh thần để thù tiếp! Pháp danh của ba người ghi trong tờ giấy khác. [Gởi kèm cho họ] Một Lá Thư Trả Lời Khắp để làm khai thị (Ngày mồng Hai tháng Hai năm Dân Quốc 28 – 1939)

(thư thứ ba)

Những loài thú dữ, rắn độc, châu chấu đều do tâm con người hung ác mà chúng gây tổn thương cho con người. Nếu hướng về chúng nó niệm Phật và dạy hết thảy mọi người ai nấy đều niệm Phật thì chúng nó sẽ tự bỏ đi, há nào phải là giết chúng mà có thể trừ hại cho dân hay sao? Đấy chính là dẫn dắt người khác tạo nghiệp, đời đời kiếp kiếp phải chịu sát báo. Ông học Phật kiêng giết mà thốt ra lời lẽ đáng ghét nhất ấy! Nếu chẳng sám hối, ắt sẽ bị trời quở (Ông Long Tử Tu làm Tri Huyện một huyện nọ tại Giang Bắc. Dân chúng do bị nạn châu chấu bèn mời quan đi xét nghiệm. Tới một chỗ, lấy chân giẫm xuống, hơi bị lún chân, hỏi châu chấu ở chỗ nào. Dân chúng thưa: “Nó ở ngay dưới chân”. Có chỗ [châu chấu đậu] dầy mấy tấc, rộng mấy dặm, dài mười mấy dặm, vẫn chưa mọc cánh. Hễ mọc cánh liền bay lên, che rợp cả mặt trời. Ông hết sức kinh hãi, chẳng dám nói một câu nào, bèn lạy trời đất, xin cứu mạng cho dân. Chưa đầy hai ba tiếng đồng hồ, đột nhiên trời nổi sấm mưa to, châu chấu bị mưa diệt sạch. Đấy chính là chuyện đại cảm ứng do không thể làm cách nào bèn cầu trời diệt châu chấu vậy. Nếu ông ra lệnh đốt hay chôn vùi để giết [châu chấu] thì thử hỏi có được mạnh mẽ như vậy hay không?) Một đứa bé gái mua một cái đập ruồi, hễ thấy ruồi bèn đập, chưa được bao lâu cả nhà đều bị ruồi bò đầy. Bà nội bèn mở toang cửa ra vào, cửa sổ, niệm Phật cầu ruồi bỏ đi, ruồi bèn bỏ đi hết. Do đứa bé gái ấy còn có thiện căn, bởi chuyện ấy bèn dứt sát nghiệp. Nếu không, ngày ngày sát sanh, chính mình cũng bị yểu thọ theo.

Cũng đừng học theo Tôn Thúc Ngao[2], thử hỏi ai có được lòng tốt ấy? Không có tấm lòng tốt ấy sẽ tự tạo sát nghiệp, dạy hết thảy mọi người tạo sát nghiệp! Hơn nữa, rắn hai đầu là con vật lạ hiếm thấy, cho nên Thúc Ngao giết đi rồi chôn. Mãnh thú, rắn độc, châu chấu, không phải là những con vật cứ giết đi là có thể ngăn ngừa được! Mọi người chỉ nên cùng phát tâm từ thiện, cùng niệm Phật hiệu, ắt chúng sẽ lánh xa. Sao ông không thấy trong phẩm Phổ Môn [đã dạy]: “Nhược ác thú vi nhiễu, lợi nha trảo khả bố, niệm bỉ Quán Âm lực, tật tẩu vô biên phương. Ngoan xà cập phúc yết, khí độc yên hỏa nhiên, niệm bỉ Quán Âm lực, tầm thanh tự hồi khứ” (Nếu ác thú vây quanh, nanh vuốt nhọn đáng sợ, do sức niệm Quán Âm, bỏ chạy không tăm tích. Rắn độc cùng bò cạp, phun độc như khói lửa, do sức niệm Quán Âm, nghe tiếng tự rút lui) vậy? Do ông chẳng biết thời thế, thốt ra lời ác cực nặng tự hãm, hãm người. Nếu chẳng nói toạc ra với ông, thì nẻo trước toàn là oán gia! Há có nên nói xằng ư? Pháp danh của tám người quy y tùy theo mỗi người mà tự nhận lãnh.

[Pháp hội Hộ Quốc Tức Tai] ở Thượng Hải là đả thất chứ không phải giảng kinh, tức là buổi chiều bèn khai thị hơn một tiếng, chớ nên tới, vì người đông quá, đâm ra sẽ uổng công mệt nhọc. Quang nhất loạt chẳng tiếp khách, chẳng nói chuyện riêng với ai một câu nào; cũng chẳng nhận thức ăn, tiền tài. Có như thế mới duy trì được. Nếu không, chắc chắn sẽ mệt đến chết. Chương trình ấy đã định, muôn phần chẳng tiện [sửa đổi]. Mong hãy sáng suốt soi xét. Pháp danh của hai vị viết trong tờ giấy khác. Trong xưởng chịu đề xướng ăn chay niệm Phật, chắc chắn công việc sẽ phát đạt, mà cũng có thể hướng dẫn những người cùng nghề. Con người ưa điều lành ai mà chẳng giống như ta. Không có ai đề xướng thì không cách gì phát khởi được! Khai Thị Lục ước chừng cuối tháng sẽ gởi tới. Vô ý mà niệm Quán Âm tức là duyên thường niệm trong đời trước đã chín. Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp. Sanh lòng tin tu trì bèn có thể siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này, người không biết đến hoặc biết đến mà chẳng tu chẳng đáng buồn lắm hay sao?

***

[1] Chữ Thuyên (銓) trong tên ông Chương Dĩ Thuyên có hai nghĩa: Cân nhắc và chọn lựa kẻ hiền để bổ làm quan.

[2] Tôn Thúc Ngao là một danh tướng nước Sở thời Xuân Thu, người huyện Kỳ Tư (nay là huyện Hoài Tân, tỉnh Hà Nam), khéo dùng thủy binh, làm đến chức Lệnh Doãn. Ông cả đời liêm khiết, khi mất nghèo đến nỗi không có hòm để chôn, người làng phải quyên tiền để giúp vợ con ông khâm liệm. Thuở nhỏ, khi lên mười tuổi, ông ra ngoài chơi, đột nhiên thấy một con rắn hai đầu. Trước đó, ông từng nghe nói “ai trông thấy con rắn hai đầu sau ba ngày sẽ chết”. Tôn Thúc Ngao nghĩ mình sẽ chết, động lòng từ bi, sợ người khác trông thấy con rắn ấy cũng phải chết như mình, bèn đập chết rắn, đem chôn kín.