Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

II. PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC
(TT)

Khoảng bốn mươi năm về trước, mẹ của Hà Thế Lễ ở Hồng Kông vãng sinh. Hà Thế Lễ là một vị tướng quân, chịu ảnh hưởng của nền giáo dục phương Tây, là tín đồ kiền thành của Cơ Đốc giáo. Cả nhà đều theo đạo Cơ Đốc, nhưng người mẹ chỉ chuyên tâm niệm Phật. Hà Thế Lễ rất hiếu thuận, trong nhà có Phật đường là nơi để mẹ ông chuyên tâm tu hành. Tuy trong nhà tín ngưỡng khác nhau, nhưng họ sống rất hòa thuận, không hề có sự xung đột, tâm lượng đều lớn, mọi người đều có thể tiếp thu. Bà cụ niệm Phật biết trước giờ chết. Ngày bà vãng sinh giống như ngày đại hội, bà mời tất cả thân thích, bạn bè đến, chào mọi người để đến thế giới Cực Lạc. Bà ngồi lúc vãng sinh với tinh thần rất hoan hỉ; lúc ấy cũng có mời các ký giả đương thời đưa tin bà vãng sinh.

Biểu diễn này là thật không phải giả! Nói đi là đi! Từ đó cả gia đình Hà Thế Lễ đều niệm Phật. Về sau, còn đem ngôi nhà ông ở cúng dường cho Phật giáo làm đạo tràng, chính là Đông Lâm Giác Uyển ở Hồng Kông hiện nay. Bà cụ thật có bản lĩnh, biểu diễn vãng sinh cho mọi người thấy. Tuy suốt đời không giảng kinh, không dạy học nhưng quả thật bà đang giáo hóa chúng sinh, bà độ cả gia đình, cũng độ được rất nhiều chúng sinh đang bán tín, bán nghi, bàng hoàng trước ranh giới của con đường đi đến Cực Lạc. Nay, nhìn thấy, nghe thấy, thấy báo chí đưa tin họ đều tin tưởng.

Chúng ta phải biểu diễn! Không biểu diễn không được! Người niệm Phật ở trong Niệm Phật Đường: Đứng vãng sinh, ngồi vãng sinh, như vậy độ được biết bao nhiêu người. Pháp sư giảng kinh, giảng xong bộ kinh này, liền ngồi trên bục vãng sinh. Đại chúng trong xã hội hiện nay cần những tấm gương này! Khuyến tín làm đầu! Khi họ đã tin thì đơn giản, nếu không tin thì hết cách! Khi đã có tín tâm, tiếp tục “tu Bồ Đề hạnh”.

“Bồ Đề” là tiếng Phạn dịch nghĩa là giác ngộ; “giác” là không mê; “hạnh” là hành vi. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều tỉnh giác, đây gọi là “Bồ Đề hạnh”. Cụ Hoàng Niệm Tổ giải thích như sau: “Do ba bậc vãng sinh đều phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm, nên câu “tu Bồ Đề hạnh” gồm hai ý nghĩa trọng yếu là phát Bồ Đề tâm và chuyên niệm. Tu Bồ Đề đại hạnh ắt phải do phát khởi Bồ Đề đại tâm, mà trong Bồ Đề hạnh thì nhất hướng chuyên niệm là quan trọng bậc nhất. Hết thảy Bồ Tát tu trọn muôn điều lành, nhưng các vị Bồ Tát trong Thập địa, dù ở địa vị nào vẫn chẳng hề rời bỏ việc niệm Phật”.

– Đạo tràng thành lập ở Đồ Văn Ba đến nay (năm 2011) được mười năm. Trong mười năm này chúng ta có thành tựu gì chăng? Hành môn, giải môn rốt cuộc ta thực hành được bao nhiêu?

– Không phải không thực hành mà thực hành chưa đủ! Tiêu chuẩn còn quá xa!

Phải biết xưa nay người thật sự thành tựu, không phải do cha mẹ hay Thầy, Tổ đốc thúc mà quan trọng đó chính là tự động tự phát mới có thành tựu. Chúng ta rất lơ là điều này! Phật tử tại gia lơ là với “Thập thiện nghiệp đạo”; người xuất gia lơ là “Sa di luật nghi”. Điều này không ai trách được. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói do nguyên nhân “tiên nhân bất thiện bất thức đạo đức”, không có người dạy nên không thể trách họ. Nhưng, khi đã ngộ, hiểu rõ rồi thì phải thực hành. Thực hành từ “Đệ Tử qui”; “Đệ Tử qui” là nền tảng làm người; làm người chưa tốt sao có thể thành Thánh Hiền, thành Phật, Bồ Tát!

Trước tiên phải làm người thật tốt. Chúng ta thành lập Học Viện này là có ảnh hưởng đến cả thành phố này. Bản thân chúng ta chưa tốt là có lỗi với cư dân ở đây, vì không làm được tấm gương tốt cho mọi người noi theo. Đạo lý này không thể không hiểu, không thể không biết! Là đệ tử Phật, chúng ta phải có sứ mạng, có trách nhiệm, đây thuộc về tâm Bồ Đề. Nếu đời này quyết định cầu sinh Tịnh Độ, chúng ta không thể không thực hành. Không thực hành coi như vô ích, tiếp tục trôi lăn trong lục đạo luân hồi!

Trong Tịnh Độ, tu hành quan trọng nhất là hai việc: Phát Bồ Đề tâm và nhất hướng chuyên niệm. Phát tâm là trong tâm chỉ có thế giới Cực Lạc, chỉ có Phật A Di Đà. Thật sự vãng sinh, làm tấm gương tốt cho mọi người noi theo, đó chính là phổ độ chúng sinh. Phải chú ý đến câu “Thập Địa Bồ Tát không lìa, niệm Phật”. Điều này nói lên: Bồ Tát tu hành đến sau cùng là phải thành Phật. Câu A Di Đà Phật nghĩa là vạn thiện đều tu, vạn thiện đến sau cùng đều qui về câu Phật hiệu này. Công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn!

Hành Phổ Hiền đạo”: Phổ Hiền Bồ Tát là bậc nhất trong các vị đại hạnh Bồ Tát. Trong kinh này nói các vị đại Bồ Tát cùng đến tham dự pháp hội đều tuân tu đức hạnh của Phổ Hiền Đại Sĩ. “Phổ Hiền đức” chính là mười Đại Nguyện Vương dẫn dắt về Cực Lạc, là đức tự lợi lợi tha chẳng có cùng tận.

Đại Sư Khuê Phong giảng chữ Phổ Hiền như sau: “Một là xét trên tự thể: Thể tánh trọn khắp là Phổ, tùy duyên thành đức là Hiền. Hai là xét trong các địa vị thì trọn khắp tất cả không sót là Phổ, gần bằng với bậc đại thánh (Phật) là Hiền. Ba là xét về đương vị (địa vị đang chứng đắc): Đức không gì chẳng trọn vẹn là Phổ; điều phục, hòa nhã, thiện thuận là Hiền”.

Câu “Giáo hóa nhất thiết chúng sinh, giai phát tín tâm, tu Bồ Đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo”, theo Hòa Thượng Tịnh Không, đây là giáo hóa ba tầng thứ:

  1. Giai phát tín tâm” là chuyển ác thành thiện.
  2. Tu Bồ Đề hạnh” là chuyển mê thành ngộ.
  3. Hành Phổ Hiền đạo” là chuyển phàm thành thánh.

Trong phần nói về Thập nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát lần này, Hòa Thượng Tịnh Không có nêu thêm một số vấn đề mới mẽ hơn những lần giảng trước như sau:

Phần “Quảng tu cúng dường”: Hòa Thượng nêu ra sự việc kiến lập đạo tràng Đồ Văn Ba (Toowoomba) như sau: Sau khi tôi (tức Hòa Thượng) rời Đài Loan qua Singapore ở khoảng ba năm rưởi, vì không được thường trú nên mới đến Úc Châu. Đây là nhờ thiện ý của Bộ trưởng Di trú Úc hoan nghênh chúng tôi đến giúp Úc Châu đoàn kết tôn giáo và đoàn kết dân tộc.

Thành lập đạo tràng Đồ Văn Ba này cốt để thành tựu cho khoảng hai mươi người, sau khi Hàn Quán Trưởng vãng sinh không ai chăm sóc họ. Hy vọng đạo tràng này là đạo tràng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thành tựu “tục Phật tuệ mạng, hoằng pháp lợi sinh”. Mãi đến nay tôi vẫn còn đứng trên danh nghĩa, từ lâu đã muốn buông bỏ cái danh này.

Sở dĩ phải giữ danh nghĩa vì đây là khu vực của người phương Tây: Lạ đất, lạ người, quan hệ của tôi dù sao vẫn tốt hơn một chút, họ làm việc sẽ phương tiện hơn. Quan trọng nhất là phải “Cần tu Giới-Định-Tuệ, tức diệt Tham-sân-si”, có vậy mới đem lại sự cống hiến cho nơi này. Phải thực hành Thập Đại Nguyện Vương ở đây, bắt đầu từ chính bản thân mình, sau đó mới có thể cảm động những người xung quanh. Thị trưởng ở đây đến gặp tôi mấy lần, ông còn rất trẻ, rất có năng lực. Ông nói với tôi: Hy vọng kiến lập thành phố Đồ Văn Ba này trở nên thành phố mô phạm, hòa thuận nhất Úc Châu. Lý niệm này rất hay! Chúng ta phải tận tâm tận lực phối hợp giúp ông.

Mười năm qua, chúng ta ở đây:

Phần đạo duyên, nhân duyên tu đạo: Không có gì tiến triễn; nhưng kết nhân duyên, thiện duyên với dân cư nơi đây cũng không tệ! Điều này rất có lợi ích với lý niệm của Thị trưởng, chúng ta có thể tận một phần sức lực.

Phần pháp duyên kế tiếp là đoàn kết tôn giáo: Có một thành viên người Singapore đến đạo tràng chúng ta, và đang tận tâm tận lực làm công tác này. Ở Singapore đoàn kết tôn giáo, ông có nhiều năm kinh nghiệm và phương pháp. Việc này đối với hoài bảo của thị trưởng đều khởi tác dụng tích cực.

Mấy năm gần đây, thời gian tôi ở bên ngoài nhiều, cũng làm công việc này, hy vọng đoàn kết tôn giáo trên toàn thế giới. Chỉ có đoàn kết tôn giáo mới có thể giúp xã hội an định, hóa giải được nhiều thiên tai thảm họa trên địa cầu. Cả ba loại cúng dường chúng ta đều phải tu, phải bắt đầu từ bản thân mình, từ đạo tràng mình, đừng yêu cầu người khác!

Năm ngoái, đạo tràng chúng ta chính thức mở lớp học kinh Koran và lớp học Tân Cựu Ước. Hy vọng giữa các tôn giáo có thể học tập lẫn nhau. Mục tiêu tương lai, chúng tôi hy vọng có trường Đại học tôn giáo; mỗi tôn giáo có Học Viện riêng; mười mấy tôn giáo là mười mấy Học Viện, tổ chức thành một trường Đại học. Chúng ta đều là người một nhà, đều là đồng học nhưng Viện khoa khác nhau, cùng một trường học. Tôn giáo trên thế giới là một nhà, sẽ mang lại cho thế giới sự an định hòa bình, phồn vinh hưng thịnh, có thể hóa giải rất nhiều phân tranh, mâu thuẩn, xung đột. Đây là nghề phụ trong việc học Phật của chúng ta.

Nghề chính của chúng ta vẫn là niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Nghề phụ là giúp thế gian này hóa giải xung đột, xúc tiến nền an định hòa bình. Trong kinh Phật thường khuyên dạy chúng ta “Chánh, trợ song tu”, đây là tự lợi, lợi tha. “Phật pháp tại thế gian bất ly thế gian giác”. Phải khuyên người khôi phục lại tánh đức, phải dạy hiếu thuận. Chữ “hiếu” hàm nghĩa của nó là “nhất thể”, tuyệt đối không thể tách rời, không thể phân khai. Biến pháp giới, hư không giới là “nhất thể”. Tùy thuận phép tắc của đại tự nhiên, đây chính là đại Thánh đại Hiền. Sự nghiệp của đại Thánh Hiền là làm gương cho chúng sinh, giáo hóa tất cả chúng sinh.

Hai năm nay, tôi đặt nhà sách Thương Vụ in một trăm bộ “Tứ Khố Toàn Thư”, Úc Châu đã nhận được mười bộ. Bây giờ chúng tôi lại đặt thêm hai trăm bộ “Tứ Khố Hội Yếu”, phân tặng cho các quốc gia trên toàn thế giới. Chúng tôi nhờ Liên Hiệp Quốc tặng giúp cho những hội viên tham gia Liên Hiệp Quốc, đây là Pháp thí. Những thư tịch này là trí-tuệ của các bậc Thánh Hiền trong năm ngàn năm qua. Phương pháp và kinh nghiệm hiệu quả của việc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” được ghi chép trong đây rất đáng cho người thời đại chúng ta tham khảo, học tập. Đây là “Quảng tu cúng dường”.

Hiện tại, mọi tịnh tài cúng dường, tôi đều làm những công việc này, khiến mỗi người trong chúng ta đều tu được “Pháp Bố Thí”. Cho nên, tôi không xem trọng việc xây chùa, vì đã có quá nhiều người đứng ra xây dựng. Công việc Pháp cúng dường này không ai biết, cũng không ai làm; việc mà không ai làm là việc tốt, chúng ta nên tiên phong làm.

Phần “tùy hỉ công đức” và “Thỉnh chuyển Pháp Luân”,

Hòa Thượng kể lại mẫu chuyện về vua Đường Thái Tông như sau:

Khoảng một ngàn bốn trăm năm về trước, Đường Thái Tông sinh trưởng vào thời xã hội động loạn. Tùy vương đế vứt bỏ luân lý đạo đức, hoàn toàn chú trọng hưởng thụ cá nhân, không quan tâm đến nỗi thống khổ của nhân dân cho nên xã hội mới loạn. Tùy vương đế nước mất nhà tan, chết rất thê thảm. Đường Thái Tông bình định động loạn thay thế nhà Tùy, dựng nên nhà Đường. Nhu cầu bức thiết thời đó là làm sao có thể khiến xã hội an định.

Đường Thái Tông khởi nghĩa lúc mới mười sáu tuổi, làm tướng quân dẫn binh. Sau khi nhà Tùy diệt, phụ thân ông lên làm hoàng đế, dựng lên nhà Đường được chín năm thì mất. Đường Thái Tông kế thừa vương vị của cha lúc năm hai mươi bốn tuổi, hãy còn rất trẻ, liền nghĩ đến phải làm sao trị tốt quốc gia? Làm sao có thể khiến xã hội có nền an ninh lâu dài? Bèn nghĩ: Vấn đề này cần phải có trí tuệ, có phương pháp, có lý luận, có kinh nghiệm mới đem đến hiệu quả.

– Những điều này do đâu mà có?

– Phải hấp thụ kinh nghiệm giáo hóa của các bậc Thánh Hiền! Ông liền giao phó trọng trách cho đại thần Ngụy Trừng,

người rất nổi tiếng trong lịch sử, thành lập một tổ nhỏ sưu tập những cổ tịch từ “Tam hoàng ngũ đế” đến nhà Tùy, khoảng hai ngàn năm trăm năm. Những người này không phụ kỳ vọng của ông. Từ trong những cổ tịch này, hơn một vạn loại sách cổ, họ chọn ra sáu mươi lăm loại. Trong sáu mươi lăm loại này lại chọn ra những tài liệu tham khảo mà Đường Thái Tông cần đến, biên soạn thành một cuốn sách khoảng năm mươi vạn chữ gọi là “Quần Thư Trị Yếu”, chính là những giáo huấn, tư liệu quan trọng trong cách trị nước. Sau khi biên tập xong cuốn sách này, Đường Thái Tông không bao giờ rời khỏi tay. Lúc trẻ ông đọc sách không nhiều, bây giờ trị lý cả một quốc gia lớn như vậy, quả thật ông đã trị lý đất nước này rất tốt, được xưng là “Đại Đường thịnh thế”, thời đại hưng thịnh trong lịch sử.

“Phố Đường Nhân”, danh xưng này do rất nhiều người nước ngoài cư trú ở Mỹ đặt tên; “Đường” là từ đây mà có. Cho thấy nền chính trị của ông rất thành công. Sự thành công của ông, có thể nói bộ sách này đóng vai trò quan trọng nhất, là “Bảo điển trị quốc”. Nhà Đường trị thế ba trăm năm. Sau khi nhà Đường mất nước, bộ sách này bị thất truyền, không tìm thấy. Cuốn sách này bị người Nhật Bản lấy đi. Chúng ta biết, vào thời nhà Đường, Nhật Bản phái rất nhiều lưu học sinh, rất nhiều người xuất gia đến Trung Quốc học tập, họ đem rất nhiều thứ ở Trung Quốc về nước. Nhật Bản xem cuốn sách này như quốc bảo.

Hoàng đế Càn Long vào thời nhà Thanh, làm vua sáu mươi năm, truyền ngôi cho con trai là Gia Khánh. Giao chính quyền cho con trai, ông lên làm Thái Thượng Hoàng. Khi Gia Khánh làm Hoàng đế, người Nhật hay tin Hoàng Đế mới lên ngôi, bèn dâng tặng một ít lễ vật (chính là hiến cống), trong lễ vật có bộ sách này. Lúc bấy giờ người Trung Quốc mới biết được, thấy được cuốn sách này. Sách này từ Nhật Bản mang đến Trung Quốc không quá mười bộ, số lượng quá ít nên rất ít người biết, người xem lại càng ít hơn!

Đầu năm Dân Quốc, khi nhà sách Thương Vụ vừa sáng lập, lúc đó những chuyên gia học giả mới đem cuốn “Quần Thư Trị Yếu” của Đường Thái Tông, dùng nguyên bản của người Nhật (dùng nguyên bản giống như hiện nay dùng máy chụp lại) in lần thứ nhất; tôi nghĩ phân lượng chắc không quá một ngàn bộ. Về sau tái bản lần thứ hai, dự đoán khoảng hai ngàn bộ, lưu hành trên mảnh đất này. Đã tám, chín năm qua, xã hội Trung Quốc cứ động loạn mãi! Tôi lo ngại cuốn sách này lại bị thất truyền, có thể không tìm thấy nữa! Trước đây, tôi từng đọc qua bộ “Chư Tử Trị Yếu”.

– Sách này từ đâu mà có?

– Trong sách có chú thích rõ ràng là từ hai mươi quyển sau cùng của “Quần Thư Trị Yếu”. “Quần Thư Trị Yếu” tổng cộng có năm mươi quyển. “Chư Tử Trị Yếu” là hai mươi quyển sau cùng, cho nên tôi biết có bộ sách này nhưng chưa tìm thấy.

Thế giới động loạn! Tôi nghĩ mỗi quốc gia đều cần đến nó, cần những tài liệu tham khảo trị quốc này. Bộ tư liệu này rất có giá trị, cho nên khi giảng kinh tôi có nhắc đến mấy lần, không ngờ có vài đồng tu có tâm lưu ý và giúp tôi tìm được, gửi đến Hồng Kông cho tôi. Tôi nhận được hai bộ, cả hai bảng, thật khó được! Thật hi hữu! Trong nước cũng có người có nhiệt tâm, không phải không ai! Quả thật là có người nhận thức được giá trị của nó. Đúng là khó được!

Tôi đem hai bản này giao cho nhà sách Thế Giới của Đài Loan; mỗi loại in một vạn bộ, như vậy bộ sách này về sau không còn lo bị thất truyền. Với số lượng sách này, hy vọng trong năm nay (năm 2011) tôi sẽ nhờ Liên Hiệp Quốc, Tổng thư ký của “Tổ Chức Hòa Bình Tôn Giáo Thế Giới” rất thân với tôi, nhờ ông thông qua danh nghĩa của tổ chức biếu tặng cho lãnh đạo của mỗi quốc gia để họ tham khảo, hy vọng mọi người cùng nỗ lực cứu vãn thế giới.

Sách này viết bằng thể văn cổ, phiên dịch rất khó khăn. Chúng tôi có nhóm thầy giáo khoảng hơn hai mươi vị ở thủ đô Malaysia, nguyên trước đây họ từng ở trung tâm giáo dục văn hóa Lô Giang, An Huy; dẫn đầu là thầy Thái Lễ Húc chuyên nghiên cứu truyền thống văn hóa. Tôi hy vọng nhóm thầy giáo này toàn tâm toàn ý, trong thời gian ngắn có thể hoàn tất chú âm, chú thích cho bộ “Trị Yếu” này, rồi dịch thành văn bạch thoại, sau đó mới dịch sang ngoại ngữ.

Không những chúng ta phải đem những tài liệu tham khảo quan trọng này đưa đến nước ngoài, mà tôi còn hy vọng những thầy giáo này đều có thể giảng giải. Chúng ta có thể thông qua truyền hình vệ tinh, thông qua mạng internet để dạy chương trình này: Quần Thư Trị Yếu. Mở lớp học này hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày không gián đoạn, phát sóng trên toàn cầu, khiến người trên toàn thế giới đều có thể nghe được, đọc được, hấp thụ được kinh nghiệm trị quốc, bình thiên hạ mấy ngàn năm của người xưa, hầu giúp thế giới hiện tại khôi phục lại an định hòa bình, nhân dân xa lìa thiên tai thảm họa, sống một đời hạnh phúc mỹ mãn.

Chúng ta tùy hỉ công đức này, ủy thác cho Liên Hiệp Quốc tặng lễ vật đến mỗi quốc gia. Trong lễ vật có một bộ “Tứ Khố Hội Yếu”, tôi đã in hai trăm bộ, dự tính khoảng năm trăm vạn đô la Mỹ (tức khoảng năm triệu đồng Mỹ kim), tặng cho mỗi quốc gia một bộ; một bộ khoảng hai vạn năm ngàn Mỹ kim (tức khoảng hai mươi lăm ngàn tiền Mỹ), Quần Thư Trị Yếu của Đường Thái Tông tặng mười bộ; còn có một bộ sách cũng rất quí là Quốc Học Trị Yếu. “Trị” này là “Trị học”; “Trị” của Quần Thư Trị Yếu là chính trị, đó là “trị quốc”. Cùng một chữ “Trị” nhưng ý nghĩa khác nhau. Quốc Học Trị Yếu là tinh hoa của Tứ Khố Toàn Thư, là nhập môn của Tứ Khố; muốn nghiên cứu truyền thống văn hóa xưa, có thể hạ thủ từ bộ sách này. Trước tiên phải có nhận thức, có cảm tình, có yêu thích đối với truyền thống văn hóa, sau đó mới có thể nghiên cứu chuyên sâu bộ sách này.

Tóm lại, hoạt động năm nay (năm 2011) của Liên Hiệp Quốc, tôi chuẩn bị những lễ vật tặng cho mỗi vị lãnh đạo của các quốc gia hội viên trên toàn thế giới bao gồm: Mười bộ Quần Thư, mười bộ Quốc Học, một bộ Tứ Khố Hội Yếu, ngoài ra còn tặng hai con dấu đồng. Hình dạng con dấu này, tiết học sau sẽ mang đến cho mọi người xem. Tất cả những việc làm trên đây đều là “tùy hỉ công đức”.

Kế đến “Thỉnh chuyển Pháp Luân”, đối với các thầy giáo của thủ đô Malaysia, tôi phải thỉnh họ “chuyển Pháp Luân” nghĩa là đem bộ Quần Thư Trị Yếu này giảng một lần thật tường tận tỉ mỉ. Dùng vệ tinh và mạng internet phát sóng trên toàn cầu, giảng thời gian dài không gián đoạn, không ngừng phát sóng, mở trên đài truyền hình môn học Quần Thư Trị Yếu. Trước tiên, phải giảng bằng tiếng Trung Quốc, sau đó hy vọng có người học ngoại ngữ, dùng tiếng Anh để giảng giải.

Hiện nay, Liên Hiệp Quốc thông dụng sáu loại ngôn ngữ, hình như có tiếng Tây Ban Nha. Giảng giải bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, giúp mọi người trên toàn thế giới đều đọc được, hiểu được vì sao Trung Quốc suốt mấy ngàn năm qua, quốc gia này có được nền trị an lâu dài như thế? Vì sao nền văn minh cổ lão này đến nay vẫn không suy yếu, vẫn không lạc hậu? Trong bốn nền văn minh lớn của thế giới xa xưa, đến nay chỉ còn độc nhất có nền văn minh Trung Quốc vẫn còn tồn tại. Vì sao vậy? Phải giảng giải rõ ràng, mọi người mới hiểu được, mới biết rằng học thuật của truyền thống văn hóa xưa siêu việt cả thời gian lẫn không gian: Ngày xưa thích hợp, ngày nay vẫn thích hợp!

Chúng tôi từng làm thí nghiệm ba năm ở Thang Trì, làm rất thành công, chứng tỏ những gì của cổ nhân đối trị xã hội mãi đến hôm nay áp dụng đều rất có hiệu quả. Chân lý vĩnh viễn bất biến! Không thể nói nó là thứ lỗi thời, lạc hậu nên không cần đến! Không cần đến, lập tức liền có vấn đề! Người xưa tôn sùng chân lý; văn hóa xưa là kết tinh của văn hóa và của đạo đức. Chúng ta phải nỗ lực tuyên dương, phải siêng năng học tập.

Ở đây, học sinh trong Học Viện chúng tôi, bất luận là thường trú hay đến tham học đều học tập. Nếu mọi người đều nỗ lực thực hành văn hóa truyền thống, tôi tin rằng khoảng mười năm thôi, thành phố Đồ Văn Ba này (Toowoomba) sẽ trở thành một thành phố mô phạm, sự việc này thiết tưởng là có thật không phải là mơ hồ!

Chúng tôi ở đây mười năm, nền móng đã đặt vững, thêm mười năm nỗ lực nữa, người người nơi khu vực này đều hiểu biết luân lý, đạo đức, nhân quả, đều tiếp xúc nền tôn giáo tốt đẹp. Tôn giáo ở Đồ Văn Ba có thể đoàn kết với nhau, đó là bước thứ nhất chúng ta đã làm thành công. Tôi nghĩ: Buổi tiệc thân mật vào mỗi tối thứ bảy hàng tuần do chúng ta tổ chức nơi đây, hiện nay người tham gia ngày càng nhiều, mỗi tôn giáo cũng bắt đầu tham gia là việc tốt.

Nếu mọi người thật sự nỗ lực, nhân sĩ các tôn giáo khác nhau yêu thích việc này, mỗi năm Đồ Văn Ba có thể tổ chức một, hai lần hoạt động này với mô hình lớn, tổ chức trên danh nghĩa của thành phố, chúng ta sẽ tổ chức luận đàm văn hóa Đồ Văn Ba; có thể tổ chức từ năm ngày đến một tuần, hoan nghênh người trên toàn thế giới, trên cả nước đều có thể tham gia thể nghiệm văn hóa của Đồ Văn Ba.

Văn hóa trong đây dung hợp cả cổ kim trong ngoài, là “Tập đại thành” tất cả văn hóa. Tổ chức hoạt động văn hóa này ở đây, tôi tin rằng không những đối với Úc châu mà đối với toàn thế giới sẽ có ảnh hưởng rất sâu xa. Những vấn đề này thuộc về “Tùy hỉ công đức” và “Thỉnh chuyển Pháp Luân”. “Thỉnh chuyển Pháp Luân” là mời người hiểu biết giảng giải và hướng dẫn cho chúng ta; Học Viện Tịnh Tông có sứ mạng, có nghĩa vụ này.

Học viên của Học Viện, bất luận là tại gia hay xuất gia đều phải “Phát tâm Đại Bồ Đề”, như ông Baladen (chữ này có thể viết sai!) nói: Phải bắt đầu từ chính mình “bỏ ác dương thiện, cải tà qui chánh, đoan chánh tâm niệm”. Học Viện Tịnh Tông nơi đây sẽ dẫn đầu trong thành phố nhỏ Đồ Văn Ba này. Chúng ta đứng ra thực hiện, siêng năng nỗ lực thực hành, hội tập tất cả các văn hóa khác trên toàn thế giới. Người xưa nói: “Tìm điểm tương đồng trong sự khác biệt”, phối hợp nền văn hóa mới của cổ kim, trong ngoài thực hiện tại nơi đây.

Thí nghiệm này thành công, chúng ta tin rằng đối với toàn thế giới sẽ đem đến sự cống hiến rất lớn, giữ được nền hòa bình,  trị an lâu dài. Có như vậy, đời này chúng ta sống không uổng phí, đến địa cầu này không có lỗi với chúng sinh ở đây.

Mục tiêu sau cùng của chúng ta vẫn là cầu vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc, vẫn là trở về bên đức Phật A Di Đà. Phải thường nghĩ: Bây giờ chúng ta ở thế giới này là do Phật A Di Đà phái chúng ta đến. Một mặt chúng ta tu Tịnh Độ, một mặt phải làm công việc tốt đẹp này. Tự lợi, lợi tha mới là công đức viên mãn.

Trong kinh này, chư đại Bồ Tát đến dự hội đều tu theo đức của Phổ Hiền Đại Sĩ. Đức của Phổ Hiền là Thập Đại Nguyện Vương qui về Cực Lạc, là đức tự lợi lợi tha không có cùng tận. Thập Đại Nguyện Vương, chúng ta đã đọc nhiều lần, tuy văn tự không dài nhưng sự lý bao hàm trong mỗi câu đều không cùng tận, cho nên mỗi lần thuyết giảng cũng bất tận, hoàn toàn không giống nhau, mọi người đều có thể tham khảo lẫn nhau.

Từ nguyện thứ nhất đến nguyện thứ năm là tự lợi, thành tựu đức hạnh của chính mình. Nguyện thứ sáu và nguyện thứ bảy là hóa tha. Sau khi tự hành phải hóa tha; trước khi hóa tha nhất định phải tự hành. Nếu đức hạnh và trí tuệ của bản thân chưa thực hiện, làm sao giúp được người khác?! Do vậy mà phát tâm hoằng dương chánh pháp không thể không siêng năng học tập và thực thi mười nguyện của Phổ Hiền.

Trong giáo lý Đại thừa đem muôn sự muôn vật khắp biến pháp giới, hư không giới, dùng một chữ làm đại danh từ chung đó là “Pháp”. “Phật” nghĩa là giác ngộ, đối với tất cả pháp vô lượng vô biên đều thấu triệt tường tận. Chư Phật, Bồ Tát đạo đức cao siêu, trí tuệ vô lượng, có vô tận thiện xảo giáo hóa chúng sinh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Thật sự phát tâm “hoằng pháp lợi sinh, tục Phật tuệ mạng”, chúng ta phải siêng năng nỗ lực, dùng hai năm công phu về đức hạnh, lấy “Đệ tử qui”, “Cảm ứng thiên”, “Thập thiện nghiệp” làm nền tảng, phải thực hành cho được! Những thứ này không phải để học thuộc lòng, cũng không phải để giảng giải mà là để thực tiễn trong hành vi sinh hoạt của chúng ta.

Kế đến là văn tự, nếu muốn phát nguyện hoằng pháp lợi sinh, như trước đây thầy Lý dạy: Nhất định phải thông đạt pháp thế và xuất thế gian. Thông đạt Phật pháp, giảng kinh mới “khế lý”; thông đạt pháp thế gian, giảng kinh mới “khế cơ”. Cả “khế lý” và “khế cơ” đều phải đầy đủ. Nghiên cứu pháp thế và xuất thế gian, điều đầu tiên là văn tự. Những kinh điển, cổ tịch này đều viết bằng văn cổ, chúng ta phải học tập văn cổ. Học tập văn cổ không khó!

Thầy dạy chúng tôi, nếu có thể học thuộc, có thể giảng năm mươi bài văn cổ là đủ năng lực để đọc được văn cổ; Tứ Khố Toàn Thư ở giảng đường này bạn có thể xem hiểu; di sản văn hóa năm ngàn năm bạn đều có thể nắm được chìa khoá. Lợi ích vô cùng! Nếu không hiểu văn cổ, mở kinh điển ra xem cũng không hiểu! Đại Tạng Kinh là dùng văn bạch thoại đương thời để phiên dịch, nghĩa là thể văn cổ rất đơn giản. Nhưng, nếu không có nền tảng của văn cổ vẫn không thể hiểu được!

Cho nên, cần dùng một ít thời gian; theo tôi thì khoảng hai năm, một trăm tuần, mỗi tuần học một bài cổ văn; một trăm bài, hai năm thì có thể thuộc hết; không những đọc được mà còn có thể viết được. Chỉ cần có điều kiện này thì hoằng nguyện có thể viên mãn; “tục Phật tuệ mạng, hoằng pháp lợi sinh” có thể làm được. Không có hai điều kiện cơ bản này tuyệt đối không làm được! Cho nên, phải cực khổ hai năm.

Chúng ta học Tịnh tông, hiện nay tuổi tác các vị đều không nhỏ, đều trên bốn mươi tuổi, quả thật rất khó khăn! Có người nói: Bốn mươi tám phẩm Kinh Vô Lượng Thọ giống như bốn mươi tám bài văn, con dùng nó đọc như cổ văn có được chăng? Được! Nếu thuộc được kinh này, cũng có thể nói một cách rõ ràng, như vậy bạn đọc kinh sẽ không có vấn đề gì. Tam tạng, mười hai bộ kinh bạn đều có thể đọc.

Hoàng Niệm lão chú giải kinh này rất hay, ông cũng dùng kinh điển làm căn cứ, tổng cộng ông đã trích dẫn một trăm chín mươi ba bộ kinh. Nói cách khác, đọc chú giải của ông tức là đã đọc được một trăm chín mươi ba bộ kinh luận. Cho nên, có thể thâm nhập một môn. Nhưng văn tự trong cổ tịch thâm sâu hơn chú giải này. Vì vậy, ít nhất cũng phải đọc được năm mươi bài cổ văn, tốt nhất là chọn ra năm mươi bài.

Công việc này gần đây thầy Thái Lễ Húc đang làm, ông đã chọn ra được một trăm sáu mươi hai bài, sau đó đưa tôi xem đề mục, chọn rất hay! Trong một trăm sáu mươi hai bài này, ta chọn năm, sáu mươi bài học thuộc, thời gian hai năm, nền tảng này mới vững chắc. Có nền tảng này, mười năm sau ta còn có tám năm “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”; như vậy sau mười năm sẽ trở thành một nhà Hán học rất xuất sắc trên thế giới; bốn mươi tuổi bắt đầu, năm mươi tuổi có thể thành tựu.

Cư sĩ Lưu Tố Vân ở Đông Bắc, đây là tấm gương rất tốt! Học Phật lúc năm mươi lăm tuổi, sáu mươi lăm tuổi thành tựu. Lần này cùng với tôi ở Singapore, Malaysia, Indonesia, khắp nơi đều có người mời bà đi diễn giảng, rất được mọi người hoan nghênh. Quả đúng như cổ nhân nói: “mười năm đèn sách, nhất cử thành danh”, nói rất lưu loát, không giống người mới học, rất có phong cách của vị giảng sư lâu năm. Những người này đều là tấm gương sáng để chúng ta noi theo, động viên chúng ta siêng năng tu học. Trong vòng mười năm, tốt nhất là không ra ngoài. Bạn thấy thành tựu của các bậc Cổ Đức, suốt đời sống trong ngôi chùa trên núi không ra khỏi cửa nên tâm họ Định. Khắp nơi tiếng tăm trôi nổi rất khó thành tựu! Sức mê hoặc bên ngoài quá lớn!

– Mười năm không hạ sơn được chăng?

– Điều này cần có quyết tâm, có nghị lực!

Trước đây, tôi từng đến Nhật Bản sáu lần. Tôi đến tham quan núi Tỉ Duệ, người Nhật Bản gọi núi này là chiếc nôi của Phật Giáo. Nhật Bản có mười ba Tông phái, Tổ sư khai sơn của mười ba Tông phái đều tu hành trên ngọn núi này. Mười năm trước, khi tôi đến tham quan, tôi thỉnh giáo trụ trì của họ:

-Những vị Tổ sư này ở trên núi Tỉ Duệ thời gian bao lâu mới hạ sơn? Họ nói với tôi:

– Lâu nhất là hơn ba mươi năm; ngắn nhất khoảng mười sáu, mười bảy năm.

Thành lập Phật Học Viện tại đây, tôi đề xuất tu học chín năm. Lúc đó có người nói với tôi: Phải chăng thời gian như vậy quá dài?! Có thể bảy năm chăng? Sau khi tôi phỏng vấn ở Nhật Bản, tâm an định hơn, chín năm không dài! Còn thua xa so với chư vị Tổ sư cao tăng tu hành trên núi Tỉ Duệ; họ ít nhất là mười bảy năm, chúng ta nơi đây mới có chín năm, có một nửa thôi!

– Nhưng chín năm có thành công không?

– Không có thành tựu!

– Vì sao không thành tựu?

– Vì nền tảng chúng ta không vững! Chín năm ở đây, cho dù không có lỗi lầm gì lớn lao, cũng không có thành tựu gì lớn, thành tích chỉ bình thường. Cho nên, tôi hy vọng chín năm nữa mọi người đều có thành tích. Đây là kỳ vọng của tôi đối với các học viên trong Học Viện.

Tháng mười năm nay (2011), chúng tôi tổ chức kỷ niệm mười năm thành lập. Hy vọng kỷ niệm hai mươi năm thành lập, Học Viện Tịnh Tông sẽ xuất hiện vài nhà Hán học xuất sắc và các bậc cao tăng đại đức, không phải không làm được!

– Làm sao để thành tựu?

– Phải dựa vào chính mình, không dựa vào người khác!

Thời đại bây giờ không có ai đốc thúc, hoàn toàn phải dựa vào bản thân: Tự giác, tự ngộ, tự tu, tự mình thành tựu. Nơi đây đem đến cho bạn một môi trường tu học tốt đẹp, chỉ cần nắm vững ba nền tảng: Học thuộc Kinh Vô Lượng Thọ, sau khi học thuộc phải y giáo phụng hành. Học thuộc, biết giảng mà không hành thì cũng vô ích! Nhất định phải đem những lý luận, lời dạy trong Kinh Vô Lượng Thọ trở thành tư tưởng, hành vi của chính mình, như vậy mới thành công, trở thành nhất đại cao tăng. Phật pháp chú trọng thực hành, người có thể hành trì đương nhiên là có thể giảng được. Nói được, chưa chắc thực hành được! Chỉ có hành trì mới đạt được công đức và lợi ích chân thật. “Thỉnh chuyển Pháp Luân” ở đây cũng ngầm có ý nghĩa là thỉnh mình, không phải thỉnh người khác.

– Vì sao có rất nhiều người trẻ tuổi khi phát tâm rất mạnh, sau cùng đều bị đào thải?!

– Vì không có năng lực hàng phục “tham-sân-si-mạn-nghi”, đây là ngũ độc!

– Dùng phương pháp gì để hàng phục?

– Dùng giáo dục căn bản để đối trị! “Đệ tử qui” là giáo dục truyền thống xưa; “Cảm ứng thiên” là giáo dục nhân quả; “Thập thiện nghiệp đạo” là giáo dục Đại thừa. Nếu ba nền tảng này vững chắc tức là có cơ sở của Thánh Hiền, từ đó có thể nhất tâm hướng đến một mục tiêu, một phương hướng chuyên tu pháp môn Tịnh Độ, chuyên học Kinh Vô Lượng Thọ, sẽ được bổn nguyện của đức Phật A Di Đà gia trì, chắc chắn sẽ thành tựu.

Hoằng và hộ chánh pháp là công đức vô lượng vô biên. Ngày nay, chúng ta “Thỉnh chuyển Pháp Luân” là thỉnh bản thân chuyển Pháp Luân. “Thỉnh Phật trụ thế” là thỉnh chính mình trụ thế. Cho nên, chính mình phải thỉnh “Tự Phật chuyển Pháp Luân”, thỉnh “Tự Phật trụ thế”.

Lúc Thế Tôn còn tại thế, rất nhiều quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ đều biết thỉnh Phật giảng kinh. Phước đức giảng kinh, âm dương đều được lợi ích, người đến nghe kinh giác ngộ, tiêu nghiệp chướng, khai trí tuệ. Chúng ta mắt thịt không nhìn thấy, nhân số đó nhiều hơn chúng ta không biết bao nhiêu lần. Lấy phước đức này, hồi hướng khắp hư không pháp giới, hồi hướng cho khu vực này được tiêu trừ thiên tai thảm họa, trăm sự hưng vượng, công đức này lớn biết bao. Ngày nay chúng ta:

– Thỉnh ai giảng?

– Đương nhiên thù thắng nhất là thỉnh người có tu, có chứng; thỉnh người chứng quả đến giảng, công đức này rất lớn. Chưa chứng quả, bất đắc dĩ mới tìm đến họ. Phải tìm người chân tu đến giảng. Nếu người giảng không có tu hành, như vậy là biến thành thiện pháp thế gian, hiện nay gọi là học giả, chuyên gia, họ nói nhưng không làm được! Không thể nói không có lợi ích; có lợi ích nhưng không lớn. Người tu hành chân chánh giảng kinh, công đức này có thể hóa giải thiên tai, chứng quả càng không cần phải nói. Do vậy, công đức hàng đầu là “Thỉnh chuyển Pháp Luân”, thỉnh Pháp sư giảng kinh.

Thỉnh Phật trụ thế”, đây chính là “Chánh pháp cửu trụ”. Trụ bằng cách nào? Phải giúp đời sau! Phật pháp không thể đứt đoạn vào thời đại của ta. Phải giúp đời sau có người kế thừa, Phật pháp mới cửu trụ. Đạo tràng không quan    trọng! Phải biết điều này. Nếu đạo tràng quan trọng vì sao thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni không thành lập đạo tràng? Ngài thành lập đạo tràng thì quá dễ! Gia tộc Phật là Vương tộc có thừa khả năng thành lập đạo tràng cho ngài. Lại nữa, trong hàng đệ tử qui y với Phật có mười sáu vị đại quốc vương, mỗi vị này có thể kiến lập đạo tràng cho Phật cũng không phải khó.

– Vì sao Phật suốt đời không có đạo tràng, đều sống trong rừng cây, đêm ngủ dưới gốc cây, ngày chỉ ăn một bữa, mãi đến khi nhập diệt, đức Phật cũng ở trong rừng, không ở trong phòng?

– Quả thật, đức Phật đã thực hiện một cách triệt để cho chúng ta thấy. Đây là nói đến sự tu hành chân chánh, chúng ta không thể sánh được với ngài.

Ngày nay, chúng ta ở trong phòng phải sinh tâm hổ thẹn, như vậy có thể không tinh tấn, phấn đấu ư?! Thật ra, kiến lập đạo tràng cũng cần thiết. Nhưng, kiến lập như thế nào? Phải kiến lập trường học! Phải biết Phật pháp truyền đến Trung Quốc, tự viện am đường đều là trường học. Nơi cất kinh điển cũng cần phải bảo quản cẩn thận, nên cần có thư viện, nhà Phật gọi là “Tàng Kinh Các” hay “Tàng Kinh Lâu”, tại đây là nơi cúng dường Pháp Bảo, là nơi kiến trúc chủ yếu của đạo tràng. Chánh điện là phòng học. Đại Hùng Bửu Điện là nơi tập hội, cũng có thể làm phòng học lớn. Nếu thành lập đạo tràng, tôi chủ trương xây dựng trường học. Phật pháp phải hướng đến hiện đại hóa, hướng đến văn hóa bản địa. Đây không phải là tôi đề xướng mà Phật pháp vốn là như vậy!

Phật pháp ở quốc gia nào, diện mạo của tượng Phật phải giống tướng mạo của người ở đó, như vậy mới có cảm giác thân thiện. Quan sát tường tận: Ở Trung Quốc tạc tượng Phật, Bồ Tát giống người Trung Quốc; Nhật Bản tạc tượng Phật, Bồ Tát giống người Nhật Bản; tượng Phật của Thái Lan giống người Thái Lan; tượng Phật của Miến Diện giống người Miến Điện v.v… Đó là “Bản địa hóa”. Hình thức của đạo tràng không những phải “Bản địa hóa” mà còn phải “Hiện đại hóa”.

– Những đạo tràng danh sơn cổ sát thời xưa lưu lại có thể làm đạo tràng để chánh pháp cửu trụ chăng?

– Không thể!

– Vì sao?

– Vì người tham quan du lịch quá nhiều! Đón tiếp từ sáng đến tối không ngớt; người nào cũng bận rộn đến không còn tinh thần, làm gì có thời gian để niệm Phật, xem kinh, nghiên cứu giáo lý kinh điển!

– Như vậy có tốt chăng?

– Rất tốt! Tiếp tục làm!

Đây là cách nghĩ của tôi: Khôi phục lại tất cả đạo tràng ngày xưa, đều đưa vào địa danh du lịch. Đối với người trong nước cũng như ngoài nước, tiến hành cơ hội giáo dục. Người đến tham quan du lịch, giới thiệu cho họ biết về những hình tượng Phật, Bồ Tát này, những nghệ thuật này tượng trưng cho điều gì? Nói cho mọi người biết ý nghĩa biểu pháp của nó. Đây là dạy! Người đến tham quan du lịch là đã nộp học phí, nhất định phải học được chút gì đó khi trở về, đừng để họ thất vọng!

Đối với vấn đề “chánh pháp cửu trụ”, tốt nhất là thành lập trường Đại học, bắt chước theo “Thành Đại học” của phương Tây; như ở Mỹ tôi đã thấy có rất nhiều, trong đó một trường Đại học chính là một thành thị. Do phương tiện giao thông phát triễn, lập “Thành phố Đại học” không cần phải nhiều. Như ở Trung Quốc rộng lớn, chỉ cần thành lập mười đạo tràng là đủ. Mười tông phái, mỗi tông phái xây dựng một đạo tràng, ai muốn theo tông phái nào thì đến đạo tràng đó học tập. Trong đạo tràng nhất định phải có giải môn lẫn hành môn, phải chia làm hai bộ phận: Một bên là Học Viện; một bên là Học Hội. “Học Hội” là tu hành; “Học viện” là nghiên cứu kinh giáo, phát triễn theo hướng này rất hay.

Nếu quốc gia phát triễn theo mục tiêu này, trước tiên cần phải thành lập viện nghiên cứu bồi dưỡng thầy, cô giáo. Kiến thiết phần cứng thì rất dễ, có tiền là làm được, nhưng ai đứng ra giảng dạy?! Đây là vấn đề! Cho nên, phải thành lập viện nghiên cứu đào tạo thầy, cô giáo. Mỗi tông phái có khoảng năm, sáu mươi thầy, cô giáo là đủ. “Thành Đại Học” nếu có thể kiến tạo, hy vọng mười tông phái, mỗi tông phái đều có khoảng từ năm mươi đến một trăm thầy, cô giáo; như vậy giáo dục Phật Giáo sẽ được hưng thịnh. Đây gọi là “Thỉnh Phật trụ thế”.

Hiện nay dạy học, thiết bị quan trọng nhất là truyền hình vệ tinh. Mười Tông phái chính là mười Học Viện. Mười Học Viện họp lại thành một Đại học Tôn giáo. Trong trường có truyền hình vệ tinh, có mạng internet. Mỗi tiết học, mỗi tông phái có thể sở hữu vài kinh, khiến tất cả đại chúng có cơ hội “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Làm được như vậy, chúng ta có lý do tin rằng: Mười năm sau, thời đại này sẽ xuất hiện cao tăng, đại đức hơn hẳn thời cổ đại, bất kỳ thời đại nào cũng không sánh được, không phải không làm được!

Ngày xưa, muốn nghe một bộ kinh thật rất khó khăn! Nghe xong một lần muốn nghe lần nữa cũng không thể được! Bây giờ chúng ta có thể ghi âm, ghi hình lại; muốn nghe một trăm lần, một ngàn lần cũng không có gì khó khăn. Quả như cổ nhân nói: “Đọc sách ngàn lần, nghĩa kia tự hiểu”. Điều này cổ nhân không làm được, người bây giờ có thể làm được. Phương pháp này rất hay! Mỗi ngày hai mươi bốn giờ không ngừng phát sóng, lúc nào rãnh thì lúc đó học, hoàn toàn không bỏ phí thời gian, chỉ cần biết vận dụng, đây là điều chúng ta có thể làm được.

Người người đều học; người người đều thành Phật, đều thành Bồ Tát, đây chẳng phải là chánh pháp cửu trụ đó ư? Phương pháp này không phải tôi nghĩ ra. Trước đây, thầy Phương Đông Mỹ nói với tôi; lúc đó chỉ có Ti-vi trắng đen, ông nói: Công cụ này rất tuyệt nhưng phải biết sử dụng nó. Dùng phương pháp này để giảng kinh, đưa Phật pháp vào mỗi gia đình, họ không cần phải bôn ba lui tới đạo tràng, ở nhà cũng có thể xem, có thể học tập. Lúc đó tôi không dám nghĩ đến vì giá thành của nó rất cao, phải tốn không biết bao nhiêu tiền, tiền đâu mà nhiều như thế! Không ngờ, ngày nay khoa học kỹ thuật càng phát triễn, giá thành không ngừng hạ thấp.

Vào Tết năm 2003, chúng ta đã bắt đầu dùng truyền hình vệ tinh, phát sóng đến nay (năm 2011) đã được chín năm, đã có rất nhiều người nhận được lợi ích. Cho nên, dùng công cụ này có thể phát huy hiệu quả rất lớn, khiến người đồng chí hướng trên toàn thế giới có thể cùng nhau học tập. Mỗi năm có thể tổ chức một đại hội chia sẻ tâm đắc tu học, động viên lẫn nhau, thời gian không cần dài, khoảng một tuần là đủ. Đồng tu từ các nơi trên thế giới qui tụ về, cùng nhau gặp gỡ, học hỏi, giao lưu, thảo luận, làm quen lẫn nhau. Có thể thuê một địa điểm lớn có thể dung nạp từ năm đến mười ngàn người.

Chân thật hoằng nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát là bảy nguyện đầu tiên; ba nguyện sau cùng là hồi hướng, trong đây không có tự ngã, không có cầu danh, không cầu công danh phú quí.

– Chúng ta làm sao báo đáp được Phật ân?

– Đó chính là khiến cho chánh pháp cửu trụ, phổ độ   chúng sinh.