SỐ 1669/20
LUẬN ĐẠI TÔNG ĐỊA HUYỀN VĂN BẢN
Tác giả: Bồ tát Mã Minh.
Hán dịch: Đời Trần, Đại sư Chân Đế.
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ (2013).

 

QUYỂN 1

* Thứ 1: Phần Đại Quyết Trạch quy y đức xứ vô biên.

* Kệ viết:

Đảnh lễ tất cả Minh trọn vẹn

Các “Tắc địa” phi nhất phi nhất

Chẳng đếm, chẳng suy vô lượng một

Cùng các sinh loại vô số nẻo.

Và vô lượng số phẩm đoạn mạng

Cùng với rất nhiều pháp không có

Gồm không thể nói không thật có

Cùng chung các pháp như phải trái v.v…

* Luận nói: Theo trong hai bài kệ này tức có tám môn. Những gì là tám môn? Đó là: (1) Môn hiển thị về vị chủ trong trung đạo. (2) Môn hiển thị về phép tắc của đường đạo. (3) Môn hiển thị về lìa tạp loạn hợp làm một. (4) Môn hiển thị về vô biên mao sinh. (5) Môn hiển thị về các loại lìa thức. (6) Môn hiển thị về giả có không thật. (7) Môn hiển thị về sự việc không có thật. (8) Môn hiển thị về vô ngại gồm đủ. Đấy gọi là tám môn.

Căn cứ trong Môn hiển thị về vị chủ trong trung đạo tức có năm loại. Những gì là năm loại? Một là vị chủ của Ứng thân tùy thuận tùy chuyển. Hai là vị chủ của Biến thân có không vô ngại. Ba là vị chủ của Pháp thân bản thể, bản tánh. Bốn là vị chủ của đạo viên mãn gốc ngọn cùng dứt. Năm là vị chủ tùy ứng tự nhiên vô ngại. Đấy gọi là năm loại.

Trong Khế kinh Tu Tập Hành Nhân Đại Đà La Ni giảng nói như vầy: “Bấy giờ, Thiên tử Hoa Luân Bảo Quang Minh liền bạch Phật: Thế Tôn! Bậc Đạo sư thứ nhất có bao nhiêu số lượng có thể nghĩ bàn và không thể nghĩ bàn? Duy nguyện Đức Thế Tôn vì các chúng như chúng con khai thị, nêu rõ. Đại chúng chúng con nghe nhận tên gọi ấy thì thường tụng thường niệm, tức ra khỏi kho chứa vô minh, đến được thành trì Niết-bàn. Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Thiên tử: Ta nếu dùng sức thần thông, trong vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, nói về tên gọi ấy thì rốt cuộc không thể hết. Nay Ta sẽ lược nêu, vì đại chúng các ông tuyên thuyết về phần chính yếu. Này thiện nam! Bậc giác ngộ ấy, về số lượng là rộng lớn viên mãn vượt quá Hằng sa, nói tóm lược thì có năm loại. Những gì là năm loại? Đó là: (1) Phật tùy thể. (2) Phật biến thể. (3) Phật pháp thể. (4) Phật mạc trắc. (5) Phật ứng chuyển. Cho đến nói rộng. Như kệ viết: “Đảnh lễ tất cả minh trọn vẹn”. Do nghĩa gì mà tất cả bậc Đạo sư đều gọi là vị chủ? Do ba nghĩa. Những gì là ba nghĩa? Một là nghĩa Tự tại, vì là vua của các pháp. Hai là nghĩa Đảnh thượng, vì là bậc nhất trong ba cõi. Ba là nghĩa Châu biến, vì không nơi chốn nào là không đến. Đấy gọi là ba nghĩa.

Như vậy là đã nói về Môn hiển thị về vị chủ trong trung đạo. Tiếp theo là nói về Môn hiển thị về phép tắc của đường đạo. Theo trong môn nầy tức có sáu loại. Những gì là sáu loại? Đó là: (1) Phép tắc của âm thanh, ngôn thuyết dẫn dắt tự tại vô ngại. (2) Phép tắc của chỗ dựa nơi bản địa bình đẳng một loại lìa các hư vọng. (3) Phép tắc của hữu lực sinh trưởng các thứ trang nghiêm. (4) Phép tắc của cứu cánh viên mãn gồm thâu đủ hết thảy. (5) Phép tắc của không tạo không tác, chẳng phải danh chẳng phải tướng, chẳng phải thể chẳng phải dụng. (6) Phép tắc của cứu cánh tịnh mãn không giảng giải làm rõ mà tự nhiên hiện tiền thường trụ bất biến. Đấy gọi là sáu loại.

Trong Khế kinh Kim Cang Tam Muội Vô Ngại Giải Thoát Bản Trí Thật Tánh giảng nói như vầy: “Lại nữa, này Bồ-tát Vănthù-sư-lợi! Nếu Ta nói rộng, thì gồm có mười ức bảy vạn ba ngàn năm mươi pháp môn. Hành giả thực hiện xem đấy là mẫu mực của chúng đạo. Nếu Ta nói tóm lược, thì gồm có sáu loại là mẫu mực của hành giả trụ trì. Sáu quy tắc như vậy là thâu tóm chung hết thảy vô lượng vô biên biển kho tàng phép tắc. Những gì là sáu loại? Đó là: (1) Quy tắc thuyết giảng. (2) Quy tắc bình đẳng. (3) Quy tắc chủng loại. (4) Quy tắc hướng thượng. (5) Quy tắc về trái. (6) Quy tắc về thường. Cho đến nói rộng. Như kệ viết: “Các Tắc địa phi nhất phi nhất”. Do nghĩa gì tất cả pháp tạng đều gọi là phép tắc? Do ba nghĩa. Những gì là ba nghĩa? Một là nghĩa kim âu: Người đương thời dễ dàng chuyển đổi dấu ấn của pháp môn, nhưng pháp môn thì thường hằng bất biến, như cái âu kia. Hai là nghĩa dẫn dắt: Là thâu dẫn hành giả khiến hướng về con đường yên ổn, như sự dẫn dắt kia. Ba là nghĩa có thể nắm giữ: Là khéo giữ lấy tự tướng, không bị hoại mất, như sự nắm giữ kia. Đấy gọi là ba nghĩa.

Như vậy là đã nói về Môn hiển thị về phép tắc của đường đạo. Tiếp theo là nói về Môn hiển thị về lìa tạp loạn hợp làm một. Theo trong môn này tức có ba loại. Những gì là ba loại? Đó là: (1) Trói buộc hợp làm một: Là tất cả vô lượng vô biên chúng loại của phiền não vô minh tiếp tục phát sinh. Tuy bên trong không có hợp làm một nhưng bên ngoài thì có hợp làm một. Do số lượng như nhau thành lập khế hợp với nghĩa một. (2) Giải thoát hợp làm một: Là tất cả vô lượng vô biên các Thánh nhân của ba thừa, bên trong có nghĩa hợp nhất của đạo lý, bên ngoài có nghĩa hợp nhất của đồng trần. (3) Câu phi đầy đủ hợp làm một: Là tất cả vô lượng vô biên chúng Đại Thánh của trung gian kim cang gồm đủ hai nghĩa của chủ thể khế hợp và đối tượng được khế hợp. Đấy gọi là ba loại.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trong Khế kinh Luận Nghị Đệ Nhất Vô Cực Vô Tận giảng nói như vầy: “Biển cả của Tăng chúng tuy không có số lượng, nhưng về bản thể ấy thì chỉ có ba loại. Những gì là ba loại? Một là địa Vô căn vô tránh. Hai là địa Câu căn vô tránh. Ba là địa Hữu căn vô tránh”. Cho đến nói rộng. Như kệ viết: “Chẳng đếm, chẳng suy vô lượng, một”. Do nghĩa gì mà tất cả các Tăng đều gọi là hợp làm một? Do có hai nghĩa. Những gì là hai nghĩa? Một là nghĩa tích tập: Là tập hợp vô lượng vô biên tất cả các trần tán loạn. Hai là nghĩa một loại: Là làm cho dừng lại vô lượng vô biên tất cả sóng nước nơi thức. Đấy gọi là hai nghĩa.

Như vậy là đã nói về Môn hiển thị về lìa tạp loạn hợp làm một. Tiếp theo là nói về Môn hiển thị về vô biên mao sinh. Theo trong môn này tức có ba môn. Những gì là ba môn? Đó là: (1) Môn nêu vô biên hữu loại mao sinh. (2) Môn nêu vô biên không loại mao sinh. (3) Môn nêu vô biên tự loại mao sinh. Đấy gọi là ba môn.

Theo trong môn thứ nhất tức có bốn loại. Những gì là bốn loại? Một là noãn sinh. Hai là thai sinh. Ba là thấp sinh. Bốn là hóa sinh. Đấy gọi là bốn loại. Như vậy, bốn loài này có thể thâu tóm tất cả vô lượng danh số căn bản của hữu loại.

Theo trong môn thứ hai tức có ba loại. Những gì là ba loại? Một là không loại quang minh trung tạng. Hai là không loại ám sắc trung tạng. Ba là không loại phong vân trung tạng. Đấy gọi là ba loại. Ba loại như vậy là không chẳng phải là không có mà do ẩn mất nên là không. Nên quán xét kỹ về quyến thuộc của không loại, số lượng là rất nhiều nhưng không nêu ra lượng ấy.

Theo trong môn thứ ba cũng có ba loại. Những gì là ba loại? Một là tự loại do chú thuật huyễn hóa tướng tướng vô lý. Hai là tự loại do biến hiện dược phương ngăn cấm tướng tướng vô lý. Ba là tự loại của ảnh tượng theo gốc hiện tiền. Đấy gọi là ba loại. Ba loại như vậy có thể thâu tóm hết thảy vô lượng vô biên các loại danh số căn bản của tự loại.

Trong Khế kinh Tập Loại Pháp Môn đã giảng nói như vầy: Chủng loại có thức nói rộng thì có mười loại, nói tóm lược thì có ba loại. Những gì là ba loại? Một là chúng sinh có tâm thức gần gũi đang có. Hai là chúng sinh có xứ sở ẩn giấu không thấy. Ba là chúng sinh có thức xa tợ như có chuyển động. Đấy gọi là ba loại. Cho đến nói rộng. Như kệ viết: “Cùng các sinh loại vô số nẻo”. Do nghĩa gì mà tất cả chúng sinh đều gọi là Mao sinh? Do có hai nghĩa. Những gì là hai nghĩa? Một là nghĩa chuyển động không ổn định, vì tùy nơi nẻo thọ sinh không có pháp nhất định. Hai là nghĩa rất nhiều vô số, vì các phương chốn không có số lượng. Đấy gọi là hai nghĩa. Nay trong môn này là muốn hiện bày chỉ rõ bậc Thánh ít như sừng còn hạng phàm thì nhiều như lông.

Như vậy là đã nói về Môn hiển thị về vô biên mao sinh. Tiếp theo là nói về Môn hiển thị về các loại lìa thức. Theo trong môn này có hai loại. Những gì là hai loại? Đó là: (1) Phẩm đoạn mạng do cộng nghiệp kiến lập. (2) Phẩm đoạn mạng do biệt nghiệp kiến lập. Đấy gọi là hai loại. Theo trong môn thứ nhất tức có bốn loại. Những gì là bốn loại? Một là phẩm đoạn mạng của phong luân nơi đại địa. Hai là phẩm đoạn mạng của thủy luân nơi đại địa. Ba là phẩm đoạn mạng của kim luân nơi đại địa. Bốn là phẩm đoạn mạng của hỏa luân nơi đại địa. Đấy gọi là bốn loại. Bốn luân như vậy có thể thâu tóm tất cả danh số căn bản của vô lượng vô biên phẩm loại đoạn mạng do cộng nghiệp kiến lập. Nói phẩm đoạn mạng do biệt nghiệp kiến lập: Nghĩa là thân chúng sinh không chấp thọ, gồm thâu các loại tóc lông v.v… Trong Khế kinh Nghiệp Hành Bản Nhân giảng nói như vầy: “Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Nói về chúng sinh cư trú nơi thế gian tức có hai loại. Những gì là hai loại? Một là tổng luân thế gian. Hai là biệt trì thế gian. Đấy gọi là hai loại. Hai loại thế gian này khéo có thể thâu giữ vô lượng vô biên tất cả chúng sinh cư trú nương dựa nơi thế gian”. Cho đến nói rộng. Như kệ viết: “Và vô lượng số phẩm đoạn mạng”. Do nghĩa gì mà tất cả các loại lìa thức đều gọi là đoạn mạng? Đó gọi là phẩm loại không có trí phân biệt nhận biết rõ.

Như vậy là đã nói về Môn hiển thị về các loại lìa thức. Tiếp theo là nói về Môn hiển thị về giả có không thật. Theo trong môn này tức có năm loại. Những gì là năm loại? Đó là: (1) Giả có như ánh trăng trong nước. (2) Giả có như thành Càn-thát-bà. (3) Giả có như nước của dợn nắng. (4) Giả có như hóa tác huyễn ảo. (5) Giả có như âm thanh vọng lại trong hang động. Đấy gọi là năm loại giả có. Trong Khế kinh Đại Bảo Vô Tận Liên Hoa Địa Địa giảng nói như sau: “Năm loại thí dụ nói về hư giả như trăng trong nước v.v… đã thâu tóm toàn bộ năm vạn năm ngàn năm trăm năm mươi danh tự căn bản của thí dụ giảng nói về hư giả”. Cho đến nói rộng. Như kệ viết: “Cùng với rất nhiều pháp không có”. Do nghĩa gì mà tất cả vô lượng thí dụ nói về hư giả đều gọi là không có? Đó gọi là không có tự tánh thật nên gọi là không. Không có thật ấy, không phải là hoàn toàn không có nên gọi là có.

Như vậy là đã nói về Môn hiển thị về giả có không thật. Tiếp theo là nói về Môn hiển thị về sự việc không có thật. Theo trong môn này tức có bốn loại. Những gì là bốn loại? Đó là: (1) Sự việc không có thật như con của thạch nữ. (2) Sự việc không có thật như sừng của thỏ, ngựa. (3) Sự việc không có thật như lông của loài rùa. (4) Sự việc không có thật như A-la-hán có cấu nhiễm. Đấy gọi là bốn loại không thật có. Trong Khế kinh Bản Địa nói như vầy: “Lại nữa, này Phật tử! Ông trước đã hỏi những pháp nào gọi là phẩm loại không có thật? Đó là bốn loại như con của thạch nữ v.v… đã nói. Ta nếu nói rộng thì số ấy là vô lượng”. Cho đến nói rộng. Như kệ viết: “Gồm không thể nói không thật có”. Do nghĩa gì mà tất cả pháp không thảy đều gọi là sự việc không có thật? Do có hai loại. Những gì là hai loại? Một là thể tánh của pháp không kia là không không như bốn thí dụ đã nói ở đây. Hai là không ấy nếu không giảng giải thì pháp không kia là không. Đấy gọi là hai loại.

Như vậy là đã nói về Môn hiển thị về sự việc không có thật. Tiếp theo là nói về Môn hiển thị về vô ngại gồm đủ. Theo trong môn này tức có mười loại. Những gì là mười loại? Đó là: (1) Pháp tâm chủ. (2) Pháp tâm niệm. (3) Pháp sắc chủ. (4) Pháp sắc tử. (5) Pháp không khế hợp. (6) Pháp vô vi. (7) Pháp chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi. (8) Pháp cũng là hữu vi cũng là vô vi. (9) Pháp câu câu. (10) Pháp câu phi. Đấy gọi là mười loại. Nói pháp tâm chủ: Là pháp căn bản của các tâm thức có thể là một thức, tám thức v.v… Nói pháp tâm niệm: Là tất cả các pháp số cùng với tâm này tương ưng. Nói pháp sắc chủ: Là pháp của đại chủng thích hợp với một chủ thể tạo tác. Nói pháp sắc tử: Là pháp của vô số sắc thích hợp với một đối tượng được tạo tác. Nói pháp không khế hợp: Là vô số các pháp thích hợp với một pháp chẳng phải sắc chẳng phải tâm. Nói pháp vô vi: Là bốn loại pháp vô vi như hư không v.v… Nói pháp chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi: Là pháp của các bản tánh như nhất tâm v.v… Nói pháp cũng là hữu vi cũng là vô vi: Là pháp của các bản tánh như nhất tâm v.v… đã tạo tác tướng nghiệp dụng. Nói pháp câu câu: Là phần thứ nhất của pháp đại bản. Nói pháp câu phi: Là phần sau cùng của pháp đại bản. Mười pháp như vậy, nay trong môn này là một có một không, một sinh một diệt, một nghịch một thuận, một phẩm một loại, không lìa bỏ nhau. Vì vậy nói là Môn hiển thị về vô ngại gồm đủ. Trong Khế kinh Tối Thắng Đức Vương Quảng Đại Hư Không giảng nói như vầy: “Vô lượng vô biên biển lớn pháp môn nhiều như số vi trần trong mười phương thế giới không thể nói, không thể nêu, không thể nói hết. Một ở một khởi một trụ một dừng, hoàn toàn không phân tích, cũng không lìa bỏ. Do nghĩa này nên kiến lập gọi là môn biển cả pháp giới của hư không địa địa rộng lớn viên mãn vô tận vô cực.”. Cho đến nói rộng. Như kệ viết: “Cùng chung các pháp như phải trái v.v…”.

* Thứ 2: Phần Đại Quyết Trạch quy y đức xứ nhân duyên.

Như vậy là đã nói về Phần Đại Quyết Trạch quy y đức xứ vô biên. Tiếp theo là nói về Phần Đại Quyết Trạch quy y đức xứ nhân duyên. Tướng ấy là thế nào?

* Kệ viết:

Do có mười loại nhân duyên lớn

Tạo thành Biển quy y đức xứ

Đó là lễ, ân và gia lực

Rộng lớn thù thắng cùng vô ngã.

Biển cả quyết định và giúp hóa

Gồm chung thị hiện tự bản thân

Mười loại nhân duyên lớn như thế

Đại sĩ viên mãn mới có đủ.

Phàm không cảnh Thánh cũng phi lượng

Bồ-tát tùy phần cũng không thể.

* Luận nói: Do nhân duyên gì mà quy y đức xứ? Do có mười loại nhân duyên lớn nên tạo thành sự việc quy y. Như kệ viết: “Do có mười loại nhân duyên lớn, Tạo thành Biển quy y đức xứ”. Những gì gọi là mười loại nhân duyên? Đó là:

1. Nhân duyên lễ kính tôn trọng sâu xa, có thể tạo sự lễ kính quy y xứ sở công đức, phá trừ kiêu mạn làm tăng trưởng căn thiện. Như kệ viết: “Lễ”.

2. Nhân duyên nhớ nghĩ đến ân đức đã thấm nhuần nhằm báo đáp. Tức có thể tạo tác những luận giáo thắng diệu, mở ra cho tất cả chúng sinh cuồng loạn hiểu biết về tất cả nơi chốn công đức để thảy đều hoan hỷ. Như kệ viết: “Ân”.

3. Nhân duyên ngưỡng thỉnh diệu lực gia hộ để thành tựu việc làm. Nếu để tạo tác pháp môn đại luận vì những đức xứ kia không nhờ lực gia hộ, thì không thể phân biệt về biển cả pháp môn. Như kệ viết: “Và gia lực”.

4. Nhân duyên mở bày rộng khắp khiến được biết rõ. Dùng ngôn từ hay đúng để nêu ra các giảng giải thông sáng, hiện rõ về biển lớn văn nghĩa bí mật, vi diệu, sâu xa trong các kinh ấy, khiến rộng lớn hơn nữa. Như kệ viết: “Rộng lớn”.

5. Nhân duyên khuyến khích muôn vật khiến sinh thù thắng, vì tạo tác luận giáo là nhằm mở bày làm rõ văn nghĩa. Nếu không quy y thì các chúng sinh kia hoàn toàn không thể tin nhận phụng hành. Như kệ viết: “Thù thắng”.

6. Nhân duyên tu tập hạnh nhẫn nhục, vô ngã, phát khởi tâm rộng lớn để hoan hỷ tôn trọng quy hướng. Như kệ viết: “Cùng vô ngã”.

7. Nhân duyên quyết định xuất sinh công đức, quy y đức xứ tạo tác luận giáo. Hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc thấy người thấy, hoặc nghe người nghe, hoặc cùng trụ nơi một nước, tất cả thảy đều tùy thời không dời đổi, sinh ra, tăng trưởng vô lượng vô biên hết thảy phẩm loại của công đức căn thiện, quyết định và quyết định không sai trái. Như kệ viết: “Quyết định”.

8. Nhân duyên của kho báu vô tận nơi biển lớn, tích tập vô lượng vô biên tất cả các loại diệu lực, tạo thành đại dương thù thắng viên mãn, có đủ kho tàng kim cang đức bảo luân như ý, vì nhằm cứu độ vô lượng vô biên các loại chúng sinh bần cùng khổ não. Như kệ viết: “Biển cả”.

9. Nhân duyên của phương tiện thiện xảo để giáo hóa, trong sự đầy đủ tuy không quy y riêng nhưng giúp giáo hóa làm lợi ích cho chúng sinh. Như kệ viết: “Và giúp hóa”.

10. Nhân duyên hiện bày chỉ rõ về bản thân của quá khứ, là đức xứ đã quy y tất cả thảy đều là sự thâu giữ hoàn toàn của tự thân. Như kệ viết: “Gồm chung thị hiện tự bản thân”.

Đấy gọi là tướng của mười loại nhân duyên lớn. Nhân duyên rộng lớn thù thắng như vậy người nào đã thực hiện được? Phật hay Bồ-tát thực hiện? Bồ-tát và Bồ-tát đương lai là không thể thực hiện, huống chi là hàng phàm phu, Nhị thừa? Như kệ viết:

Mười loại nhân duyên lớn như thế,

Đại sĩ viên mãn mới có đủ,

Phàm không cảnh Thánh cũng phi lượng,

Bồ-tát tùy phần cũng không thể”.

HẾT – QUYỂN 1

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20