LUẬN CHỈ QUÁN MÔN TỤNG
Thế Thân Bồ-tát tạo
Nghĩa Tịnh pháp sư dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

Nếu trông thấy phụ nữ,

Vẻ duyên dáng yêu kiều,

Người ngu mê không biết,

Vọng sinh ý dục nhiễm.

Phật dạy quán chương sình,

Dứt trừ tưởng dâm dục.

Nếu nghe theo Phật dạy,

Được quả tốt không thiếu.

Giới thanh tịnh nghe nghĩ,

Siêng năng thường tu tập.

Buộc niệm quán các cảnh,

Đó là nhân giải thoát.

Nếu ai có sân, nhiễm,

Và hôn trầm mê ngủ,

Tháo động, ác tác, nghi,

Năm thứ chướng tu định.

Ít học cùng chúng ở,

Việc xấu, tình hoan lạc,

Yêu thích thân thụ dụng,

Cũng trở ngại định tâm.

Có 5 duyên tâm loạn:

Tâm tán loạn theo cảnh.

Đắm vị, hôn trầm, động,

Ngã mạn, trọng tiến khen.

Tì-kheo theo Phật dạy,

Có lỗi nên phải trừ.

Khéo giữ trụ tâm duyên,

Đó là hạnh trước nhất.

Tiếp ở nơi vắng lặng,

Ngăn ngừa mọi hoạn nạn.

Rồi sau dứt tà tưởng,

Là Tì-kheo sơ nghiệp.

Nên ở nơi rừng hoang,

Mặc y phục phấn tảo.

Thường cầu sự tĩnh lặng.

Dứt trừ tâm dâm nhiễm.

Khất thực gặp phụ nữ,

Nên quán tưởng bất tịnh.

Nhắm mắt trừ tà ý,

Chính tâm trong khi ăn.

Nói nhiều làm việc nhiều,

Là điều phải xa tránh.

Não loạn đến bức bách,

Dùng sức tuệ mà nhịn.

Dưới cây trên đống cỏ,

Hoặc ở trong hang động.

Tu quán nên ở đó,

Tĩnh lặng tu tâm được.

Tu định khi duyên cảnh,

Không cao quá thấp quá.

Không gần quá xa quá,

Đối cảnh khiến tương ưng.

Khéo giữ cảnh sở duyên,

Khéo quan sát chín chắn.

Khi nhắm mắt trụ tâm,

Cũng như mở mắt thấy.

Thâu giữ các căn môn,

Trụ niệm ngưng nội tâm.

Duyên cảnh quán hiện tiền,

Niệm niệm khiến liên tục.

Tướng sở thủ trước mặt,

Dùng tâm quán hình tướng.

Bên nữ căn chương sình,

Dễ sợ dễ nhờm gớm.

Như thể nước ao đục,

Gió thổi khiến lay động.

Khi quán các bóng cây,

Rõ ràng là bất thiện.

Tâm bẩn nước phiền não,

Bị gió tình thổi loạn.

Khi lắng lòng quán sát,

Không thể trụ ám muội.

Tâm hôn trầm phải cử

Để quán việc tốt lành.

Như con đỉa hút máu,

Nước trôi khiến sống lại.

Lại phải mau thâu liễm,

Nơi cảnh cũ an tâm.

Khiến tâm ý đủ sức,

Tùy niệm khéo điều hòa.

Nếu tâm kia tháo động,

Phải nghĩ việc nhàm chán.

Khiến tâm trụ vắng lặng,

Như móc chế ngự voi.

Xa hôn trầm trạo cử,

Vận dụng tâm bình đẳng.

Mặc tình ở trong nhà,

Bấy giờ không tội lỗi.

Từ đó dần an trụ,

Giữ tướng ảnh tâm yên.

Hiểu rõ hạnh trung đạo.

Đèn chính niệm cầm soi.

Bấy giờ dùng tầm tứ,

Lần lượt mà quán sát.

Định ảnh tức thì sinh,

Phân minh hiện tiền trụ.

Không dao động sáng sạch,

Như hình Đại trượng phu.

Ảnh này trông quán trước,

Đó là tướng sai biệt.

Tướng đó đã sinh rồi,

Dục ái liền trừ diệt.

Tức là buộc tâm người,

Tướng phương tiện Sơ định.

Tiếp biết thể sân nhuế,

Vốn do tham nhiễm phát.

Dục ái nếu đã trừ,

Thì được lìa sân nhuế.

Tiếp dùng niệm cần sách,

Khiển trừ tâm buồn ngủ.

Đã quán tướng sai biệt,

Thì nghi tình liền dứt.

Tiếp đến trừ ác tác,

Khéo đi đường yên ổn.

Tĩnh lặng không chướng ngại,

Phòng ngừa được trạo cử.

Phải biết cách tìm kiếm,

Quán sát chỗ thủ tướng.

Tức nơi ảnh trong tâm,

Dùng xét nét truy tìm.

Thấy tâm sai biệt vui,

Do đó được nhẹ nhàng.

Tiếp đến chứng Lạc định.

Định chi tiếp theo là,

Đó gọi Căn bản định.

Khéo an trụ niệm tâm,

Giống như muốn đến làng,

Và vào đến trong thôn.

Đã được Căn bản định,

Lại được tu tập khác.

Được tha tâm, túc trụ,

Thần thông thiên nhãn, nhĩ.

Bấy giờ tâm xét nét

Mà chưa thể trụ yên,

Như nước sông có sóng,

Ở trên bờ mới biết.

Đã được Sơ định rồi,

Nhưng trụ nơi sở duyên.

Tiếp y 2 tĩnh lự,

Tầm tứ đều chấm dứt.

Tuy trụ địa vị này,

Còn có hỷ nổi trôi.

Khi nhập định thứ ba,

Thì tâm liền tĩnh trụ.

Do tâm có mừng vui

Chưa thể khiến trụ niệm.

Đã chứng 4 tĩnh lự,

Các lỗi đều đã trừ.

Thoái phần, thắng tiến phần,

Trụ phần, quyết trạch phần.

Tĩnh lự có 4 thứ,

Người tu định mới biết.

Nếu định thuận phiền não,

Đó gọi là thoái phần.

Sau thắng là thắng phần,

Phải biết từ mỗi trụ.

Do trước khéo phân biệt

Là nhân quyết trạch đạo.

Định này chiêu cảm kia

Gọi là quyết trạch phần.

Nơi vô thường các tướng,

Tạo các khổ hành giải.

Nếu ai được định này

Là noãn …các đạo phần.

Tướng xanh bầm chương sình,

Tu quán có nhiều cách.

Theo Thành giáo tu hành,

Sai biệt cần phải biết.

Thây chết bụng như trống,

Các lỗ mủ chảy ra.

Tất cả đều là thô,

Đó gọi là chướng sình.

Không thích thân thô kệch,

Chỉ tham thân yêu kiều.

Người có nhiễm tâm ấy,

Khiến tu quán như vậy.

Nếu ở nơi tử thi,

Có mủ trắng chảy ra,

Còn lại thịt xanh bầm,

Là xanh bầm chương sình.

Đối sắc mà yêu thích,

Gọi là người ái sắc.

Nhật thân đã có nói.

Khắp tử thi chảy mủ,

Gọi là tướng mủ chảy.

Với người thích mùi hương,

Khiến quán dứt nhiễm tâm.

Thân tử thi rã rời,

Gọi là tướng đoạn hoại.

Với người yêu toàn thân,

Đại Tiên Tôn vì nói.

Từ thi chồn cheo ăn,

Chim mổ lòi xương thịt.

Đối trị yêu ngoại hình,

Vì nói tướng ăn thừa.

Tay chân và xương xóc,

Đều rơi vãi khắp nơi.

Với người tham thân thể,

Nói tướng xương rơi rụng.

Tức nơi tướng xương rơi,

Là dao gậy đánh chém.

Cũng vì yêu toàn thân,

Khiến quán tướng đánh chém.

Thi hài bị dao chém,

Hoặc giáo đâm tên bắn.

Máu chảy khắp châu thân,

Gọi là tướng đẫm máu.

Hương thơm xông thoa mình,

Trang sức mặc áo đẹp.

Những người tham thế này,

Lấy đây làm thuốc chữa.

Đối cảnh chỉ mình ưa,

Không cho người khác thấy.

Nhiều trùng rúc tử thi,

Khiến quán trừ niệm xấu.

Hài cốt đều tiêu tán,

Chỉ còn lại răng xương.

Nếu ai còn tham răng,

Khiến quán tướng răng ấy.

Nếu thấy người mới chết,

Thức lìa còn lại xác.

Chúng sinh tham vui say,

Khiến trừ bỏ ý dục.

Phân tiểu và nước dãi,

Tụ họp lại thành thân.

Ba mươi hai thứ vật,

Đãy da gọi là người.

Tóc lông và răng móng

Gan bụng cùng làm nhân.

Thịt giữ ba trăm xương,

Buộc ngang chín trăm gân.

Chín lỗ tuôn bất tịnh,

Ô uế không nói hết.

Xét kỹ thật đáng ghét,

Người trí chẳng nên gần.

Đã quán thân phụ nữ,

Rồi cũng quán tự thân.

Nơi đây nhân tham nhiễm,

Lẽ ra thường buộc niệm.

Không ra ngục ba cõi,

Đều do dục nhiễm tâm.

Cho nên người có trí,

Khéo tư duy việc này.

Trải nhiều khổ địa ngục,

May gặp được thân người.

Lẽ nào lại buông tuồng,

Không tu hạnh thù thắng.

Dâm tham có nhiều thứ,

Theo sinh ái không đồng.

Một quán đều trừ được,

Gọi là quán xương trắng.

Sắc xúc, thân yêu kiều,

Trang sức sinh nhiễm trước.

Thuốc nào chữa được đây?

Quán xương trắng là nhất.

Trước nơi ngón chân cái,

Định tâm quán mụt nhọt.

Phá vỡ rồi chảy mủ,

Thịt đều rời rã hết.

Rồi đến quán xương ngón,

Trắng như chim bồ câu.

Mụt nhọt dần lớn lên,

Da thịt đều bóc ra.

Lần lượt quán như vậy,

Đến thịt thân đều hết.

Chính niệm thắng giải thành,

Chỉ quán nơi xương khớp.

Nếu còn miếng thịt nào,

Tức gọi là loạn ý.

Huống chi là phóng tâm,

Giong ruổi theo các cảnh.

Có nhiều lúc nhiều tướng,

Tự biết có thể trụ.

Lần lượt và người khác,

Quán chung làm xương khớp.

Rồi cho đến biển lớn,

Xương trắng đều chứa đầy.

Định này đã thành rồi,

Bỏ rộng lại khiến hẹp.

Sơ lược bỏ từ ngoài,

Cho đến chỉ còn xướng.

Lại quán đầu ngón chân,

Là định tâm thứ lớp.

Có lúc bỏ từng miếng,

Lên đến tận xương đầu.

Phải biết tâm cuối cùng,

Khiến trụ giữa chân mày.

Nếu tu tập như vậy,

Thường sinh thắng Phạm cung,

Không đọa lạc tam đồ,

Được sinh trời Ngũ tịnh.

Người đời tán tâm thiện,

Lại theo dòng sinh tử.

Người trí tu định tâm,

Như cứu thân cháy áo.

Phải xả bỏ các duyên,

Ở núi rừng tĩnh vắng.

Chớ để vô thường ép,

Chết suông trong loạn tâm.

Dùng tịnh tâm Bát-nhã,

Được kết quả khả ái.

Nếu không cầu hậu hữu,

Thì phải tu thắng đạo.

Cạo tóc mặc Ca-sa,

Cần phải tu Thánh đạo.

Việc ồn ào lăng xăng,

Đều là nhân sinh tử./.

(HẾT)