LUẬN THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Tịnh Ý Bồ-tát tạo
Bồ-đề-lưu-chi dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

Quy mạng Mâu-ni Phật,

Diệu Pháp, Tì-kheo Tăng.

Nay làm Nhân Duyên Luận,

Để cho được rõ nghĩa.

Đức Mâu-ni giảng nói

Mười hai thắng thượng phần.

Nhân duyên sinh các pháp

Gồm trong ba phần này:

Phiền não, nghiệp và khổ.

Tiếp theo là nói đến:

Trước phiền não 89,

Nghiệp có 2 và 10,

Ngoài ra 7 là khổ,

3 gồm 12 pháp.

Từ 3 nên sinh 2.

Từ 2 nên sinh 7.

Từ 7 lại sinh 3.

Giống như bánh xe quay.

Thế gian tất cả pháp,

Chỉ nhân quả không người.

Chỉ từ các không pháp.

Chỉ sinh nơi không pháp.

Tụng đăng ấn kính hưởng,

Nhật châu chủng tử thủy.

Các ấm chuyển không chuyển,

Người trí khéo suy lường.

Có đệ tử thành tựu, tùy chỗ nghe pháp có thể thụ trì khiến không quên mất pháp của Như Lai. Là sự, phi sự và tính tướng v.v… Như vậy trong nghĩa tâm ôm nghi hoặc, cho nên hỏi để biết. Thưa Tôn giả!

Mâu-ni có giảng nói,

12 thắng thượng phần.

Nhân duyên sinh các pháp

Gồm trong 3 phần đó.

Như vậy các việc đó,

Nay xin hỏi cho biết.

Mong vì tôi giải thích,

Cho dứt trừ lưới nghi.

Thầy thấy ý đệ tử,

Một lòng khao khát pháp

Nên cung kính thỉnh thị,

Liền đáp rằng: Nghe đây!

12 Thắng thượng phần

Bao gồm ở trong này:

Phiền não, nghiệp, và khổ.

Tiếp theo là nói đến

Trong đó 10 và 2,

Nên gọi là 12.

Vì không có phần khác

Nên gọi là thắng phần.

Như các phần bánh xe

Cho nên nói thắng phần.

Nói Mâu-ni, nghĩa là tịch diệt, cũng gọi là không phân biệt, cũng gọi là định, cũng gọi là không nói năng. Đức Mâu-ni diễn giảng, biện luận nói rõ, đó là giả danh. Nhưng đó không phải đại nhân trượng phu, mà khi ở trong định tính tướng phát sinh, duy chỉ do nhân duyên sinh thành. Mười hai phần kia, trong phiền não, nghiệp, và khổ, 3 pháp làm nhân duyên cho nhau, như cái ghế đẩu có 3 chân. Phải biết như vậy.

Hỏi: Thế nào là phiền não, thế nào là nghiệp, thế nào là khổ mà được bao gồm trong thắng phần của các pháp nhân duyên này tạo thành?

Đáp: Ở trong 12 thắng thượng phần này, trước tiên là vô minh, thứ 8 là ái, thứ 9 là thủ. Ba thắng phần này bao gồm trong phiền não.

Thứ 2 là hành, thứ 10 là hữu. Hai thắng phần này bao gồm trong nghiệp.

Ngoài ra 7 thắng phần bao gồm trong khổ.

Ba thứ là phiền não, nghiệp, và khổ bao gồm 12 phần. Nói ngoài ra 7 thứ là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, sinh và lão tử. Thương yêu chia lìa, oán ghét gặp gỡ, mong cầu không được, các pháp như vậy sinh tất cả khổ. Như vậy các phần, trước đã nói, lấy phiền não, nghiệp, khổ làm căn bản. Trong 12 phần chỉ có 3 việc không còn pháp nào khác. Tất cả trong kinh chỉ có phần này không có thứ khác.

Hỏi: Đã biết nghĩa của các thắng phần, xin vì tôi giải thích phiền não nghiệp khổ ở tại đâu?

Lại nữa, làm sao thành tất cả các việc?

Đáp: Từ 3 sinh 2, 3 là phiền não, 2 là nghiệp. Nghĩa là từ phiền não mà sinh nơi nghiệp.

Từ 2 sinh 7, 7 là khổ. Nghĩa là từ nơi nghiệp mà sinh nơi khổ.

Từ 7 sinh 3. Nghĩa là từ nơi khổ mà sinh phiền não. Đây nói phiền não, nghiệp, khổ lần lượt sinh lẫn nhau. Cho nên sinh có tính luân chuyển bất định.

Nói hữu, là Dục, Sắc, Vô sắc giới. Ở trong đó không dừng trụ, ví như bánh xe quay. Vì là hữu nên tất cả thế gian phàm phu chúng sinh lần lữa xuống lên như bánh xe quay. Trong hữu bất định, vì bất định nên nói có 3 xứ.

Hỏi: Cái hữu đó tạo tất cả thân chúng sinh. Nó tác sự như thế nào?

Đáp: Kệ nói:

Thế gian tất cả pháp,

Chỉ nhân quả không người.

Trừ giả thuyết nên có,

Đấy là suy nghĩ đúng.

Đó không phải nói về tính, cho nên thấy làm chúng sinh là bất thành.

Hỏi: Nếu như vậy thì làm sao từ thế gian hiện tại mà thủ được thế gian vị lai?

Đáp: Cho đến không có một pháp nào như sợi lông từ thế gian hiện tại mà thủ thế gian vị lai được. Cho nên kệ nói:

Chỉ từ các không pháp.

Chỉ sinh nơi không pháp.

Đây rõ ràng tự ngã, ngã sở là không. Nghĩa là phiền não, nghiệp xứ, 5 pháp hành này tính lìa vô ngã, nên thủ như vậy.

Hỏi: Nếu tính trong vô ngã pháp mà hành tính vô ngã thì nay nói gì làm chứng?

Đáp: Kệ nói:

Tụng đăng ấn kính hưởng,

Nhật châu chủng tử thủy.

Các thí dụ đó là chứng minh có thể thủ. Tin không có tự thể, vì tính là giả danh. Có người nói đời hiện tại, đời vị lai là như thầy tụng đọc, thật sự không từ thầy chuyển đến đệ tử. Tuy không từ thầy chuyển đến đệ tử, nhưng lẽ nào không có nghĩa dạy trao đệ tử. Có thể nói đệ tử không nhân mà được vì ngăn ngừa phòng hộ lỗi vọng chấp không có nhân.

Như nói khi lâm chung, tâm thức không đến thế gian vị lai là đề phòng lỗi chấp thường, chứ không phải thân vị lai từ các nơi khác đến, mà vì ngăn ngừa phòng hộ lỗi vọng chấp không có nhân.

Như thầy tụng là nhân, khiến đệ tử được. Kia không thể nói. Không thể nói cũng là một hướng khác. Như vậy khi lâm chung tâm thức là nhân. Cho nên được sinh tâm thức thân sau. Mà tâm thức kia không thể nói là một không thể nói là khác, cũng không tách rời kia cũng không phải chính là kia.

Cũng như vậy từ ngọn đèn sinh một ngọn đèn, từ ấn sinh ấn, từ mặt kính sinh có ảnh tượng, từ âm thanh có tiếng vang, từ mặt trời, từ hạt châu phát sinh lửa, từ hạt sinh mầm như hạt lựu hạt xoài v.v…, miệng sinh nước miếng. Các pháp như vậy không gọi tức là chính nó, không gọi là khác nó. Như vậy tất cả các pháp nhân duyên chuyển không chuyển, người có trí khéo suy xét mà biết.

Là trung ấm là nói sắc thụ tưởng hành thức chúng thác sinh thì các ấm này diệt. Nhân các ấm kia diệt sau sinh ra một thứ tương tự, nhưng thật ra không có một pháp đồng đẳng mảy may nào từ đây đến kia. Đấy là nghĩa thế gian tiệm thứ.

Vì nghĩa này cho nên tất cả thế gian là vô thường bất tịnh khổ vô ngã . Vì có thể quán sát những việc như vậy nên không sinh nghi hoặc các pháp. Không nghi hoặc thì không sinh nhiễm. Không sinh nhiễm thì không sinh đắm. Không sinh đắm thì không khao khát. Không khao khát thì không tạo nghiệp. Do không có nghiệp thì không thủ sự. Không thủ sự nên không tạo hạnh hữu vi. Không có hành hữu vi nên không sinh trở lại. Do không sinh nên không có tất cả thân tâm khổ. Như vậy không tạo 5 thứ nhân thì nơi kia không có 7 thứ quả. Bởi không có quả nên gọi là giải thoát. Như vậy tức giải thích các câu bất sinh bất diệt bất thường bất đoạn hữu biên vô biên v.v…

Trong đó có kệ rằng:

Không thấy không duyên sinh,

Chắc chắn là nghĩa đúng.

Trong các việc tốt nhất,

Cho nên không thành đoạn.

Ở trong không có giảm,

Lại cũng không có tăng.

Thấy chân lý như thật,

Tùy trạng và như kia.

(HẾT)