TỨ ĐẾ LUẬN
Bà-tẩu-bạt-ma tạo luận
Thiên Trúc Tam tạng Chân Đế dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 4

Phẩm 6: PHÂN BIỆT ĐẠO ĐẾ

Kinh nói đạo đế. Vì sao? Do đâu khởi? Nếu đạo có thể diệt khát ái thì không nên nói đi đến hết khổ. Nếu không như vậy thì lời nói này là mâu thuẫn. Nếu đều diệt tập khổ thì sao trong kinh không nói đủ? Nếu đạo có thể làm hết khổ, người tu đạo phải khôngcó phẩm khổ? Nếu không như vậy thì không nên nói đi đến hết khổ. Nếu pháp hữu vi không có đi đến trong vô vi thì sao nói là nghĩa chính hành đi đến hết khổ? Nói chính hành là 8 Thánh đạo, là quyết nói sao dùng tên là Thánh, có nghĩa gì? Vì sao chỉ nói đạo là Thánh mà không nói các trợ đạo khác? Nếu đạo khác phần phải nói tướng của chúng. Nếu nói đạo chỉ là phần thì toàn phần với phần không có khác biệt. Đạo là nghĩa gì? Vì sao kinh này nói về toàn phần mà các kinh khác không toàn phần. Nếu đạo là hữu vi thì sao Phật nói vốn xưa đã có? Nếu là vô vi sao nói là hữu vi? Nếu đạo là một thì khi một người tu, bao nhiêu người khác phải chứng đắc, ví như áo v.v… Nếu không như vậy thì không nên nói do một đạo này. Nếu các Thánh nhân đồng chứng đắc một đạo thì sao trí tuệ không đồng? Nếu trí tuệ không đồng sao giải thoát lại bình đẳng? Nếu đạo chẳng phải tâm thì những vật vô tình v.v… cũng phải có đạo. Nếu tâm chẳng phải tâm thì pháp tu sẽ không đủ. Nếu là tâm pháp thì các pháp trái ngược nhau làm sao cùng hiện hữu trong một tâm? Nếu đạo đến trừ hoặc thì pháp trái nghịch nhau đều hiện hữu trong một tâm. Nếu không đến thì với các liên tục khác vì sao không trừ? Nếu phần đều khởi thì có nhiều tác ý. Nếu tuần tự theo thứ lớp khởi thì chỉ có một phần. Vì sao chỉ lập 8 phần không tăng không giảm? Vì sao không lấy dục v.v… các pháp khác? Vì sao 1 pháp làm 3 thứ nói trung đạo có thể diệt phúc ác hành đến hết khổ, sao nói chính kiến làm đầu?

Sao nói trước hành chính kiến là có nghĩa gì? Kiến đã không thành thục năng kiến. Chính kiến với chính kiến trong 10 thiện, 2 pháp khác nhau thế nào? Nếu do chính kiến nhất thời thấy đế thì phải có nhiều cảnh. Nếu không vậy thì chẳng phải niệm niệm diệt. Nếu chính kiến đã rõ các đế thì các phần khác còn dùng làm gì? Chính giác nghĩa là gì? Thế nào là 3 pháp thành 1? Nếu dựa vào 2 định chứng đắc hết các lưu thì chính giác không đủ, đạo phần có khuyết, nghĩa này cần phải cứu xét? Chính là nói nghĩa gì? Nếu có nói năng thì đạo tu không định. Bởi vì sao? Phật nói định bị âm thanh tác động. Nếu không, không thành đạo phần.

Chính nghiệp là gì? Tất cả phần đều là chính nghiệp, sao nói 1 gọi là chính nghiệp? Nếu lìa gọi là chính nghiệp thì lìa là chẳng phải tạo tác làm sao thành nghiệp? Lìa nghiệp đánh đập v.v… sao không nói là đạo phần? Chính nghiệp chính mạng với chính nghiệp chính mạng của 10 thiện, 2 cái khác nhau thế nào?

Chính mạng nghĩa gì? Nếu chính mạng gồm trong thân khẩu nghiệp thì sao lại lập riêng?

Chính tinh tiến là gì? Tướng, dụng, duyên, nghĩa như thế nào? Nếu chỉ diệt ác là thiện thì không có 2 tinh tiến. Nếu chẳng phải thiện thì diệt đế là chẳng phải thiện. Nếu nhất tâm tu chính cần là đầy đủ thì không có 4 chính cần. Nếu tuần tự thứ lớp tu thì trợ đạo tu không đủ.

Chính niệm là gì? Tướng, dụng, duyên, nghĩa như thế nào? Các pháp hữu vi sát-na không dừng trụ làm sao thành niệm? Bởi vì sao?

Vì thấy khác nghĩ nhớ khác không phải nghĩa này. Nếu tất cả các pháp đều là niệm xứ, niệm căn tức là niệm xứ thì nghĩa không phù hợp. Nếu niệm tự không thể giữ một pháp thì sao kinh nói có niệm một khi giữ có khi có thể nhớ có khi không nhớ?

Tam-ma-đề là gì? Tướng, dụng, duyên, nghĩa như thế nào? Chính định nếu là định thì người Tu-đà-hoàn phải không dục sân. Nếu không vậy tức trái đạo lý.

Ông hỏi: Kinh nói đạo đế. Vì sao nói vậy? Do nhân gì khởi?

Đáp: Câu hỏi này không vì mở trí cho người mà nói. Bởi vì sao? Vì do nghe tên là đã rõ nghĩa rồi. Từ Đại bi khởi biện biệt đạo Niết-bàn, hiển lộ nghĩa ẩn giấu, muốn rộng nói ngôn chứng vì đệ tử phân biệt trí nên Phật tự hỏi. Bởi vì sao? Do trước hỏi sau giải thích có nhiều lợi ích, rộng biện biệt duyên khởi như trước đã nói.

Lại nữa đệ tử thụ hóa hỏi các ngoại đạo nhiều thứ đạo mà chưa quyết chắc đạo đó là chính hay tà. Để trừ các tâm vô minh nghi hoặc điên đảo, nên Phật tự hỏi tự đáp.

Đạo là gì? Là 8 Thánh đạo dắt dẫn người không biết đường đi đúng đường.

Ông hỏi: Nếu đạo có thể diệt khát ái thì không nên nói đi đến hết khổ. Nếu không vậy là nói mâu thuẫn?

Đáp: Thánh nhân từ sơ phát tâm tu hành là vì muốn trừ diệt khổ. Vì đây mà khai mở con đường cho nên nói đi đến hết khổ. Khổ này hết là do nhân diệt mà thành, cho nên trừ nhân. Ví như sư tử.

Lại nữa chư Phật quán tất cả chúng sinh đọa trong khổ nạn, phát tâm tu đạo vì trừ khổ cho người, đó là công dụng của tu hành như Kinh Quốc Thí nói.

Lại các kinh khác nói: Khổ hết là công dụng của xuất gia tu hành Phạm hạnh, như Kinh Thất Xa Thí.

Lại nữa Như Lai ra đời vì 3 việc. Khiến người hết khổ là thứ nhất, cho nên nói đi đến hết khổ.

Lại nữa tất cả hữu vi vô thường nên khổ. Lìa pháp hữu vi nên nói khổ hết. Như Kinh Phiệt Dụ nói: Pháp còn xả bỏ huống chi phi pháp.

Lại nữa do 8 Thánh đạo có thể trừ thủ ấm, cho nên nói chung 2 diệt không mâu thuẫn.

Ông hỏi: Nếu đều diệt tập khổ, sao trong kinh không nói đầy đủ?

Đáp: Là khát ái diệt do khổ hết được hiển lộ.

Lại nữa nhân hết chẳng phải là chính dụng, bởi khổ hết mới là chính.

Lại nữa Thánh đạo có thể diệt hữu vì cùng với thủ ấm, cho nên nói khổ hết thông với khát ái diệt.

Ông hỏi: Nếu đạo có thể hết khổ thì người tu đạo phải không có khổ phẩm. Nếu không như vậy thì không nên nói đi đến hết khổ?

Đáp: Dựa vào nhân duyên hết nên nói khổ hết. Như nói lửa tắt gọi là than hết, cũng như gốc rễ diệt nói là cây chết.

Lại nữa Thánh đạo có thể diệt khổ của tà phân biệt mà không trừ khổ của nghiệp báo đời trước và khổ của cõi đất. Ví như hơi thở ra, Chiên-đà-la và Ưu-ba-tư-na v.v…

Lại nữa Thánh đạo đối với hữu dư Niết bàn có thể diệt tâm khổ, đối với vô dư Niết-bàn có thể diệt thân khổ.

Lại nữa Thánh đạo có thể diệt hậu hữu ấm khổ, có điều là hành nghiệp đã tạo đời trước còn theo đuổi chưa dứt, như bánh xe quay như mũi tên bắn.

Ông hỏi: Nếu pháp hữu vi không có đi đến trong vô vi, sao nói là đi đến hết khổ?

Đáp: Niết-bàn không đi, đạo cũng không đi. Tuy đều không đi nhưng do quy hướng Niết-bàn khiến được Niết-bàn, cho nên nói đi đến hết khổ, ví như quốc lộ.

Lại nữa đó là phương tiện nói. Như nói các dòng chảy đi, nước chảy đi hết. Dòng nước và nước hết mà không có đi, nhưng người đời nói có đi. Đi đến hết khổ cũng như vậy.

Ông hỏi: Chính hành là nghĩa thế nào?

Đáp: Do đây hiểu biết thật nghĩa cho nên nói là chính hành. Lại vì tiến tới là đi. Như nói con đường đi đến mọi nơi. Lại có thể đi đến nơi an ổn, nên nói là chính hành.

Lại nữa chính nghĩa là không trái. Hành nghĩa là quy hướng. Do đây không trái với sự quy hướng Niết-bàn nên gọi là chính hành.

Ông hỏi: Chính hành là 8 Thánh đạo. Nói quyết đoán như thế để làm gì?

Đáp: Là để ngược lại các đường khác, là thành lập con đường mọi nơi đi đến, là làm rõ không đi dến các nơi khác.

Lại nữa có thể tận cùng tất cả đường khổ, có thể ngăn chận tất cả nghiệp báo phiền não thiêu đốt, có thể trừ cho mình cho người nỗi sợ ác mạ lỵ, phạt nặng đường ác và sự chết v.v…, có thể trừ xương chất đống như núi Tì-phú-la, có thể làm khô nguồn huyết lệ. Vì công dụng như thế cho nên nói quả quyết.

Ông hỏi: Thánh là nghĩa thế nào?

Đáp: Do thể vô lưu, chúng sinh nhất vị giải thoát, dựa vào tính liên tục này được gọi là Thánh nhân. Ví như thiện pháp, như trong kinh nói là Thánh chính kiến.

Lại nữa Thánh nhân thực hành nên gọi là Thánh. Ví như đường vua đi.

Lại nữa, do Thánh nhân nói nên gọi là Thánh. Ví như con đường thầy đi.

Lại nữa vì Thánh chúng phụng sự nên gọi là Thánh. Ví như đường bò đi.

Lại nữa khiến đến cựcThánh nên gọi là Thánh. Ví như quốc lộ. Như kinh nói Thánh chính giải thoát.

Ông hỏi: Vì sao chỉ có đạo được gọi là Thánh mà không nói các trợ đạo khác?

Đáp: Vì đồng một tướng đều gọi là Thánh. Ví như tính lửa.

Lại nữa vì đồng một mùi vị giải thoát. Ví như nước biển đồng một vị mặn.

Lại nữa 8 đạo là trên hết cả, có thể bao gồm các trợ đạo khác, như Kinh Tượng Tích Thí nói.

Ông hỏi: Nếu đạo khác phần thì phải nói tướng của nó. Nếu nói đạo chỉ là phần thì toàn phần với một phần không sai khác?

Đáp: Là tướng sai khác của toàn phần với một phần cũng có thể thấy có thể nói. Ví như 5 phần Tam-muội, cũng như 5 phần Tì-kheo trụ 5 phần xứ, đạo cũng như vậy với phần có khác, phần đó bình đẳng mà nói gọi là đạo. Bởi vì sao? Là 8 phần này nếu đến địa vị bình đẳng có thể trừ phiền não, còn nếu hoặc chìm hoặc nổi thì không trừ hoặc. Giống như điều chỉnh dây đàn.

Lại nữa phần này viên mãn gọi là đạo, vì có thể làm xong việc, ví như cái xe. Tuy nhiên nếu nghĩa chân thật trong phần nói toàn phần, ví như 5 phần âm nhạc và 5 phần định thì đạo cũng như vậy.

Nay sẽ luận về chỉ có phần là đạo. Chỉ có phần là đạo do 6 nghĩa chứng thành:

1. Nói là đạo. Kinh nói 5 căn là đạo, con đường đi đến Niết-bàn. Năm căn này tức là đạo phần. Cho nên biết chỉ có phần là đạo.

2. Vì kinh nói 3 thân bao gồm đạo. Ba thân chỉ là phần.

3. Do diệt. Kinh nói chính kiến hành nơi diệt ly, đạo không diệt.

4. Do trừ. Kinh nói nếu tu tập chính kiến có thể trừ dục v.v… nếu lìa đạo thì không thể trừ.

5. Do xuất ly. Kinh nói chính kiến v.v… các phần có thể lìa khỏi đây. Nếu chẳng phải là đạo không thể xuất ly.

6. Do thanh tịnh đạo. Kinh nói: Bát-nhã là đạo, vì được thanh tịnh. Bát-nhã tức chính kiến. Cho nên biết phần là đạo.

Ông hỏi: Đạo là nghĩa thế nào?

Đáp: Đạo nghĩa là tìm cầu. Bởi vì sao? Vì do đó có thể được nghĩa chân thật. Cũng lấy nghĩa là đi. Cũng lấy nghĩa là đi, nghĩa là như thế gian nói nói con đừong này đi đến nước Xá-vệ v.v… Đạo cũng như vậy là con đường đi đến Niết-bàn.

Lại nữa lý chân thật nghĩa môn, phương tiện hành sinh v.v… đều là nghĩa của đạo.

Ông hỏi: Vì sao kinh này nói toàn phần, các kinh khác không đủ?

Đáp: Pháp Tạng Luận nói có 2 thứ giả danh: một là tự tại giả danh, hai là y tha giả danh. Nói tên tự thể các phần là tự tại giả danh, như chính kiến v.v… các đạo phần. Y tha giả danh là như niệm v.v… các môn và các phần trợ đạo. Bởi vì sao? Vì tu đạo phẩm này chẳng phải tản tu.

Lại nữa, vì thắng bức cho nên trong niệm xứ v.v… tùy một pháp thắng bức, trong niệm xứ v.v… tùy một pháp thắng hơn các pháp đồng một tên. Ví như các vị mặn chua v.v…, có các vị tùy theo vị trội hơn mà có tên. Lại như các cõi tùy một trội hơn nên các cái khác theo đó được tên.

Lại nữa trong cõi Dục nói đạo toàn phần, cõi Sắc, Vô sắc hoặc 5 hoặc 4. Vì diệt tự thể 4 đối trị cho nên ngoài ra hoặc tăng giảm tùy cõi và địa vị. Vì nghĩa đó nên có đủ và không đủ.

Ông hỏi: Nếu đạo là hữu vi, vì sao Phật nói là đạo cổ xưa? Nếu là vô vi sao lại nói là pháp hữu vi?

Đáp: Đây là do xưa nói đạo là hữu vi. Bởi vì sao? Pháp hữu vi có mới có cũ. Ví như thóc lúa v.v… Nếu là vô vi thì không nên nói lời này. Ví như hư không với Niết-bàn. Như nói thân là nghiệp xưa, chẳng phải vô vi. Như nói giống Thánh và pháp các sư, cho nên do đó nói đạo chẳng phải vô vi. Nay luận nói đạo là hữu vi.

Làm sao biết? Vì do phân biệt rộng, như Kinh Đế Tương Ưng và đáp Đạt-ma-trần-na hỏi. Do tứớng hữu vi cho nên kinh nói: Căn cứ nơi chính tư duy, nếu đạo chưa sinh được sinh, đã sinh được tăng trưởng, vì có sinh trưởng cho nên biết là hữu vi, vì do xả bỏ. Như kinh nói: Pháp còn nên bỏ huống chi phi pháp. Diệt là vô vi thì không thể bỏ, vì duyên bên trong khởi. Như kinh nói: Đạo này y vào bên trong khởi. Đây quy y khó được. Nếu là vô vi không y vào bên trong khởi vì do tên nghiệp. Như kinh nói: Đạo này không phải nghiệp đen trắng có thể diệt các nghiệp. Nếu là nghiệp thì chẳng phải pháp vô vi, do có ăn cho nên như kinh nói: Bảy Bồ-đề phần lấy ăn làm nhân. Nếu là vô vi thì không cần nhân ăn. Vì nghĩa này nên đạo là hữu vi.

Ông hỏi: Nếu đạo là một, thì khi một người tu các người khác phải chứng đắc, ví như cái áo v.v… Nếu không vậy thì không nên nói do một đạo này?

Đáp: Nhiều đạo, chẳng phải một. Bởi vì sao? Vì quả không đồng. Vì đạo khác nên quả có khác. Như con đường khác nên chỗ đi khác.

Lại nữa thể khác nên đạo khác. Nghĩa là kiến đạo, tu đạo v.v…, cũng như 4 khổ, vui, chậm, mau.

Lại nữa căn khác nên đạo khác. Nghĩa là 9 bậc học, 9 vô học, Bích-chi-phật, Phật, do căn sai khác nên có khác. Căn cứ vào chủng tính nên nói do 1 đạo. Như người đời nói 1 thóc lúa. Như kinh nói: Ba đời chư Phật nếu quán nếu nói là 4 đế này mà khổ v.v… 3 đế thể thật không thường. Do 1 đạo nói thì cũng như vậy.

Ông hỏi: Nếu các Thánh nhân đồng được 1 đạo thì sao trí tuệ không đồng? Mà nếu trí tuệ không đồng thì sao giải thoát bình đẳng?

Đáp: Quán tất cả, tất cả thứ cảnh giới được thành chính giác. Cho nên nói Phật đạo không đồng với nhị thừa. Như kinh nói: Giải thoát 5 ấm với giải thoát không khác. Như các thứ lửa đều đốt củi cháy hết không khác. Do lửa không đồng nhau nên sức nóng và ánh sáng có khác. Cũng như vậy, trí tuệ sai khác nhưng công dụng diệt hoặc giải thoát là đồng nhau. Định trí oai đức và ân của Phật do dạo sai khác khó có thể tư duy suy lường như Kinh Đại Luân nói.

Ông hỏi: Nếu đạo chẳng phải tâm pháp thì các vật vô tình cũng phải có đạo? Nếu tâm chẳng phải tâm pháp thì tu hành không đủ. Nếu là tâm pháp thì các pháp trái nhau làm sao 1 tâm đều có?

Đáp: Tâm là sinh tử phần, là thế gian pháp. Đạo là xuất thế pháp. Hai thứ không tương ưng, như pháp và phi pháp, cho nên nói đạo chẳng phải tâm pháp. Dựa vào cảnh gọi là tâm, tìm cầu có thể gọi là đạo. Hai thứ nếu là 1 thể thì tự tính tự biết khỏi bị lỗi này, nên nói đạo chẳng phải tâm pháp. Ví như thọ mạng và định vô tưởng vô tâm v.v… tuy chẳng phải tâm pháp mà trong các ví dụ là vô đạo cũng như vậy. Đạo tuy có hữu tâm, phi tâm, thấu suốt thì đều có, cho nên không gì không tu đủ.

Lại nữa tu có 3 loại. Nghĩa là giữ gìn, tu tập và nghiên cứu, cho nên không gì không đầy đủ. Nhưng đạo cũng có thể nói là tâm pháp. Bởi vì sao? Vì cùng với chính tư duy cùng sinh diệt, ví như nhất tâm. Như kinh nói: Dùng tâm làm tăng thượng cho nên được nhất tâm, gọi là tâm định, tức là đạo phần. Đồng một xuất ly, đồng thành một việc, cho nên cùng chung một tâm mà chẳng trái nhau.

Ông hỏi: Nếu đạo đến trừ hoặc thì pháp trái nhau đều có trong một tâm. Nếu không đến thì đối với sự liên tục của người khác sao không trừ?

Đáp: Đạo không đến hoặc, mà có thể trừ hoặc. Như đạo không đến phá giới mà có thể trừ tự phá giới, nhưng không trừ phá giới của người khác. Về trừ hoặc, cũng vậy, đối với tự tha liên tục tuy đều không đến, mà chỉ trừ tự hoặc không thể trừ hoặc cho người khác.

Phân biệt bộ nói: Chẳng phải đến, chẳng phải không đến, bấy giờ trừ hoặc vì lấy không sinh làm diệt ví như chữa bệnh, khổ thụ đã đến thuốc thang không thể chữa được. Bởi vì sao? Vì không thể chuyển đổi khổ làm vui. Khổ thụ chưa đến thuốc thang cũng không chữa. Bởi vì sao? Vì vô sở hữu. Nếu vậy cái gì chữa trị? Chỉ tạo nghịch duyên khiến cái khổ chưa sinh vĩnh viễn không được khởi. Đạo có thể trừ hoặc cũng như vậy.

Ông hỏi: Nếu các phần đều khởi thì có nhiều tác ý. Nếu lần lượt khởi thì chỉ có 1 phần?

Đáp: Do thành 1 việc cho nên cùng khởi được. Vì duyên cảnh riêng biệt cho nên không có nhiều ý xen tạp cùng khởi. Do công năng cho nên có thể thấy sai khác, ví như dục.

Ông hỏi: Vì sao chỉ lập 8 phần không thêm không giảm?

Đáp: Câu hỏi này không bao giờ cùng tận, cho nên không đáp.

Lại nữa đối trị 8 tà phần cho nên nói 8 phần.

Lại nữa vì bao gồm 3 thân.

Lại nữa vì đối trị 3 thích, 3 kết, 3 hỏa, 3 độc nên nói 8 phần.

Lại nữa trong Tạng Luận nói có thể thành tựu tâm 8 công đức nên nói 8 phần. Do được chính kiến nên tâm thanh tịnh. Do được chính giác nên tâm sáng sạch. Do được chính ngôn nên tâm bình thản. Do được chính nghiệp nên tâm không hối. Do được chính mạng nên tâm linh hoạt nhuần nhuyễn. Do được chính tinh tiến nên tâm thuận theo giáo pháp. Do được chính niệm nên tâm an trụ. Do được chính định nên tâm không động.

Ông hỏi: Vì sao không lấy dục v.v… các pháp khác?

Đáp: Chỉ lấy thắng pháp hoặc lấy công dụng mạnh mẽ, hoặc lấy năng lực gánh vác trách nhiệm nặng, hoặc đều gồm hết chính ngôn, chính nghiệp, chính mạng là vì tín gồm cả 3 của Tu-đà-hoàn phần, nên đủ 4 trí tín của Tu-đà-hoàn. Dục tức là tín này.

Lại nữa tín này cũng gồm trong chính kiến. Người Tu-đà-hoàn được trí tín nên hỷ, ỷ, xả gồm trong chính định. Cho nên 8 phần bao gồm hết các phần.

Ông hỏi: Vì sao 1 pháp làm ra 3 thuyết, hoặc nói trung đạo có thể diệt phúc ác đi đến hết khổ?

Đáp: Vì do 3 việc vượt trội. Ví như mặt trời có thể phá tối tăm gọi là sáng, có thể phân biệt ngày đêm gọi là ngày, có thể phân biệt sát-na nên gọi là thời. Thánh đạo này cũng vậy, có thể lìa nhị biên nên gọi là trung đạo, có thể trừ 2 nghiệp đen trắng nên gọi là diệt phúc ác, nhổ bỏ thân tâm khổ nên nói đi đến hết khổ, hoặc trừ đạo 3 đời cho nên nói đi đến hết khổ.

Ông hỏi: Vì sao nói chính kiến trước tiên?

Đáp: Vì là pháp đứng đầu cho nên ví như vua. Như kinh nói: Trong tất cả pháp hữu vi, Bát-nhã là vượt trội hơn hết.

Lại nữa có thể làm công đức vượt trội cho nên nếu trí tuệ thắng hơn thì các công đức đều thắng hơn. Như Xá-lợi-phất do chính kiến cho nên không quán các mặt khác. Như trưởng giả Thủ-la do chính kiến nên tâm khó động. Như vua A-du-ca do chính kiến này mà những gì khác không thể lôi kéo. Như trưởng già Chất-đa-la có thể nhổ bỏ gốc tai họa. Như kinh nói: Do minh khởi lên nên vô minh diệt hết. Cho nên chính kiến là đứng đầu.

Ông hỏi: Vì sao nói đi trước?

Đáp: Do được chính kiến, các phần khác được xuất thế, được vô lưu, được bất cộng. Hoặc nói do sức chính kiến, dư phần được tên giải thoát đạo. Như kinh nói: Tì-kheo là người chính kiến, vì thân khẩu ý nghiệp được quả vượt trội tốt đẹp khả ái. Như kinh nói rộng cho nên lấy chính kiến là đi trước.

Ông hỏi: Chính kiến có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là chứng chiếu không điên đảo là kiến, tự y chỉ chủng loại chân thật, không điên đảo chứng chiếu.

Lại nữa chân như chính quán gọi là kiến. Như thật quán Thánh đế nên gọi là chính kiến.

Lại nữa chính nghĩa là có thể ngợi khen, kiến có nghĩa là quang minh. Sáng suốt đáng ngợi khen nên gọi là chính kiến. Như kinh nói: Trong các sáng suốt, sáng suốt này vượt trội hơn cả gọi là chính kiến.

Lại nữa thắng đức cảnh trí hành gọi là chính kiến. Bởi vì sao? Là chính định vị này gọi là chính kiến, như Kinh Chủng Tử Thí nói.

Lại nữa Lý Túc Luận nói: Do cảnh chính nên trí chính chứ không do trí chính nên cảnh chính. Vì tương ưng tướng hữu vi hữu lưu nên tất cả chỉ có khổ. Biết đây một cách chắc chắn, đó là chính kiến, như Phật vì Đại Ca-chiên-diên nói.

Lại Tạng Luận nói: Đối trị vô trí, nghi trí, đảo trí có thể vượt qua các khổ. Chân thật trí này gọi là chính kiến.

Ông hỏi: Kiến đã không, ai là người năng kiến?

Đáp: Các duyên tụ tập chung thành kiến này, không một vật nào riêng khác là kiến giả, ví như hoa quả. Lại như kệ nói:

Có kiến, không năng kiến,

Pháp gì là kiến giả?

Theo duyên hòa hợp sinh,

Kiến sắc là hư ngụy.

Khi pháp họp là kiến,

Khi tan không năng kiến.

Chỉ nhân duyên tạo thành,

Như lệ nhân không rõ.

Pháp từ duyên sinh, không thể nói thuộc về một cái gì. Như Phật vì phá Cầu-na nói: Ta không nói thức là năng thức. Bởi vì sao? Đây gọi là toàn phần giả danh tạo tác.

Ông hỏi: Chính kiến với chính kiến của Thập thiện khác nhau thế nào?

Đáp: Tục trí tại Thập thiện. Chân trí tại Bát chính. Có thể cảm đời sau lấy khổ làm quả, quán nghiệp làm cảnh, chính kiến như vậy là nơi pháp Thập thiện. Có thể diệt tam hữu, Niết-bàn làm quả, duyên đế làm cảnh, chính kiến như vậy là nơi Bát Thánh đạo.

Ông hỏi: Nếu do chính kiến nhất thời kiến đế thì phải có nhiều cảnh. Nếu không vậy thì chẳng phải niệm niệm diệt?

Đáp: Nhất thời có thể thành 4 việc, cho nên nói là nhất thời, không vì cảnh khác. Lý Túc Luận nói: Người tu quán hành dùng Thánh trí tuệ thông suốt lỗ chân lông có thể dứt các hoặc.

Lại các kinh khác nói nếu quán chung 3 thụ, các việc đã xong không còn làm lại. Do thông tướng pháp đế vô ngã tướng, cho nên nhất thời thông quán 4 đế. Như lần lượt quán trung, duyên vô thường khổ vô ngã nhất thời thông khổ đế.

Ông hỏi: Nếu chính kiến đã rõ các đế thì các phần khác dùng làm gì?

Đáp: Tất cả các phần có thể diệt tự đối trị, mỗi mỗi đều hữu dụng, như nhổ xuống dưới.

Lại nữa tất cả các phần, ở trong việc của mình đều vì thượng thủ cộng thành một việc. Ví như các phần của cái xe và cái xe. Các phần của cái xe đều có việc của mình, chung lại thành việc chuyên chở. Đạo phần và đạo cũng như vậy.

Ông hỏi: Chính giác là nghĩa thế nào?

Đáp: Pháp chưa từng có, ngày nay như sinh, gọi là chính giác.

Lại nữa pháp bình đẳng này do tưởng hành duyên khởi.

Lại nữa quả của cảnh giới thể tướng cùng phù hợp nhau nên gọi chính giác.

Lại nữa như kiến, tùy, trạch không bỏ gọi là chính giác.

Lại nữa khéo nghe pháp bình đẳng, ví như định phần.

Lại nữa duyên Niết-bàn làm cảnh, như định Vô tưởng, cho nên 3 thành 1.

Ông hỏi: Nếu dựa vào 2 định chứng được lưu hết, chính giác không đủ, đạo phần có thiếu. Nghĩa này cần phải cứu xét?

Đáp: Nếu dựa vào 2 định tu 8 chính đạo, chỉ không có giác quán phần của sơ định, chứ không phải không có giác trong đạo phần. Ví như sơ định và Tam-ma-đề không có giác quán.

Lại nữa do sự thành, cho nên nói có chính giác, không phải do nơi thể, cho nên như có giác 5 căn.

Lại nữa có thể nhổ bỏ đối trị nên nói có chính giác, ví như chính ngôn.

Ông hỏi: Chính ngôn là nghĩa thế nào?

Đáp: Thụ vĩnh viễn thề không phá bỏ gọi là chính ngôn, như truyện Cù-sư-la.

Lại nữa ngôn ngữ này thanh tịnh do trừ cấu uế của nguyện thủ.

Lại nữa vĩnh viễn khéo thực hành pháp sở đắc, như vậy gọi là chính ngôn. Có 2 thứ giới chính ngôn: Một là không cho biết, như kinh nói: Người này lìa vọng ngữ v.v… Hai là cho biết, như kinh nói: Người này thời ngữ, thật ngữ v.v…

Ông hỏi: Nếu có nói năng thì tu không có định. Bởi vì sao? Như Phật nói định thì âm thanh là sự châm chích. Mà nếu không âm thanh thì không thành đạo phần?

Đáp: Vì đạo phần nên chẳng phải châm chích. Ví như chính giác phần, hỷ giác phần v.v…

Lại nữa âm thanh châm chích là bất định. Như trông thấy người nữ. Kinh nói: Thường trông thấy người nữ, đó là sự châm chích đối với người tu Phạm hạnh. Nhưng chẳng là châm chích đối với A-lahán, vì A-la-hán đã trừ hết mọi châm chích.

Lại kinh nói: Đại Tượng nói ở trong định đi đứng v.v… cũng đều tĩnh lặng. Nếu quán hành nhân chính tư thuyết pháp, tức là tâm có định, chứ không phải do có nói năng nên không có định.

Các sư Kinh bộ nói: Chỉ lìa 4 lối nói tức là chính ngôn. Như thế gian nói đã lìa như chính tác, như nói con ngựa này chạy hay, người này khéo giác ngộ.

Ông hỏi: Chính nghiệp là nghĩa thế nào?

Đáp: Kinh nói lìa nghiệp ác của thân gọi là chính nghiệp.

Lại kinh nói thân nghiệp này không ngược dòng, không xuôi dòng, không ban cho, tự tại không lấy, có thể sinh tịch tĩnh. Đó là chính nghiệp.

Lại nữa do quán lỗi lầm, xa lìa sát sinh, không tạo tác, không hành động, ngăn cản, không ưa thích. Đó là chính nghiệp.

Ông hỏi: Tất cả phần đều là chính nghiệp, sao nói 1 phần là chính nghiệp?

Đáp: Nếu lìa tên này, tên khác không rõ. Như pháp giới, pháp nhập v.v… vì không phải sở duyên của nhãn thức cho nên không khiến người biết là chính nghiệp. Vì đó là chỗ y chỉ của tất cả các nghiệp., ví như nền móng của nghiệp.

Ông hỏi: Nếu nói lìa tạo tác là chính nghiệp thì lìa tức chẳng phải tạo tác, làm sao có thể thành nghiệp được?

Đáp: Không tạo tác nên khởi ác nghiệp thì giữ gìn hộ thiện, phải biết đó là nghiệp. Như kinh nói: Ta nói tạo tác, ta nói không tạo tác.

Lại nữa có thể trừ 2 nghiệp đen trắng nên nói không tạo tác. Có thể làm đối trị nghiệp nên nói là tạo tác.

Lại nữa chính nghiệp cũng gọi là chính nghiệp trừ. Do tên này nên nghĩa tạo tác không tạo tác mới thành tên. Ví như do mắt nói thấy, cũng do mắt nói không thấy.

Nếu không tạo tác làm sao biết có nghiệp này?

Đáp: Có nhiều nhân duyên có thể biết nghiệp này. Do kinh nói sắc có 3 thứ là có thấy có ngăn ngại, hai là không thấy có ngăn ngại, ba là không thấy không ngăn ngại.

Lại nói có vô lưu sắc.

Lại nói do 7 phúc đức lợi.

Lại nói do dạy người khác cũng có 10 nghiệp đạo.

Lại nói Tì-kheo có pháp chẳng bao gồm 11 nhập, nghĩa là không thấy không ngăn ngại không nói là không sắc.

Lại nữa nếu không có nghiệp đây thì 8 phần Thánh đạo không đầy đủ. Bởi vì sao? Vì chính khi nhập quán không hành 3 nghiệp.

Hỏi: Nghĩa đó không đúng. Bởi vì sao? Vì ở trong phương tiện đã tu 3 nghiệp. Như kinh nói người này thấy như vậy, biết như vậy là chính kiến, được tu viên mãn và chính giác tinh tiến chính niệm chính định. Lúc trước chính ngôn chính nghiệp chính mạng trước đã thanh tịnh?

Đáp: Dựa theo thế gian đạo giới lìa dục nên nói câu này.

Lại nữa Ba-la-đề-mộc-xoa giới cũng không nên có. Bởi vì sao? Có lúc đương thụ, sau ở tâm khác không nên nói là Tì-kheo, Tì-kheo-ni.

Lại kinh nói nghiệp này gọi là bờ đê vì có khả năng ngăn chận sự phá giới. Nếu không, không thể ngăn chận cái ác.

Các sư Kinh bộ nói chứng này đặc biệt rất nhiều, rất hi hữu, nghĩa không như vậy. Bởi vì sao? Ông nói: Do nói 3 sắc nên biết có vô tác, nghĩa đó không đúng. Các sư quán hạnh như Mục-liên, A-ni-lâu-đà v.v… nói có sắc trong cảnh định là do định lực có được. Sắc này chẳng phải cảnh giới của nhãn căn cho nên nói không thấy, không ngăn chận chỗ nào, nên nói không ngăn ngại.

Nếu ông nói như vậy sao gọi là sắc? Đây với vô tác như nhau, cho nên trở lại hỏi nghĩa của ông.

Ông nói: Do nói vô lưu sắc mà biết có vô tác. Nghĩa đó không đúng. Sắc này cũng là định lực sinh. Do định vô lưu nên sắc cũng vô lưu.

Lại các sư giải thích sắc A-la-hán cũng là vô lưu, chẳng phải lưu y chỉ.

Nạn vấn rằng: Nghĩa đó không đúng. Như kinh nói: Cái gì là pháp hữu lưu? Nghĩa là tất cả nhãn tất cả sắc v.v… Sắc này chẳng phải đối trị lưu nên nói là hữu lưu. Nếu vậy sắc này hoặc hữu lưu hoặc vô lưu?

Đáp: Nếu vậy thì có gì?

Nạn vấn rằng: Vì các tướng xen tạp nhau?

Đáp: Như tướng hữu lưu tướng vô lưu chẳng hay có tướng gì xen tạp?

Lại nữa nếu sắc nhập hoàn toàn là hữu lưu thì sao trong kinh chỉ lựa chọn nói riêng mà không nói chung? Kinh nói hữu lưu sắc là có thủ tâm kiên cố, che lấp sở y cho nên gọi là hữu lưu sắc.

Ông nói: Do 7 phúc đức lợi cho nên biết có vô tác. Nghĩa này không đúng. Các sư Kinh bộ nói: Như ông thụ dụng vật bố thí của thí chủ, do công đức của người thụ bị lợi ích, cho nên tuy thí chủ có tâm khác, do tác ý bố thí trước huân tu liên tục lần lượt chuyển mạnh hơn. Do sức mạnh hơn này nên có thể sinh tùy theo báo nhiều ít thời vị lai. Dựa theo sự liên tục này nói công đức của thí chủ sinh trưởng. Nếu ông nói do sự liên tục kia hơn hay thua và tùy dụng , nếu có tâm khác thì sự liên tục chuyển thành mạnh hơn thì làm sao thành được? Nghĩa này không đúng. Bởi vì sao? Vì đồng với vô tác cho nên ông chấp vô tác. Do kia liên tục hơn thua và tùy dụng. Do kia liên tục thì làm sao thành được?

Hỏi: Không tăng trưởng phúc đức, trong chủng loại không giáo luyện làm sao hằng sinh?

Đáp: Do thường tập, tác ý duyên giới định, cho đến theo đuổi tăng trưởng trong giấc ngủ.

Hỏi: Nếu vậy nghĩa trong Kinh Úc-gìa Trưởng Giả là thế nào? Kinh nói: Nếu Tì-kheo trì giới hành thiện, thụ dụng y thực của thí chủ v.v… đã tu định Vô lượng tâm, thân chứng định này vào ở trong rừng. Do thụ dụng này phúc đức thiện lạc của thí chủ tăng lưu vô lượng, cần phải tin biết trong đây có tác ý gì? Cho nên biết liên tục chuyển thành hơn là đạo lý đúng đắn.

Ông nói: Nếu không có tạo tác, không có giáo luyện, như người dạy người khác tác nghiệp, nghiệp đạo làm sao thành được?

Các sư Kinh bộ cũng nói như vậy. Do sự giáo luyện này nên người khác hoặc lìa hoặc thụ cái khổ sát hại v.v… Cho nên có thể giáo luyện thì đối với sự liên tục vi tế mà thiện ác tăng mạnh hơn. Do sự chuyển mạnh hơn này có thể sinh tùy theo báo nhiều ít thời vị lai. Nếu người tự tác khi tùy sự thành thì liên tục chuyển mạnh hơn, gọi là nghiệp đạo. Nghĩa đó phải biết. Quả mượn tên của nhân cho nên quả của thân khẩu sự này mượn danh nghĩa của thân khẩu cũng như vậy. Như ý thân khẩu không giáo luyện, có Đại đức nói dựa vào thủ ấm của chúng sinh, do 3 thời tác ý bị tội sát sinh, nghĩa là sẽ vì ta sát, chính sát, sát rồi. Cách giải thích này cũng không đúng. Tuy có 3 ý, nghiệp đạo chưa chắc được thành. Bởi vì sao? Vì chưa đoạn mạng căn của mẹ v.v… người khởi 3 ý không có nghịch tội. Nếu người tự hại mạng người khác, do 3 ý này là đáng bị tội.

Nạn vấn: Bằng nhau là không thể thấy. Tại sao ganh ghét phỉ báng không có giáo luyện mà tin thụ liên tục chuyển mạnh hơn?

Đáp: Không có ganh ghét này, chỉ do tâm vận thân mà thành nghiệp đạo. Nếu bảo hành giả có pháp khác tâm khác, ta không hài lòng, đó là do tâm gia hành nên việc ấy thành. Việc này thành nên liên tục chuyển thắng. Nghĩa đó có thể được. Bởi vì sao? Vì do tâm liên tục mà quả được thành.

Ông nói: Pháp nhập Phật không nói vô sắc thì biết có sự không giáo luyện, nghĩa này đã giải đáp, như cảnh giới sắc trong định.

Ông nói: Nếu không nghiệp này thì 8 đạo không thành cho nên biết có sự không giáo luyện, nghĩa này cần làm rõ bằng hữu, ông nên vì nói người nhập đế quán chính ngôn chính nghiệp chính mạng làm sao được có? Người này nơi quán là có ngôn thuyết tác nghiệp, cầu tìm 4 việc cho nên có 3 này có đúng không?

Đáp: Không phải vậy. Cái gì khi ở nơi quán được 3 thứ không giáo luyện này? Do đây được nên nếu sau khi xuất quán không ở trong tà ngôn v.v… chỉ trụ trong chính ngôn v.v… Cho nên trong nhân giả được tên quả. Cho nên nói không giáo luyện gọi là chính ngôn v.v… Luận chủ đáp trong đó sao không chấp như thế? Nếu chính trong quán lìa nơi không giáo luyện được nơi ý như vậy, được y chỉ như vậy, do được đây cho nên sau khi xuất quán không ở trong tà ngôn, chỉ trụ chính ngôn v.v… Cho nên trong nhân giả được tên quả. Cho nên nói liên tục chuyển thắng gọi là chính ngôn. Vì ý nghĩa này đạo có 8 phần.

Lại Thượng tọa bộ nói chỉ không làm ác gọi là 3 phần. Bởi vì sao? Do pháp Thánh đạo lực quyết định không làm, y chỉ vô lưu đạo nên gọi là vô lưu, vị tất nhất thiết xứ bị số pháp đều chân thật có như 8 thế pháp là được, không được, danh, vô danh, khen, chê, vui, khổ, trong đó không được có pháp khác.

Lại các sư khác nói Ba-la-đề-mộc-xoa giới là 3 đạo phần. Dựa theo phương pháp trước tác tín thụ ý. Do tác ý này có thể phòng ngừa thân khẩu ngăn chận việc làm ác, gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa giới. Nếu ông nói người ở nơi tâm khác thì không có giữ gìn. Nghĩa này không đúng, vì do thường tập cho nên duyên phạm giới đến, tác ý liền đến. Nói tác ý này gọi là bờ đê. Bởi vì sao? Do nhớ trước thề không làm ác, vì có tác dụng này nên phải thụ giới.

Lại nữa nếu như ông lập có sự không giáo luyện riêng có thể ngăn chận phá giới thì không nên có chuyện mất niệm phạm giới, không cần phải biện luận rộng, là vậy hay không phải vậy quyết định phải biết.

Trong 8 chính đạo, giới có 3 phần vì là nền tảng của đạo, ví như đất đai, vì đi trước nên ví như vua, có thể vượt qua rừng rậm gai góc cho nên ví như chân, có mùi hương khả ái nên như lá đàn hưong trên trời, thanh tịnh truyền truyền có thể đến Niết-bàn ví như 7 xe.

Lại các sư khác nói dẫn kinh làm chứng là vì đạo quả này, vì nhân duyên cung kính lợi dưỡng, vì chẳng phải bảo vệ đối trị, vì khiến biết sở đắc cho nên biết có giới này.

Lại các sư khác nói vì sao sự không giáo luyện là sắc mà không phải thân thụ?

Đáp: Không giáo luyện thuộc thân khẩu nghiệp, là gồm trong sắc. Thân thụ thì tương ưng với tâm là gồm trong danh.

Lại nữa không giáo luyện là thân nghiệp nên thuộc thân. Thụ là tâm pháp nên thuộc tâm.

Lại nữa không giáo luyện cũng giới, cũng sắc, gồm trong sắc ấm. Thân thụ tâm pháp gồm trong thụ ấm. Nay luận về pháp tâm này là chỗ dựa của nghiệp cho nên do thân khẩu thành tựu giả được tên đó. Pháp này và thụ có gì khác?

Đáp: Thụ ấm bao gồm, pháp này thông khắp các ấm. Bởi vì sao? Vì dựa vào sự liên tục.

Ông hỏi: Lìa sự đánh đập v.v… sao không nói là đạo phần?

Đáp: Thánh nhân hữu học vì chưa tịch tĩnh cho nên ví như chế tội, vì không biến khắp nên như phi Phạm hạnh, vì bất định nên như Bố-sơ-đà phần, vì tư lương nên ví như thí v.v… Nay luận làm rõ phân minh 8 giới, trong đây nói là 3 Thánh đạo phần.

Ông hỏi: Chính nghiệp chính mạng với chính nghiệp chính mạng của 10 thiện khác nhau thế nào?

Đáp: Có thể hoại trừ và không thể hoại trừ. Từ xuất thế chính kiến khởi, vô lưu cam lộ là quả. Từ thế chính kiến khởi, hữu lưu thủ ấm là quả. Hay sinh phúc đức gọi là nghiệp đạo. Hay lìa phúc đức gọi là đạo phần.

Ông hỏi: Chính mạng là nghĩa thế nào?

Đáp: Chính mạng có 2 thứ. Một là người tại gia lỉa 5 thứ buôn bán. Hai là người xuất gia xuất ly 5 thứ tà mạng.

Lại nữa dựa theo đạo lý tìm cầu thụ dụng y thực v.v… 4 duyên.

Lại nữa biết đủ, không mất giống Thánh và giữ gìn thân khẩu.

Lại nữa trước nhân trí tuệ xa lìa thân tâm tà kiến gọi là chính mạng.

Ông hỏi: Chính mạng nếu gồm trong thân khẩu nghiệp sao còn lập riêng?

Đáp: Gồm chung cả hai. Do nghĩa khác nên lập riêng là điều có thể biết được. Ví như các ấm đều gồm trong hành. Do nghĩa khác nên lập riêng 4 ấm.

Lại nữa thể có hai nên ví như thân quán. Kinh nói nơi thân quán thân trụ.

Lại nữa chính mạng khác 2 phần trước, ví như hoặc số.

Ông hỏi: Sao gọi là tinh tiến?

Đáp: Hành ở nơi nơi tùy theo địa sai khác, để được các thứ thiện pháp, sách tiến thân tâm không bỏ gánh nặng.

Lại nữa để diệt ác pháp chứng thiện pháp, thường hành dũng mãnh gọi là tinh tiến.

Lại nữa tu hành nơi đây cố gắng thân tâm không điên đảo gọi là tinh tiến.

Ông hỏi: Tướng gì, dụng gì, duyên gì, nghĩa gì?

Đáp: Sách tiến thân tâm là tướng. Không thoái đọa là dụng. Khởi loại tinh tiến là duyên.

Trong Tạng Luận nói: Tinh tiến thì dũng mãnh là tướng. Không chìm đắm là dụng. Bốn chính cần là duyên. Thắng lợi hành là nghĩa. Nếu người biếng nhác thì hành không thắng lợi.

Lại nữa vì sức khó thắng nên nếu người có tinh tiến thì chiến đấu với phiền não có sức mạnh khó thắng. Nếu người biếng nhác thì không có chuyện này.

Lại nữa hành này có thể tản phá trừ bỏ là nghĩa của tinh tiến.

Ông hỏi: Nếu diệt ác là thiện thì không có 2 tinh tiến. Nếu chẳng phải là thiện thì diệt đế là phi thiện?

Đáp: Diệt ác thì chỉ là không có vật, thiện thì không phải vậy, cho nên tinh tiến có hai.

Lại nữa diệt ác gọi là chân thật thiện. Ngoải ra tức 3 thiện. Bởi vì sao? Vì có 4 thiện. Lìa sự phá giới thối tha là diệt ác. Giới hương phát khởi gọi là sinh thiện. Ví như cái nóng lặng rồi khác với cái lạnh phát sinh.

Ông hỏi: Nếu nhất tâm tu chính cần tức là đầy đủ, thì không có 4 chính cần. Nếu lần lượt tu thì trợ đạo tu không đủ?

Đáp: Nhất tâm tu được 4 chính cần. Ví như nhất tâm quán chung 4 đế. Bởi vì sao? Vì do tu đây nên các ác chưa sinh không sinh được, các ác đã sinh không trụ được, thiện pháp chưa sinh được sinh, đã sinh được trụ vững. Cho nên tinh tiến do thể nên là một mà do dụng nên là bốn.

Lại Phân biệt bộ nói: Nếu người trì giới quán hành, để trừ định đối trị tu 4 chính cần, cái ác đã sinh có thể chướng định, do tinh tiến nên diệt, phá giới chưa sinh sau không sinh được, định chưa sinh được sinh, tịnh giới đã có được trụ vững. Vì ý nghĩa này nên tinh tiến chỉ một sự mà dụng có bốn.

Lại nữa có thuyết nói 4 chính cần lần lượt khởi ví như được định. Bởi vì sao? Có chính cần chỉ có thể phá thượng tâm hoặc, có chính cần khác có thể nhổ bỏ tùy miên hoặc. Lại có chính cần có thể sinh căn chưa sinh. Lại có chính cần có thể khiến đã sinh bền vững. Cho nên tu đạo phẩm chẳng phải là tản tu vì có chính cần.

Ông hỏi: Chính niệm là gì?

Đáp: Không quên mất cảnh sở tri trước gọi là chính niệm, giống như thục thủ tướng. Như kinh nói: Tâm giác tâm hệ v.v… gọi là niệm.

Ông hỏi: Tướng thế nào, dụng thế nào, duyên thế nào, nghĩa thế nào?

Đáp: Cảnh giới sau nhớ lại là tướng. Tâm cảnh không lìa là dụng. Sáu niệm là duyên. Tự nhớ lại khiến nhớ lại là nghĩa của niệm. Ví như Bồ-đề tự giác khiến giác.

Lại nữa Tạng Luận nói: Tâm lắng sạch là tướng không quên mất, nếu mất thì hiện trở lại.

Lại nữa năng thủ cảnh giới là trí y chỉ cho nên gọi là niệm.

Lại nữa niệm có 4 thứ: 1. Tùy chấp danh cú vị. 2. Có thể tùy nghĩa sở chấp. 3. Có thể tùy nghĩa sở tư. 4. Có thể tùy thông đạt nghĩa sở tư. Nay luận nói chính là làm rõ cái thứ tư.

Ông hỏi: Các pháp hữu vi sát-na không trụ, niệm làm sao thành? Bởi vì sao? Vì người khác thấy người khác, nhớ không có nghĩa này?

Đáp: Nếu người biết có niệm khác thì không thành. Như ông Trương thấy mà ông Vương nhớ. Nếu trí liên tục niệm khác cũng không thành. Như thấy con bò thì không nhớ con ngựa v.v… Nếu trí 1 niệm cũng không thành, vì không có trí sau. Cho nên trái lại 3 nghĩa này thì gọi là niệm.

Lại giải thích nếu không tương quan thì người khác thấy người khác không được nhớ. Như người này thấy, người kia không nhớ. Nếu nhân duyên có tương quan thì người khác thấy, người khác được nhớ. Ví như trẻ con, thiếu niên, trai tráng, già yếu trí niệm được theo nhau sinh.

Lại nữa ví như hạt giống, vì không liên quan nhau nên giống lúa mì không nảy mầm lúa gạo. Nếu nhân quả liên quan nhau mà có khác là hạt giống lúa gạo này mầm cộng nhánh lá được theo nhau sinh. Nếu 1 niệm cũng không thành là vì nhân quả không thành lập. Như hạt giống luôn luôn 1 mầm thì không sinh. Do tương quan không khác, không một, nên niệm được thành.

Ông hỏi: Nếu tất cả các pháp đều là niệm xứ, mà niệm căn tức là niệm xứ thì nghĩa không phù hợp?

Đáp: Nay luận nói rõ niệm căn tức 4 niệm xứ, có điều là không lấy cảnh giới phân biệt căn. Ví như trí căn trí lượng.

Lại nữa có 3 thứ niệm xứ: Một là tự tính niệm xứ chỉ sinh ức niệm, ví như vua. Hai là tạp niệm xứ, như pháp có thể trợ giúp niệm cũng gọi là niệm, như vua tôi phụ tá cũng được gọi là của vua. Ba là cảnh giới niệm xứ, do niệm duyên đây khởi cũng được gọi là niệm, như nơi ở của vua. Cho nên niệm căn tức là niệm xứ, nghĩa không trái nhau.

Ông hỏi: Nếu niệm chỉ riêng một mình không thể thủ giữ 1 pháp thì sao kinh nói có niệm nhất thủ?

Đáp: Niệm là tăng thượng duyên thứ nhất trong các thủ hộ, cho nên nói nhất thủ. Ví như vua là thắng hơn. Như kinh nói: Tất cả các pháp, niệm là duyên tăng thượng, là thủ hộ.

Lại nữa 1 niệm có thể hộ tất cả hành, cho nên nói là nhất thủ. Như kinh nói niệm này hành nhất thiết xứ.

Lại nữa tất cả niệm có thể thủ giữ 6 căn như người giữ cửa.

Lại nữa niệm này có thể duyên nhất tâm. Như tay người nắm lấy miệng ống âm dương.

Lại nữa có thể giữ 1 tướng liên tục nên gọi là nhất thủ. Như giữ gìn bảo hộ một đứa con.

Lại nữa 6 căn bị trói buộc, trong 1 niệm trụ không tản trụ tự cảnh, như 6 chúng sinh cùng trói nơi 1 cây cột. Cho nên kinh nói có niệm nhất thủ.

Ông hỏi: Vì sao có khi có thể nhớ có khi không nhớ?

Đáp: Có 3 nhân duyên có thể sinh niệm: 1. Thường tập. Do thường xuyên tập thân khẩu ý, như thấy trong mộng. 2. Tướng. Do tướng thuận nghịch, nhớ cảnh giống và không giống. 3. Trong trẻo. Do tâm lắng sạch, niệm liền được khởi. như đồ đựng nước sạch thấy được hình bóng của gương mặt. Nếu trái lại 3 đây thì không nhớ được.

Lại khi gần chết với lúc mới sinh bị nhiều khổ bức bách quên mất bản niệm nên không nhớ đời trước.

Lại nữa có 6 nhân duyên có thể sinh niệm. Như kệ nói:

Thuận nghịch và thường tập,

Hội tụ cùng một nơi,

Định lực và nhân lực,

Sáu đây là niệm nhân.

Thuận là như thấy kia tương tự đứa trẻ liền nhớ con mình. Nghịch là do chạm xúc cái nóng mà nhớ cái lạnh xưa kia. Thường tập là như việc làm xuyên suốt tự nhiên nhớ. Hội tụ một nơi là như người trông thấy cây xoài mà nhớ vị chua của trái xoài. Định lực là như người được 3 minh nhớ việc đời trước. Nhân lực là như Thánh nhân và đại hạnh thiện nhân nhớ đời quá khứ.

Ông hỏi: Thế nào là Tam-ma-đề?

Đáp: Kinh nói tâm định trụ tĩnh là Tam-ma-đề.

Lại A-tì-đạt-ma Tạng nói có thể nhiếp giữ pháp không tán loạn là Tam-ma-đề.

Lại nữa tâm liên tục, gió dữ phiền não không thể lay động, như ngọn đèn trong nhà kín.

Lại nữa có 2 thứ Tam-ma-đề là thế gian và xuất thế gian. Thế gian là có thể sinh quả báo thế gian, cách ly với giác phần, có thể phục thượng tâm hoặc. Xuẩt thế gian là có thể khiến vượt lìa thế gian, tương ưng với giác phần, có thể nhổ bỏ tùy miên hoặc. Nay luận này nói là xuất thế định.

Ông hỏi: Tướng như thế nào, dụng như thế nào, duyên như thế nào, nghĩa như thế nào?

Đáp: Tâm định trụ là tướng. Phục đối trị là dụng. Y nơi tâm học là duyên.

Lại nữa Tạng Luận nói: Nhất tâm là tướng. Không tán loạn là dụng. Bốn định là duyên. An tâm khiến ngay thẳng là nghĩa. Như người thợ bắn tên điều chỉnh mũi tên. Thế gian nói là mũi tên Tamma-đề. Đây nói là điều chỉnh thẳng mũi tên. Cũng vậy, điểu chỉnh thẳng tâm liên tục gọi là Tam-ma-đề. Như kệ nói:

Tâm nhảy vọt tán động,

Khó giữ cũng khó ngăn.

Người trí điều chỉnh thẳng,

Như điều chỉnh mũi tên.

Lại nữa có thể an tâm bình đẳng, ví như đánh xe khiến đi đường bằng phẳng tránh đường hiểm quanh co. Người tu quán hạnh cũng như vậy có thể đặt tâm nơi an ổn bình đẳng có thể ngăn các ác bất bình đẳng nên gọi là Tam-ma-đề.

Lại nữa tiêu trừ 5 thứ bệnh ngăn che, như người không có bệnh, gọi là Tam-ma-đề.

Ông hỏi: Nếu chính định là định thì người Tu-đà-hoàn phải không có dục sân. Nếu không vậy thì trái đạo lý?

Đáp: Sở đối trị định tại do đắc quả cho nên nghiệm ra là đắc định, ví như 5 căn.

Lại nữa vì chuyên tâm hướng định, ví như con ong tuy trói buộc chỗ ô uế nhưng tâm thích hoa sen, cho nên thường ở nơi có hoa. Thánh nhân cũng vậy, tuy ở dục trần tâm thích vắng lặng, cho nên biết thường tại định.

Lại nữa như người Tu-đà-hoàn tuy vô minh còn mà minh không mất.

Lại nữa như Phật Bà-già-bà tuy có giác quán không xuất tán tâm, vì thường tại định. Người Tu-đà-hoàn định cũng như vậy cho nên không trái đạo lý.

Hỏi: Tám phần Thánh đạo tuần tự như thế nào?

Đáp: Do có thể y vào lý quán Thánh đế nên trước lập chính kiến. Đối với pháp sở quán chấp thị không bỏ. Tiếp đến lập chính giác. Từ đó tiếp theo lập chính ngôn, chính nghiệp, chính mạng. Nơi pháp sở quán là ly, là đắc. Tiếp theo lập tinh tiến. Đối với sở ly được vĩnh viễn không quên mất. Tiếp lập chính niệm, do niệm không mất. Đối với cảnh sở kiến tâm không tán động. Tiếp lập chính định.

Lại nữa nếu 8 pháp cùng khởi thì không thứ lớp, mà thứ lớp nói chẳng không có đạo lý. Nếu người muốn khởi Niết-bàn phải trước cầu chính kiến. Như người muốn đi ắt phải có mắt. Như chỗ kiến lý chấp thị lựa chọn. Tiếp lập chính giác. Như chỗ lựa chọn nói tiếp lập chính ngôn. Bởi vì sao? Nếu có ngôn ngữ, vì y nơi giác quán nên như nói mà làm. Tiếp lập chính nghiệp. Hai đây thanh tịnh. Tiếp lập chính mạng, người này trụ giới. Nếu khởi cần sách tiếp lập tinh tiến. Vì có tinh tiến thì niệm không mất, tiếp lập chính niệm. Do có niệm nên tâm không tán loạn, tiếp lập chính định.

Lại nữa A-tì-đạt-ma Tạng nói: Hành này lấy trí tuệ làm căn bản. Bởi vì sao? Bốn đế cảnh sâu, chẳng phải trí không thể hiểu rõ, cho nên trước lập chính kiến tâm xúc cảnh này. Tiếp lập chính giác. Do 2 phần này, trong 4 đế đối tự khiến biết. Tiếp lập chính ngôn. Do 2 phần trước như nói phát khởi hành. Tiếp lập chính nghiệp. Do 2 phần trước, miệng nói thân làm, thụ dụng 4 đế. Tiép lập chính mạng. Thân tâm cần sách là tiến đế lý. Tiếp lập tinh tiến. Do tinh tiến này đối với cảnh 4 đế tâm dụng trong sạch. Tiếp lập chính niệm. Do chính niệm này, đối với cảnh 4 đế tâm và các pháp vĩnh viễn không tán động. Tiếp lập chính định. Lại nữa do chính kiến nên người quán hạnh này không sa vào trong tăng thượng mạn, có thể như thật phân biệt tự sở đắc. Do chính giác phát khởi chính ngôn, tự sở đắc này có thể truyền đến người khác. Do chính ngôn này có thể lập, có thể phá, có thể quyết, khiến người khác tin có trí tuệ. Do có chính nghiệp nên thà bỏ mạng sống không phạm phi pháp. Cho nên khiến người khác tin có giới Thánh yêu thích. Y pháp như lượng cầu dùng 4 duyên. Do chính mạng khiến người khác tin có Thánh chủng tri túc.

Lại nữa do chính kiến chính giác và nhân chính ngôn có thể rống tiếng rống sư tử. Do chính nghiệp chính mạng có thể làm rõ nghĩa đã nói. Do chính tinh tiến chưa được khiến được, chưa diệt khiến diệt. Do có chính niệm khi chìm, khởi, bình thường, không quên 3 tướng, cho nên định không chướng ngại. Do có chính định diệt trừ định chướng, có thể dẫn 6 thông các đức cho nên sau đều giải thoát.

Lại nữa A-tì-đạt-ma Tạng nói: Do chính kiến nên nói tín căn, tín lực và dục. Bởi vì sao? Vì do có trí tuệ nên tín dục thành. Do tinh tiến nên có thể thâu nhiếp chính cần và tinh tiến căn lực giác phần. Do chính định nên nhiếp tâm như ý túc và định căn, định lực, hỷ, ỷ, xả định giác phần v.v… Vì ý nghĩa đó nên phải biết 37 phẩm là thâu nhiếp trong 8 đạo.

Lại nữa chính kiến và chính niệm là Tì-bà-xá-na phần. Do đây diệt vô minh cho nên tuệ giải thoát là quả. Các đạo phần khác thuộc Xa-ma-tha phần. Do đây lìa dục nên tâm giải thoát là quả. Cho nên lược nói đạo có 2 phần: một là Tì-bà-xá-na, hai là Xa-ma-tha.

Lại nữa Tạng Luận nói: Chính ngôn, chính nghiệp, chính mạng 3 thứ là nhóm giới. Do có giới này nhổ bỏ gốc rễ sân ác. Chính giác, chính tinh tiến, chính định 3 thứ là nhóm định. Do đây nhổ bỏ gốc ác tham dục. Chính kiến, chính niệm 2 thứ là nhóm tuệ. Do đây nhổ bỏ gốc ác vô minh. Vì ý nghĩa này mà đạo có 3 phần.

Lại nữa đạo có 4: 1. Phương tiện đạo. Là do đây vô ngại đạo sinh. Vô ngại đạo trước đều gọi là phương tiện. 2. Vô ngại đạo. Là chính vì có thể trừ chướng ngại đối trị, vì hoặc không ngăn ngại nên gọi là vô ngại. 3. Giải thoát đạo. Là giải thoát vô ngại đạo phá trừ các hoặc mới khởi gọi là giải thoát. 4. Thắng đạo. Là từ giải thoát đạo, còn lại các đạo sau đều gọi là thắng đạo.

Hỏi: Bốn thứ đây sao gọi là đạo?

Đáp: Do đây tiến đến Niết-bàn nên gọi là đạo.

Nếu vậy giải thoát và thắng sao gọi là đạo?

Đáp: Vì chủng loại của đạo, vì chuyển thắng khiến trước đến sau có thể đến vô dư Niết-bàn nên gọi là đạo.

Lại nữa có 4 thứ đạo: 1. Khổ đạo trí chậm. 2. Khổ đạo trí nhanh. 3. Lạc đạo trí chậm. 4. Lạc đạo trí nhanh. Lạc đạo, nghĩa là vì y chỉ 4 định đầy đủ các phần, vì định tuệ bình đẳng, vì hành vô công dụng. Vì ý nghĩa đó nên gọi là lạc đạo. Lìa đây đều gọi là khổ đạo, nghĩa là y chỉ vị lai định, trung gian định, 3 không định v.v… Vì không đầy đủ các phần, định tuệ không đồng đẳng, hành có công dụng. Vị lai định là có tuệ mà ít định. Ba không là có định mà ít tuệ. Trung gian định là các phần không đầy đủ. Nên định tuệ đều ít. Vì ý nghĩa đó nên gọi là khổ đạo. Hai đạo này nếu người có tín căn gọi là hành chậm. Nếu người có trí căn được gọi là hành nhanh. Tám phần Thánh đao này, về định và về căn nên có 4 hành.

Lại nữa Thánh đạo, hoặc cũng nói là 37 trợ giác.

Pháp gì gọi là giác? Tận trí, vô sinh trí gọi là giác. Do 3 loại người thành 3 phẩm giác. Nghĩa là Thanh Văn Bồ-đề, Bích-chi Bồđề và Vô thượng Bồ-đề. Vì có thể diệt vô minh khiến không còn tàn dư cho nên là việc mình đã làm xong không còn làm nữa. Vì như thật giác nên gọi là giác.

Trợ, là 37 pháp đi theo trợ giúp cho tận trí, vô sinh trí nên gọi là trợ. Do tên gọi nên nói 37 chứ không do nơi thể. Nay luận này nói thể chỉ có 10 là tín, tinh tiến, niệm, định, tuệ, hỷ, khinh an, xả, giới và giác.

Các sư A-tì-đạt-ma nói thể có 11, tức khai giới là 2 đó là thân và khẩu.

Lại có sư A-tì-đạt-ma nói thể có 13, đó là đủ dục và tâm. Các pháp sở đắc đều là trợ giác. Có điều là 10 thứ đây thắng hơn nên đặc biệt nêu lên.

Nói 37 là 4 niệm xứ, 4 chính cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 8 Thánh đạo và 7 giác phần.

Hỏi: Bảy khoa trợ giác này an lập ở đâu?

Đáp: Có tất cả 4 vị là: 1. Sơ phát hành vị. 2. Thông đạt vị. 3. Kiến vị. 4. Tu vị.

Hỏi: Thứ lớp như thế nào?

Đáp: Người tu quán đã trụ nơi giới đã có thể hiểu rõ tội lỗi sinh tử và công đức Niết-bàn. Lìa quán 4 đế sẽ không có phương tiện nào khác có thể hiểu biết tội lỗi và công đức này. Vì gồm nhiều cảnh tán loạn tâm nên khiến trụ một chỗ. Vì sinh đối trị đè bẹp 4 điên đảo nên khiến tâm như lý nhập quán 4 đế. Vì vậy cho nên trước quán 4 niệm xứ.

Do đã quán 4 niệm xứ rồi các pháp khác có thể thủ xả. Vì thủ thiện xả ác cho nên tiếp tu hành chính cần được thành.

Do quán chính cần, các hoặc chướng đã sạch, trợ pháp đã lập, tâm tùy ý trụ cho nên tiếp lập 4 như ý túc.

Do định lực này, đối với cảnh không nghi, tâm có tăng thượng. Do sức tin này nên đối với sự biếng trễ tâm có tăng thượng.

Do sức tinh tiến này mà được thiện tâm, có sự trợ giúp không chướng ngại, đối với cảnh không quên tâm có tăng thượng.

Do sức niệm này gồm tại một cảnh, trong cảnh không tán loạn tâm có tăng thượng.

Do sức định này như thật quán cảnh tâm có tăng thượng.

Do ngay nơi thể tăng thượng nên tiếp lập 5 căn. Năm căn này tăng trưởng đến tối thượng thượng phẩm nên các hoặc dưới không thể phá, các pháp thế gian khác không thể thắng, tâm vô lưu lần lượt duyên nên không thoái lui Thánh vị.

Vì ý nghĩa này tiếp lập 5 lực đã thấy kia đây được mất, đã được con đường chân chính, đã được quyết tâm, đã được nhãn, đã được túc.

Do 5 lực nên được xuất thế hành, cho nên tiếp lập 8 Thánh đạo.

Do 8 Thánh đạo phá kiến đế hoặc rồi, được gần tận trí, vô sinh trí cho nên chuyển đạo này gọi là 7 giác phần. Cho nên lần lượt lập 37.

Bốn niệm xứ quán là sơ phát hành vị, tức giải thoát phần.

Bốn chính cần là nhẫn vị.

Bốn như ý túc là danh vị.

Năm căn là tướng vị.

Năm lực là đệ nhất pháp vị.

Cả 4 trên gọi là quyết liễu vị.

Tám Thánh đạo là kiến vị.

Bảy giác phần là tu vị.

Tận trí, vô sinh trí là cứu cánh vị.

Vì là quả không phải nhân cho nên không lập là đạo.

Lại nữa đạo này hoặc cũng nói là Phạm luân. Phạm luân là bánh xe Phạm do Phật Thế Tôn và đệ tử chuyển. Cho nên Thánh đạo này có 6 nghĩa vì đó như bánh xe:

1. Đi nhanh chóng. Nghĩa là hoặc 1 tâm, hoặc 12 tâm, hoặc 15 tâm, đi khắp 4 đế trong 3 cõi nên gọi là nhanh chóng.

2. Bỏ đây đến kia. Nghĩa là bỏ thế gian đến xuất thế gian.

3. Đi lên xuống. Nghĩa là hoặc ở pháp nhẫn, hoặc ở loại nhẫn v.v…

4. Từ đây đến kia. Nghĩa là từ thầy liên tục hiểu đến đệ tử liên tục hiểu.

5. Tương tự trục căm vành bánh xe. Giới có 3 phần là trục xe. Chính kiến, chính giác, chính tinh tiến, chính niệm là căm xe. Chính định là vành bánh xe.

6. Như Thánh luân vương. Chưa hàng phục thì có thể làm cho hàng phục. đã hàng phục rồi thì có thể bảo bộ. Do vô ngại đạo có thể làm hàng phục, giải thoát đạo có thể giữ gìn. Vì ý nghĩa này nên gọi là Phạm luân.

Lại nữa 8 Thánh này chính kiến có 5 phần, giới có 6 thứ là 3 nghiệp giáo vô giáo, tinh tiến có 9 phần, chính niệm có 8 phần, chính định cũng 8 phần. Thánh đạo này nếu nói rộng thì có 37 phần. Nếu nói trung bình thì có 8 phần. Nếu nói sơ lược thì hoặc 3 phần hoặc 2 phần.

Kệ nói:

Nếu ai cầu Niết-bàn,

Diệt, ngừng và lìa thoát,

Phải thường hành tinh tiến,

Nghe, nghĩ, tu 4 đế./.

QUYỂN 4 HẾT, TRỌN BỘ

Pages: 1 2 3 4