LUẬN LẬP THẾ A TÌ ĐÀM
(Phật nói Luận A-tì-đàm về sự thành lập thế giới)
Tam tạng Chân Đế dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 9

Phẩm 24: TIỂU TAM TAI

1. Tật dịch

Phật Thế Tôn nói: Một tiểu kiếp gọi là một kiếp. 20 tiểu kiếp lại cũng có tên là một kiếp. 40 tiểu kiếp cũng có tên là một kiếp. 60 tiểu kiếp lại cũng gọi là một kiếp. 80 tiểu kiếp là một đại kiếp.

Vì sao một tiểu kiếp gọi là một kiếp?

Khi ấy Tì-kheo Đề-bà-đạt-đa ở trong địa ngục thụ xong nghiệp báo, Phật nói trụ thọ một kiếp. Như vậy một tiểu kiếp được gọi là một kiếp.

Vì sao 20 tiểu kiếp cũng gọi là một kiếp?

Như thọ mạng của chư thiên Phạm Tiên Hành là 20 tiểu kiếp. Các Phạm Thiên, Phật nói trụ thọ một kiếp. Như vậy 20 tiểu kiếp còn gọi là một kiếp.

Vì sao 40 tiểu kiếp gọi là một kiếp?

Như tuổi thọ của Phạm Chúng Thiên là 40 tiểu kiếp. Phật nói trụ thọ của họ là một kiếp. Như vậy 40 tiểu kiếp lại gọi là một kiếp.

Vì sao 60 tiểu kiếp lại gọi là một kiếp?

Như tuổi thọ của Đại Phạm Thiên là 60 tiểu kiếp. Phật nói trụ thọ của họ là một kiếp. Như vậy 60 tiểu kiếp lại có tên là một kiếp.

Vì sao 80 tiểu kiếp gọi là một đại kiếp?

Phật nói: Trong kiếp thế giới tan hoại, trong kiếp thế giới tan hoại rồi trụ trong kiếp thế giới khởi thành, trong kiếp thế giới khởi thành rồi trụ.

Thế giới tan hoại v.v… kiếp số như thế nào ?

Phật nói: Nầy các Tì-kheo! Trải qua 20 tiểu kiếp thế giới tan hoại. Tiếp đến trải qua 20 tiểu kiếp thế giới tan hoại rồi trụ. Tiếp đến trải qua 20 tiểu kiếp thế giới khởi thành. Tiếp đến trải qua 20 tiểu kiếp thế giới khởi thành rồi trụ.

20 tiểu kiếp thế giới khởi thành rồi trụ lại, có bao nhiêu đã qua có bao nhiêu chưa qua ?

8 tiểu kiếp đã qua và 12 tiểu kiếp vị lai.

Kiếp thứ 9, một kiếp hiện tại chưa hết, thì kiếp thứ 9 nầy một kiếp có bao nhiêu đã qua, có bao nhiêu ở vị lai ?

Vị lai còn 6 trăm 90 năm. Trong khoảng 20 tiểu kiếp có 3 lần tam tai lần lượt luân chuyển: Một là thời kỳ tật bệnh; hai là thời kỳ đại đao binh và 3 là thời kỳ đói khát lớn. Bây giờ đang ở kiếp thứ 9 tức là gặp 3 tam tai. Kiếp nầy do đói khát cho nên sẽ tận.

Phật bảo:

Nầy các Tì-kheo! 20 tiểu kiếp thế giới khởi thành rồi được trụ lại và lần kiếp thứ nhất lúc Tiểu tai khởi lên lại có rất nhiều dịch bệnh. Tất cả đều xảy ra ở cõi Diêm-phù-đề. Tất cả các đất nước cùng nhân dân mắc phải dịch bệnh. Tất cả quỷ thần khởi tâm sân ác làm tổn hại người đời. Lúc bấy giờ thọ mạng của con người ngắn lại chỉ còn 10 tuổi; thân hình nhỏ bé cỡ 2 hoặc 3 gang tay. Tự lượng là 8 gang tay. Chủ yếu nuôi sống bằng loại cỏ gạo. Đầu tóc, y phục là quan trong nhất. Chỉ dùng dao gậy để trang nghiêm. Lúc ấy con người không thực hành chính pháp và hay tham trước nhiễm ô những việc phi pháp và bị sai khiến bởi những tham ái phi lý. Những pháp tà lừa dối khởi các tội lỗi, rất khó giáo huấn,không thể làm điều thiện, không biết tạo phúc, không cứu khổ nạn, ngày đêm tương ưng với tà pháp. Hoặc thân, miệng, ý khởi lên 3 tà hạnh, không thể xa lìa sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt, ỷ ngữ, tham ái, sân si, tà kiến. Không biết cung kính cha mẹ, sư tăng, Samôn, Bà-la-môn và thân hữu tôn trưởng. Buông thả tâm khởi nhiều ác nghiệp. Nghiệp này có thể cảm làm ngắn tuổi thọ, có thể cảm làm sinh nhiều bệnh tật, có thể cảm làm sắc hình xấu xí, có thể cảm làm thân không có uy đức, có thể cảm làm sinh vào nhà hạ tiện, có thể cảm làm bần cùng khốn khổ, có thể cảm làm sinh ngu si tà kiến. Các nghiệp như vậy ngày đêm sinh trưởng. Người nầy tương ưng với các loại nghiệp ác phiền não. Do làm những hành nghiệp tà quá nặng nên sinh gió loạn thổi làm phương sở thời tiết thất thường. Do gió nầy không bình thường nên trời mưa cũng không đúng thời vụ. Lúc ấy Tứ Thiên vương đại thần giận những việc làm của người ác nên không vui chơi với nước nên không làm mưa. A-tu-la vương là La-hầu muốn làm khổ người ở cõi Diêm-phù-đề nên hoặc dùng ngón tay; hoặc dùng lưng đỡ mưa và cho vào biển. Lại có những quỷ thần muốn làm khổ người ở cõi Diêm-phù-đề nên dùng thần lực thừa lúc mưa xuống nổi lửa làm cho nước khô kiệt. Hoặc khi mưa thì nổi gió lớn thổi ra biển. Do nguyên nhân như vậy nên trời mưa không đều. Tất cả mọi hạt mầm của cây cỏ dước thảo đều khô héo không thể nảy nở kết trái. Lại nữa nếu có kết trái cũng giảm thiểu màu sắc hương vị. Không được lâu dài và không có sức mạnh. Nếu con người không dùng đến 5 nghiệp thì sắc lực, an lạc, thọ mạng, thông biện. Do vì tà ác nên trong tự thân khởi lên các bệnhnặng, hoặc bệnh hủi, hoặc bệnh đau đầu, hoặc điên, hoặc bệnh bướu cổ, hoặc trùng, hoặc máu độc, hoặc thổ huyết, hoặc bệnh lậu, hoặc phù thũng, hoặc bệnh trái thời tiết, hoặc trúng gió bại liệt, hoặc hư lao sốt rét; hoặc ung nhọt, hoặc sưng tay chân, ăn uống không tiêu. Như vậy những bệnh nặng và bệnh nhẹ đều xảy ra. Lúc ấy người ta mắc bệnh khổ nặng. Lại có những ác quỷ hay xúc não. Muốn cầu cho thân mạng được bình an, nên cúng tế thiên thần, đọc tụng chú thuật. Hoặc cậy nhờ tà kiến mà khởi các việc làm ác, giết hại các chúng sinh, mong cầu chú thuật của quỷ thần. Muốn cầu cho không bệnh mà làm như thế tất cả lợi dưỡng không đạt được không bệnh. Một ngày một đêm vô lượng chúng sinh tật bệnh nổi lên rồi chết chóc. Chúng sinh đời mạt pháp tự nhiên sinh các tội lỗi như vậy.

Vì sao như vậy?

Vì con người làm pháp bất thiện, pháp bất bình đẳng. Do nhân ấy nên bị quả báo. Trong lúc ấy mà thực hành bình đẳng, thiện pháp, mà không được thì tất cả chúng sinh trong thời kiếp trược nầy tự nhiên khởi. Lúc ấy con người dựa vào chỗ thấy thô thiển và các nghiệp thô ác, tạo ra các ác nên sau khi xả mạng thụ sinh vào chỗ ác, vào con đường khổ, thoái đọa hạnh không an lạc. Lúc ấy đa phần chúng sinh bị sinh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la. Lúc ấy tất cả các đại quốc vương đều chết mất, đất đai lần lần bị hoang phế; chỉ còn những quận huyện nhỏ xa cách mỗi nơi. Lúc ấy con người không thực hành chính pháp. Bị nhiễm ô bởi những việc tham trước phi pháp. Bị tham ái phi lý sai sử. Tà pháp bành trướng khởi các tội ác, khó giáo huấn không thể dạy làm thiện, không biết tạo phúc, không cứu khổ nạn, ngày đêm tương ưng với những pháp tà ác. Hoặc thân khẩu ý khởi lên 3 tà hạnh. Không lìa bỏ việc sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt, ỷ ngữ, tham ái, sân si, tà kiến. Không biết cung kính cha mẹ, sư tăng, Sa-môn, Bà-la-môn và thân hữu, tôn trưởng. Buông thả tự tâm khởi các ác nghiệp. Nghiệp nầy có thể cảm báo làm thọ mạng ngắn lại. Có thể cảm báo nhiều bệnh, hoặc cảm báo sắc hình xấu xí, hay cảm báo thân không có uy đức, hay cảm báo sinh vào nhà bần tiện; hoặc cảm báo bần cùng khốn khổ, hoặc cảm báo ngu si tà kiến. Các nghiệp như vậy ngày đêm sinh trưởng và như vậy con người bị tật bệnh khốn khổ, không có ai bố thí, cho ăn uống thuốc thang. Do nhân duyên như vậy, thọ mạng chưa hết mà bị hoạnh tử vô số. Một ngày một đêm có vô lượng chúng sinh bị bệnh tật mà chết. Chúng sinh thời mạt pháp tự nhiên sinh các tội nghiệp như vậy.

Vì sao như vậy?

Vì con người làm pháp bất thiện, pháp bất bình đẳng. Do nhân ấy nên bị quả báo. Trong lúc ấy thực hành bình đẳng, thiện pháp, mà không được thì tất cả chúng sinh trong thời kiếp trược nầy tội lỗi tự nhiên khởi. Lúc ấy con người dựa vào chỗ thấy thô thiển và các nghiệp thô ác, tạo ra các ác nên sau khi xả mạng thụ sinh vào Tu-la, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục. Những quận huyện nhỏ lần lượt hoang vu, chỉ còn những nhà nhỏ xa cách mỗi nơi. Lúc ấy con người không hành chính pháp, khởi các thứ nghiệp ác có thể càm làm cho thọ mạng ngắn lại, cho đến ngu si tà kiến. Các nghiệp như vậy ngày đêm tăng trưởng. Bấy giờ con người bị tật bệnh rồi chết, không có người chôn cất và thiêu đốt. Lúc ấy đất toàn bao phủ xương trắng. Một ngày một đêm vô số chúng sinh tật bệnh rồi chết, cho đến nhà cửa lần lượt trống vắng. Lúc ấy kiếp mạt còn có 7 ngày. Trong trong 7 ngày ấy có vô lượng chúng sinh bị bệnh rồi chết hết. Giả sử có người còn thì cũng di tản đi chỗ khác. Lúc ấy có một người tập hợp các nam nữ trong Diêm-phù-đề lại. Chỉ còn 1 vạn người là nhân chủng của tương lai. Còn lại thì họ chỉ làm những việc phi pháp. Chỉ 1 vạn người nầy có thể làm việc thiện. Do vậy mà các thiện quỷ thần muốn làm cho loài người không tuyệt chủng; nên ủng hộ người nầy dùng các thứ nuôi dưỡng khiến vào lỗ chân lông. Do nghiệp lực cho nên trong kiếp trung gian lưu lại chủng tử con người tự nhiên không đoạn tuyệt. Qua 7 ngày sau thì đại dịch bệnh nhất thời dứt tuyệt. Tất cả ác quỷ đều bỏ đi. Tùy theo các chúng sinh mong muốn mà đồ ăn, thức uống, y phục v.v… trời liền mưa và âm dương điều hòa. Mỹ vị xuất sinh, thân hình khả ái, tướng đẹp trở lại. Tất cả các thiện pháp tự nhiên sinh khởi, thanh lương, tịch tĩnh, an lạc không bệnh. Đại bi nhập tâm vì do lòng đại bi. Đại từ nhập tâm vì do đại từ. Không có ý não hại vì do ý không hại. Được trông thấy nhau sinh tâm hỷ lạc, sinh tâm nhẫn chịu, sinh tâm không chán. Cùng nhau phò trì không xa lìa nhau, giống như người thân yêu nhau đã lâu không gặp, không được hội họp sinh tâm vui mừng, sinh tâm nhẫn thụ, sinh tâm không chán. Cùng nhau phò trì không xa lìa nhau. Lúc ấy con người gặp nhau cũng như vậy. Do yêu thích nhau nam nữ cùng sống chung. Đây là tiền kiếp, con người thọ mạng đến 10 tuổi. Nhân dân ở hậu kiếp từ đó mà sinh. Thọ mạng sống lâu, hình tướng đẹp đẽ; uy đức tối thắng; thần lực tự tại. Đời sống đầy đủ, thọ mạng 20 ngàn tuổi. Lúc ấy chúng sinh công đức như vậy tự nhiên được thành tựu.

Vì sao như vậy?

Do pháp hành, bình đẳng hành, thiện hành là quả báo đó. Khi ấy người và các thiện pháp tương ưng nhau. Thân làm việc lành, miệng làm việc lành, ý làm việc lành. Khi xả thọ mạng rồi thì sinh vào đường lành và chư thiên. Khi xả thọ mạng rồi lại sinh vào loài người. Khi sinh vào loài người tự nhiên hiền thiện, tự tính thanh tịnh, tự tính đạo đức, tâm tính hòa nhã, đầy đủ giới phẩm. Thường làm việc lành, xa lìa sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ. Không có tâm tham dục, không có tâm sân nhuế. Xả pháp tà kiến, tu hành chính kiến. Cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-lamôn, thân hữu, tôn trưởng cùng với các thiện pháp tương ưng. Do nghiệp nầy có thể cảm được sự sống lâu, không có tật bệnh, hay tạo ra sắc hình đoan chính, cảm thân có uy đức, cảm sinh vào nhà giàu có, cảm được trí tuệ lớn. Các thiện pháp nầy ngày đêm sinh trưởng. Lúc ấy con người y vào phúc đức hành, sinh vô lượng công đức. Khi xả bỏ thọ mạng, sau đó lại sinh vào cõi trời và sinh vào cõi thiện, trụ trong cõi thiện. Thời tiết dài lâu như vậy.

Thời gian của kiếp đầu do đại dịch bệnh cuối cùng chấm dứt. Tiếp kiếp thứ 2 tiếp tục 20 ngàn năm. Thọ mạng trong kiếp thứ nhất thì người nầy từ trước sinh ra 20 ngàn tuổi. Thọ mạng của người nầy dài nhất, sắc hình đẹp lạ, uy đức vượt trội, thần lực tự tại, của cải đầy đủ. Thọ mạng đến 40 ngàn tuổi lúc ấy chúng sinh công đức như vậy tự nhiên thành.

Vì sao như vậy?

Vì đó là quả báo của pháp hành, bình đẳng hành, thiện hành. Lúc ấy con người tương ưng với các thiện pháp. Thân làm việc thiện, miệng làm việc thiện, ý làm việc thiện. Khi xả thọ mạng rồi sinh vào nẻo thiện và cõi chư thiên. Khi xả thọ mạng rồi, lại sinh làm người. Khi sinh làm người rồi, tự nhiên hiền thiện, tự tính thanh tịnh, tự tính đạo đức, tâm tính hòa nhã, đầy đủ giới phẩm, thường làm việc tối thiện. Xa lìa sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, không có tâm tham dục, không có tâm sân nhuế, bỏ pháp tà kiến, tu hành chính kiến, cung kính cha mẹ, Sa-môn Bà-lamôn, thân hữu, tôn trưởng cùng các thiện pháp tương ưng. Nghiệp nầy có thể cảm được sự sống lâu, cảm được không sinh bệnh tật, cảm được hình sắc đoan chính, cảm được thân có uy đức, cảm được sinh vào nhà giàu có, cảm được có trí tuệ lớn. Như vậy các thiện nghiệp ngày đêm sinh trưởng. Lúc ấy loài người y vào phúc đức hạnh, sinh vô lượng công đức. Khi xả thọ mạng rồi, sau đó lại sinh vào cõi chư thiên và sinh vào nẻo thiện trụ lâu trong nẻo thiện.

Như vậy gọi là ở trong kiếp thứ hai. Thọ mạng của kiếp thứ hai là 40 ngàn tuổi. Khi người sinh vào thời có tuổi thọ 40 ngàn tuổi thì đời sống thật dài lâu và hình tướng đẹp đẽ, uy đức vượt trội, thần lực tự tại, của cải đầy đủ.

Thọ mạng 60 ngàn tuổi thì con người tương ưng với các pháp lành, thân làm việc lành, miệng nói việc lành, ý nghĩ việc lành. Khi xả thọ mạng sinh vào nẻo thiện và cõi trời. Khi xả thọ mạng ở cõi trời rồi lại sinh làm người. Khi sinh làm người rồi tự nhiên hiền thiện, tự tính thanh tịnh, tự tính đạo đức, tâm tính hòa nhã, đầy đủ giới phẩm, thường làm việc thiện, xa lìa việc sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, không có tâm tham dục, không có tâm sân nhuế, xả pháp tà kiến, tu hạnh chính kiến, cung kính cha mẹ, Sa-môn Bà-la-môn, thân hữu, tôn trưởng, tương ưng với các loại thiện pháp. Nghiệp nầy có thể cảm được việc sống lâu không bệnh, sắc hình đoan chính, thân có uy đức, sinh vào nhà giàu có, trí tuệ lớn. Các thiện nghiệp như vậy sinh trưởng mỗi ngày. Lúc ấy loài người nương vào việc làm phúc đức mà sinh vô lượng công đức. Sau khi xả bỏ thọ mạng thì sinh vào cõi trời và trong nẻo thiện, ở dài lâu trong nẻo thiện. Như vậy gọi là kiếp thứ ba.

Thọ lượng của kiếp thứ ba là 60 ngàn tuổi. Đây là những người được thụ 60 ngàn tuổi sinh vào kiếp nầy. Người này tuổi thọ dài nhất, sắc hình đẹp đẽ, uy đức vượt trội, thần lực tự tại, tư sinh đầy đủ.

Thọ mạng 80 ngàn tuổi, như vậy chúng sinh sinh trong kiếp này ở cõi Diêm-phù-đề, thọ mạng dài lâu cho đến 80 ngàn năm. Lúc ấy người nữ 500 tuổi mới lấy chồng. Bấy giờ con người chỉ có 7 bệnh như đại tiểu tiện, hàn, nhiệt, tâm dâm dục, đói, già. Trong lúc như vậy tất cả quốc gia giàu có an vui, không có giặc giã và trộm cắp, châu, quận, huyện, ấp, nhân dân, thôn lạc v.v… cùng nghe tiếng gà gáy. Canh tác tuy ít mà gặt hái lại nhiều. Con người lúc ấy thụ nghiệp ít tốn công là do đời trước đã trồng nhiều nhân lành. Nhà cửa, xe cộ, y phục, tài sản đời đời đầy đủ như ý. Tuy có thụ dụng nhưng trọn đời không hư hỏng. Lúc ấy con người được an ổn hưởng lạc không rong ruổi tìm cầu.

Thọ mạng 80 ngàn tuổi trụ A-tăng-kì năm cho đến khi chúng sinh chưa tạo 10 điều ác. Từ khi khởi lên 10 điều ác thì thọ mạng nhân đây mà giảm xuống. Cứ 1 trăm năm thì giảm 10 tuổi, rồi lần lượt 1 trăm năm giảm xuống 10 tuổi. Cho đến giảm xuống chỉ còn 10 tuổi. Cuối cùng của 10 tuổi thì không giảm nữa. Dài nhất là 8 vạn tuổi và ngắn nhất là 10 tuổi. Nếu Phật không lần lượt ra đời như thế. Nếu Phật ra đời, trụ như chính pháp thì thọ mạng của chúng sinh lại không giảm. Tùy theo chính pháp giảm dần mà thọ mạng giảm theo. Phật Thế tôn đã nói, và tôi nghe như vậy.

2. Đao binh

Phật Thế Tôn nói: Một tiểu kiếp có tên là một kiếp như trước đã nói. Cho đến 80 tiểu kiếp có tên là một đại kiếp.

Vì sao 80 tiểu kiếp có tên là một đại kiếp?

Phật bảo rằng trong kiếp khi thế giới tan hoại và trong kiếp thế giới tan hoại rồi trụ lại; trong kiếp thế giới khởi hành, trong kiếp thế giới khởi hành rồi trụ lại.

Thế giới tan hoại và kiếp số ấy thế nào?

Phật bảo: Các Tì-kheo! Trải qua 20 tiểu kiếp thế giới tan hoại. Tiếp đến trải qua 20 tiểu kiếp thế giới tan hoại rồi trụ. Tiếp đến trải qua 20 tiểu kiếp thế giới khởi thành. Tiếp đến 20 tiểu kiếp thế giới khởi thành rồi trụ. 20 tiểu kiếp nầy thế giới khởi thành rồi trụ. Đến kiếp thứ 2 khi Tiểu Tam Tai khởi lên, lúc ấy do đao binh lớn xảy ra kết thúc kiếp nầy. Bấy giờ cõi Diêm-phù-đề tất cả mọi quốc gia, cho đến nhân dân đều gặp nạn đao binh lớn cùng tàn sát lẫn nhau. Lại xảy ra những tật dịch và tất cả quỷ thần khởi tâm giận dữ làm tổn hại người đời. Lúc ấy tất cả thọ mạng của con người ngắn lại, chỉ còn sống 10 tuổi, thân hình nhỏ bé, hoặc như 2 hay 3 gang tay, lương thực chủ yếu là loại cỏ gạo, tóc người làm y phục, chỉ dùng dao để tự trang nghiêm. Lúc đó con người không thực hành chính pháp và hay tham đắm những việc phi pháp, hay bị tham ái nhiễm ô và phi lý sai sử, tà pháp bành trướng khởi các tội ác không làm điều thiện, không biết làm phúc, không cứu giúp khổ nạn, ngày đêm tương ưng với những pháp tà ác. Hoặc thân khẩu ý khởi 3 tà hạnh, không thể lìa bỏ việc sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham ái, sân si, tà kiến, không biết cung kính cha mẹ, sư tăng, Sa-môn Bàla-môn, thân hữu, các bậc tôn trưởng. Phóng tâm khởi các ác nghiệp. Do nghiệp nầy có thể cảm báo làm cho mạng sống ngắn ngủi, có thể cảm sinh tật bệnh, có thể cảm đến hình sắc xấu xí, có thể cảm thân không uy đức, có thể cảm báo sinh vào nhà ti tiện, có thể cảm báo bần cùng khốn khổ, có thể cảm báo ngu si, tà kiến. Các nghiệp như vậy ngày đêm sinh trưởng. Con người như vậy tương ưng với nhiều phiền não ác nghiệp. Do làm những tà nghiệp cực nặng nên cha mẹ con cái tranh giành nhau, anh em chị em, bà con bạn bè tranh giành nhau, huống chi là người khác. Lúc ấy con người khởi đấu tranh với nhau rồi, nào dùng đến tay chân, gạch đá, hoặc cây gậy làm tổn hại nhau, cho đến gươm đao gậy khủng bố cho đến sát hại lẫn nhau. Lúc ấy con người khởi nhiều giận dữ lấy việc giết hại nhau làm vui. Vua nước phương Đông đến chinh phạt nước phương Tây. Vua nước phương Tây sang chinh phát nước phương Đông. Các vua Nam Bắc cũng như vậy. Lúc ấy các vua đều dùng mọi cách mạ lỵ nhau, nói lỗi nhau, tìm kiếm sơ hở của nhau để có chính nghĩa. Sau khi đấu tranh khởi oán thù, rồi liền cầm dao gậy giết chóc lẫn nhau. Chỉ trong một ngày một đêm thôi, số người bị hại chết vô lượng vô số. Chúng sinh thời kiếp mạt tự nhiên sinh tội lỗi như vậy.

Vì sao như thế?

Vì lẽ con người làm chuyện bất thiện; không bình đẳng mà bị quả báo như vậy. Trong khi ấy ấy pháp hành, bình đẳng hành, thiện hành đều không làm được nên tất cả chúng sinh, sinh ra trong kiếp nầy ô trọc, tự nhiên sinh khởi. Lúc ấy con người dựa vào thô kiến, thô nghiệp tạo tác các ác. Sau khi xả thân mạng rồi thụ sinh vào chỗ ác, sinh vào đường khổ sở thoái đọa không được an ổn. Đa số chúng sinh lúc ấy sinh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la. Khi đó dòng giống Đại quốc vương đều chết mất. Các nước lần lượt trở thành hoang phế. Chỉ còn những quận huyện nhỏ không đáng nói ở xa cách mỗi nơi. Lúc ấy con người không thực hành chính pháp, tham đắm phi pháp, hằng bị tâm nhiễm ô, tham ái phi lý sai sử, tà pháp lớn mạnh khởi các ác nghiệp, không thể làm việc thiện, không biết tạo phúc, không cứu khổ nạn, ngày đêm tương ưng với tà pháp, ác pháp. Hoặc do thân, khẩu, ý khởi làm 3 điều tà hạnh, không thể lìa bỏ sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt, ỷ ngữ, tham ái, sân si, tà kiến, không thể cung kính cha mẹ, sư tăng, Sa-môn Bàla-môn và thân hữu cùng các bậc tôn trưởng. Phóng tâm khởi nhiều ác nghiệp. Nghiệp nầy có thể cảm báo làm thọ mạng ngắn lại, cảm sinh nhiều bệnh, cảm làm cho hình sắc xấu xí, cảm làm cho thân thể không có uy đức, cảm báo sinh vào nhà hạ tiện, cảm báo sinh nơi bần cùng khốn khổ, cảm báo ngu si, tà kiến. Những nghiệp như vậy ngày đêm tăng trưởng. Người nước phương Đông sang chinh phạt người phương Tây. Người hai phương Nam Bắc cũng như vậy. Lúc ấy con người mạ lỵ nhau, đổ lỗi cho nhau là chính, tìm cầu chỗ sơ hở là chính, tiến hành đấu tranh rồi khởi oán thù, rồi cầm dao gậy tàn sát nhau. Chỉ trong một ngày một đêm hại chết vô lượng vô số. Chúng sinh thời kiếp mạt như vậy tự nhiên sinh.

Vì sao như vậy?

Nếu con người không làm thiện hạnh, pháp hạnh, bình đẳng hạnh sẽ bị quả báo ấy. Trong khi ấy, pháp hành, bình đẳng hành, thiện hành không làm được thì tất cả chúng sinh ở trong kiếp ô trược nầy tự nhiên khởi lên. Khi ấy con người dựa vào những nghiệp thô, tạo tác các điều ác. Sau khi xả bỏ thân mạng liền sinh vào chỗ ác, nơi khổ sở thoái đọa không yên ổn. Lúc ấy chúng sinh phần nhiều sinh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la. Các quận, huyện lần lượt bỏ trống. Chỉ còn có một ít nhà, chuyển đến một nơi xa. Lúc ấy nhà phía Đông đến giết hại nhà phía Tây và nhà phía Tây lại qua giết hại nhà phía Đông. Các nhà ở phía Nam Bắc cũng vậy. Lúc ấy con người chỉ còn mạ lỵ nhau là chính và đổ lỗi cho người khác, tìm chỗ sơ hở là chính, rồi tiến hành tranh đấu, khởi tưởng oán thù. Rồi cầm dao gậy giết nhau. Chỉ trong một ngày một đêm mà những người bị hại chết vô lượng vô số. Vào thời kiếp mạt chúng sinh tự nhiên sinh tội lỗi như vậy.

Vì sao như vậy?

Vì nếu con người không làm việc lành, không theo chính pháp, không hành bình đẳng thì bị quả báo nghiệp ác như vậy. Trong khi ấy chính pháp hành, bình đẳng hành, thiện hành không làm được, nên tất cả chúng sinh sinh trong đó, kiếp trược tự nhiên khởi. Lúc ấy con người chỉ dựa vào chỗ thô kiến, thô nghiệp, tạo các ác; nên khi xả bỏ thân mạng lại sinh nơi ác, nơi đường khổ đọa lạc không an lạc. Lúc ấy chúng sinh đa phần sinh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la. Lúc đó người và nhà cửa bị mất hết, chỉ trừ một số người còn lại phân tán rải rác. Số người phân tán nầy không hành chính pháp, khởi các ác nghiệp có thể cảm báo đời sống ngắn lại, cho đến ngu si tà kiến. Lúc ấy ở kiếp mạt nầy chỉ còn 7 ngày và trong 7 ngày ấy cầm lấy cây cỏ tức thì thành đao trượng khí giới rồi tàn hại lẫn nhau, uy hiếp khủng bố cho chết. Rồi một số người sợ nên mang dao gậy chạy trốn vào rừng; hoặc lội qua sông tìm trốn nơi khác, hoặc vào hang động để lánh tai nạn, hoặc lúc ấy gặp những người sợ hãi chạy cũng sợ hết hồn, hoặc lúc ấy ngã té xuống đất giống như con nai gặp phải thợ săn. Lúc ấy con người gặp nhau sợ hãi như vậy. Trong 7 ngày ấy thì đao binh, hoành tử chết vô lượng vô số. Giả sử có người còn cũng tản đi nơi khác. Bấy giờ có một người tập hợp lại các nam nữ ở Diêm-phùđề và chỉ còn 1 vạn người sót lại làm nhân chủng về sau. Trong thời đó đều hành phi pháp. Chỉ có 1 vạn người nầy có thể làm việc thiện. Các quỷ thần thiện muốn làm cho con người không tuyệt diệt cho nên đã ủng hộ những người này bằng cách cho vị dinh dưỡng ngon vào lỗ chân lông. Do nghiệp lực nên trong kiếp nầy giống người tự nhiên không dứt mất. Qua khỏi 7 ngày sau thì Đại đao binh nhất thời chấm dứt. Tất cả ác quỷ đã bỏ đi. Tùy theo ước muốn của chúng sinh mà có được y phục, ẩm thực và các thứ khác. Mưa hòa gió thuận, âm dương điều hòa, mỹ vị xuất sinh, thân hình khả ái tướng hảo trở lại như cũ. Tất cả thiện pháp tự nhiên sinh khởi, thanh lương tịch tĩnh, an lạc không bệnh, đại bi nhập tâm. Do đại bi nên đại từ nhập tâm. Do đại từ nên không có ý não hại. Do ý vô hại nên gặp nhau sinh tâm vui mừng, sinh tâm kham nhẫn, sinh tâm không chán, cùng nhau giúp đỡ không lìa bỏ nhau; giống như bạn bè tương ái tương thân lâu chưa được gặp. Vừa được tụ tập là sinh tâm vui mừng, sinh tâm nhẫn thụ, sinh tâm không chán. Cùng nhau giúp đỡ không lìa bỏ nhau. Lúc ấy con người gặp nhau cũng như vậy. Do cùng thích nhau nên nam nữ ở chung. Đó là tiền kiếp thọ mạng con người là 10 tuổi. Người kiếp sau từ đó sinh. Thọ mạng dài nhất, sắc hình đẹp đẽ uy đức vượt trội, thần lực tự tại, của cải đầy đủ, thọ mạng 20 ngàn tuổi. Lúc bấy giờ chúng sinh tự nhiên thành tựu được công đức nầy.

Vì sao như vậy?

Vì do thực hành pháp, thực hành bình đẳng, và làm việc thiện là quả báo đó. Lúc ấy con người tương ưng với thiện pháp, thân hành thiện, miệng hành thiện, ý hành thiện. Sau khi xả bỏ thọ mạng liền sinh vào nẻo thiện và cõi trời. Sau khi xả bỏ thọ mạng trở lại sinh làm người. Sinh vào cõi người rồi tự nhiên hiền thiện, tự tính thanh tịnh, tự tính đạo đức. Tâm tính hòa nhã, đầy đủ giới phẩm, thường làm những việc tối thiện, xa lìa việc sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, không có tâm tham dục, không có tâm sân nhuế, xả bỏ pháp tà kiến và tu hành chính kiến, cung kính cha mẹ, Sa-môn Bà-la-môn, thân hữu, tôn trưởng. Tương ưng với các thiện pháp. Do nghiệp ấy mà cảm được việc sống lâu, không bệnh hoạn và sắc hình đoan chính, thân thể có uy đức, cảm báo sinh vào gia đình giàu có, cảm được trí tuệ lớn. Các thiện nghiệp như vậy ngày đêm sinh trưởng. Lúc ấy con người nương vào phúc đức mà được sinh ra vô lượng công đức. Sau khi xả bỏ thọ mạng rồi liền sinh vào cõi trời và ở nơi nẻo thiện. Trụ các nẻo thiện ấy dài lâu. Như vậy ở trong kiếp đầu do Đại đao binh rốt ráo chấm dứt rồi, tiếp đến kiếp thứ 3, tiếp tục 20 ngàn năm. Thọ mạng trong kiếp thứ nhất là con người từ 20 ngàn năm trước mà sinh ra. Đời người nầy thọ được lâu dài nhất, sắc hình đẹp đẽ, uy đức vượt trội, thần lực tự tại, đời sống đầy đủ.

Thọ mạng 40 ngàn tuổi. Lúc ấy chúng sinh công đức tự nhiên thành tựu.

Vì sao như vậy?

Vì thực hành pháp, thực hành bình đẳng, thực hành thiện pháp được quả báo này. Lúc ấy con người tương ưng nhiều pháp lành. Thân làm việc lành, miệng nói điều lành và ý nghĩ điều lành. Sau khi xả bỏ thọ mạng liền sinh vào nẻo thiện và cõi trời. Sau khi xả bỏ thọ mạng cõi trời rồi lại sinh làm người. Khi sinh vào làm người tự nhiên hiền thiện, tự tính thanh tịnh, tự tính đạo đức, tâm tính hòa nhã, đầy đủ giới phẩm, thường làm việc lành, xa lìa việc sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, không có tâm tham dục, không có tâm sân nhuế, xả bỏ tà kiến, tu hành chính kiến, cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, thân hữu, tôn trưởng, tương ưng các pháp lành. Nghiệp này có thể cảm báo được sống lâu, có thể cảm báo không bệnh tật, có thể cảm được hình tướng đoan chính, có thể cảm được thân thế có uy đức, có thể cảm báo được sinh vào nhà giàu có phú quý, có trí tuệ lớn. Các thiện nghiệp như vậy ngày đêm sinh trưởng. Lúc ấy con người nương vào nơi phúc đức làm tăng trưởng vô lượng công đức. Sau khi xả bỏ thọ mạng liền sinh vào cõi trời và nơi nẻo thiện, trụ nẻo thiện ấy dài lâu.

Đây gọi là trong kiếp thứ 3 của thọ mạng 40 ngàn tuổi. Lại nữa con người từ 40 ngàn tuổi sinh, thọ mạng người nầy là dài nhất, thân hình đẹp đẽ, uy đức vượt trội, thần lực tự tại, của cải đầy đủ.

Thọ mạng 60 ngàn tuổi lúc ấy con người tương ưng với nhiều thiện pháp. Thân việc lành, miệng nói điều lành, ý nghĩ điều lành. Sau khi xả thọ mạng rồi sinh vào nẻo thiện và cõi trời. Sau khi xả thọ mạng cõi trời rồi lại sinh làm người. Khi sinh vào cõi người tự nhiên hiền thiện, tự tính thanh tịnh, tự tính đạo đức, tâm tính hòa nhã, đầy đủ giới phẩm, thường làm việc thiện, lìa bỏ sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, không có tâm tham dục, không có tâm sân nhuế, xả bỏ phép tà kiến và tu hành chính pháp, cung kính cha mẹ, Sa-môn Bà-la-môn, bạn lành và các bậc tôn trưởng, tương ưng nhiều thiện pháp. Nghiệp nầy có thể cảm báo được sống lâu, có thể cảm báo được không bệnh, cảm báo được hình tướng đoan chính, có thể cảm báo được thân có uy đức, có thể cảm báo được sinh vào nhà giàu có trí tuệ rộng lớn. Như vậy các thiện nghiệp ngày đêm tăng trưởng. Lúc ấy con người nương vào làm phúc đức nên sinh vô lượng công đức. Sau khi xả bỏ thân mạng rồi liền sinh vào cõi trời và trong nẻo thiện, trụ trong nẻo thiện nầy dài lâu. Như vậy gọi là trong kiếp thứ 3 của thọ lượng thứ 2 là 60 ngàn tuổi.

Kế đến con người từ 60 ngàn tuổi sinh. Người này thọ mạng dài lâu nhất, hình tướng đẹp đẽ, uy đức vượt trội, thần lực tự tại, đời sống đầy đủ.

Thọ mạng 80 ngàn tuổi, như vậy sinh trong kiếp của Diêm-phùđề nầy chúng sinh thọ mạng dài lâu nhất, cuối cùng là 80 ngàn năm. Lúc ấy người nữ 500 tuổi mới đi lấy chồng. Khi ấy con người có 7 thứ bệnh. Đó là đại, tiểu tiện, hàn, nhiệt, dục tâm, đói khát và già. Trong lúc đó tất cả các nước đều giàu có sung túc an vui, không có giặc giã trộm cắp. Các châu huyện, thành ấp, nhân dân, thôn xóm nghe được tiếng gà gáy của nhau. Canh tác tuy ít mà thu hoạch được nhiều. Lúc đó loài người thụ quả do dụng công thì ít mà thụ quả do thiện nghiệp đời trước thì nhiều. Nhà cửa, xe cộ, ruộng vườn, y phục, tài sản đời đời đầy đủ như ý. Tuy thụ dụng, cả đời không hư hỏng. Lúc đó con người ở yên hưởng thụ không phải rong ruổi tìm cầu. Thọ mạng 80 ngàn tuổi trụ 1 A-tăng-kì là 1 năm cho đến khi chúng sinh chưa tạo 10 điều ác. Từ khi khởi 10 nghiệp ác thì thọ mạng nhân đây mà giảm xuống 10 tuổi. Cứ 1 trăm năm như vậy giảm 10 tuổi và lần lượt 1 trăm năm giảm 10 tuổi và cứ thế lần lượt giảm cho đến còn 10 tuổi và cuối cùng 10 tuổi thì không còn giảm nữa. Dài nhất là 8 vạn và ngắn nhất là 10 tuổi. Nếu Phật không ra đời thì cứ lần lượt như vậy. Nếu Phật xuất thế như chính pháp trụ ở đời thì thọ mạng của chúng sinh tạm trụ không giảm. Tùy theo chính pháp giảm mà thọ mạng giảm theo.

Phật Thế Tôn đã nói và tôi nghe như vậy.

3. Tiểu Tam Tai về Nạn đói

Phật Thế Tôn nói: Một tiểu kiếp gọi là một kiếp, ngoài ra như trước đã nói. Cho đến 80 tiểu kiếp thì gọi là một đại kiếp.

Sao 80 tiểu kiếp gọi là 1 đại kiếp ?

Phật nói trong kiếp thế giới tan hoại, trong kiếp thế giới tan hoại rồi trụ, trong kiếp thế giới khởi thành, trong kiếp thế giới khởi thành rồi trụ.

Thế Tôn! Số các kiếp tan hoại như thế nào?

Phật nói: Nầy các Tì-kheo! Trải qua 20 tiểu kiếp thế giới nầy tan hoại. Kế tiếp là 20 tiểu kiếp thế giới tan hoại rồi lại trụ. Tiếp theo đó trải qua 20 tiểu kiếp thế giới khởi thành. Tiếp theo trải qua 20 tiểu kiếp khởi thành rồi trụ lại. Đây là 20 tiểu kiếp của thế giới khởi, rồi được trụ lại.

Khi kiếp thứ 3, Tiểu Tam Tai khởi, do nạn đói dữ dội là kiếp chấm dứt. Trong thời gian đó, tai nạn đầu sắp khởi, do đói khát, do khốn khổ, do trời hạn hán. Lúc ấy ở cõi Diêm-phù-đề nầy tất cả các nước nhân dân đang gặp bệnh dịch lớn. Tất cả quỷ thần đều khởi tâm sân ác muốn làm tổn hại người thế gian. Lúc ấy tất cả nhân gian thọ mạng thật ngắn ngủi chỉ sống đến 10 tuổi, thân hình xấu xí, nhỏ bé hoặc bằng 2 hay 3 gang tay, tất cả đều sống bằng loại cỏ gạo, lấy tóc người làm áo để che thân. Chỉ trang bị bằng dao gậy. Lúc ấy loài người không hành chính pháp, tham đắm phi pháp, hằng bị nhiễm ô, tham ái phi lý sai sử. Tà pháp bành trướng khởi các tội ác khó giáo huấn, không biết làm thiện, không biết tạo phúc, không cứu khổ nạn. Ngày đêm tương ưng các pháp tà ác. Hoặc thân khẩu ý khởi 3 tà hạnh, không thể xa lìa sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham ái, sân nhuế, tà kiến. Không biết cung kính cha mẹ, sư tăng, Sa-môn Bà-la-môn, thân hữu, tôn trưởng. Phóng tâm khởi các nghiệp ác. Nghiệp nầy có thể cảm báo đến thọ mạng ngắn ngủi, có thể cảm báo bệnh tật, có thể cảm báo hình sắc xấu xí, có thể cảm báo thân không có uy đức, có thể cảm báo sinh vào nhà ti tiện, có thể cảm báo bần cùng khốn khổ, có thể cảm báo ngu si tà kiến. Các nghiệp như vậy ngày đêm sinh trưởng. Như vậy con người tương ưng với các phiền não ác nghiệp. Do làm những tà hạnh quá nặng nên trong 2, 3 năm trời không mưa. Do đại hạn nên ngũ cốc thiếu hụt, nạn đói xảy ra. Lúc ấy có một số người có thế lực thấy ở kia có một ít lương thực liền đến đoạt lấy mà ăn. Tất cả đều do sự đói khát bức bách. Tất cả các bệnh tật đói khát là trên hết. Do nguyên nhân nầy mà chỉ trong một ngày một đêm người chết đói nhiều vô số. Thời mạt kiếp chúng sinh như vậy tội lỗi tự nhiên sinh.

Vì sao như vậy?

Nếu con người làm điều bất thiện, làm điều phi pháp, làm điều bất bình đẳng thì bị quả báo này. Trong lúc ấy pháp hành, bình đẳng hành, thiện hành không thực hành được nên tất cả chúng sinh sinh vào nơi đây, kiếp ô trược tự nhiên khởi. Lúc đó con người chỉ dựa vào chỗ thấy biết thô sơ, nghiệp thô ác, tạo tác các ác. Sau khi xả bỏ thân mạng liền sinh vào chỗ ác, đọa lạc vào đường khổ, không an lạc. Lúc ấy đa phần chúng sinh bị sinh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la. Bấy giờ những nước lớn lần lượt bị hoang phế, chỉ còn những quận huyện nhỏ xa cách nhau mỗi nơi. Lúc ấy con người không thực hành chính pháp, hằng bị phi pháp tham đắm nhiễm ô, bị tham ái phi lý sai sử. Tà pháp bành trướng khởi tội ác, khó giáo huấn được. Không thể hành thiện, không thể tạo phúc, không cứu khổ nạn, ngày đêm tương ưng với pháp tà ác . Hoặc thân khẩu ý khởi 3 tà hạnh, không thể xa lìa sự sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham ái, sân nhuế, tà kiến. Không biết cung kính cha mẹ, sư tăng, Sa-môn Bà-la-môn, thân hữu, tôn trưởng. Phóng tâm khởi các ác nghiệp. Nghiệp nầy có thể cảm báo thọ mạng ngắn ngủi, có thể cảm báo nhiều bệnh, có thể cảm báo hình sắc xấu xí, có thể cảm báo thân không có uy đức, có thể cảm báo sinh vào gia đình thấp hèn, bần cùng khốn khổ, có thể cảm báo ngu si tà kiến. Những nghiệp như vậy ngày đêm tương ưng. Trong 4, 5 năm trời không mưa. Do đại hạn nên đất ở Diêm-phù-đề rau cỏ còn không mọc được huống chi là lúa gạo. Để nuôi sống chúng sinh xưa nay con người rất ghét không ăn những thứ như quạ, kênh kênh, chó, dã can giờ đây đều bắt ăn thịt vì đói khát bức bách. Tất cả các bệnh, đói là trên hết. Do nguyên nhân này chỉ trong một ngày một đêm số người chết đói nhiều vô số kể. Lúc ấy các quận huyện nhỏ lần lượt trống vắng. Chỉ còn một số nhà nhỏ ở cách nhau mỗi nơi. Lúc ấy con người không hành chính pháp, phi pháp tham trước, hằng bị nhiễm ô, bị tham ái phi lý sai sử. Tà pháp bành trướng khởi các tội ác không thể giáo hóa được, không thể hành thiện, không thể tạo phúc, không cứu khổ nạn, ngày đêm tương ưng với các pháp tà ác . Hoặc thân khẩu ý khởi 3 tà hạnh, không thể lìa bỏ sự sát sinh, trộm cướp, tà dâm, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, vọng ngôn, tham ái, sân nhuế, tà kiến, không biết cung kính cha mẹ, sư tăng, Sa-môn Bà-la-môn, thân hữu, tôn trưởng. Phóng tâm khởi các nghiệp ác. Nghiệp nầy có thể cảm báo thọ mạng ngắn ngủi, có thể cảm báo nhiều bệnh, có thể cảm báo hình tướng xấu xí, có thể cảm báo thân không có uy đức, có thể cảm báo sinh vào gia đình ti tiện, có thể cảm báo khốn cùng khổ sở, có thể cảm báo ngu si tà kiến. Các nghiệp như vậy ngày đêm tương ưng. Lúc ấy trong 6, 7 năm trường trời không có mưa. Do đại hạn hán nên người ở cõi Diêm-phù-đề muốn thấy nước còn không thể được, huống là uống nước. Duy chỉ còn nước 4 con sông lớn còn sâu thông thương với biển dùng thuyền qua đó có thể lấy nước được. Ngoài những con sông nầy thì không còn đâu có nước. Những người còn lại nương tựa vào nước nầy để sống và bắt những con cá, rùa v.v… để sống vì đói khát bức bách. Tất cả các bệnh đói là trên hết. Do nguyên nhân nầy mà chỉ trong một ngày một đêm số người chết đói không thể kể xiết. Chúng sinh thời mạt kiếp tội lỗi tự nhiên khởi sinh như vậy.

Vì sao như vậy?

Nếu con người làm điều bất thiện, làm điều phi pháp, làm điều bất bình đẳng thì bị quả báo này. Trong lúc ấy pháp hành, bình đẳng hành, thiện hành không thực hành được nên tất cả chúng sinh sinh vào nơi đây, kiếp ô trược tự nhiên khởi. Lúc đó con người chỉ dựa vào chỗ thấy biết thô sơ, nghiệp thô ác, tạo tác các ác. Sau khi xả bỏ thân mạng liền sinh vào chỗ ác, đọa lạc vào đường khổ, không an lạc. Lúc ấy đa phần chúng sinh bị sinh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la. Những nhà còn sót lại cũng lần lượt bỏ trống. Những người còn lại đó họ tự ly tán.

Lúc ấy con người không thực hành chính pháp, hằng bị phi pháp tham đắm nhiễm ô, bị tham ái phi lý sai sử. Tà pháp bành trướng khởi tội ác, khó giáo huấn được. Không thể hành thiện, không thể tạo phúc, không cứu khổ nạn, ngày đêm tương ưng với pháp tà ác . Hoặc thân khẩu ý khởi 3 tà hạnh, không thể xa lìa sự sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham ái, sân nhuế, tà kiến. Không biết cung kính cha mẹ, sư tăng, Sa-môn Bà-la-môn, thân hữu, tôn trưởng. Phóng tâm khởi các ác nghiệp. Nghiệp nầy có thể cảm báo thọ mạng ngắn ngủi, có thể cảm báo nhiều bệnh, có thể cảm báo hình sắc xấu xí, có thể cảm báo thân không có uy đức, có thể cảm báo sinh vào gia đình thấp hèn, bần cùng khốn khổ, có thể cảm báo ngu si tà kiến. Những nghiệp như vậy ngày đêm tương ưng.

Trong kiếp này chỉ còn 7 ngày. Trong 7 ngày đó một ngày một đêm số người chết đói vô số. Dẫu có người còn sống cũng đều phân tán đi biệt xứ. Lúc ấy có một người tập họp các nam nữ trong cõi Diêm-phù-đề lại được 1 vạn người làm nhân chủng của vị lai. Lúc ấy đa phần làm việc phi pháp, chỉ trong 1 vạn người nầy có có thể làm việc thiện. Các thiện thần muốn làm cho dòng giống loài người không đoạn tuyệt nên đã ủng hộ con người bằng cách cho những thức ăn ngon vào lỗ chân lông. Do nghiệp lực nên trong kiếp nầy con người còn lưu giữ lại những chủng tử ấy, tự nhiên không gián đoạn. Qua 7 ngày sau thì nạn đói lớn ấy nhất thời chấm dứt. Tất cả ác quỷ đều bỏ đi. Lúc ấy tất cả chúng sinh muốn có y phục, ăn uống v.v… liền nghĩ đến là có đầy đủ. Trời liền mưa xuống, âm dương điều hòa, mỹ vị sinh ra, thân hình khả ái, tướng tốt trở lại. Tất cả thiện pháp tự nhiên sinh khởi. Thanh lương tịch tĩnh, an lạc không bệnh, đại bi nhập tâm. Do đại bi nên đại từ nhập tâm. Do đại từ nên không có ý não hại. Do ý không bị não hại nên được gặp nhau là sinh tâm hoan hỷ; sinh tâm nhẫn thụ, sinh tâm không chán, cùng nhau phò trì, không rời bỏ nhau. Ví như bạn bè thân ái lâu không gặp, chợt được hội họp sinh tâm vui mừng, sinh tâm nhẫn thụ, sinh tâm không chán nản, cùng nhau giúp đỡ, không xa lìa nhau. Lúc ấy con người gặp nhau cũng như vậy. Do tương thân tương ái nên nam nữ cùng ở với nhau. Đây là tiền kiếp những người có thọ mạng 10 tuổi. Hậu kiếp là nhân dân từ đó mà sinh. Thọ mạng dài nhất, hình sắc đẹp đẽ, uy đức vượt trội, thần lực tự tại, đời sống đầy đủ. Thọ mạng đến 20 ngàn tuổi. Lúc ấy chúng sinh công đức như thế nầy tự nhiên thành tựu.

Vì sao như vậy?

Vì hay thực hành pháp bình đẳng, làm việc thiện là kết quả vậy. Lúc ấy con người tương ưng với các thiện pháp. Thân, khẩu, ý đều làm việc lành. Sau khi xả bỏ thọ mạng rồi sinh vào nẻo thiện và cõi trời. Khi xả bỏ thân mạng ở cõi trời lại sinh làm người. Khi sinh vào loài người rồi tự nhiên hiền thiện, tự tính thanh tịnh, tự tính đạo đức, tâm tính hòa nhã, đầy đủ giới phẩm, thường làm việc thiện, xa lìa sự sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, không có tâm tham dục, không có tâm sân nhuế, xả bỏ pháp tà kiến, tu hành chính kiến, cung kính cha mẹ, sư tăng, Sa-môn Bà-la-môn, thân hữu, tôn trưởng, tương ưng với nhiều thiện pháp. Nghiệp nầy có thể cảm báo sống lâu, không bệnh, hình sắc đoan chính, thân có uy đức, có thể cảm báo sinh vào gia đình giàu có, trí tuệ lớn. Các nghiệp lành như vậy ngày đêm sinh trưởng. Lúc ấy con người dựa vào phúc đức sinh vô lượng công đức. Sau khi xả bỏ thọ mạng, lại sinh vào cõi trời và đường thiện, cho đến trụ dài lâu nơi đường thiện nầy. Như vậy ở kiếp đầu, do nạn đói đã chấm dứt và các kiếp tiếp theo là 20 ngàn tuổi. Trong kiếp nầy tuổi thọ thứ nhất là con người do từ con người 20 ngàn tuổi trước sinh ra. Người nầy thọ mạng dài nhất, hình sắc đẹp đẽ, uy đức vượt trội, thần lực tự tại, đời sống đầy đủ, thọ mạng đến 40 ngàn tuổi. Lúc ấy chúng sinh tự nhiên được thành tựu công đức như vậy.

Vì sao như vậy?

Vì pháp hành, bình đẳng hành, thiện hành là kết quả đó. Lúc ấy loài người tương ưng với các thiện pháp, thân khẩu ý đều làm những việc thiện. Sau khi xả bỏ thọ mạng nầy rồi liền sinh vào đường lành và cõi trời. Khi xả bỏ thọ mạng ở cõi trời rồi lại sinh vào cõi người.

Khi sinh trong cõi người thì tự nhiên hiền thiện, tự tính thanh tịnh, tự tính đạo đức, tâm tính hòa nhã, đầy đủ giới phẩm, thường làm việc thiện, xa lìa việc sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, không có tâm tham dục, không có tâm sân nhuế, xả bỏ tâm tà kiến, tu hành chính kiến, cung kính cha mẹ, Sa-môn Bà-lamôn, thân hữu, tôn trưởng và cùng tương ưng với các pháp lành. Do nghiệp nầy chiêu cảm không bệnh tật, được hình tướng đoan chính, thân có uy đức, sinh vào nhà giàu có, được trí tuệ lớn. Các pháp lành như vậy mỗi ngày sinh trưởng. Lúc ấy con người dựa vào phúc đức làm tăng trưởng vô lượng công đức. Sau khi xả bỏ thân mạng liền sinh vào cõi trời và đường thiện. Ở trong đường thiện như vậy dài lâu. Như vậy gọi là trong kiếp thứ 3.

Thọ mạng của kiếp thứ 3 là 60 ngàn tuổi. Lại nữa, là từ những con người 60 ngàn tuổi mà sinh ra. Thọ mạng của con người lúc ấy dài nhất, hình sắc đẹp đẽ, uy đức vượt trội, thần lực tự tại, đời sống đầy đủ và thọ mạng lúc ấy là 60 ngàn tuổi. Lúc ấy con người tương ưng với các pháp lành. Thân, khẩu, ý đều làm những việc thiện. Khi xả bỏ thân mạng rồi, lại sinh vào đường lành, và cõi trời. Khi xả bỏ thân mạng ở cõi trời liền sinh vào cõi người. Khi sinh vào cõi người tự nhiên hiền thiện, tự tính thanh tịnh, tự tính đạo đức, tâm tính hòa nhã, đầy đủ giới phẩm, thường làm việc thiện, xa lìa sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, không có tâm tham dục, không có tâm sân nhuế, xả bỏ những pháp tà kiến, tu hành chính pháp, cung kính cha mẹ, Sa-môn Bà-la-môn, thân hữu, tôn trưởng, cùng các thiện pháp tương ưng. Nghiệp nầy có thể cảm báo sống lâu, không bệnh, hình sắc đoan chính, thân có uy đức, sinh vào trong nhà giàu có, có trí tuệ lớn. Các nghiệp thiện như vậy ngày đêm sinh trưởng. Lúc ấy con người dựa vào phúc đức làm sinh ra vô lượng công đức. Sau khi xả bỏ thân mạng liền sinh vào cõi trời và đường thiện, trụ trong cõi thiện ấy dài lâu. Như vậy gọi là trong kiếp thứ 3.

Tuổi thọ lần thứ 3 nầy là 60 ngàn tuổi. Lại nữa, người từ mức 60 ngàn tuổi nầy mà sinh ra, là người có thọ mạng dài nhất, hình sắc đẹp đẽ, uy đức vượt trội, thần lực tự tại, cuộc sống đầy đủ.

Thọ mạng 80 ngàn tuổi. Như vậy trong kiếp này người ở cõi Diêm-phù-đề nầy sinh ra những chúng sinh có tuổi thọ dài lâu. Lâu nhất là 80 ngàn năm. Lúc đó người nữ 500 tuổi mới lấy chồng. Thời bấy giờ con người có 7 thứ bệnh là đại, tiểu tiện, hàn, nhiệt, dục tâm, đói, già. Trong thời kỳ đó tất cả các quốc gia đều giàu có sung túc, không có oán tặc và giặc cướp. Các châu, quận, huyện, ấp, người, thôn xóm nghe tiếng gà gáy của nhau. Canh tác tuy ít mà thu hoạch nhiều. Lúc ấy con người ít thụ dụng cái quả do công lao, mà đa phần thụ dụng quả do thiện nghiệp đời trước. Nhà cửa, xe cộ, y phục, tài bảo, cuộc sống đầy đủ sung túc. Tuy thụ dụng suốt đời cũng không hư hoại. Lúc ấy con người yên ổn hưởng thụ, không phải rong ruổi tìm cầu. Thọ mạng 80 ngàn tuổi trụ 1 năm 1 A-tăng-kì cho đến khi chúng sinh tạo thập ác. Từ khi khởi 10 đường ác thì thời tiết, thọ mạng con người nhân đó giảm 10 tuổi. Cứ 1 trăm năm lại giảm xuống 10 tuổi. Ở tuổi cuối cùng 10 tuổi thì không còn giảm nữa. Lâu nhất là 80 ngàn tuổi và ít nhất là 10 tuổi. Nếu Phật không ra đời thì lần lượt như vậy. Nếu Phật ra đời và chính pháp trụ thì thọ mạng của chúng sinh không bị giảm. Tùy theo chính pháp giảm mà thọ mạng giảm dần theo.

Phật Thế Tôn đã nói và tôi nghe như vậy.

HẾT QUYỂN 9

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10