LUẬN NHƯ THẬT PHẨM PHẢN CHẤT VẤN
Tam tạng Chân Đế dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

Phẩm 1: LUẬN NẠN VỀ KHÔNG ĐẠO LÝ TRONG PHẨM PHẢN CHẤT VẤN

Luận nói: Ông bảo rằng tôi nói không đạo lý. Nếu vậy ông nói cũng không đạo lý. Nếu ông nói không đạo lý thì tôi nói có đạo lý. Nếu ông nói có đạo lý mà bảo rằng tôi nói không đạo lý thì không đúng nghĩa.

Lại nữa, không đạo lý thì trong tự thể có đạo lý. Cho nên không có cái gọi là không đạo lý. Nếu trong tự thể không đạo lý thì cái gọi là không đạo lý cũng không. Cho nên ông nói tôi không đạo lý, là không đúng nghĩa. Lại nữa nếu ông bảo tôi nói không đạo lý là tự chứng tỏ ông là vô trí. Bởi vì sao ? Vô đạo lý tức là vô sở hữu. Ngôn thuyết với vô đạo lý là một hay khác ? Nếu một thì ngôn thuyết cũng không, làm sao ông bảo ngôn thuyết của tôi là vô đạo lý ? Nếu khác thì ngôn thuyết có đạo lý, sao ông lại bảo ngôn thuyết của tôi vô đạo lý ?

Lại nữa, ngôn thuyết tự phá lẫn nhau, cho nên ngôn thuyết ông hỏi với ngôn thuyết của tôi là đồng thời hay không đồng thời ? Đồng thời thì không thể phá ngôn thuyết của tôi. Ví như sừng bò, tai ngựa,

đồng thời sinh nên không thể phá lẫn nhau. Nếu không đồng, thì ông hỏi trước tôi nói sau, tôi chưa nói ra ông lấy gì chất vấn ? Cho nên không thành chất vấn. Nếu tôi nói trước ông chất vấn sau thì việc tôi nói đã thành còn chất vấn cái gì ? Nếu đồng thời thì tôi nói, ông hỏi, là hỏi, là có thể hỏi, không thể phân biệt. Ví như nước sông nước biển đồng thời hòa hợp không thể phân biệt.

Lại nữa, ông hỏi là hỏi tự nghĩa hay là không hỏi tự nghĩa ? Nếu hỏi tự nghĩa, tự nghĩa tự hoại, điều tôi nói tự thành. Nếu không hỏi tự nghĩa thì câu hỏi không thành tựu. Bởi vì sao ? Vì trong tự nghĩa không thành tựu câu hỏi. Nếu thành tựu thì tự nghĩa hoại mà tha nghĩa thành.

Lại nữa, ông bảo rằng ngôn thuyết của tôi là vô đạo lý, thì chẳng phải ngôn thuyết, nếu là ngôn thuyết thì không được vô đạo lý. Có ngôn thuyết, không đạo lý, 2 cái này mâu thuẫn nhau. Ví như bé gái có con. Nếu là bé gái thì không có con được. Nếu có con thì không phải bé gái. Bé gái và có con, 2 điều này mâu thuẫn. Cho nên nói có ngôn thuyết không đạo lý là không đúng nghĩa.

Lại nữa, mâu thuẫn với chứng trí. Ông nghe ngôn thuyết của tôi mà bảo là không đạo lý, thì nếu ông đã nghe tức là chứng trí được thành tựu. Chứng trí sức mạnh, lời nói của ông hỏng. Ví như có người nói thanh không được do nhĩ thức. Nhĩ thức đã được thì thanh là chứng trí được thành tựu. Chứng trí sức mạnh, lời nói này hỏng.

Lại nữa, mâu thuẫn với tỷ trí nên nếu ông bảo rằng tôi có sở đắc ngôn thuyết tỷ trí thì biết có đạo lý, nếu không đạo lý ngôn thuyết cũng không. Nếu có ngôn thuyết biết có đạo lý. Ví như có người nói thanh thường trụ vì từ nhân sinh. Tất cả những gì từ nhân duyên sinh thì không thường trụ. Ví như đồ gốm từ nhân sinh nên không được thường trụ. Thanh nếu từ nhân sinh không được thường trụ. Nếu thường trụ thì không được từ nhân sinh. Không thường trụ là tỷ trí được thành tựu. Tỷ trí sức mạnh thường trụ thì hỏng. Có đạo lý, là nếu có ngôn thuyết thì có đạo lý. Có đạo lý là tỷ trí được thành tựu, không đạo lý thì hỏng.

Lại nữa, mâu thuẫn với thế gian nên ông bảo rằng ngôn ngữ của tôi không đạo lý, đó là lời nói mâu thuẫn với thế gian. Bởi vì sao ? Trong thế gian được lập 4 thứ đạo lý: 1. Đạo lý nhân quả. 2. Đạo lý tương đãi. 3. Đạo lý thành tựu. 4. Đạo lý như như. Đạo lý nhân quả là như hạt giống với mầm. Đạo lý tương đãi là đối đãi nhau như dài đối với ngắn cha đối với con. Đạo lý thành tựu là như 5 phần nói nghĩa thành tựu. Đạo lý như như có 3 thứ: 1. Vô ngã như như. 2. Vô thường như như. 3. Tịch tĩnh như như. Trong thế gian, ngôn thuyết là quả đạo lý là nhân. Trong thế gian nếu thấy quả thì biết có nhân, nếu thấy ngôn thuyết thì biết có đạo lý. Ông bảo rằng ngôn thuyết của tôi không đạo lý, nghĩa ấy mâu thuẫn với thế gian. Nếu có ngôn thuyết mà không đạo lý là không có chỗ đó. Ông bảo rằng vì ngôn thuyết của tôi lạ lùng không phù hợp. Nay tôi cùng ông biện luận giải quyết chỗ này. Nếu người nói khác tức là có lỗi. Nghĩa của ông tự lập khác với nghĩa của tôi, tức là tự thuyết, tức là dị thuyết, cho nên ông bị lỗi. Nếu nghĩa của ông khác với tự thuyết của tôi thì cái lỗi khác là ở nơi ông không liên quan đến tôi. Nếu không khác thì ông đồng với tôi, tức không có khác. Ông nói tôi khác là nói sai.

Lại nữa, khác với khác không khác, cho nên không khác. Nếu khác với khác mà khác, thì tức là không khác. Ví như người với bò là khác. Người không phải là bò. Nếu khác với khác mà không khác, tức là một. Nếu một thì không có khác, vì sao ông nói tôi là khác ?

Lại nữa, đạo lý ấy là tôi đang cùng tranh luận trong đạo lý của ông cho nên tôi nói có khác. Nếu ông với tôi không khác thì đã không cùng tranh luận với ông. Tôi nói nghĩa của ông, nên nếu tất cả sở thuyết là khác thì ông cũng có sở thuyết. Cho nên ông nói khác, là lỗi ở ông. Nếu ông nói không nói khác, thì tôi cũng nói không nói khác.

Ông nói tôi nói khác là nghĩa không đúng, là ông nói sai. Các nghiã khác như trước đã nói.

Ông bảo rằng nghĩa tôi nói không thành tựu. Nay tôi cùng ông tranh biện giải quyết chỗ này. Nếu nói không thành tựu là nói thuyết không thành tựu. Nếu sở thuyết không thành tựu thì không được nói. Nếu không được nói, ông làm sao nói sở thuyết không thành tựu ? Nếu sở thuyết được nói thì phải thành tựu. Ông nói không thành tựu là không đúng nghĩa. Nếu tất cả sở thuyết không thành tựu thì ông nói lên chất vấn hỏi tôi, chất vấn đó tức không thành tựu. Nếu chất vấn ông nói chẳng phải không thành tựu, thì thuyết của tôi cũng như vậy chẳng phải không thành tựu. Ông nói tôi không thành tựu là không đúng nghĩa. Cái không thành tựu, thành tựu trong tự thể, cho nên không có không thành tựu. Nếu không thành tựu, ở trong tự thể không có thành tựu, thì cũng phải không có không thành tựu. Nếu có thành tựu thì không có không thành tựu. Cho nên ông nói tôi không thành tựu, là không có chỗ đó. Nếu ông nói không đọc kỹ câu hỏi của tôi thì không nắm được ý tôi. Nếu không nắm được ý tôi thì không được vặn hỏi tôi. Nay tôi cùng ông tranh biện giải quyết chỗ này. Nếu chưa đọc kỹ câu hỏi của tôi thì không được nói câu hỏi của ông. Ông đọc kỹ câu hỏi có thể hỏi hay chưa đọc kỹ câu hỏi mà hỏi ? Nếu ông không đọc kỹ mà được hỏi thì tôi cũng không đọc kỹ mà được hỏi. Nếu ông đọc kỹ câu hỏi được nói câu hỏi thì thường đọc kỹ câu hỏi. Bởi vì sao ? Trong câu hỏi lại sinh câu hỏi, thì câu hỏi vô cùng, không có lúc không đọc kỹ câu hỏi, không có lúc được nói câu hỏi.

Lại nữa, từ nạn danh lại có nạn danh, nếu thông nạn danh này nên được nói nạn danh, không đọc kỹ không được nói nạn danh, thì chỉ được sau thông nạn danh trước, nạn danh tiếp chưa được đọc kỹ thứ 3 mới được đọc kỹ nạn danh thứ 2, thứ 4 mới được đọc kỹ nạn danh thứ 3. Như vậy thì hằng đọc kỹ vô tận. Nếu nay ông không đọc kỹ mà được nói nạn danh, thì nạn danh đầu tiên cũng phải không đọc kỹ mà được nói nạn danh. Nếu nạn danh đầu tiên không đọc kỹ không được nói nạn danh, thì thứ 2 cũng phải không đọc kỹ nạn danh được nói nạn danh. Thứ 2 không đọc kỹ nạn danh được nói nạn danh, thì ban đầu cũng phải không đọc kỹ nạn danh được nói nạn danh, mà nay nạn danh ban đầu quyết phải đọc kỹ mới được nói nạn danh, nạn danh thứ 2 cũng quyết phải đọc kỹ mới được nói nạn danh, không nên không đọc kỹ mà nói.

Lại nữa nếu không đọc kỹ câu hỏi mà nói, thì câu hỏi rơi vào chỗ thua bại. Ông không đọc kỹ câu hỏi của mình ông nói câu hỏi cũng rơi vào chỗ thua bại. Nếu ông không đọc kỹ câu hỏi mà nói câu hỏi, nói câu hỏi không rơi vào chỗ thua bại thì tôi cũng không đọc kỹ câu hỏi mà nói câu hỏi cũng không rơi vào chỗ thua bại.

Lại nữa, nếu ông bảo rằng nói câu hỏi tôi tôi đều phải đọc kỹ, tôi hỏi hỏi ông ông đều phải đọc kỹ. Chỉ được cùng nhau lãnh thông thì không được biệt lập câu hỏi. Nếu hằng lãnh đọc kỹ nhau thì mất nghĩa chính. Ví như 2 chiếc thuyền buộc vào nhau khi nước lên dắt nhau bồng bềnh.

Lại nữa lời nói của ông đều là âm thanh, ra khỏi miệng là diệt mất, làm sao đọc kỹ được lời nói của tôi ? Âm thanh đã là pháp diệt mất không được trở về lại, không được đọc lại. Nếu âm thanh tồn tại thì không thể đọc, vì là thường thanh. Nếu lời nói diệt mất thì không có gì để đọc, vì nó không có. Nếu âm thanh đã diệt mất, ông khiến tôi đọc đúng như ông nói, đó là tư duy sai lầm.

Ông nói lời tôi nói trước phá sau. Nay tôi cùng ông biện luận giải quyết chỗ này. Nếu lời tôi nói trước phá sau, đó là đạo lý. Bởi vì sao ? Lời nói tôi trước lời nói ông sau. Nếu lời nói của tôi phá lời nói sau thì nghĩa của tôi thắng, lời nói của ông hỏng.

Lại nữa, nếu ông bảo rằng tất cả lời nói trước phá sau, thì lời nói ông nói ra cũng trước phá sau. Nếu lời ông nói trước không phá sau, thì lời tôi nói ra cũng trước không phá sau.

Lại nữa, trước phá sau, là đối với tự thể không có trước sau phá. Nếu ở nơi tự thể có trước phá sau thì trước sau đều không. Cho nên ông nói trước phá sau, nói thế không đúng. Nếu nơi tự thể không có trước phá sau, thì vì không có nhân nên trước phá sau cũng là không. Ông bảo rằng lời nói của tôi trước phá sau, đó là tư duy sai lầm.

Ông bảo rằng tôi nói nhân khác. Nay tôi và ông biện luận giải quyết chỗ này. Nếu người bỏ nhân trước lập nhân khác tức rơi vào chỗ thua bại, thì ông rơi vào chỗ thua bại. Bởi vì sao ? Vì ông cũng bỏ nhân trước lập nhân khác. Nếu ông lập nhân khác không rơi vào chỗ thua bại, tôi cũng vậy.

Lại nữa, nhân tôi nói với nhân ông nói khác nhau. Nếu tôi nói nhân khác thì tôi có đạo lý. Nếu không nói nhân khác, tức là tôi nói nhân của ông, chẳng phải mâu thuẫn đối trị, tức đồng với ông nói. Ông bảo rằng tôi nói khác nhân là tà tư duy. Nếu tôi lập nhân đồng với ông, ông phá nhân của tôi tức tự phá nhân của ông.

Lại nữa, nếu tất cả lời nói là biệt nhân, thì lời ông nói ra cũng là biệt nhân, cho nên ông rơi vào chỗ thua bại. Nếu ông nói ra không rơi vào chỗ thua bại, ông nói tôi lập nhân rơi vào chỗ thua bại là không đúng nghĩa.

Nếu ông bảo rằng tôi nói biệt nghĩa, nay tôi cùng ông biện luận giải quyết chỗ này. Chỗ lập nghĩa của tôi khác với nghĩa của ông, tức là đạo lý.Tôi nay cùng ông đối trị trái nhau, cho nên nói biệt nghĩa. Nếu ông nghĩ nghĩa của tôi với nghĩa của ông không khác thì nghĩa của tôi không cùng đối trị trái nhau với nghĩa của ông. Nếu ông phá nghĩa của tôi tức là ông tự phá.

Lại nữa, nghĩa khác ở trong tự thể không có nghĩa khác. Nghĩa khác tức là không. Nếu nghĩa khác ở trong tự thể có nghĩa khác, thì nghĩa khác cũng là không. Cho nên ông bảo rằng tôi nói nghĩa khác, là không đúng.

Lại nữa, nếu tất cả những gì nói ra đều là nghĩa khác, thì điều ông nói ra cũng phải là nghĩa khác. Nếu những gì ông nói không nói là nghĩa khác, thì ông bảo rằng tất cả những gì nói ra đều là nghĩa khác, là không đúng.

Ông bảo rằng những gì tôi nay nói cũng như những gì nói trước kia không có gì khác. Nay tôi cùng ông biện luận giải quyết chỗ này. Lập nghĩa của tôi đối trị mâu thuẫn với với lập nghĩa của ông. Nếu tôi nói tự lập nghĩa đối trị với nghĩa của ông, đó là đúng đạo lý. Bởi vì sao ? Tất cả mọi nơi tôi nói là phá nghĩa của ông. Cho nên tôi nói không có khác. Nếu tôi phải nói nghĩa khác thì nghĩa của ông lập khác với nghĩa của tôi. Nếu tôi nói nghĩa khác tức là nói nghĩa của ông, thế là không trái nhau với ông, ông chỉ trích tôi tức tự chỉ trích nghĩa của mình.

Lại nữa, như tôi trước nói thanh vô thường, câu nói này tự diệt, tự chấm dứt. Nay lại nói câu nói khác. Ông bảo rằng tôi nói câu nói trước. Đó là tư duy không đúng.

Lại nữa, nếu ông bảo tôi nói không khác, nếu tôi nói khác tức là khác. Nếu tôi nói không khác tức không khác. Nếu tôi nói là không được thành là ông nói tôi không khác, nghĩa ấy không đúng. Nếu ông bảo rằng tất cả những gì nói ra tôi đều không chấp nhận, tôi nay cùng ông biện luận giải quyết chỗ này. Ông bảo rằng không chấp nhận tất cả. Câu nói này là nhập vào tất cả số hay không nhập vào tất cả số ? Nếu nhập vào tất cả số, là ông tự không chấp nhận những gì ông đã nói. Nếu tự không chấp nhận tức là ông chấp nhận nghĩa của tôi, nghĩa của tôi tự thành, những gì ông nói thành hỏng. Nếu không nhập vào tất cả số thì không tất cả. Nếu không tất cả ông không chấp nhận tất cả. Nếu không chấp nhận tất cả thì nghĩa của tôi chẳng phải điều mà ông không chấp nhận. Nghĩa của tôi cũng thành, những gì ông nói rốt cuộc thành hỏng.

 

Phẩm 2: LUẬN NẠN VỀ ĐẠO LÝ TRONG PHẨM PHẢN CHẤT VẤN

Luận nói: Vấn nạn có 3 thứ lỗi: 1. Vấn nạn điên đảo. 2. Vấn nạn nghĩa không thật. 3. Vấn nạn mâu thuẫn. Nếu vấn nạn có 3 thứ lỗi thì rơi vào chỗ thua bại.

1. Vấn nạn điên đảo, là lập vấn nạn không phù hợp nghĩa đúng, gọi là vấn nạn điên đảo. Vấn nạn điên đảo có 10 thứ: 1. Đồng tướng nạn. 2. Dị tướng nạn. 3. Trường tướng nạn. 4. Vô dị nạn. 5. Chí bất chí nạn. 6. Vô nhân nạn. 7. Hiển biệt nhân nạn. 8. Nghi nạn. 9. Vị thuyết nạn. 10. Sự dị nạn.

1. Đồng tướng nạn, là đối vật đồng tướng lập vấn nạn. Đó gọi là đồng tướng nạn.

Luận nói: Thanh vô thường, vì do công sức sinh, không trung gian sinh. Ví như đồ gốm do công sức sinh ra, sinh ra rồi vỡ mất. Thanh cũng như vậy nên thanh vô thường. Như vậy nghĩa đã lập.

Ngoại đạo nói: Nếu thanh vô thường vì đồng tướng với đồ dùng, thì thanh thường trụ vì đồng tướng với hư không. Cho nên giống như hư không, thanh cũng thường trụ. Đồng tướng là cũng không có thân.

Luận nói: Lại nữa, thanh vô thường vì do công sức sinh, không có trung gian sinh. Nếu vật thường trụ không do công sức sinh, ví như hư không thường trụ không do công sức sinh. Thanh không như thế, cho nên thanh vô thường. Như vậy nghĩa đã lập.

Ngoại đạo nói: Nếu thanh với hư không thường trụ không đồng tướng cho nên thanh vô thường, thế thì thanh đi đâu ? Còn nếu đồng tướng với hư không thì thanh là thường. Cái đồng tướng đó là không có thân cho nên thường.

Luận nói: Hai luận nạn này đều là điên đảo, luận nạn bất thành. Bởi vì sao ? Quyết định pháp một vị lập làm nhân hiển thị tất cả vật do công sức sinh nên vô thường, là hiển thị vô thường do quyết định một vị. Cho nên vô thường bất động. Muốn hiển thị đồng loại của nó nên nói thí dụ đồ gốm v.v…Ngoài dựa vào không quyết định một vị lập nạn vấn rằng nếu ông dựa vào đồng tướng lập nghĩa thanh vô thường, tôi cũng dựa vào đồng tướng lập nghĩa thanh thường. Nếu nghĩa của ông thành tựu nghĩa của tôi cũng thành tựu.

Luận nói: Luận nạn của ông không phù hợp. Bởi vì sao ? Ông lập nhân không quyết định thường vô thường hiển thị cho khắp tất cả. Tôi lập nhân 3 thứ tướng, là pháp căn bản. Đồng loại thì bao gồm khác loại thì tách rời nhau. Cho nên lập nhân thành tựu bất động. Nhân của ông không phù hợp cho nên nạn vấn của ông là điên đảo. Nếu ông lập nhân đồng với nhân của tôi thì nạn vấn của ông thành nạn vấn đúng. Nếu lập nghĩa vô thường vấn nạn nghĩa thường, là vấn nạn thành tựu. Bởi vì sao ? Lập nhân thường nạn vấn lập nhân vô thường là cực kỳ không thể rõ vô thường, lỗi điên đảo vì nhân thường không quyết định một vị, nhân vô thường quyết định một vị.

2. Dị tướng nạn, là đối vật không đồng tướng lập vấn nạn, gọi là dị tướng nạn.

Luận nói: Thanh vô thường. Bởi vì sao ? Vì do nhân duyên sinh. Nếu có vật dựa vào nhân duyên sinh tức là vô thường. Ví như hư không, hư không là thường trụ không dựa vào nhân duyên sinh. Thanh không như vậy cho nên thanh vô thường.

Ngoại đạo nói: Nếu thanh với hư không thường trụ không đồng tướng cho nên vô thường thì lại đi đến đâu ? Nếu với đồ gốm không đồng tướng, thanh tức thường trụ. Không đồng tướng, là thanh không có thân đồ gốm có thân. Cho nên đồ gốm vô thường, thanh là thường.

Luận nói: Thanh vô thường vì dựa vào nhân duyên sinh. Ví như đồ gốm dựa vào nhân duyên sinh nên vô thường. Thanh cũng vậy.

Ngoại đạo nói: Nếu ông lập thanh vô thường với đồ gốm đồng tướng, thì đi đến đâu ? Thanh tức thường trụ với đồ gốm không đồng tướng cho nên không đồng tướng là vì thanh không thân đồ gốm có thân.

Luận nói: Hai luận nạn này đều điên đảo. Bởi vì sao ? Vì tôi lập nhân vô thường quyết định một vị. Ông lập nhân thường không quyết định một vị, vì thường vô thường hiển lộ khắp cả. Cho nên nhân bất định không thể luận nạn với nhân quyết định. Nhân tôi lập, là y vào nhân duyên sinh nên thanh vô thường. Nhân này là pháp căn bản: Đồng loại thì bao gồm khác loại thì tách rời nhau. Đầy đủ 3 tướng nên không thể động. Nhân ông lập là không có thân, cho nên thanh thường trụ. Pháp căn bản của nhân này là đồng loại khác loại đều bao gồm, cho nên không thành nhân.

3. Trường tướng nạn, là trong đồng tướng hiển biệt tướng, gọi là trường tướng nạn.

Luận nói: Thanh vô thường vì do công sức sinh. Ví như đồ gốm. Cho nên thanh vô thừong.

Ngoại đạo nói: Ông lập thanh với đồ gốm đồng tướng vì do công sức sinh có nguyên do riêng: 1. Có thể nung chín không thể nung chín. 2. Mắt trông thấy được mắt không trông thấy được v.v… Như vậy thanh và đồ gốm đều có nguyên do riêng. Thanh do công sức sinh thường trụ, đồ gốm do công sức sinh vô thường. Cho nên thanh thường trụ.

Luận nói: Thế là luận nạn điên đảo. Bởi vì sao ? Nhân tôi lập không tách rời vô thường, tách rời với thường. Rõ ràng nhân này là trí so sánh vô thường. Ví như lửa trí so sánh là khói. Khói với lửa là không tách rời nhau. Cho nên nhân tôi lập không thể chuyển động. Ông cho rằng thanh khác không thể nung chín cho nên thường, thì dục, sân, khổ, lạc, gió v.v… không thể nung chín mà là vô thường. Cho nên không thể nung chín không thể lập là nhân thường, mắt không thấy được cũng không thể lập là nhân thường. Bởi vì sao ? Dục, sân, khổ, lạc, gió v.v… mắt cũng không thể trông thấy được mà là vô thường. Nhân của ông bao gồm đồng loại khác loại nên không thành. Nếu nhân của ông đồng với nhân của tôi thì có thể luận nạn với nghĩa tôi lập. Nghĩa tôi lập dựa vào nhân của 3 thứ tướng, cho nên không đồng. Không đồng mà ông nói đồng, cho nên luận nạn của ông điên đảo.

4. Vô dị nạn, là cho rằng tất cả đồng tướng, cho nên lập tất cả không có nguyên do, đó gọi là vô dị nạn.

Luận nói: Thanh vô thường, dựa vào nhân duyên khác nên thanh thành khác. Ví như ngọn đèn thắp lớn thì sáng lớn thắp nhỏ sáng nhỏ, nghĩa ấy đã lập.

Ngoại đạo nói: Nếu dựa vào đồng tướng, đồ gốm v.v… vô thường thanh cũng như vậy, thì tất cả vật không khác với tất cả vật. Bởi vì sao ? Vì tất cả vật với vật khác có đồng tướng. Cái gì đồng tướng ? Có một là có thể biết v.v…, gọi là đồng tướng. Nếu có đồng tướng tất cả vật khác với vật khác thì thanh cũng như vậy. Có đồng tướng với đồ gốm v.v… thanh là thường đồ gốm v.v…vô thường. Bởi vì sao ? Vì trong tất cả có đồng tướng có tự tính khác. Như đèn, thanh, người, ngựa, nếu dựa vào đồng tướng so sánh biết thì không thành tựu.

Luận nói: Luận nạn đó điên đảo. Bởi vì sao ? Trong tất cả vật có đồng tướng như nhau, tôi cũng không bỏ, tôi xét có riêng khác. Đồng tướng đầy đủ 3 tướng là lập nghĩa vô thường. Nói đây là nhân vô thường không chỉ lấy đồng tướng. Nếu không tư duy lựa chọn như vậy thì đạo lý sẽ không có đạo lý khác. Bởi vì sao ? Không có một vật gì không đồng không khác với một vật khác. Cho nên nếu có đồng tướng thì bao gồm đồng loại, tách rời tất cả khác loại. Nếu lấy đây lập nhân thì nhân thành tựu. Chỉ đồng tướng lập nhân thì không thành tựu cho nên điên đảo.

Lại nữa luận nói: Thanh vô thường vì dựa vào nhân duyên sinh. Ví như đồ gốm v.v… cho nên thanh vô thường.

Ngoại đạo nói: Nghĩa của nhân và lập, 2 không không khác. Bởi vì sao ? Dựa và nhân sinh là nghĩa gì ? Nhân chưa hòa hợp thanh chưa sinh. Chưa sinh nên không có, đó là nghĩa. Thanh vô thường là nghĩa gì ? Thanh chưa sinh được sinh. Sinh rồi liền diệt. Diệt nên không có, đó là nghĩa. Nhân với lập nghĩa đều không có.

Luận nói: Đó là luận nạn điên đảo. Bởi vì sao ? Tôi lập nghĩa không có, là hoại diệt không có. Tôi lập nhân không có, là chưa sinh không có. Chưa sinh không có, là điều mà tất cả thế gian tin nhiều cho nên thành tựu, lập làm nhân vô thường. Diệt hoại không có, là Tăng-khư v.v… không tin nên không thành tựu. Để khiến thành tựu nên lập làm nghĩa. Nếu lấy thành tựu lập nghĩa không thành tựu làm nhân, luận nạn của ông sẽ thắng, không điên đảo. Tôi nói tất cả vật đời trước chưa có đời sau thấy không. Cho nên thanh đời trước là không đời sau cũng không. Nếu ông không tin đời trước không, thì ông tự suy nghĩ nếu đời trước có thanh mà không ngại, thì sao tai không nghe ? Cho nên ông biết là đời trước không, như chân con rắn. Có người tranh thắng tâm không thể thành tựu nghĩa ý, muốn thành tựu mà không đạo lý thì nên bỏ nghĩa ấy.

5. Chí bất chí nạn, là nhân là đạt tới chỗ lập nghĩa hay là không đạt tới chỗ lập nghĩa ? Nếu nhân đạt tới chỗ lập nghĩa thì không thành nhân. Nếu nhân không đạt tới chỗ lập nghĩa cũng không thành nhân, đó gọi là chí bất chí nạn.

Ngoại đạo nói: Nếu nhân đạt tới chỗ lập nghĩa, xen tạp cùng chỗ lập nghĩa thì không thành lập nghĩa. Ví như nước sông vào trong nước biển không còn là nước sông nữa. Nhân cũng như vậy cho nên không thành nhân. Nếu chỗ lập nghĩa chưa thành tựu, nhân không thể đạt tới. Nếu đạt tới chỗ lập, nghĩa đã thành tựu thì còn dùng nhân làm gì ? Cho nên nhân không thành tựu. Nếu nhân không đạt tới thì không có công năng. Ví như không có lửa đến không thể thiêu đốt, không có đao đến không thể cắt chặt.

Luận nói: Đó là luận nạn điên đảo. Nhân có 2 thứ: 1. Sinh nhân. 2. Hiển bất tương ly nhân. Ông hỏi nếu dựa vào nhân sinh thì thành luận nạn. Nếu dựa vào hiển nhân thì thành điên đảo. Bởi vì sao ? Tôi nói nhân không là sinh, chỗ lập nghĩa được người khác tin, có thể hiển chỗ lập nghĩa ví không tách rời nên lập nghĩa đã có ở trong lập nghĩa như nghĩa trí chưa khởi. Bởi vì sao ? Vì ngu si. Cho nên nói có thể hiển nhân. Ví như đã có sắc dùng đèn để hiển thị chứ không phải để sinh. Cho nên hỏi sinh nhân trong hiển nhân là luận nạn điên đảo.

6. Vô nhân nạn, là trong 3 đời nói không có nhân, đó gọi là vô nhân nạn.

Ngoại đạo nói: Nhân ở trong chỗ lập nghĩa là trong đời trước hay trong đời sau hay cùng đời ? Nếu nhân ở đời trước lập nghĩa ở đời sau, thì chưa có lập nghĩa lấy gì làm nhân ? Nếu ở đời sau lập nghĩa ở đời trước, thì lập nghĩa đã thành tựu còn dùng nhân làm gì ? Nếu đồng đời cùng sinh thì chẳng phải là nhân. Ví như sừng bò, mầm hạt v.v… có cùng một thời không được nói cái này sinh cái kia cái kia sinh cái này. Cho nên là đồng thời thì không có nhân.

Luận nói: Đó là luận nạn điên đảo. Bởi vì sao ? Đời trước đã sinh, dựa vào nhân là sinh. Ví như thắp đèn để hiển thị vật đã có, không phải làm sinh ra vật chưa có. Ông dùng sinh nhân mà nạn vấn hiển nhân của tôi, là luận nạn điên đảo không thành tựu. Nếu ông hỏi nhân ấy nếu là hiển nhân trí tuệ chưa có là nhân, thì nhân đó là nhân gì ? Cho nên không thành hiển nhân. Nếu làm luận nạn như thế là chưa được tên nhân, cho đến sự chưa có. Nếu sự có tức được tên nhân. Đó là có thể hiển sự, bấy giờ được tên nhân. Câu nói ấy ở trước chưa được tên nhân, ở sau mới được tên nhân. Nếu nói nhân trước sự sau thì không có lỗi. Có người vặn hỏi rằng nếu như vậy thì sự không từ nhân sinh. Đây cũng không thành luận nạn. Bởi vì sao ? Là vật trước, sau được tên nhân. Nếu vật đã diệt sau sự mới sinh thì luận nạn này thành tựu. Đã không như vậy trước có chưa được tên, sau có mới được tên. Cho nên quả từ nhân sinh.

7. Hiển biệt nhân nạn, là dựa vào biệt nhân pháp vô thường hiển, nên đây là chẳng phải nhân, đó gọi là hiển biệt nhân.

Ngoại đạo nói: Nếu dựa vào công sức thanh vô thường, thì chỗ không công sức phải là thường. Như điện, ánh sáng, gió v.v… không dựa vào công sức sinh, cũng gồm trong vô thường. Cho nên lập vô thường không phải căn cứ vào công sức, vì công sức chẳng phải là nhân. Nếu vậy nhân là lìa công sức, những chỗ khác phải là không vô thường. Ví như lìa lửa lập khói, khói là chính nhân của lửa, vì khói và lửa không tách rời nhau. Công sức thì không như vậy. Cho nên không thành nhân. Lại nữa, công sức không thể lập nghĩa vô thường. Bởi vì sao ? Không biến khắp nên dựa vào công sức sinh. Nếu biến khắp được lập vô thường, nếu không biến khắp thì không được lập vô thường. Ví như có người lập nghĩa tất cả cây đều có thần thức. Bởi vì sao ? Vì cây có thể ngủ. Ví như cây Thi-lợi-sa. Có người vặn rằng thần thức của cây là không thành tựu. Bởi vì sao ? Do không phổ biến. Một cây Ti-lợi-sa ngủ các cây khác không ngủ. Thế là ngủ không phổ biến tất cả cây. Cho nên ngủ không thể lập cho rằng tất cả cây có thần thức. Việc căn cứ công sức sinh ra cũng như vậy. Không biến khắp tất cả vì vô thường. Cho nên không thể lập vô thường.

Luận nói: Luận nạn ấy điên đảo. Tôi nói không như thế, không nói dựa vào công sức sinh là nhân có thể hiển thị tất cả vô thường, các nhân khác không thể. Nếu có một biệt nhân có thể hiển thị vô thường thì tôi mừng vì sự của tôi thành, việc lập nhân của tôi cũng có thể rõ, các nhân khác cũng có thể rõ, nghĩa tôi lập thành tựu. Ví như căn cứ vào khói biết có lửa. Nếu nói thấy ánh sáng lửa cũng thành tựu. Nghĩa của tôi cũng như vậy, dựa vào công sức sinh có thể hiển vô thường.

Nếu riêng có nhân có thể hiển vô thường, nghĩa vô thường cũng thành tựu. Cho nên luận nạn của ông điên đảo không như ý tôi hỏi. Nếu tôi nói tất cả vô thường dựa vào công sức sinh, thì ông có thể vặn lại rằng dựa vào công sức sinh là nhân không phổ biến cho nên không thành tựu. Luận nạn này thì thắng. Tôi nói thanh v.v… có dựa vào công sức sinh thì đều vô thường, không nói tất cả vô thường đều dựa vào công sức sinh. Cho nên luận nạn của ông là điên đảo.

8. Nghi nạn, là trong khác loại mà đồng tướng gọi là nghi nạn.

Luận nói: Thanh vô thường vì dựa vào công sức sinh. Nếu có vật gì dựa vào công sức sinh vật đó vô thường. Ví như đồ gốm là nghĩa đã lập.

Ngoại đạo nói: Đã sinh dựa vào công sức được hiển lộ. Ví như rễ cây, nước v.v…dựa vào công sức được hiển lộ, chẳng phải dựa vào công sức được sinh. Thanh cũng như vậy. Cho nên lập cái dựa vào công sức làm nhân, không chắc có trong chưa sinh đã sinh. Cho nên dựa vào nhân đây khởi nghi đối với thanh. Thanh này định như thế nào ? Là như đồ gốm chưa sinh được sinh, hay là như rễ cây, nước, đã có được hiển lộ, cho nên chẳng quyết định ? Nếu căn cứ vào sinh nhân này khởi nghi, phải biết đó chẳng phải là lập nghĩa nhân. Bởi vì sao ? Vì có thể sinh, có thể hiển lộ.

Luận nói: Đó là luận nạn điên đảo. Bởi vì sao ? Tôi không nói thanh dựa vào công sức được hiển lộ. Tôi nói thanh dựa vào công sức được sinh. Cho nên thanh vô thường. Ông chỉ trích chỗ nào ? Nếu ông nói về công sức có 2 thứ: một là sinh hai là hiển. Sinh là đồ gốm v.v… Hiển là rễ cây, nước v.v…. Thanh là công sức, cho nên trong đó khởi nghi thường vô thường, nghĩa đó không đúng. Bởi vì sao ? Rễ cây, nước v.v… chẳng phải là công sức cho nên nếu ông nói rễ cây, nước hiển rõ công sức là không thể chỉ trích nghĩa của tôi. Bởi vì sao ? Hiển rõ chưa sinh dựa vào công sức được sinh, cho nên công sức đồng một loại là vô thường nên chỉ trích của ông không đúng. Nếu ông lại nói công sức có 2 loại vô thường: đồ gốm sinh là vô thường, đồ gốm diệt là thường, thanh cũng như vậy, nghi đó cũng không đúng. Bởi vì sao ? Vì không thành tựu. Nếu đồ gốm của ông diệt là có cái có trong diệt. Cái nghĩa có cho nên diệt, tức là không có. Nếu trong diệt không có, tức là không có diệt. Bởi vì sao ? Vì vô thể. Nếu ông nói như tối, trong tối không sáng nên có tối, thì diệt cũng vậy trong diệt không có cho nên có diệt, nghĩa đó không đúng. Trong không hoa, con người thạch nữ, sừng thỏ v.v… không có, vậy thì phải có. Nếu ông không chấp nhận không hoa v.v… là có, thì đồ gốm diệt cũng như vậy không thể nói là có. Cho nên một loại công sức đều là vô thường. Ông nghi không đúng, ông không tin. Để được tin nên tôi nói nhân thanh vô thường. Bởi vì sao ? Đời trước không chướng, dựa vào công sức được hiển sinh, cho nên biết thanh là không có. Ví như đồ gốm. Ông lập dựa vào công sức được, công sức tạo 2 nghĩa có khác, nghĩa đó không đúng. Nghĩa đó là gì ? Tất cả dựa vào công sức mà được tức là vô thường. Bởi vì sao ? Vì chưa sinh được sinh, đã sinh thì diệt. Cho nên rễ cây, nước v.v…cũng như vậy vô thường, cần gì ông lập hiển rõ là thường.

9. Vị thuyết nạn, là trước khi chưa nói chưa có vô thường, đó gọi là vị thuyết nạn.

Luận nói: Nghĩa vốn như trước.

Ngoại đạo nói: Nếu nói ngôn ngữ dựa vào công sức là nhân thanh vô thường, thì đi đến đâu ? Chưa nói ngôn ngữ dựa vào công sức, thanh trước là thường, là nghĩa được đến. Thanh đời trước đã thường, vì sao nay vô thường ?

Luận nói: Đó là luận nạn điên đảo. Bởi vì sao ? Tôi lập nhân là hiển nghĩa, không là sinh không là diệt. Nếu tôi lập nhân hoại diệt thì luận nạn ông thắng. Nếu ông hỏi tôi rằng trước khi chưa nói, chưa rõ thanh vô thường, đó là luận nạn tương tự. Nếu lấy nhân hoại diệt hỏi tôi, đó là luận nạn điên đảo.

10. Sự dị nạn, là vì sự khác như đồ gốm, thanh không như vậy, đó gọi là sự dị nạn.

Luận nói: Thanh vô thường vì dựa vào nhân duyên sinh. Ví như đồ gốm là nghĩa đã lập.

Ngoại đạo nói: Về sự thanh khác với đồ gốm. Về sự đã khác không được đồng là vô thường.

Luận nói: Đó là luận nạn điên đảo. Bởi vì sao ? Tôi không nói đồng sự với khí cụ cho nên thanh vô thường. Tôi nói tất cả vật đồng dựa vào nhân được sinh nên vô thường, không liên quan đến đồng sự. Ví như đồ gốm cho nên thanh vô thường. Khói là vật khác mà có thể hiển thị lửa, đồ gốm cũng như vậy có thể hiển thị thanh vô thường.

Lại nữa người khác nói sự khác khó có nơi khác để nói thanh thường trụ. Dựa vào hư không cho nên hư không là thường trụ, nếu có vật khác dựa vào hư không vật ấy tức thường trụ. Ví như vòng tròn lân hư, lân hư thường trụ vòng tròn dựa vào hư không vòng tròn tức thường trụ. Thanh cũng vậy, dựa vào hư không nên thường trụ.

Lại nữa thanh thường trụ, bởi vì sao ? Vì tai nghe được. Ví như tính đồng khác của thanh tai tiếp nhận nên thường trụ. Thanh cũng vậy cho nên thường trụ. Đó là nghĩa dị lập. Tì-thế sư nói: Nếu thường trụ do nhân được lập, nhân sự nên tức vô thường cho nên thanh vô thường.

Luận nói: Đó là luận nạn điên đảo. Bởi vì sao ? Tôi không nói nhân sinh vô thường. Tôi nói nhân hiển lộ vô thường. Người khác chưa biết. Để cho người khác biết, tôi lập nhân là liễu nhân, chẳng phải sinh nhân. Ông dựa vào sinh nhân mà luận nạn, đó là luận nạn điên đảo.

Lại nữa luận nói: Điều ông nói là lập nghĩa và cũng là chỉ trích. Với tôi, tôi không chấp nhận. Bởi vì sao ? Chúng ta không tin không thích thú nghĩa thường trụ. Cho nên tôi nói nghĩa ấy. Mười thứ đây gọi là đồng tướng v.v… luận nạn điên đảo cho nên do điên đảo mà lập lỗi lầm. Nếu có luận nạn tương tự với đây tức rơi vào trong luận nạn điên đảo. Hai luận nạn không thật nghiã, đó là vì vọng ngữ nên không thật. Vọng ngữ là không như nghĩa, không có nghĩa, gọi là luận nạn không thật nghĩa. Có 3 thứ luận nạn không thật nghĩa: 1. Hiển bất hứa nghĩa nạn. 2. Hiển nghĩa chí nạn. 3. Hiển đối thí nghĩa nạn.

1. Hiển bất hứa nghĩa nạn, là ở nơi chứng kiến lại đi tìm nhân. Đó gọi là hiển bất hứa nghĩa nạn.

Luận nói: Thanh vô thường. Bởi vì sao ? Vì dựa vào nhân duyên sinh, ví như đồ gốm, đó là nghĩa đã lập.

Ngoai đạo nói: Tôi thấy đồ gốm dựa vào nhân duyên sinh. Nhân gì khiến nó vô thường ? Nếu không nhân lập đồ gốm vô thường, thì thanh cũng phải không dựa vào thường nhân được thường.

Luận nói: Luận nạn này không thật. Bởi vì sao ? Đã hiểu rõ không phải dùng nhân thành tựu nữa. Hiện thấy đồ gốm có nhân chẳng phải hằng thường, đâu cần lại phải tìm nhân vô thường ? Cho nên luận nạn này không thật.

2. Hiển nghĩa chí nạn, là trong nghĩa sở đối, nghĩa này đạt đến nghĩa . Đó gọi là nghĩa chí nạn.

Luận nói: Vô ngã. Bởi vì sao ? Vì không thể hiển thị, ví như con người thạch nữ, nghĩa này đã lập.

Ngoại đạo nói: Nghĩa này đạt, nếu có thể hiển thị định chắc có, không thể hiển thị định chắc không, thì có thể hiển thị hoặc có hoặc không, không thể hiển thị cũng phải như vậy. Ví như vòng lửa, sóng nắng, thành Càn-thát-bà là có thể hiển thị nhưng không thể lập là có. Nếu có thể hiển thị không thể nhất định lập là có, thì không thể hiển thị không thể nhất định lập là không.

Luận nói: Luận nạn này không thật. Có đạo lý nào là đạt nghĩa mà không thể hiển thị vật ? Hoàn toàn không có. Đó là không đạt nghĩa. Có 2 thứ có thể hiển thị vật: Có đạt nghĩa, có chẳng đạt nghĩa. Có đạt nghĩa, là nếu có mưa ắt có mây. Nếu có mây thì không chắc, hoặc có mưa hoặc không mưa. Do khói biết lửa. Trong đây không chắc có đạt nghĩa. Nếu thấy khói biết có lửa, không khói biết không lửa, đó là nghĩa không đạt. Bởi vì sao ? Nơi miếng sắt đỏ, hòn than đỏ thấy có lửa không có khói. Đó là hiển vật nghĩa chí nạn không thật.

Lại nữa chỉ có sắc tên là vòng lửa, tên sóng nắng, tên thành Càn-thát-bà. Do căn mê tâm đảo nên với hiện đời là có, đời sau là không, chỉ sắc thật có. Căn mê tâm đảo có khi thấy có. Ông nói có thể hiển thị vật không nhất định có, đó là luận nạn không thật.

Lại nữa, tôi dùng đứa con người thạch nữ làm thí dụ phán quyết nghĩa này. Những gì không thể hiển thị là hoàn toàn không động, vật ấy quyết định không có. Ví như đứa con người thạch nữ không thể hiển động chẳng phải là nghĩa của thí dụ. Không thể hiển, là nơi lân hư v.v… hoặc hiển hoặc không hiển. Đối lại nghĩa chí của ông, chỗ nói nghĩa chí của tôi có thể hiển thị hoàn toàn không động là vật nhất định có. Với cái vòng lửa v.v… duy chỉ cái vòng là bất định. Cái vòng bất định, là khi chuyển thì có khi trụ lại thì không, cho nên chẳng phải nghĩa chí. Ông lấy phi nghĩa chí làm luận nạn nghĩa chí, đó là luận nạn không thật.

Lại nữa, có những người khác nói nghĩa chí nạn là nếu thanh với đồ gốm đồng tướng thì thanh vô thường, vì đó là nghĩa chí. Nếu không đồng tướng thì phải là thường. Không đồng, là thanh được tai tiếp nhận không có thân. Đồ gốm được mắt tiếp nhận có thân. Đã không đồng tướng nên thanh là thường.

Luận nói: Nếu như thế là luận nạn đồng tướng, luận nạn nghĩa chí, luận nạn vô biệt thể, nên tôi không chấp nhận. Ba luận nạn cho thấy đối lại nghĩa của thí dụ. Đối lại lực của thí dụ nên thành tựu nghĩa. Đó gọi là đối thí nghĩa nạn.

Ngoại đạo nói: Nếu đồng tướng với đồ dùng vô thường nên thanh vô thường, thì tôi cũng hiển thị là thường trụ. Ví như hư không thường trụ, vì đồng tướng với hư không nên thanh thường trụ. Nếu đồng tướng với thường mà không được thường, thì đồng tướng với vô thường vì sao vô thường ?

Luận nói: Luận nạn này không thật. Bởi vì sao ? Chỉ có không có vật mới gọi là không. Nếu có vật thường trụ thì thí dụ này thành, và luận nạn cũng là thật. Đã không có vật thường trụ, không không có vật, không thể nói thường không thể nói vô thường. Luận nạn này bất thành. Thí dụ là thí dụ phi thí dụ, nên luận nạn này là phi thật. Nếu người tin có vật tên là không, tức là thường trụ, thí đó là luận nạn điên đảo, chẳng phải thật nghĩa luận nạn. Bởi vì sao ? Vì không có thân, bất định. Hư không không có thân thường trụ. Tâm, khổ, vui, ham muốn v.v…không có thân mà là vô thường. Vậy thanh đã không có thân, vì giống như hư không nên là thường chăng ? Hay là vì giống như tâm v.v… mà là vô thường chăng ? Không có thân, là bất định, không được thành nhân, cho nên luận nạn này là điên đảo.

Lại nữa thanh vô thường vì có nhân. Nếu vật gì có nhân tức biết vật đó vô thường, ví như đồ gốm v.v…, nghĩa đã thành lập.

Ngoại đạo nói: Nghĩa này khả nghi. Bởi vì sao ? Đồ vật sinh ra có nhân, là vô thường. Đồ vật diệt mất có nhân, là thường. Thanh đã có nhân, nên sinh nghi đối với thanh phải chăng vì đồng với đồ vật sinh ra có nhân nên vô thường, hay vì đồng với đồ vật diệt mất có nhân nên là thường ?

Luận nói: Luận nạn đó không thật. Bởi vì sao ? Không có thật vật mà có tên là diệt mất, thì tất cả những vật gì từ cây gậy đập vỡ mất đều được gọi tên là thường.

Lại nữa, thanh vô thường. Bởi vì sao ? Vì do căn tiếp nhận. Ví như đồ gốm, là nghĩa đã lập.

Ngoại đạo nói: Đây cũng khả nghi. Căn tiếp nhận như tính đồng khác, thì phải là thường. Thanh căn tiếp nhận như tính đồng khác, thanh phải là thường. Nếu như tính đồng khác chẳng phải thường, thì như đồ gốm không được vô thường.

Luận nói: Luận nạn đó không thật. Bởi vì sao ? Con bò v.v… nếu tính đồng khác thật có, thì lìa con bò v.v…phải có một biệt thể tiếp nhận được, thấy được, lìa con bò tính đồng khác không có biệt thể, không tiếp nhận được, không trông thấy được, cho nên biết là vô thường.

Lại nữa, vô ngã, bởi vì sao ? Vì không thể hiển thị. Ví như cái tai con rắn, đó là nghĩa đã lập.

Ngoại đạo nói: Số lượng giọt nước biển, số cân lượng núi Tuyết là có mà không thể hiển thị. Cái ngã cũng như vậy, có mà không thể hiển thị. Cho nên không thể hiển thị nhân không được lập vô ngã.

Luận nói: Số lượng với tụ không có biệt thể. Có thể lường được con số, thì tụ lần lượt hiện một con số nào đó. Con số nào đó, là số lượng. Ghi nhớ giữ được tên là một, mười, trăm, ngàn, vạn v.v… Số lượng giọt nước biển, số cân lượng của quả núi đã không có biệt thể nên chẳng phải thật có. Nếu có luận nạn nào khác đồng tướng với luận nạn này, thì lập lỗi đó gọi là luận nạn không thật nghĩa.

3. Tương vi nạn, là nghĩa không cùng lập, gọi là trái nhau. Ví như sáng tối, ngồi đứng v.v… không cùng lập gọi là tương vi nạn. Có 3 thứ tương vi nạn: 1. Vị sinh nạn. 2. Thường nạn. 3. Tự nghĩa tương vi nạn.

2. Vị sinh nạn, là đời trước khi chưa sinh không liên quan công sức thì phải là thường. Đó là vị sinh nạn.

Ngoại đạo nói: Nếu dựa vào công sức thanh vô thường, thì khi chưa sinh chưa dựa vào công sức thanh phải là thường.

Luận nói: Đó là nạn tương vi. Bởi vì sao ? Khi chưa sinh thanh chưa có. Chưa có làm sao thường ? Nếu có người nói con người thạch nữ con trai đen con gáí trắng. Nghĩa này cũng phải thành tựu. Nếu không có không được thường. Nếu thường không được không có. Không có mà thường thì tự mâu thuẫn. Luận nạn này tương tự với nghĩa chí nạn, không thật nạn. Bởi vì sao ? Vì là luận nạn không thật. Dựa vào công sức thanh vô thường, nghĩa đó đã lập, nghĩa đó đạt được nghĩa chí. Nếu không dựa vào công sức thì phải là thường, nghĩa này không thật. Bởi vì sao ? Không dựa vào công sức có 3 thứ: thường, vô thường, không có. Thường là như hư không. Vô thường là như sấm chớp v.v… Không có là như hoa đốm giữa hư không. Ba thứ này đều không dựa vào công sức mà ông dùng một thứ làm thường, cho nên không thật.

3. Thường nạn, là thường vô thường nên là thanh thường, đó gọi là thường nạn.

Ngoại đạo nói: Nơi vô thường thường có vô thường, vì tất cả pháp không bỏ tính. Trong vô thường có thường, dựa vào vô thường nên được thường.

Luận nói: Đó là nghĩa mâu thuẫn. Bởi vì sao ? Nếu đã vô thường làm sao được thường ? Nếu có người nói trong tối có sáng. Câu nói này cũng phải thành tựu. Nếu không như vậy luận nạn của ông là mâu thuẫn không thật. Bởi vì sao ? Không có một biệt pháp nào gọi là vô thường. tương ưng trong vô thường lại lập là thường. Vô thường không có một thể riêng biệt. Nếu vật chưa sinh được sinh, sinh rồi diệt mất gọi là vô thường, nếu vô thường không thật, y vào vô thường lập thường, thường cũng không thật.

4. Tự nghĩa tương vi nạn, là nếu chất vấn nghĩa của người khác mà nghĩa của mình hỏng, đó gọi là tự nghĩa tương vi nạn.

Luận nói: Thanh vô thường vì dựa vào nhân duyên sinh. Ví như mầm cây v.v…, nghĩa đó đã lập.

Ngoại đạo nói: Nếu nhân đến vô thường thì đồng vô thường. Nếu không đến vô thường không thể thành tựu vô thường. Nhân này thì không thành nhân.

Luận nói: Nếu luận nạn của ông đạt tới nghĩa của tôi lập, đồng với nghĩa tôi lập thì không thể phá nghĩa của tôi. Nếu không đạt tới nghĩa của tôi lập cũng không thể phá nghĩa của tôi. Luận nạn của ông trở lại thành phá nghĩa của ông.

Lại nữa, ngoại đạo nói: Nếu nhân trước lập nghĩa sau, lập nghĩa chưa có thì đây là nhân gì ? Nếu lập nghĩa trước mà nhân sau, lập nghĩa đã xong dùng nhân làm gì ? Đây cũng không thành nhân.

Luận nói: Nếu ông luận nạn trước, tôi lập nghĩa sau, nghĩa tôi chưa có ông nạn vấn cái gì ? Nếu tôi lập nghĩa trước, ông vấn nạn sau, nghĩa tôi đã lập rồi ông còn luận nạn gì nữa ? Nếu ông nói ông đã tin luận nạn của tôi nên lấy luận nạn của tôi trở lại chất vấn tôi. Nếu nói như thế cũng không đúng. Bởi vì sao ? Tôi cho thấy rõ luận nạn của ông trở lại phá nghĩa của ông, không dựa vào luận nạn của ông để lập nghĩa của tôi. Nếu có vấn nạn nào khác tương đồng với vấn nạn này, thì lập lỗi gọi là tương vi nạn.

Luận nói: Có 5 thứ luận nạn đúng: 1. Phá nghĩa sở thích. 2. Hiển nghĩa không thích. 3. Hiển nghĩa điên đảo. 4. Hiển nghĩa bất đồng. 5. Hiển nghĩa tất cả vô đạo lý được thành tựu.

Ngoại đạo nói: Có ngã. Bởi vì sao ? Vì tụ tập là cái khác. Ví như đồ nằm v.v… là cái khác tụ tập. Nhãn căn v.v… là cái khác tụ tập. Cái khác đó là ngã, cho nên biết có ngã.

Luận nói: Không có ngã. Bởi vì sao ? Vì không thể hiển thị. Nếu có vật gì nhất định không thể hiển thị, thì vật đó là không. Ví như cái đầu thứ hai của người phi tự tại. Không thể tư duy phân biệt sắc hương tướng mạo cái đầu của cái đầu thứ hai, cho nên chắc chắn không có. Ngã cũng vậy. Ở trong nhãn căn v.v… phân biệt không hiển lộ cho nên nhất định không. Ông nói có ngã, nghĩa ấy không đúng. Đó gọi là phá nghĩa sở thích.

Lại nữa, nếu ông nói tướng của ngã không thể phân biệt mà là có, thì cái đầu thứ hai không thể phân biệt cũng phải có. Nếu ông không tin có cái đầu thứ hai, tôi cũng vậy. Ông không nên tin. Đó gọi là hiển thị nghĩa không thích.

Lại nữa, nếu ý ông bảo 2 thứ đồng nhau không thể phân biệt, không căn cứ đạo lý nói ngã là có, không nói cái đầu thứ hai là có, thì tôi cũng không căn cứ đạo lý nói có cái đầu thứ hai. Không nói ngã là có, nghĩa ấy phải thành tựu. Nếu nghĩa của tôi không thành, nghĩa của ông cũng không thành. Đó gọi là hiển thị nghĩa điên đảo.

Lại nữa, nếu ông nói ngã với cái đầu thứ hai là đồng không thể phân biệt, mà bất đồng là không. Cái lỗi về bất đồng rơi trên đầu ông. Ví như có người nói như thế này: Con của người thạch nữ có đồ trang sức. Con của người thạch nữ không có đồ trang sức. Câu nói này cũng phải thành tựu. Nếu nói như thế là rơi vào lỗi bất đồng. Ông cũng như vậy. Đó gọi là hiển thị nghĩa bất đồng.

Lại nữa, nếu ông nói: Không căn cứ đạo lý, nhất định có ngã. Không căn cứ đạo lý không có cái đầu thứ hai. Câu nói này thành tựu, thì tất cả những câu nói của con nít, những câu nói điên cuồng vô đạo lý cũng phải thành tựu. Ví như hư không có thể trông thấy, lửa lạnh, gió có thể nắm bắt được v.v… đều là những câu nói điên cuồng không căn cứ đạo lý, như chỗ lập của ông cũng được thành tựu. Nếu không thành tựu, nghĩa của ông cũng vậy. Đó gọi là hiển thị nghĩa tất cả vô đạo lý được thành tựu.

 

Phẩm 3: RƠI VÀO CHỖ THUA BẠI TRONG PHẨM PHẢN CHẤT VẤN

Luận nói: Có 22 thứ rơi vào chỗ thua bại: 1. Hoại nghĩa tự lập. 2. Lấy nghĩa khác. 3. Mâu thuẫn giữa nhân và lập nghĩa. 4. Bỏ nghĩa tự lập. 5. Lập nghĩa nhân khác. 6. Nghĩa khác. 7. Vô nghĩa. 8. Có nghĩa không thể hiểu. 9. Nghĩa vô đạo lý. 10. Không kịp thời. 11. Không đẩy đủ phần. 12. Trường phần. 13. Nói trùng lặp. 14. Không thể đọc. 15. Không hiểu nghĩa. 16. Không thể luận nạn. 17. Lập phương tiện tránh nạn. 18. Tin chấp nhận luận nạn người khác. 19. Rơi vào chỗ thua bại không biết. 20. Phi xứ nói rơi chỗ thua bại. 21. Sai với tất-đàn. 22. Nhân tương tự. Đó gọi là 22 thứ rơi vào chỗ thua bại. Nếu người rơi vào mỗi một chỗ thua bại thì không cần phải luận nghĩa với họ nữa.

1. Hoại nghĩa tự lập, là nghĩa mình lập chấp nhận nghĩa của đối phương, đó gọi là hoại nghĩa tự lập.

Ngoại đạo nói: Thanh thường. Bởi vì sao ? Vì không thân, ví như hư không, nghĩa đó đã lập.

Luận nói: Nếu thanh với hư không đồng tướng nên là thường, thì nếu không đồng tướng thì phải vô thường. Không đồng tướng thì thanh có nhân hư không không có nhân, thanh do căn tiếp nhận, hư không chẳng phải căn tiếp nhận, cho nên thanh vô thường.

Ngoại đạo nói: Đồng tướng không đồng tướng tôi không chọn lựa. Tôi nói thường đồng tướng. nếu có thường đồng tướng tức là thường.

Luận nói: Thường đồng tướng, thì vật không thân bất định cũng có vô thường, như tâm khổ, lạc v.v…, cho nên nhân của ông không thành tựu. Không đồng tướng thì chắc chắn rõ ràng tất cả vô thường với thường tách rời nhau, cho nên có thể lập vô thường.

Ngoại đạo nói: Tôi cũng tin vô thường có nhân, thường không nhân. Đó gọi là hoại nghĩa tự lập, rơi vào chỗ thua bại.

2. Lấy khác tự lập nghĩa, là nghĩa của mình đã bị người khác phá liền suy nghĩ lập pháp khác làm nghĩa. Đó là lấy cái khác tự lập nghĩa.

Ngọai đạo nói: Thanh thường. Bởi vì sao ? Vì không chạm xúc, ví như hư không, đó là nghĩa đã lập.

Luận nói: Nếu ông lập thanh thường, dựa vào nhân không chạm xúc. Nhân không chạm xúc thì bất định, như hư không v.v… thường, không như tâm v.v… vô thường, không chạm xúc. Đã bất định thì nhân của ông không thành tựu. Nếu nhân không thành tựu thì lập nghĩa cũng không thành tựu. Thế là nghĩa đã phá.

Ngoại đạo nói: Thanh và thường đều chẳng phải nghĩa của tôi. Tôi lập nghĩa thường cùng với thanh thâu nhiếp lẫn nhau. Thanh với thường, thâu nhiếp lẫn nhau. Tôi nói thanh là trừ sắc v.v… Tôi nói thường là trừ vô thường v.v… Thường không lìa thanh lìa sắc v.v… Thanh không lìa thường lìa tai tiếp nhận v.v… Không lìa nhau là thâu nhiếp lẫn nhau, là lập nghĩa của tôi. Tôi không lập thanh cũng không lập thường. Ông luận nạn về thanh luận nạn về thường đều không luận nạn nghĩa của tôi. Đó gọi là lấy cái khác tự lập nghĩa, rơi vào chỗ thua bại.

3. Mâu thuẫn giữa nhân và lập nghĩa, là nhân và lập nghĩa không được đồng. Đó gọi là nhân mâu thuẫn với lập nghĩa.

Ngoại đạo nói: Thanh thường trụ. Bởi vì sao ? Vì tất cả vô thường. Ví như hư không là nghĩa đã lập.

Luận nói: Ông nói tất cả vô thường, cho nên thanh thường, thì thanh là gồm trong tất cả hay chẳng phải gồm trong tất cả ? Nếu là gồm trong tất cả, tất cả vô thường thanh phải vô thường. Nếu chẳng phải gồm trong tất cả, tất cả sẽ không thành tựu. Bởi vì sao ? Vì không bao gồm thanh trong đó. Nếu ông nói nhân lập thì nghĩa hỏng. Nếu nói lập nghĩa thì nhân hỏng. Cho nên nghĩa của ông không thành tựu. Đó gọi là nhân mâu thuẫn với lập nghĩa, rơi vào chỗ thua bại.

4. Bỏ nghĩa tự lập, là người khác đã phá nghĩa tự lập, bỏ mà không cứu, đó gọi là bỏ nghĩa tự lập.

Ngoại đạo nói: Thanh thường trụ, bởi vì sao ? Vì căn tiếp nhận. Ví như tính đồng khác, thì căn chấp nhận nên thường. Thanh cũng được căn chấp nhận cho nên thường trụ, đó là nghĩa đã lập.

Luận nói: Ông nói thanh được căn tiếp nhận nên thường trụ. Căn tiếp nhận thì bao gồm với vô thường. Ví như đồ gốm v.v… Đồ gốm v.v… căn tiếp nhận nên vô thường, thanh phải vô thường. Ông nói như tính đồng khác là thường, nghĩa đó không đúng. Bởi vì sao ? Tính đồng khác của bò v.v…, với bò là một hay với bò là khác ? Nếu một thì bò là thật, tính đồng khác là không thật. Nếu khác thì lìa bò ra tự thể của tính đồng khác phải có thể hiển lộ. Tách rời bò ra đã không thấy tính đồng khác thì thí dụ thường trụ không thành. Ông lập nghĩa không được thành tựu, nghĩa đó đã phá.

Ngoại đạo nói: Ai lập nghĩa này thì gọi là bỏ nghĩa tự lập rơi vào chỗ thua bại.

5. Lập nghĩa nhân khác, là đã lập đồng tướng nghĩa của nhân, sau nói nhân khác. Đó gọi là lập nghĩa nhân khác.

Ngoại đạo nói: Thanh thường trụ, bởi vì sao ? Vì không hiển lộ 2 lúc. Tất cả những gì thường trụ đều hiển lộ một lúc. Ví như hư không v.v… thanh cũng vậy, là nghĩa đã lập.

Luận nói: Ông nói thanh thường trụ không hiển lộ 2 lúc, ví như hư không, là nhân không đúng. Bởi vì sao ? Không hiển lộ 2 lúc là không nhất định thường trụ. Ví như gió với xúc hiển lộ một lúc mà gió vô thường, thanh cũng vậy.

Ngoại đạo nói: Thanh với gió không đồng tướng. Gió thì thân căn tiếp nhận. Thanh thì nhĩ căn tiếp nhận. Cho nên thanh với gió không đồng tướng.

Luận nói: Trước ông nói không 2 lúc hiển lộ cho nên thanh thường trụ. Nay ông nói thanh với gió không đồng tướng vì do căn khác tiếp nhận. Ông bỏ nhân trước lập nhân khác, cho nên nhân của ông không thành tựu. Đó gọi là lập nghĩa nhân khác, rơi vào chỗ thua bại.

6. Nghĩa khác, là nói chứng nghĩa với lập nghĩa không tương quan, đó là nghĩa khác.

Ngoại đạo nói: Thanh thường trụ. Bởi vì sao ? Sắc v.v…5 ấm, 10 nhân duyên, đó gọi là nghĩa khác.

7. Vô nghĩa, là nói khi muốn luận nghĩa thì tụng chú, đó gọi là vô nghĩa.

8. Có nghĩa không thể hiểu, là nếu nói 3 lần mà thính chúng và người đối thoại không hiểu, gọi là có nghĩa mà không thể hiểu. Nếu người nói pháp, thính chúng và người đối thoại muốn được hiểu, nói 3 lần mà hoàn toàn không hiểu. Ví như có người nói trần không thân, sinh hoan hỷ sinh âu sầu, không đến mà có tổn ích, bỏ thì càng nhiều không bỏ thì mất, thanh thường trụ bởi vì sao, vì vô thường là thường. Đó gọi là có nghĩa không thể hiểu rơi vào chỗ thua bại.

9. Nghĩa vô đạo lý, là có nghĩa trước sau không hợp, gọi là nghĩa không có đạo lý. Ví như có người nói ăn 10 thứ quả, 3 thứ nĩ, 1 thứ ẩm thực, gọi là vô đạo lý.

10. Không kịp thời, là lập nhân sau khi lập nghĩa đã bị phá, gọi là không kịp thời.

Ngoại đạo nói: Thanh thường trụ, bởi vì sao ? Ví như vòng tròn lân hư dựa vào thường trụ nên vòng tròn thường trụ. Thanh cũng như vậy.

Luận nói: Ông lập nghĩa thường, không nói nhân, lập 5 phần nói không đầy đủ, thì nghĩa của ông không thành tựu, nghĩa đó đã phá.

Ngoại đạo nói: Tôi có nhân, chỉ không nói tên thôi. Cái gì là nhân ? Vì dựa vào hư không thường trụ.

Luận nói: Ví như nhà bị cháy hết rồi mới xin nước chữa cháy. Lập nhân cứu nghĩa không đúng lúc cũng như vậy. Đó gọi là không kịp thời.

11. Không đẩy đủ phần, là trong 5 phần nghĩa có một phần không đủ, gọi là không đủ phần. Năm phần là: 1. Nói lập nghĩa. 2.

Nói nhân. 3. Nói thí dụ. 4. Nói hợp dụ. 5. Nói quyết định. Ví như có người nói thanh vô thường, đó là phần thứ nhất. Bởi vì sao ? Vì dựa vào nhân sinh, đó là phần thứ hai. Nếu có vật dựa vào nhân sinh, vật đó là vô thường. Ví như đồ gốm dựa vào nhân sinh nên vô thường, đó là phần thứ ba. Thanh cũng như vậy, đó là phần thứ tư. Cho nên thanh vô thường, đó là phần thứ năm. Năm phần này nếu một phần không đủ, thì gọi là không đầy đủ, rơi vào chỗ thua bại.

12. Trường phần, là nói nhân nhiều, nói thí dụ nhiều, đó gọi là trường phần. Ví như có người nói thanh vô thường, bởi vì sao , vì dựa vào công sức sinh, vì không có trung gian sinh, vì căn tiếp nhận, vì sinh diệt, vì tạo ra ngôn ngữ, đó gọi là trường nhân, tức nói nhân dài dòng.

Lại nữa, thanh vô thường vì dựa vào nhân sinh. Ví như đồ gốm, ví như y phục, ví như nhà cửa, ví như nghiệp, đó gọi là trường thí, tức nói thí dụ dà dòng.

Luận nói: Ông nói nhiều nhân, nhiều thí dụ. Nếu một nhân không thể chứng nghĩa, sao dùng một nhân nói ? Nếu có thể chứng nghĩa sao dùng nhiều nhân nói ? Nhiều thí dụ cũng vậy. Nói nhiều là vô dụng. Đó gọi là trường phần.

13. Nói trùng lặp, là có 3 thứ nói trùng lặp: 1. Trùng thanh. 2. Trùng nghĩa. 3.Trùng nghĩa chí.

Trùng thanh, là như nói Đế Thích Đế Thích. Trùng nghĩa, là như nói nhãn mục. trung nghĩa chí, là như nói sinh tử thật khổ Niếtbàn thật lạc. Tiếng đầu nên nói, tiếng thứ hai không cần phải nói. Bởi vì sao ? Vì tiếng trước đã rõ nghĩa. Nếu tiếng trước đã rõ nghĩa, tiếng sau làm rõ cái gì ? nếu không làm rõ cái gì thì tiếng sau vô dụng. Đó gọi là nói trùng lặp.

14. Không thể đọc, là nếu nói lập nghĩa đại chúng đã lãnh hội hiểu rõ, nói 3 lần có người không thể tụng trì, đó gọi là không thể đọc tụng.

15. Không hiểu nghĩa, là nếu nói lập nghĩa đại chúng đã lãnh hội hiểu rõ, nói 3 lần có người không hiểu nghĩa, đó gọi là không hiểu nghĩa.

16. Không thể luận nạn, là thấy người khác lập nghĩa đúng lý không thể phá, đó gọi là không thể luận nạn.

Luận nói: Không hiểu nghĩa không thể luận nạn, là 2 thứ không hợp lý, rơi vào chỗ thua bại. Bởi vì sao ? Nếu người không hiểu nghĩa không thể luận nạn thì không nên luận nghị với họ.

Luận nói: Đó là 2 thứ cực xấu, rơi vào chỗ thua bại. Bởi vì sao ? Rơi vào những chỗ thua bại khác, nếu ngôn thuyết có sai lầm có thể dừng phương tiện khác cứu. Hai thứ này không có phương tiện có thể cứu. người này trước thì khởi thông minh kiêu ngạo, sau thì không thể hiển lộ tướng thông minh. Đó là ngu si đáng xấu hổ. Như thế gọi là không thể luận nạn.

17. Lập phương tiện tránh nạn, là biết nghĩa mình lập có lỗi, phương tiện trốn tránh nói sự tướng khác. Hoặc nói tôi có việc gấp, hoặc nói tôi muốn đi thăm một người khác gấp bây giờ không đi không xong, tránh người ta chất vấn. Bởi vì sao ? Vì sợ mất tình thân thiện. Đó gọi là lập phương tiện tránh nạn rơi vào chỗ thua bại.

18. Tin chấp nhận luận nạn người khác, là trong luận nạn của người lập tin chấp nhận nghĩa mình lỗi. Đó gọi là tin chấp nhận luận nạn người khác. Nếu có người đã tin chấp nhận nghĩa mình lỗi, tin chấp nhận luận nạn người khác như lỗi của ta, lỗi của ông cũng như vậy. Đó gọi là tin chấp nhận luận nạn người khác.

19. Rơi vào chỗ thua bại không biết, là nếu có người đã rơi vào chỗ thua bại mà không biết đã rơi vào chỗ thua bại, lại muốn lập luận nạn chất vấn. Nghĩa ấy đã hỏng còn chất vấn cái gì ? Luận nạn này không thành tựu. Đó gọi là rơi vào chỗ thua bại mà không biết.

20. Phi xứ nói rơi chỗ thua bại, là người khác không rơi vào chỗ thua bại nói rơi vào chỗ thua bại. Đó là phi xứ nói rơi chỗ thua bại. Lại nữa, người khác hỏng, tự lập nghĩa xứ, nếu lấy tự lập nghĩa khác nói người khác rơi vào chỗ thua bại mà không phải. Đó gọi là phi xứ nói rơi vào chỗ thua bại.

21. Sai tất-đàn, là trước đã cùng nhiếp trì 4 thứ tất-đàn, sau không đúng như lý tất-đàn mà nói, gọi là sai tất-đàn. Nếu tự nhiếp trì minh xảo thư xạ với sinh nhân luật sa-môn tất-đàn không nói như lý. Đó gọi là sai tất-đàn rơi vào chỗ thua bại.

23. Nhân tương tự, là như trước nói có 3 thứ: 1. Không thành tựu. 2. Không nhất định. 3. Mâu thuẫn, đó gọi là tương tự.

24. Không thành tựu, là ví như có người lập con ngựa đến. Bởi vì sao ? Vì thấy có sừng. Ngựa không có sừng. Sừng là nhân không thành tựu, không thể lập con ngựa đến.

25. Không nhất định, là ví như có người lập con bò đến. Bởi vì sao ? Vì thấy có sừng. Có sừng không nhất định là con bò. Con dê con nai cũng có sừng. Sừng là nhân bất định, không thể lập con bò đến.

26. Mâu thuẫn, là ví như có người lập ban ngày là ban đêm. Bởi vì sao ? Vì mặt trời lên, mặt trời lên khác với ban đêm. Mặt trời lên là nhân không thể lập ban đêm. Nếu người lập 3 thứ này làm nhân, gọi là nhân tương tự rơi vào chỗ thua bại./.

HẾT